Professional Documents
Culture Documents
+ Mặt phổi, gọi là mặt trái, liên quan với phổi và màng phổi trái.
2.2.1.2. Hình thể trong của tim
Tim được chia làm 4 ngăn: hai tâm nhĩ và hai tâm thất được chia làm 2 nữa riêng biệt, nữa
phải và nữa trái. Mỗi nữa gồm 1 tâm nhĩ ở trên và một tâm thất ở dưới. Giữa tâm nhĩ và tâm thất có
van nhĩ thất đảm bảo cho máu chỉ chảy một chiều từ tâm nhĩ xuống tâm thất (giữa tâm nhĩ phải và
tâm thất phải là van 3 lá, giữa tâm nhĩ trái và tâm thất trái là van 2 lá). Van tim có cấu tạo bởi mô
liên kết, không có mạch máu, một đầu gắn cố định vào mấu lồi cơ ở thành trong tâm thất bằng các
dây chằng, một đầu gắn với bờ ngăn tâm nhĩ với tâm thất của tim. Ngoài van nhĩ – thất, giữa tâm
thất với động mạch chủ và động mạch phổi có van bán nguyệt.
Hình 2.3. Cấu trúc bên trong của tim và hệ thống van tim
2.2.1.3. Thành tim
Thành tim được cấu tạo bởi ba lớp:
- Lớp ngoại tâm mạc (màng ngoài tim) là một túi kín gồm 2 bao:
+ Bao sợi gọi là ngoại tâm mạc sợi, bao bọc phía ngoài tim, có các thớ dính vào các cơ quan
lân cận.
Giải phẫu sinh lý người – TS. Nguyễn Công Thùy Trâm 18
+ Bao thanh mạc gọi là ngoại tâm mạc thanh mạc ở trong, có hai lá: lá thành ở ngoài và lá
tạng ở trong dính sát vào cơ tim, giữa 2 lá là một khoang ảo, trong khoang có ít thanh dịch làm cho
co bóp được trơn, dễ dàng. Khi bị viêm sẽ có nhiều dịch trong khoang này.
- Lớp cơ tim:
+ Cơ tim được biệt hóa một cách rất đặc biệt để phù hợp với chức năng co bóp của tim và
chiếm gần 50% khối lượng của tim. Cơ tim được tạo thành bởi những tế bào hay sợi cơ tim. Các sợi
tim tạo nên một lớp dày mỏng tùy chỗ, mỏng ở tâm nhĩ và dày ở tâm thất, đặc biệt là tâm thất trái.
Các sợi cơ tim có cấu tạo giống sợi cơ vân, chúng có những vân dọc và vân ngang. Tuy nhiên khác
với sợi cơ vân, mỗi sợi cơ tim có cấu trúc rất phức tạp, bên trong tế bào có nhiều nhân, bên ngoài
mỗi sợi đều có màng riêng bao bọc, dọc hai bên của
mỗi sợi kề nhau, màng hòa nhau một đoạn làm
thành một cầu dẫn truyền sung động từ sợi cơ này
sang sợi cơ khác. Do đó, tim hoạt động như một
hợp bào. Phần lớn các sợi cơ tim là các sợi co rút,
một phần nhỏ là các sợi cơ kém biệt hóa mang tính
chất thần kinh gọi là “hệ dẫn truyền của tim” nhờ
vậy mà tim co bóp nhanh, nhịp nhàng và tự động,
không bao giờ trở nên co cứng
+ Hệ thống dẫn truyền của tim: là một hệ
Hình 2.4. Hệ thống dẫn truyền hưng
thống sợi đặc biệt gồm các sợi kém biệt hóa, nằm phấn của tim
lẫn bên trong các sợi co rút, giữ mối liên hệ về giải
phẫu và chức năng giữa tâm nhĩ và tâm thất, đóng vai trò chủ yếu trong sự co bóp nhịp nhàng và tự
động của tim. Hệ thống dẫn truyền bao gồm: hạch xoang nhĩ, hạch nhĩ thất, bó His, mạnh lưới
Purkinje
- Lớp nội tâm mạc (màng trong tim) là một màng mỏng, phủ và dính chặt lên tất cả mặt trong
các ngăn tim và liên kết với nội mạc của mạch máu về tim. Khi viêm nội tâm mạc có thể gây ra các
chứng hẹp hay hở van tim hoặc gây các cục huyết khối làm tắt nghẽn động mạch.
2.2.2. Các tính chất sinh lý của cơ tim
2.2.2.1. Tính hưng phấn
Giải phẫu sinh lý người – TS. Nguyễn Công Thùy Trâm 19
- Tính hưng phấn là khả năng đáp ứng với kích thích ( bình thường cơ tim không phát xung
mà do hệ thống các hạch)
Tính hưng phấn theo định luật “Tất cả hoặc không có gì”. Tuy nhiên, định luật này chỉ có ý
nghĩa tương đối vì không phải bao giờ tim cũng đáp ứng lại kích thích tới ngưỡng bằng co tối đa mà
sức co bóp của tim còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: nhiệt độ, sức căng của cơ tim và
chuyển hóa của tế bào cơ tim.
Tính hưng phấn của tim là do giữa các sợi cơ tim có cầu nối nguyên sinh chất do đó cơ tim
hoạt động như một sợi cơ độc nhất.
Sự biến đổi hưng phấn cơ tim sau khi kích thích thể hiện qua sự biến đổi điện thế màng tế bào
và khả năng hưng phấn của cơ tim
Điện thế màng lúc nghỉ của cơ tim có giá trị khoảng -80 đến -95mV, của các sợi dẫn truyền
khoảng -90 đến -100mV, đây là trạng thái phân cực
Khi có điện thế hoạt động, ở màng có hiện tượng khử cực. Điện thế từ mức -80 đến -95mV
của trạng thái phân cực, điện thế tăng lên về phía không phân cực (có nghĩa là tăng về phía 0mV),
sau đó điện thế vẫn tiếp tục tăng lên và đặt giá trị khoảng +20mV đến +30mV và duy trì ở mức điện
thế này khoảng 0,2 đến 0,3 giây (cao nguyên), sau đó điện thế màng lại giảm xuống độ ngột, đánh
dấu sự kết thúc điện thế hoạt động và chuyển sang giai đoạn phân cực.
2.2.2.2. Tính dẫn truyền cơ tim
Tính dẫn truyền biểu hiện ở khả năng dẫn truyền các điện thế hoạt động của cơ tim và hệ
thống dẫn truyền hưng phấn trong tim (các hạch, bó His, màng lưới Purkinje). Tốc độ dẫn truyền
thay đổi tùy từng phần của tim.
Hưng phấn bắt nguồn từ hạch xoang nhĩ truyền tới tâm nhĩ theo kiểu nang hoa trong khoảng
thời gian từ 10-20ms với tốc độ 1m/s (hưng phấn truyền tới tâm nhĩ trái chậm hơn tâm nhĩ phải
khoảng 20-30ms), từ tâm nhĩ đến hạch nhĩ thất trong khoảng thời gian 12-13ms với tốc độ 0,1-
0,2m/s, hưng phấn được giữ lại ở hạch nhĩ thất khoảng 90-100ms, sau đó được truyền đến bó His (ở
thân bó His với tốc độ 2m/s, nhánh bó His với tốc độ 3 - 4m/s), đến sợi Purkinje (5m/s), đến sợi cơ
tim với tốc độ 0,3-0,4m/s.
Đặc điểm truyền chậm và khác nhau ở từng phần của tim do liên quan đến chức năng tạo nhịp
co bóp và bơm máu của tim.
Giải phẫu sinh lý người – TS. Nguyễn Công Thùy Trâm 20
+ Giai đoạn tâm thất co kéo dài khoảng 0,3s gồm: đây là kết quả của co tâm thất khi sóng
điện thế lan khắp thất. Tâm thất co làm áp suất trong tâm thất tăng vọt và được chia làm 2 giai đoạn:
giai đoạn tăng áp và giai đoạn tống máu
. Giai đoạn tăng áp:
Giai đoạn cơ tâm thất co không đồng thời, kéo dài 0,05s: áp suất trong tâm thất
cao hơn áp suất trong tâm nhĩ, do đó van nhĩ thất đóng lại ngăn không cho máu
di chuyển ngược lên tâm nhĩ
Giai đoạn cơ co đẳng kế: kéo dài khoảng 0,03s, áp suất trong tâm thất tăng cao
khoảng 70-80mmHg ở thất trái và khoảng 10mmHg ở thất phải, kết quả van bán
nguyệt mở ra. Cuối thời kỳ tăng áp, áp suất tâm thất trái là 120-150mmHg,
trong thất phải là 30-40mmHg. Máu được tống vào trong động mạch
. Giai đoạn tống máu: máu từ tâm thất được tống ra động mạch
Giai đoạn tống máu nhanh, kéo dài khoảng 0,10-0,12s, đưa khoảng 4/5 lượng
máu vào động mạch
Giai đoạn tống máu chậm, kéo dài khoảng 0,1-0,15s, đưa 1/5 lượng máu còn lại
vào động mạch
- Giai đoạn tim giãn (pha tâm trương) là giai đoạn cả tâm nhĩ và tâm thất đều nghỉ, không có sóng
điện thế nào làm co cơ. Giai đoạn này kéo dài khoảng 0,4s được chia làm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn tiền tâm trương: kéo dài khoảng 0,04s là giai đoạn mang tính chất quá độ giữa
tâm thu và tâm trương. Cơ tâm thất ngừng co, van bán nguyệt vẫn mở
+ Giai đoạn cơ tim giãn đẳng kế: kéo dài khoảng 0,08s, cơ tâm thất giãn, áp suất trong tâm
thất nhỏ hơn áp suất trong động mạch, kết quả van bán nguyệt đóng lại
+ Giai đoạn đầy máu: kéo dài khoảng 0,25s cơ tâm thất tiếp tục giãn, áp suất trong tâm thất
tiếp tục giảm xuống và nhỏ hơn áp suất trong tâm nhĩ. Máu từ tĩnh mạch đổ vào tâm nhĩ từ lúc tâm
nhĩ ngừng co được đây xuống tâm thất qua van nhĩ thất (van nhĩ thất bắt đầu hé mở). Giai đoạn này
chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầy máu nhanh (0,09s) và giai đoạn đầy máu chậm (0,16s).
Tâm nhĩ bắt đầu co một chu kỳ hoạt động tim mới được tiếp tục
Giải phẫu sinh lý người – TS. Nguyễn Công Thùy Trâm 22
Hình 2.5. Các giai đoạntrong chu kỳ hoạt động của tim
(a: Giai đoạn tâm nhĩ thu; b: Giai đoạn tâm thất thu; c: Giai đoạn tâm trương)
2.2.4. Điều hòa hoạt động tim.
Hoạt động của tim được điều hoà theo 2 cơ chế:
- Quá trình tự điều hoà theo lượng máu về tim (hiện tượng Frank - Starling). Máu đổ về tâm
thất nhiều dẫn đến: cơ tim thành tâm thất giãn ra, các sợi cơ tim bị kéo dài, dẫn đến các sợi cơ tim
đáp ứng co ngắn mạnh. Ngoài ra máu đổ về tâm thất nhiều vách tâm nhĩ bị kéo căng và kéo theo làm
tăng tần số co bóp của tim.
- Điều hoà bởi các yếu tố ngoài tim:
+ Điều hoà theo cơ chế thần kinh.
. Kích thích vào dây TK giao cảm làm tăng khả năng hưng phấn của cơ tim, tăng tốc
độ dẫn truyền hưng phấn trong tim, tăng nhịp co bóp của tim, tăng khả năng dinh
dưỡng của các tế bào cơ tim. Cơ chế tác dụng của hệ thần kinh giao cảm là thông qua
chất dẫn truyền noradrenalin
. Kích thích vào dây thần kinh phó giao cảm sẽ làm ức chế hạch xoang, hạch nhĩ thất,
do đó làm giảm hưng phấn của cơ tim, giảm tốc độ dẫn truyền hưng phấn trong cơ tim,
Giải phẫu sinh lý người – TS. Nguyễn Công Thùy Trâm 23
làm chậm nhịp tim, giảm cường độ co bóp của tim, giảm trương lực cơ tim. Cơ chế tác
dụng của hệ thần kinh phó giao cảm là thông qua chất dẫn truyền acetylcholin
+ Điều hoà bằng các phản xạ với hoạt động của tim:
. Phản xạ gốc tim: khi máu trong tâm nhĩ tăng lên, thụ cảm thể áp lực phân bố trong
tâm nhĩ giữa 2 lỗ tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch chủ dưới bị kích thích tạo xung
động, xung động được truyền theo dây TK hướng tâm về tủy sống và lên hành tủy làm
giảm trương lực trung khu dây X và tăng trương lực dây TK giao cảm. kết quả tăng co
bóp của tim.
. Phản xạ qua các thụ cảm thể áp lực: khi áp lực quai động mạch chủ tăng lên, các thụ
cảm thể áp lực ở đây sẽ bị kích thích tạo ra xung động thần kinh truyền theo dây Cyon
về hành tủy kích thích vào trung khu giảm áp làm cho tim đập chậm lại và làm giảm
huyết áp. Khi áp lực trong xoang động mạch cảnh tăng lên các thụ cảm thể áp lực ở
đây sẽ bị kích thích tạo xung động truyền theo dây Hering tới hành tủy kích thích trung
khu giảm áp làm giảm sự co bóp của tim và giảm huyết áp.
. Phản xạ qua các thụ cảm thể hóa học: khi trong máu nồng độ O 2 giảm và CO2 tăng
lên sẽ kích thích vào các thụ cảm thể hóa học ở vùng động mạch chủ và xoang động
mạch cảnh tạo ra các xung động thần kinh truyền về hành tủy để gây phản xạ tăng
cường hoạt động của tim
. Phản xạ Goltz: khi kích thích vào vùng thượng vị hay co kéo các tạng vùng bụng dẫn
đến làm hoạt hóa đám rối thái dương tạo ra xung động thần kinh truyền về hành tủy
kích thích vào dây X làm tim đập chậm hoặc ngừng đập.
. Phản xạ mắt tim: khi dùng ngón tay tác động lên nhãn cầu sẽ gây ra kích thích vào
dây thần kinhV xung động thần kinh phát ra truyền về hành tủy hoạt hóa dây X làm
tim đập chậm.
+ Điều hoà theo cơ chế thể dịch:
. Ảnh hưởng của hormon: hormon adrenalin và noradrenalin của tuyến trên thận,
hormon thyroxin tuyến giáp trạng … có tác dụng làm tim đập nhanh và tăng huyết áp
. Ảnh hưởng của hàm lượng O 2 và CO2 trong máu: khi hàm lượng O 2 trong máu giảm
và hàm lượng CO2 trong máu tăng làm tim đập nhanh và ngược lại
Giải phẫu sinh lý người – TS. Nguyễn Công Thùy Trâm 24
. Ảnh hưởng của nồng độ các ion trong máu: nồng độ ion Ca 2+ trong máu làm tăng
trương lực cơ tim, nếu truyền một lượng lớn Ca 2+ vào co thể tim có thể ngừng đập lúc
tâm thu. Nồng độ ion K+ cao trong máu làm giảm trương lực cơ tim và nếu nồng độ K +
tăng trong máu thì rất nguy hiểm có thể gây chết.
2.2.5. Thăm dò chức năng tim
- Mõm tim đập có thể ghi dưới dạng đồ thị cơ học của tim hay còn gọi là tâm động cơ đồ.
- Tiếng tim là âm thanh phát ra trong quá trình hoạt động của tim. Trong một chu kỳ hoạt
động của tim có thể nghe được 2 âm phát ra:
+ Tiếng thứ nhất (tiếng tâm thu): xuất hiện đầu giai đoạn tâm thu, nguyên nhân gây ra tiếng
tim thứ nhất là do sự đóng van nhĩ thất, do cơ tâm thất và do máu đẩy vào động mạch. Đặc điểm của
tiếng tim thứ nhất mạnh, trầm dài.
+ Tiếng thứ hai (tiếng tâm trương): xuất hiện đầu giai đoạn tâm trương, nguyên nhân gây ra
tiếng tim thứ hai là do đóng van bán nguyệt ở gốc động mạch chủ và động mạch phổi. Đặc điểm của
tiếng tim thứ hai nhẹ thanh ngắn.
Giữa tiếng tim thứ nhất và tiếng tim thứ hai có khoảng thời gian yên lặng kéo dài 0,2-0,25s.
Giữa tiếng tim thứ hai và tiếng tim thứ nhất có khoảng thời gian yên lặng 0,5s
- Điện tim là tổng điện thế hoạt động của tim. Đồ thị ghi điện tim gọi là điện tâm đồ. Cách
mắc điện cực để ghi điện tim gọi là đạo trình (chuyển đạo)
- Điện tâm đồ có các sóng và phức hơp sóng sau:
+ Sóng P: biểu hiện qua trình hưng phấn ở tâm nhĩ
+ Phức hợp sóng QRS biểu hiện quá trình hưng phấn ở tâm thất trong đó:
. Sóng P: biểu hiện hưng phấn ở vách liên thất và dưới lớp nội tâm mạc cơ tim.
. Sóng R: biểu hiện hưng phấn bao trùm thành tâm thất
. Sóng S: biểu hiện hưng phấn lan truyền qua cơ tim tới ngoại tâm mạc.
+ Sóng T: biểu hiện sự tái phân cực của tâm thất
+ Khoảng PQ: biểu hiện thời gian dẫn truyền hưng phấn từ tâm nhĩ đến tâm thất
+ Khoảng ST: biểu hiện quá trình khử cực bao trùm toàn bộ tâm thất
+ Khoảng TP: thời gian tâm trương điện học lúc tâm thất giãn
Giải phẫu sinh lý người – TS. Nguyễn Công Thùy Trâm 25
có hai tĩnh mạch đi kèm và tĩnh mạch lại rộng lòng do đó, hệ tĩnh mạch có số lượng và dung tích lớn
hơn so với động mạch.
- Thành tĩnh mạch cũng có 3 lớp như động mạch, tuy nhiên, lớp giữa mỏng hơn, màng chun
kém phát triển, không có màng chun trong, thành phần cơ trơn cũng ít hơn động mạch nên khả năng
đàn hồi kém, dễ bị xẹp khi tĩnh mạch bị đứt và không có khả năng điều chỉnh dòng máu bằng cách
thay đổi đường kính lòng mạch được. Khi tĩnh mạch bị giãn quá nhiều, khả năng co lại sẽ khó.
- Thành phần keo phát triển mạnh
- Thành tĩnh mạch có nhiều mạch máu nuôi dưỡng hơn so với thành động mạch. Ở những tĩnh
mạch vùng dưới tim có những van tĩnh mạch (van bán nguyệt).
- Tĩnh mạch có các chức năng như: dẫn máu về tim, chứa máu, đẩy máu góp phần điều hòa
lưu lượng tim.
Tiểu tĩnh mạch là những mạch máu dẫn máu từ mao mạch về các tĩnh mạch, cấu tạo của
chúng gần giống mao mạch, nhưng kích thước lớn hơn.
2.4.2. Những nguyên nhân chuyển máu từ tĩnh mạch về tim
Máu trong tĩnh mạch chảy được về tim là nhờ các yếu tố:
- Sức bơm của tim
- Sức hút của tim:
- Sức hút của lồng ngực
- Ảnh hưởng của cơ và van tĩnh mạch
- Ảnh hưởng của nhịp đập động mạch
- Ảnh hưởng của trong lực
2.4.3. Huyết áp tĩnh mạch
Máu chảy trong tĩnh mạch có một áp suất gọi là huyết áp tĩnh mạch. Huyết áp tĩnh mạch được
đo bằng áp kế nước và có trị số thấp.
Áp suất nhĩ phải thường được gọi là áp suất tĩnh mạch trung tâm, thay đổi áp suất tĩnh mạch
nhĩ phải làm cho tuần hoàn tĩnh mạch bị ảnh hưởng. Áp suất tĩnh mạch nhĩ phải là kết quả của cân
băng giữa lượng máu bơm ra khỏi nhĩ phải và lượng máu từ ngoại vi về nhĩ phải, bình thường
khoảng 0mmHg (bằng áp suất khí quyển), giới hạn dưới của áp suất nhĩ phải là -3 đến -5 mmHg,
Giải phẫu sinh lý người – TS. Nguyễn Công Thùy Trâm 29
giới hạn trên là 4 đến 6 mmHg. Áp suất nhĩ phải giảm khi tim bơm khỏe, áp suất nhĩ phải tăng trong
trường hợp tim bơm yếu (như suy tim).
Ở trạng thái đứng im, áp suất nhĩ phải là 0mmHg, vùng bụng là 20mmHg, vùng ngang đùi là
trên 40mmHg, vùng dưới chân là 80-90mmHg. Áp suất tĩnh mạch trong sọ âm do sọ ở trên tim và sọ
cứng.
2.5. Sinh lý tuần hoàn mao mạch.
Mỗi cơ quan có một mạng lưới mao mạch đặc biệt phù hợp với nhhu cầu của cơ quan đó.
Toàn thể cơ thể người có khoảng 10 tỷ mao mạch với diện tích trao đổi từ 500-700m2.
- Mao mạch là nơi trực tiếp xảy ra sự trao đổi chất giữa máu với các tế bào và mô. Chúng là
những mạch máu nhỏ, kích thước tương đối đồng đều, đường kính mao mạch khoảng 4-9µm, nối
tiểu động mạch với tiểu tĩnh mạch tạo thành lưới mao mạch. Thành của mao mạch rất mỏng khoảng
0,5µm và được cấu tạo bởi: 1 lớp tế bào nội mô, màng đáy, ngoại mạc.
+ Lớp nội mô dày từ 1-3µm, được tạo bởi 1 lớp tế bào dẹt, đứng sát nhau, lồi về phía lòng
mạch
+ Lớp màng đáy dày khoảng 30-300 milimicromet và có những lỗ thủng để các chất qua lại
giữa lòng mạch với bên ngoài mạch. Có hai loại lỗ gọi là khe và kênh.
Khe là một lỗ hẹp giữa hai tế bào nội mô tiếp giáp nhau, có đường kính rất nhỏ khoảng
6-7nm.
Kênh là những lỗ xuyên qua thành mao mạch để dịch và các phân tử có kích thước lớn
và protein đi qua.
Màng đáy được coi là yếu tố quyết định tính bền vững của mao mạch. Khi thiếu vitamin C
màng đáy của mao mạch có thể bị tổn thương.
+ Lớp ngoại mạc là lớp tế bào không liên tục, phủ phía ngoài màng đáy, lớp này phát triển
nhiều hay ít tùy thuộc vào từng loại mao mạch.
- Mao mạch được chia làm 2 loại:
+ Mao mạch dinh dưỡng
+ Mao mạch thẳng hay mao mạch nối
Khi nghiên cứu dưới kính hiển vi điện tử, mao mạch được chia làm 3 loại:
+ Mao mạch kín: là mao mạch mà tế bào biểu mô và màng đáy không có lỗ thủng.
Giải phẫu sinh lý người – TS. Nguyễn Công Thùy Trâm 30
+ Mao mạch có lỗ thủng nội mô bao gồm: những mao mạch có lỗ thủng giả (do những màng
của hai mặt tế bào dính với nhau tạo ra) và những mao mạch mà nội mô có lỗ thủng thật (mao mạch
ở các tuyến ngoại tiết, một số mao mạch thận)
+ Mao mạch có lỗ thủng ở cả nội mô và màng đáy như mao mạch thuộc tủy đỏ và lách.
- Đặc điểm tuần hoàn mao mạch:
+ Tại mao mạch xảy ra quá trình trao đổi chất giữa máu và dịch kẽ. Khi máu đến mao mạch,
O2 và các chất dinh dưỡng trong máu được vận chuyển qua thành mao mạch vào dịch kẽ. Ngược lại,
CO2 và các sản phẩm của quá trình trao đổi chất được vận chuyển từ dịch kẽ qua thành mao mạch
vào máu. Quá trình trao đổi chất tại mao mạc diễn ra theo phương thức khuếch tán và chịu tác dụng
của các yếu tố: áp suất thủy tĩnh của máu (huyết áp), áp suất keo của protein huyết tương.
- Máu chảy trong mao mạch là do sự chênh lệch áp suất ở đầu và cuối mao mạch. Áp suất
máu của tận cùng tiểu động mạch là 30mmHg và của điểm bắt đầu tiểu tĩnh mạch là 10mmHg.
- Các mao mạch thường ngắn (khoảng 0,5-1mm) tốc độ máu chảy qua mao mạch chậm
(khoảng 0,7mm/s) nên thời gian cần thiết cho máu qua mao mạch khoảng 1-2 giây. Với tốc độ và
thời gian trên tạo điều kiện cho quá trình trao đổi chất.
- Lượng máu trong mao mạch chiếm khoảng 1/20 khối lượng máu của cơ thể