You are on page 1of 25

Chương 1

MỘT SỐ MÔ HÌNH NGUYÊN TỬ TRƯỚC CƠ HỌC LƯỢNG TỬ

1.1. Khái niệm nguyên tử


Quan niệm cho rằng toàn bộ thế giới vật chất được hình thành do sự kết hợp
của một số hữu hạn các nguyên tố là một quan niệm duy vật. Một quan niệm như vậy
đã được các nhà triết học cổ Hy Lạp đề xuất thế kỷ 6-7 trước công nguyên. Thales cho
rằng nguyên tố duy nhất của vật chất là nước, Ông quan niệm toàn bộ thế giới của
chúng ta được khởi nguồn từ nước. Nước là bản chất chung của tất cả mọi vật, mọi
hiện tượng trong thế giới. Mọi cái trên thế gian đều khởi nguồn từ nước và khi bị phân
hủy lại biến thành nước. Với quan niệm nước là khởi nguyên của thế giới, của mọi sự
vật, hiện tượng, Ông đã đưa yếu tố duy vật vào trong quan niệm triết học giải thích về
thế giới.

Thales (624BC – 546BC), nhà triết học


người Hy Lạp

Trong khi Thales cho rằng bản nguyên của thế giới là nước thì Heraclitus lại
cho rằng lửa là nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi vật: “Mọi cái biến đổi thành lửa và lửa
biến thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”.
“Lửa sống nhờ đất chết, không khí sống nhờ lửa chết, nước sống nhờ không khí chết,
đất sống nhờ nước chết”.

Heraclitus (535BC- 475BC), nhà triết học


vùng tiểu á Hy Lạp

5
Heraclitus cho rằng, vũ trụ không do ai sáng tạo ra, luôn luôn là lửa, sống động,
vĩnh cửu, bùng cháy theo những quy luật của mình: “Thế giới này chỉ là một đối với
mọi cái. Không do một thần thánh hay một người nào đó sáng tạo ra nó, nhưng nó mãi
mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh cửu, như là độ đo của những cái đang rực cháy, và
mức độ của những cái đang lụi tàn”.
Sang thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, Empedocles đưa ra thuyết 4 nguyên tố.
Theo ông thì cơ sở vật chất không phải là một, mà là sự tổng hợp của 4 nguyên tố đầu
tiên là nước, lửa, không khí và đất.

Empedocles nhà triết học người Hy Lạp

Thuyết này được Aristotle (thế kỷ thứ 4


trước công nguyên) phát triển thêm. Theo
Aristotle thì đất, nước, lửa và không khí
xuất hiện do sự tổ hợp của 4 tính chất cơ
bản: nóng, lạnh, khô và ẩm
Cũng trong thời đại đó, ở phương Đông
có quan niệm cho rằng thế giới vật chất
được cấu tạo từ các nguyên tố. Ví dụ
thuyết, 5 nguyên tố của nhà triết học Vương
Sung: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ
.

Vương Sung (27-97), nhà triết học Trung


quốc

6
Khái niệm nguyên tử lần đầu được Leucippe và Democrite đưa ra từ thế kỷ 4-5
trước công nguyên: Nguyên tử là phân tử nhỏ nhất không thể phân chia được của vật
chất. Các nguyên tử phân biệt với nhau bởi độ lớn và hình dạng của chúng. Học thuyết
nguyên tử của Leucippe và Democrite được các nhà triết học khác nhau Epicure và
Lucrece hưởng ứng. Tuy nhiên, trong suốt thời gian dài quan niệm bị các quan điểm
duy tâm của Platon chống đối và trấn áp.

Leucippe (460 BC), nhà Triết học Hy Lạp Democritus (460 BC), triết gia Hy Lạp

Năm 1807, nhà Bác học người Anh là Dalton đã làm sống lại khái niệm nguyên tử. Lý
thuyết nguyên tử của Dalton dựa trên 5 điểm chính sau:
- Các nguyên tố được tạo nên từ những hạt rất nhỏ gọi là nguyên tử.
- Các nguyên tử của cùng một nguyên tố giống nhau về kích thước, khối lượng và tính
chất. Các nguyên tử của các nguyên tố khác nhau thì khác nhau về kích thước, khối
lượng và tính chất.
- Nguyên tử không thể bị phân chia, tạo ra hoặc phân hủy.
- Các nguyên tử của các nguyên tố khác nhau kết hợp với nhau theo tỷ lệ xác định để
tạo thành hợp chất hóa học.
- Trong các phản ứng hóa học các nguyên tử có thể kết hợp với nhau, hoặc tách ra hoặc
sắp xếp trở lại.
Các định luật tỷ lệ (Dalton), định luật tỉ số đơn giản thể tích các chất khí (Gay – Lussac)
và định luật Avogadro là kết hợp sự tìm kiếm các bằng chứng (gián tiếp) cho sự tồn tại của
nguyên tử.
.
7
Ngày nay, chúng ta biết rằng nguyên tử không phải là những phần tử nhỏ bé
nhất của vật chất. Bằng các phương pháp vật lý (ví dụ sự bắn phá hạt nhân) có thể
phân chia nguyên tử thành các phần tử nhỏ bé hơn, các hạt cơ bản. Có thể chính xác
hóa khái niệm nguyên tử như sau: Nguyên tử là phần tử nhỏ bé nhất của vật chất
không thể phân chia được bằng các phản ứng hóa học.

1.2. Mô hình nguyên tử của Thomson


Từ những phát hiện ra hạt electron (1897), năm 1904 Thomson đưa ra mô hình
nguyên tử và cho rằng nguyên tử là một quả cầu mang điện tích dương, trong đó có
gắn các hạt electron, còn được gọi là mô hình bánh mận (plum – pudding model).

Joseph John Thomson (1856-1940)


Nhà Vật lý người Anh

1.3. Mô hình nguyên tử của Rutherford


Dựa vào sự nghiên cứu của sự tán xạ hạt α (tức là hạt nhân nguyên tử He2+) trên
màng mỏng nhiều nguyên tố khác nhau, Rutherford (1911) đưa ra mô hình nguyên tử:
Giống như trong một hệ hành tinh, electron trong nguyên tử quay xung quanh hạt nhân
như những hành tinh quay xung quanh mặt trời (mô hình hành tinh). Các electron
chuyển động sao cho lực li tâm của chúng cân bằng với lực hút Coulomb giữa hạt nhân
và electron. Trong mô hình này electron có thể chuyển động trên quỹ đạo các hạt nhân
một khoảng cách tùy ý, miễn là có sự cân bằng lực.

Ernest Rutherford (1871-1937)


Hình 1.2. Sự tán xạ hạt α
Nhà Vật lý người New Zealand

8
Hình 1.3. Mô hình nguyên tử của Rutherford và “sự chết” của electron

Dễ dạng nhận thấy rằng, mô hình hành tinh của Rutherford chứa đựng trong nó
nhiều mâu thuẫn. Trước hết, theo các định luật của điện động lực học cổ điển, một
nguyên tử được cấu tạo như vậy không thể bền. Khi electron, một hạt mang điện,
chuyển động có gia tốc nó sẽ phát ra bức xạ điện từ. Quá trình ấy làm mất năng lượng,
electron chuyển động theo đường xoắn ốc rồi cuối cùng rơi vào hạt nhân (giả thuyết
rằng bán kính ban đầu của quỹ đạo electron là 10-8 cm thì chỉ sau một thời gian là 10-12
giây electron sẽ rơi vào hạt nhân). Hơn nữa, bức xạ do electron phát ra phải tạo thành
một phổ liên tục vì tần số chuyển động của electron trên đường xoắn ốc không ngừng
tăng lên. Cả hai điều đó trái với sự thật là nguyên tử là một hệ bền và phổ phát xạ của
nguyên tử là phổ gián đoạn.

1.3. Phổ nguyên tử


Một trong những yêu cầu đặt ra đối với mọi lý thuyết về nguyên tử là giải thích
được sự xuất hiện phổ vạch của nguyên tử và một số tính chất của chúng.
Khi nung nung nóng một chất (bằng ngọn lửa, phóng điện trong chân không, hồ
quang…) tới một nhiệt độ đủ lớn thì nó phát sáng. Ví dụ cho ít NaCl vào ngọn lửa đèn
cồn thì ngọn lửa nhuộm màu vàng thẫm. Ánh sáng vàng ấy là do nguyên tử Na (xuất
hiện trong quá trình nhiệt phân NaCl trong ngọn lửa) phát ra. Phân tích ánh sáng của
ngọn lửa có chứa hơi Na bằng một quang phổ kế người ta thấy bên cạnh phổ liên tục
của ánh sáng ngọn lửa là một vạch đậm màu vàng có bước sóng 5892Å (với quang phổ
có độ phân giải cao sẽ thấy đó là một vạch kép). Phổ xuất hiện như vậy gọi là phổ phát
xạ.
Trái lại, nếu chiếu ánh sáng trắng qua hơi Na thì trên phổ liên tục, ở vị trí tương
ứng với vạch vàng Na là một vệch tối. Đó là phổ hấp thụ của Na. Nguyên tử có khả
năng hấp thụ ánh sáng có tần số đúng bằng tần số ánh sáng phát xạ của nó.

Hình 1.4. Phổ hấp thụ và phát xạ của natri

9
Phổ nguyên tử H ở vùng nhìn thấy được có cấu trúc đặc biệt đơn giản. Balmer
(1885) tìm thấy các phổ vạch nguyên tử H có bước sóng tuân theo công thức đơn giản:

K.m2
= (1.1)
m 2 − 22

Với K = 3645,6 . 10-7mm và m = 3,4,5...


Công thức Balmer được Rydberg (1896) và Ritz (1908) khái quát hóa:

1 1
 = RH ( 2
− 2) (1.2)
n1 n 2
n 1 = 1, 2, 3, ...
n 2 = n 1 + 1, n 1 + 2, ...
4
RH = gọi là hằng số Rydberg. Thay n 2 = m và n 1 = 2 ta có được công thức
K
Balmer. Cho n1 có giá trị 1, 2, 3, …và n2 các giá trị nguyên lớn hơn n1 ta có được công
thức biểu diễn toàn bộ phổ nguyên tử H. Theo Ritz, người ta gọi các đại lượng R/n12
và R/n22 là các số hạng. Như vậy mỗi một phổ ứng với hai số hạng. Mỗi một giá trị của
n1 đặc trưng cho một dãy phổ.

Hình 1.5. Phổ phát xạ nguyên tử hidro

Bảng 1.1. Các dãy phổ của nguyên tử H


n1 n2 Dãy phỗ Vùng phổ
1 2,3,... Lyman Cực t
2 3,4,... Balmer Nhìn thấy và gần cực tím
3 4,5,... Paschen Hồng ngoại gần
4 5,6,... Brackett Hồng ngoại xa
5 6,7,... Pfund Hồng ngoại xa

10
1.4.Thuyết nguyên tử Planck
1.4.1. Sự khủng hoảng tử ngoại
Khi bức xạ điện từ gặp một vật nào đó thì trong trường hợp chung, một phần
bức xạ được phản xạ, một phần bị hấp thụ và một phần còn lại có thể đi qua vật chất.
Khác với trường hợp chung, thì vật đen tuyệt đối là vật hấp phụ toàn bộ tất cả năng
lượng bức xạ.
Một thí dụ về vật đen tuyệt đối là một quả cầu bằng đồng, bên trong rỗng được
bôi đen hoàn toàn. Khi có một bức xạ truyền vào bên trong quả cầu qua một khe hở
nhỏ, do cấu tạo của quả cầu, bức xạ được truyền vào sẽ bị hấp thụ hoàn toàn (hình
1.6a).
Sau khi hấp thụ toàn bộ năng lượng được truyền đến, vật đen tuyệt đối sẽ nóng
lên cũng như bất cứ vật rắn nào khác, vật đen tuyệt đối bị nóng lên sẽ phát ra năng
lượng dưới dạng song điện từ. Từ thực nghiệm của Lummer và Pringsheim cho thấy
trong điều kiện đẳng nhiệt, đường cong phân bố năng lượng E (λ) theo bước sóng λ có
dạng như hình 1.6b.

a) b)

Hình 1.6. a) Bức xạ truyền đến cho vật đen tuyệt đối bị nó hấp thụ hoàn toàn
b) Đường cong đẳng nhiệt biểu diễn sự phụ thuộc của năng lượng E (λ) vào bước sóng λ
do vật đen tuyệt đối phát ra

Nhìn vào quang phổ trên ta thấy rằng, tổng năng lượng bức xạ E tăng theo nhiệt độ
và khả năng bức xạ quang phổ E (λ) đối với mỗi nhiệt độ có một trị số cực đại tại một
sóng nhất định.
Như vậy, có hai vấn đề cần được giải thích đó là sự phụ thuộc của E vào T và
sự phụ thuộc của E vào .
- Theo định luật Stefan-Boltzamnn ta có biểu thức sự phụ thuộc của E vào T :

𝐸 = 𝑘. 𝑇 4 (1.3)

Trong đó, K là hằng số tỷ lệ và T là nhiệt độ tuyệt đối.

11
Như vậy biểu thức trên có thể thấy E tỷ lệ thuận với T
- Từ quan điểm của cơ học cổ điển về điểm liên tục của các đại lượng vật lý,
Rayleigh đã thiết lập biểu thức sự phụ thuộc của E vào :
2𝜋𝑐
𝐸𝜆 = 𝑘𝑇 (1.4)
𝜆4

Trong đó k là hằng số Boltzman, c là vận tốc ánh sáng trong chân không. T là
nhiệt độ tuyệt đối, λ là tần số của bức xạ.
Từ (1.4) cho thấy, ở miền bước sóng lớn thì sự phụ thuộc của E vào λ phù hợp
với thực nghiệm. Tuy nhiên, ở miền bước sóng nhỏ, ứng với miền tử ngoại của quang
phổ thì theo (1.4) E phải tăng. Điều này không phù hợp với quan sát thực nghiệm của
Lummer và Pringsheim.
Như vậy, việc ứng dụng vật lý học kinh điển để giải thích quang phổ của vật
đen tuyệt đối có liên quan đến bức xạ năng lượng của các phần tử dao động tích điện
có kích thước nguyên tử hoàn toàn thất bại ở vùng bước sóng tử ngoại. Hiện tượng này
được các nhà vật lý gọi là “Sự khủng hoảng tử ngoại”.

1.4.2. Thuyết lượng tử Planck


Để đưa vật lý thoát ra khỏi “Sự khủng
hoảng tử ngoại”, năm 1900 nhà vật lý người
Đức là Max Plank đưa ra thuyết lượng tử gọi là
thuyết lượng tử Plank.
Theo thuyết lượng tử Plank thì: “Một
dao động tử dao động với tần số v chỉ có thể
phát ra hay hấp thụ năng lượng từng đơn vị
gián đoạn, từng lượng nhỏ một nguyên vẹn, gọi
là lượng tử năng lượng ε. Lượng tử năng lượng
này tỉ lệ với tần số v của dao động tử”.
 = h. (1.5)
Nhà Vật lý người Đức
-27 -34
(h = 6,625.10 erg.sec = 6.625.10 J.s)
Ý nghĩa quan trọng của thuyết lượng tử Plank là đã phát hiện ra tính chất gián
đoạn hay tính chất lượng tử của năng lượng trong các hệ vi mô. Năng lượng của electron
trong nguyên tử, năng lượng quay, năng lượng dao động của các nguyên tử hay nhóm
nguyên tử trong phân tử … đều nhận những giá trị gián đoạn xác định.
Sự liên tục có thể được ví như chuyển động của chiếc xe trên một con dốc,
chiếc xe có thể đứng trên bất cứ vị trí nào của con dốc. Còn sự gián đoạn ví như ruộng
bậc thang, người ta không thể đứng ở giữa hai bậc của nó.

12
Theo thuyết lượng tử Plank thì năng lượng của dao động tử dao động với tần số v
chỉ có thể nhận những giá trị gián đoạn: 0, hv, 2hv, 3hv, 4hv, … nhv, nghĩa là bội số
nguyên lần lượng tử năng lượng ε = hv. Do đó, ta có thể biểu diễn E theo công thức:

E = nh (n = 0, 1, 2, 3,...)

Mặt khác, vì năng lượng của dao động tử phát ra hay hấp thụ dưới dạng năng
lượng bức xạ nên thuyết lượng tử Plank cũng có nghĩa là:
“Ánh sáng hay bức xạ nói chung gồm những lượng tử năng lượng ε = hv phát đi từ
nguồn sáng.”
Vì vậy, thuyết lượng tử Plank còn được gọi là thuyết lượng tử ánh sáng.

1.5. Mô hình nguyên tử của Bohr


1.5.1. Các tiên đề của Bohr
Năm 1913, Bohr nhận thấy rằng hằng số tác dụng Plank và xung lượng góc có
cùng một thứ nguyên giống nhau là (năng lượng * thời gian). Kết hợp mô hình nguyên
tử của Rutherford với thuyết lượng tử của Plank (1900), Bohr đưa ra mô hình nguyên
tử nổi tiếng mang tên ông.

Niels Bohr, nhà Vật lý người Đan Mạch

Mô hình này dựa trên 3 tiêu đề:


1. Trong nguyên tử electron không chuyển động trên những quỹ đạo bất kì mà
chỉ được phép chuyển động trên những quỹ đạo sao cho xung lượng quay (còn gọi là

13

mô men xung lượng) củ nó bằng số nguyên lần đại lượng h = (điều kiện lượng tử hóa
2𝜋

xung lượng quay).


L = n. h
hay mvr = n. h (1.6)
(n = 1,2,3,...)
Người ta gọi n là số lượng tử
2. Khi chuyển động trên các quỹ đạo được lượng tử hóa nói trên, electron
không phát ra bức xạ nghĩa là không mất năng lượng.
Quỹ đạo hay trạng thái trên đó năng lượng của electron có một giá trị xác định,
không đổi gọi là quỹ đạo dừng hay trạng thái dừng.
3. Electron chỉ phát xạ hay hấp thụ bức xạ khi chuyển từ trạng thái dừng này
sang trạng thái dừng khác.
Năng lượng của bức xạ được phát ra hay hấp thụ khi đúng bằng hiệu số năng
lượng của hai trạng thái đó.

E = En2 - En1 = h (1.7)

Ea2 là trạng thái có năng lượng cao, Ea1 là trạng thái có năng lượng thấp.

1.5.2. Mô hình Bohr đối với nguyên tử H và các ion giống H


Các ion giống H (He+, Li2+, Be3+, …) có điện tích hạt nhân là +Ze và khối lượng
M. Electron có khối lượng m và điện tích -e. Dưới tác dụng của lực Coulomb, electron
chuyển động trên các quỹ đạo tròn quanh hạt nhân. Vì khối lượng của hạt nhân rất lớn so
với khối lượng của electron, nên hạt nhân coi như đứng yên. Để quỹ đạo của electron là
bền phải có sự cân bằng giữa lực hút Coulomb với lực li tâm xuất hiện do chuyển động
quay của electron.

1 𝑍𝑒 2 𝑚v 2
. = (1.8)
4𝜋𝜀 𝑟2 𝑟

Rút v từ điều kiện lượng tử hóa xung lượng


quay (1.7) rồi thay vào (1.8) ta nhận được
bán kính quỹ đạo
𝑛2 ℎ 2
𝑟𝑛 = 4𝜋𝜀. (1.9)
𝑚𝑍𝑒 2
𝑛ℎ
Và v𝑛 =
𝑚𝑟
1 𝑍𝑒 2
v𝑛 = . (1.10)
4𝜋𝜀 𝑛ℎ

14
Ta nhận thấy bán kính quỹ đạo tỷ lệ thuận với bình phương số lượng tử. Đối với
nguyên tử H, nếu thay các giá trị của h, e, m vào (1.9) thì bán kính Bohr thứ nhất (n=1)
có giá trị: r1 = 0,53.10-10 m = 0,53 Å
Trong các tính toán đối với hệ nguyên tử, phân tử người ta thường dùng bán kính
Bohr thứ nhất của nguyên tử H làm đơn vị đo chiều dài và kí hiệu là no.
Công thức (1.9) có thể viết lại dưới dạng:

rn = n2 a0

Electron trên quỹ đạo thứ nhất có năng lượng cực tiểu. Có thể coi a0 là bán kính
nguyên tử H ở trạng thái bình thường.
Năng lượng toàn phần của electron là tổng số động năng và thế năng của nó:

𝐸 = 𝐸đ𝑛 + 𝐸𝑡 𝑛

mv2
Với Eđn =
2

Từ (1.8) biểu thức tính động năng có dạng:

1 Ze2
Eđn =
4 2r

Thế năng của electron được coi là bằng không nếu nó cách hạt nhân một
khoảng vô cùng lớn. Do đó, thế năng của electron ở tại một khoảng cách hữu hạn r nào
đố chính bằng công đưa nó từ r tới .
Ze2
Trong đó - là lực tương tác Coulomb giữa hai hạt nhân và electron. Thế
4r 2
năng của electron có giá trị âm vì lực Coulomb là lực hút, cần phải tiêu tốn năng
lượng để chuyển electron từ r đến .
Năng lượng của hệ là:

𝑚𝑍 2 𝑒 4 1
𝐸𝑛 = − (4𝜋𝜀) .2ℎ 𝑛2
2 2 (1.11)

Như vậy là điều kiện lượng tử xung lượng quay đã dẫn tới sự lượng tử hóa năng
lượng
Bằng biểu thức (1.11) ta có thể vẽ được giản đồ năng lượng của nguyên tử H. Với sự
tăng số lượng tử n các mức năng lượng xít lại gần nhau và cuối cùng tiến tới giới hạn 0 với n
→∞

15
Hình 1.7. Giản đồ năng lượng của nguyên tử H

Năng lượng thấp nhất là năng lượng của electron trên quỹ đạo thứ nhất E1. Thay
số vào (1.8) tính được E1 = -13,59eV.
Giá trị này phù hợp với năng lượng liên kết của H đo bằng thực nghiệm.
Kết hợp điều kiện tần số Bohr (1.7) với công thức tính năng lượng (1.11) ta tính
được tần số v của bức xạ phát ra hay hấp thụ khi e chuyển từ quỹ đạo này sang quỹ đạo
khác:

𝐸𝑛2 − 𝐸𝑛1
v=

1 2 𝑚𝑍 2 𝑒 4 1 1
v=( ) . 3
( 2 − 2)
4𝜋𝜀 4𝜋ℎ 𝑛1 𝑛2
1
Hay với v̅ = = v/𝑐
𝜆

1 2 𝑚𝑒 4 1 1
v̅ = ( ) . 3 . 𝑍 2 ( 2 − 2) (1.12)
4𝜋𝜀 4𝜋ℎ 𝐶 𝑛 𝑛 1 2

1 1
Hay v̅ = 𝑅∞ . 𝑍 2 ( − ) (1.13)
𝑛12 𝑛22

Đối với nguyên tử H (z=1) công thức (1.12) đồng nhất với công thức Balmer.
Trong quá trình thiết lập biểu thức (1.12), ta đã giả thuyết là hạt nhân đứng im
và chỉ có electron chuyển động. Ngay đối với hạt nhân nhẹ nhất là H, sự khác nhau về
khối lượng giữa electron và hạt nhân cũng vào khoảng 2000 lần, cho nên giả thuyết
trên là một phép gần đúng khá tốt. Tuy nhiên, vì các phép đo số liệu quang phổ đã đạt
được

16
độ chính xác cao nên muốn so sánh R∞ với số liệu thực nghiệm (RH) phải để ý tới cả
chuyển động tương đối giữa electron và hạt nhân. Trên thực tế cả electron và hạt nhân
đồng thời chuyển động quanh khối tâm của chúng. Có thể coi chuyển động này chỉ của
electron với khối lượng rút gọn:  = m.M/ (M +m)

Nếu thay m bằng μ trong công thức (1.13) thì hằng số Rydberg tính được bằng
lí thuyết có giá trị là 10.9 68.100m-1 phù hợp tốt với giá trị thực nghiệm.
Sự xuất hiện của phổ vạch H có thể giải thích như sau: trạng thái bình thường là
trạng thái chuyển động của electron trên quỹ đạo có năng lượng thấp nhất (n = 1) gọi
là trạng thái cơ bản. Nếu nhận được năng lượng, electron chuyển lên trạng thái có số
lượng tử lớn hơn gọi là trạng thái kích thích. Do có xu hướng trở về trạng thái có năng
lượng thấp hơn, nên sau một thời gian rất ngắn electron lại nhảy về trạng thái có năng
lượng thấp hơn và cuối cùng trờ về trạng thái cơ bản. Trong các bước chuyển này
electron phát ra bức xạ điện từ. Các bước chuyển ứng với các dãy được mô tả ở hình
1.8.

Hình 1.8. Phổ phát xạ của nguyên tử H

Mô hình Bohr cũng có thể áp dụng cho các ion giống H như He+, Li2+, …
Chẳng hạn mô hình dự đoán đúng phổ vạch của ion He+ có dạng giống hệt như phổ
vạch Hydro với số song lớn gấp 4 lần (Z = 2).

1.6. Mô hình nguyên tử của Sommerfeld


Mặc dù có sự phù hợp hoàn toàn giữa tính toán lý thuyết và số liệu thực nghiệm
quang phổ H và ion giống H, những mô hình nguyên tử của Bohr không thể giải thích
được phổ tinh tế của các nguyên tử này, tức là hiện tượng mỗi vạch phổ nguyên tử trên

17
thực tế bao gồm một số vạch đứng sát nhau. Để khắc phục khó khan này, Sommerfeld
(1916) tìm cách cải tiến mô hình của Bohr bằng cách đưa vào quỹ đạo elip.
Để thuận tiện cho phép toán người ta sử dụng tọa độ cực tương ứng với hai tọa độ
biến thiên là r và φ. Sommerfeld đưa ra hai điều kiện lượng tử hóa:

 pr dr = nrh (1.14)

Với nr = 0,1,2,3,... (điều kiện lượng tử hóa xuyên tâm)

 L d = n h
Với n = 1,2,3,... ( điều kiện lượng tử phương vị)
Áp dụng các điều kiện lượng tử hóa nói trên, người ta nhận được biểu thức
năng lượng gần giống nhau năng lượng của Bohr. Điểm khác nhau duy nhất là thay n
bằng tổng (nr +nφ) và người ta gọi tổng này là số lượng tử chính (n = 1, 2,3...).
Đối với mỗi một giá trị của số lượng tử chính n cho trước, số lượng tử phương
vị chỉ có thể có các giá trị n = 1, 2, ..., n.
Đối với một quỹ đạo tròn Bohr, có n quỹ đạo elip trong mô hình Sommerfeld.

Arnold Sommerfeld (1868-1951), nhà Vật lý


lý thuyết người Đức

Hình 1.9. Qũy đạo elip của Sommerfeld thuộc lớp N (n = 4)

Electron trên quỹ đạo elip có cùng số lượng tử chính có năng lượng bằng nhau,
người ta nói đó là các trạng thái suy biến. Như vậy, với việc đưa quỹ đạo elip vào vẫn
chưa giải thích được phổ tinh tế của nguyên tử.
Trong bước tiếp theo, Sommerfeld làm mất sự suy biến bằng cách để ý tới
hiệu ứng tương đối. Tốc độ của electron trên quỹ đạo elip không phải cố định mà thay
đổi, càng ở gần hạt nhân tốc độ của electron càng lớn (định luật Kepler thứ hai). Theo
thuyết tương đối thì khi tốc độ thay đổi, khối lượng của e cũng thay đổi theo. Điều đó
làm cho quỹ đạo của e không còn là các elip khép kín mà trở thành các đường chu sai.

18
Hình 1.10. Đường chu sai

Năng lượng của electron cũng vì thế mà còn phụ thuộc vào số lượng tử phụ nửa:
𝜇𝑍 2 𝑒 4 𝛼 2 .𝑍 2 1 3
𝐸𝑛,𝑛𝜑 = − (4𝜋𝜀)2 2 [1 + ( − )] (1.12)
.2𝑛2 ℎ 𝑛 𝑛𝜑 4𝑛
Người ta gọi α gọi là hằng số cấu trúc tinh tế, nó được tính bằng:
1 𝑒2 1
𝛼= ( )≈
4𝜋𝜀 ℎ𝑒 137
Như vậy: Mẫu nguyên tử của Bohr – Sommerfeld có một ứng dụng quan trọng
trong quá trình phát triển lý thuyết về cấu tạo nguyên tử và phân tử.
Mẫu nguyên tử Bohr – Sommerfeld được coi là hoàn hảo nhất trong số các mẫu nguyên
tử đầu tiên. Tuy nhiên, thuyết Bohr – Sommerfeld không phải là một lý thuyết hoàn chỉnh (có
tính chất nửa lí thuyết – nửa thực nghiệm) và cũng không phải là lí thuyết nhất quán (vừa sử
dụng và phủ nhận các định luật của vật lí học kinh điển), nên không thể tránh khỏi thiếu sót.
Hai trong số đó là:
1- Mặc dù đã tính được mức năng lượng và tần số bức xạ được phát ra hay hấp thụ
khi có bước chuyển năng lượng, nhưng không biết được tốc độ của các bước
chuyển này, tức là không biết được cường độ của bức xạ.
2- Thuyết Bohr – Sommerfeld chỉ áp dụng được đối với 1 electron. Đối với hệ
nhiều electron (ngay cả nguyên tử He chỉ có 2 electron) thì thuyết này cũng
hoàn toàn bất lực.
Như vậy, thuyết Bohr – Sommerfeld chỉ được gọi là một giai đoạn quá độ để đi đến
một lý thuyết hoàn chỉnh: Cơ học lượng tử.

19
Câu hỏi và bài tập

1. Trình bày nội dung mô hình nguyên tử của Rutherford.


2. Trong điều kiện nào phát hiện phổ nguyên tử? Phổ nguyên tử của hydro có
những đặc điểm gì?
3. Trình bày nội dung của thuyết lượng tử Planck. Hãy tính lượng tử năng lượng
được phát ra từ một ion dao động với tần số  = 1014 s-1.
4. Trình bày những nội dung mô hình nguyên tử của Bohr.
5. Thay các giá trị của hằng số (e, pi, h, c, m) vào công thức tính hằng số Rydberg.
So sánh sự khác nhau giữa giá trị chính xác và giá trị gần đúng của hằng số đó
nhận được bằng cách thay μ bằng m.
6. Người ta sử dụng một chùm electron để bắn phá các nguyên tử H dạng khí. Hãy
tính năng lượng tối thiểu của chùm electron nếu số hạng đầu của dãy Balmer bị
phát xạ ứng với trạng thái chuyển từ n = 3 tới n = 2.
7. Nếu electron của nguyên tử H được kích thích đến mức năng lượng tương ứng
là 3,4 eV. Hãy xác định bước sóng của vạch phát xạ khi electron quay về trạng
thái cơ bản của nó.
8. Năng lượng ion hóa thứ nhất của nguyên tử h là 21,79. 10-19J. Hãy tính năng
lượng ion hóa thứ hai của nguyên tử He.
9. Bước song của một vạch phổ xác định trong dãy Balmer là 487,6 nm. Hãy xác
định giá trị n tương ứng với vạch phổ đó.
10. Trình bày nội dung mô hình nguyên tử của Sommerfeld.
11. a- Hãy vẽ các quỹ đạo Sommerfeld khác nhau thuộc lớp quỹ đạo N (n=4) và
hãy đặc trưng các quỹ đạo đó bằng số lượng tử l và bằng các chữ cái (s, p...)
b- Hãy tính mômen động lượng của electron khi chuyển động trên các quỹ đạo đó
theo thuyết Sommerfeld và cho nhận xét.
.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 1


1. Nguyễn Đình Huề, Nguyễn Đức Chuy, Thuyết lượng tử về nguyên tử và phân tử,
Tập 1,2. Nhà xuất bàn Giáo dục - 2003.
2. Đào Đình Thức, Cấu tạo nguyên tử và liên kết hóa học,T 1, Nhà xuất bản Đại học
và Trung học chuyên nghiệp -1975.
3. Lâm Ngọc Thiềm, Bài tập Hóa lượng tử cơ sở, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật –
Hà Nội 2004.
4. Trần Thành Huế, Hóa học đại cương – T1 Cấu tạo chất, NSXGD – Hà Nội 2001.
5. James E. House, Fundamentals of Quantum Chemistry - Second Edition, Elsevier
Academic Press, 2004

20
Chương 2

ĐẠI CƯƠNG VỀ CƠ HỌC LƯỢNG TỬ

2.1. Tính chất song – hạt của ánh sáng


H.Hetz (1887) khi làm thí nghiệm để chứng minh sự tồn tại của sóng điện từ
trong lý thuyết của MaxWell đã phát hiện ra rằng ánh sáng cực tím có tác dụng trợ lực
cho sự phóng điện trong chân không. Sau đó, (1900) Lenard chỉ ra rằng nguyên nhân
của hiện tượng trên là do ánh sáng cực tím đã giải phóng electron ra khỏi bề mặt catot.
Hiện tượng electron được giải phóng ra khỏi bề mặt kim loại dưới tác dụng của ánh
sáng được gọi là hiệu ứng quang điện.
Hiệu ứng quang điện có thể được nghiên cứu bằng một dụng cụ mô tả như
trong hình 2.1.

Hình 2.1. Thí nghiệm hiệu ứng quang điện

Ánh sáng đơn sắc được chiếu lên tấm kim loại đặt trong buồng chân không làm
giải phóng electron (gọi là quang điện tử hay photoelectron). Có thể nhận biết được
điều này bằng cách đặt giữa hai cực một thế hiệu và đo cường độ dòng điện bằng một
máy đo.
Đồ thị a trong hình 2.2 biểu diễn cường độ dòng quang điện theo biến thiên
của thế điện đặt vào U. Nếu U đủ lớn, dòng quang điện đạt giá trị giới hạn (bão
hòa), trong điều kiện đó tất cả các electron được giải phóng đều tới cực dương.
Nếu đổi dấu nguồn điện thì dòng quang điện không lập tức biến mất. Điều đó
chứng tỏ electron được giải phóng ra với một động năng nhất định. Một số electron
vẫn tới được cực dương mặc dù có sự tác động ngược lại của điện trường. Tuy nhiên,
khi thế hiệu đảo đạt một giá trị Uo nhất định gọi là thế hãm thì dòng quang điện biến
mất. Trong điều kiện này thế năng của electron với tốc độ lớn nhất có giá trị tính được:

Kmax = e. Uo (2.1)

21
I ½ mvU
2
o

Ia a

Ib b

Uo O voo v
 o
a) b)

Hình 2.2. a) Sự phù thuộc của dòng quang điện vào thế điện nguồn và cường độ ánh
sáng
b) Quan hệ giữa năng lượng động học của electron phát xạ và tần số ánh sáng

Đối với một kim loại nhất định, Uo không phụ thuộc vào cường độ ánh sáng.
Đường b trong hình 2.2 nhận được nếu giảm cường độ ánh sáng xuống còn một nửa.
Ngoài ra, với một kim loại nhất định tồn tại một tần số ngưỡng vo. Ánh sáng có tần số
nhỏ hơn vo không làm xuất hiện hiệu ứng quang điện.
Nhiều vấn đề của hiệu ứng quang điện không thể giải quyết được trên quan
điểm của bức xạ điện từ.
1- Quan điểm song cho rằng biên độ của vectơ điện E tỉ lệ thuận với cường độ bức
xạ. Tuy nhiên, như ta thấy trong hình 2.2, Uo và do đó Kmax không phụ thuộc
vào cường độ bức xạ.
2- Theo thuyết sóng, hiệu ứng quang điện phải xuất hiện với bức xạ có tần số bất
kỳ miễn là có cường độ đủ lớn. Trái lại như ta thấy, đối với một kim loại tồn tại
một tần số ngưỡng.
3- Cũng theo thuyết sóng, năng lượng của bức xạ được phân bố đều trên mặt sóng.
Đểu tích tụ đủ năng lượng cần phải có một khoảng thời gian nhất định kể từ khi
chiếu sáng tới khi electron được thoát ra khỏi bề mặt kim loại. Thực nghiệm không
cho thấy điều đó. Hiệu ứng quang điện xuất hiện tức thời khi có tác dụng của ánh
sáng.
Einstein (1905) cho rằng có thể mở rộng thuyết lượng tử của Plank để giải thích
hiệu ứng quang điện. Vì vậy, Einstein đưa ra thuyết hạt hay thuyết lượng tử ánh sáng.
Theo thuyết lượng tử ánh sáng của Einstein thì ánh sáng hay bức xạ nói chung là một
thông lượng các hạt vật chất được gọi là photon (quang tử) hay lượng tử ánh sáng với một
lượng tử năng lượng:
 = h (2.2)
Electron trong kim loại hấp thụ hoàn toàn và ngay lập tức toàn bộ năng lượng v
của photon khi nó tương tác với photon.
Như vậy: Trong những điều kiện nhất định như trong các thí nghiệm giao
thoa và nhiễu xạ, bức xạ từ thể hiện tính chất của chúng; còn trong điều kiện

22
khác, như trong hiệu ứng quang điện, chúng lại có bản chất hạt. Tính chất đó gọi là
lưỡng tính sóng – hạt của bức xạ điện từ.
Theo hệ thức của Einstein, giữa khối lượng m của một vật và năng lượng E cảu
nó có hệ thức:
E = m.c2 (c: vận tốc ánh sáng) (2.3)
𝑐 ℎ
Do đó, đối với photon ta có: 𝑚𝑐 2 = ℎ.v = ℎ. ℎ𝑎𝑦 𝑚 =
𝜆 𝑐.𝜆

Từ đó suy ra: p = m.c = (2.4)
𝜆
Như vậy, phương trình (2.4) cho thấy mối quan hệ của m (đặc trưng tính chất
hạt) và λ (đặc trưng cho tính chất sóng). Đây là phương trình quan trọng chứa đựng bản
chất nhị nguyên của bức xạ điện từ.

2.2. Tính chất sóng – hạt của hạt vật chất (sóng vật chất De Broglie)

Năm 1924, nhà vật lí Pháp Louis De


Broglie cho rằng có thể mở rộng bản chất nhị
nguyên sóng – hạt của bức xạ điện từ cho mọi
vật chất. Giả thuyết của De Broglie chủ yếu dựa
trên cơ sở triết học về sự đối xứng trong tự
nhiên và sự tồn tại hai mặt đối lập của một sự
vật. Có thể chia thế giới vật chất thành hai phần
là bức xạ và vật chất. Bên cạnh thuộc tính sóng,
bức xạ còn có thuộc tính hạt. Suy ra, ngoài bản
chất hạt, vật chất còn có tính chất sóng.
Sự chuyển động của một hạt vật chất bất
kì có thể được xem như một quá trình sóng có
bước song λ và tần số : Louis de Broglie (1892-1987), nhà
Vật lý người Pháp

E h h
= ;  = = (2.5)
h mV p
m: khối lượng của hạt; p: động lượng của hạt
v: vận tốc hạt; h: hằng số Plank.
Biểu thức (2.5) gọi là biểu thức De Broglie hay là những phương trình cơ bản
của sóng vật chất De Broglie.
Nếu có một hạt vật chất ta có biểu thức sóng:
(x,t) = a.ei.(Et - px)/ h (2.6): Sóng vật chất De Broglie

23
Tính chất sóng của hạt vật chất không chỉ có ở hạt vi mô mà hạt vĩ mô cũng có;
tuy nhiên, do hạt vĩ mô có khối lượng lớn, kích thước lớn, tốc độ chuyển động chậm
nên tính chất sóng của hạt vĩ mô không rõ ràng.

2.3. Nguyên lý bất định Heisenberg


Trong cơ học cổ điển khi nghiên cứu
chuyển động của các hạt (quả bóng, con tàu,
chiếc xe, …) người ta phải nói đến quỹ đạo
của chúng, nghĩa là lúc đó tại một thời điểm
bất kì ta có thể xác định được chính xác tọa
độ và vận tốc của hạt.
Trong cơ học lượng tử, khi nói đến
tính sóng của hạt vật chất thì khái niệm quỹ
đạo không còn ý nghĩa nữa.
Giả sử rằng ta tiến hành đo vị trí và
vận tốc của một electron để xác định chuyển
động của nó. Dụng cụ thông thường để xác
định vị trí là một kính hiển vi được minh Werner Karl Heisenberg (1901 – 1976),
họa như hình 2.3. Nhà Vật lý lý thuyết người Đức

Hình 2.3. Xác định vị trí và vận tốc của electron

Độ chính xác mà kính hiển vi có thể đo được khoảng cách dọc theo trục x bị
hạn chế bởi bước sóng của ánh sáng sử dụng. Nói cách khác ta không thể xác định vị
trí của hạt chính xác hơn khoảng cách giữa hai đỉnh sóng của ánh sáng, vì vậy người ta
phải dùng ánh sáng có bước sóng ngắn để đo chính xác vị trí của hạt. Giới hạn này là
𝜆
. Nhưng theo giả thuyết lượng tử của Plank, người ta không thể dùng một lượng
2𝑠𝑖𝑛𝜀

24
ánh sáng nhỏ tùy ý được, mà phải dùng ít nhất một lượng tử. Lượng tử này sẽ làm
nhiều động hạt và làm thay đổi vận tốc của hạt một cách không thể tiên đoán được.
Thật vậy, nếu một photon có năng lượng hv và xung lượng hv/c đập vào một electron
đứng yên thì sau khi va chạm photon sẽ có năng lượng hv’ và xung lượng hv’/c; trong
khi đó electron sẽ có động năng 1/2mv2 và xung lượng mv. Chuyển động của photon
và electron được mô tả như sau:

Theo định luật bảo toàn năng lượng ta có được hệ thức:

h = h’ + 1/2mv2 (2.7)

Định luật bảo toàn năng lượng cho ta hệ thức:


ℎv hv'
= cos α + mv cos β (2.8)
𝑐 𝑐

ℎv'
0= sin 𝛼 − 𝑚v sin 𝛽 (2.9)
𝑐
Do đó, thành phần x của xung lượng là:

𝑝𝑥 = (v − v' cos 𝛼) (2.10)
𝑐
Từ phương trình (2.7) ta thấy v’ nhỏ hơn v; nghĩa là ánh sáng tán xạ có bước
sóng dài hơn ánh sáng tới. Tuy nhiên, đối với mục tiêu của ta, ta sẽ nhận được giá trị
xung lượng electron đủ chính xác nếu t đặt v’ = v vào phương trình (2.10). Ta được:

𝑝𝑥 = (1 − cos 𝛼) (2.11)
𝜆
Nếu muốn thấy ánh sáng trong kính hiển vi, thì nó phải khuếch tán bởi electron
vào vật kính để α phải nằm trong các giới hạn 90o - ε và 90o + ε. Vì không thể chỉ ra
được phần nào của vật kính mà ánh sáng khuếch tán từ electron đã đi qua, ta chỉ biết
thành phần x của xung lượng electron nằm giữa các giới hạn

25
ℎ ℎ
(1 − sin 𝜀 ) ≤ 𝑝𝑥 ≤ (1 + sin 𝜀) (2.12)
𝜆 𝜆
Cho nên xung lượng của electron có một lượng bất định:

∆𝑝𝑥 ~ sin 𝜀 (2.13)
𝜆
Do năng suất phân giải của kính hiển vi là hữu hạn, nên có lượng bất định trong
vị trí của electron:

𝜆
∆𝑥 ~ (2.14)
sin 𝜀
Tích các bất định này là: px. x ~ h (2.15)
Tích này không phụ thuộc vào cách đo vị trí và vận tốc của hạt hoặc vào loại
hạt. Do đó, nếu ta càng cố gắng đo vị trí của hạt chính xác bao nhiêu thì sẽ đo được
vận tốc của hạt kém chính xác bấy nhiêu và ngược lại.
Điều này được Heisenberg phát biểu qua hệ thức bất định:

"Tọa độ và động lượng của hạt tương ứng với tọa độ đó là không thể
đồng thời xác định".

Biểu thức bất định Heisenberg: x. px  h (2.16)

x: độ bất định của tọa độ


px: độ bất định của động lượng trên phương x.

Biết px = m. Vx


h
Suy ra :  x. Vx  (2.17)
m

Vì 𝑚 = 𝑐𝑜𝑛𝑠𝑡 , nên ∆Vx càng nhỏ (Vx càng chính xác) thì ∆x càng lớn (x càng
bất định) và ngược lại. Có nghĩa là ta không thể xác định được đồng thời một cách
chính xác vị trí x và vận tốc Vx của một electron trong nguyên tử. Nếu biếu Vx thì
không thể xác định chính xác tọa độ x của nó, tức là không tồn tại quỹ đạo của electron
trong nguyên tử.

Nguyên lí bất định Heisenberg cũng đúng trong trường hợp của hệ vĩ mô, nhưng
vì hạt vi mô thì tính chất sóng – hạt là rất bé nên ít được áp dụng.

26
Để tìm thấy một electron ở đây ta
chỉ có thể nói về xác suất tìm thấy
nó.

Từ hai tính chất vật lí của hạt vật chất ta có thể rút ra tính chất đặc trưng của hệ
vi mô:
- Các đại lượng vật lí của hạt vi mô đều gián đoạn.
- Tọa độ x và động lượng của hạt là không thể đồng thời xác định
- Chuyển động của hạt vi mô không có quỹ đạo.

2.4. Sự khác nhau giữa cơ học cổ điển và cơ học lượng tử


Dựa trên các số liệu thực nghiệm thu được và các hiện tượng quan sát, ta có thể
tóm tắt sự khác nhau chính giữa hai loại cơ học như sau:

Cơ học cổ điển Cơ học lượng tử

- Chuyển động của hạt có quỹ đạo - Chuyển động của hạt không có quỹ đạo.
- Các đại lượng vật lí (năng lượng, - Các đại lượng vật lí chỉ có thể nhận
động lượng, mô men động lượng, những giá trị gián đoạn hay được lượng tử
…) có thể nhận bất cứ giá trị nào. hóa.
- Các đại lượng cơ học đều có thể - Tọa độ và động lượng tương ứng với tọa
xác định được đồng thời. độ đó là không thể đồng thời xác định

Câu hỏi và bài tập

1. Hãy phát biểu giả thuyết De Broglie về sóng vật chất. Hãy cho biết tính nghiệm
đúng của giả thuyết này đối với các hạt vi mô, đối với các vật thể vĩ mô?
2. Tính bước song ứng với các trường hợp:
a- Chuyển động của electron trong nguyên tử H với vận tốc khoảng 106m/s
b- Chuyển động của một oto có khối lượng 1 tấn và vận tốc 100km/h
c- Từ các kết quả đó có nhận xét gì về sóng vật chất?
3. Một electron chuyển động trong một điện trường, hiệu điện thế V ≥ 9,3V có thể
ion hóa một phân tử benzen: e + C6H6 → C6H6 + + 2e.Hỏi muốn ion hóa phân tử
benzene thì photon có số sóng tối thiểu bằng bao nhiêu?

27
4. Sự phá vỡ các liên kết I-I trong một mol iot đổi hỏi một năng lượng bằng
150,48kJ. Năng lượng này có thể sử dụng dưới dạng năng lượng ánh sáng.
Hãy cho biết bước song λ của ánh sáng cần sử dụng trong quá trình đó.
5. Trên phổ electron của một hopwk chất có đám hấp thụ tại 1 = 450nm, 2 =
350nm, 3 = 250nm.
a) Hãy tính năng lượng kích thích ứng với các đám hấp thụ trên (theo eV).
b) Chất đó có màu không? Tại sao?
6. Phát biểu nguyên lí bất định Heizenberg và cho biết những hệ quả rút ra
được từ nguyên lý đó.
7. Áp dụng hệ thức bất định Heizenberg để tính bất định về vị trí, bất định về vận
tốc trong các trường hợp sau đât và cho nhận xét:
a- Electron chuyển động trong nguyên tử với giả thuyết Vx = 106m/s, cho
biết me = 9,1.10-31kg; h = 6,625.10-34 J.s
b- Quả bóng bàn bay có khối lượng 10g, còn vị trí có thể xác định chính xác
đến x = 0,01mm
8. Hãy xác định độ bất định về động lượng và tốc độ cho một electron khi nó
chuyển động trong một vùng không gian theo một chiều xác định (giả sử theo
chiều x của tọa độ) với độ rộng bằng cỡ đường kính nguyên tử (~ 1Ao).
9. Hãy tính bước sóng De Broglie cho các trường hợp sau:
a) Một vật có khối lượng 1,0g chuyển động với vận tốc 1,0 cm.s-1.
b) Đối với vật thể cũng có khối lượng như thế, nhưng chuyển động với tốc độ
1000km.s-1
c) Ở nhiệt độ phòng, một nguyên tử He chuyển động với vận tốc 1000 m.s-1. Cho
He = 4,003.
10. Hãy cho biết sự khác nhau cơ bản giữa cơ học cổ điển và cơ học lượng tử?

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 2


1. Nguyễn Đình Huề, Nguyễn Đức Chuy, Thuyết lượng tử về nguyên tửu và phân tử, Tập
1,2. Nhà xuất bản Giáo dục - 2003.
2. Đào Đình Thức, Cấu tạo nguyên tửu và liên kết hóa học, T1, Nhà xuất bản Đại học
và Trung học chuyên nghiệp - 1975.
3. H.eyring, J.Walter, G. E. Kimball. Hóa học lượng tử, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ
thuật – Hà Nội 1976.
4. Lâm Ngọc Thiềm, Nhập môn hóa học lượng tử, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia – Hà
Nội 1995.
5. Lâm Ngọc Thiềm, Bài tập Hóa lượng tử cơ sở, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật
– Hà Nội 2004.

28
6. Lâm Ngọc Thiềm, Phan Quang Thái, Hóa học lượng tử cơ sở, NXBKHKT - 1999
7. Peter Atkins, Loretta Jones, Chemical Principles - The quest for insight, 5th Edition,
W. H. Freeman and Company, New York - 2010
8. James E. House, Fundamentals of Quantum Chemistry - Second Edition, Elsevier
Academic Press, 2004

29

You might also like