You are on page 1of 15

Chương 10.

SINH LÝ CÁC CƠ QUAN CẢM GIÁC

11. 1. Đại cương về các cơ quan cảm giác.


11.1.1. Khái niệm chung về cơ quan cảm giác
- Cơ quan cảm giác là những cơ quan đặc biệt nằm trên các cơ quan bản thể và
ngoại vi của cơ thể.
- Các cơ quan cảm giác bao gồm những TB đã được biệt hoá để tiếp nhận mọi
dạng kích thích từ môi trường bên ngoài và bên trong đối với cơ thể.
- Cơ quan cảm giác là bộ phận đầu tiên của một quá trình TK phức. Nhờ cơ quan
cảm giác mà con người và động vật mới có thể nhận biết được các tín hiệu từ môi trường
sống, đồng thời cảm nhận được sự tồn tại và phát triển của chính mình.
11.1.2. Sự tiến hoá.
- Động vật đơn bào bắt đầu có quá trình cảm nhận những kích thích của môi
trường
- Bậc thang tiến hoá càng cao, cơ quan cảm giác ở động vật càng có cấu tạo phức
tạp, tinh vi và hoàn thiện hơn, khả năng tiếp nhạn các biến đổi môi trường càng chính xác
hơn.
- Mỗi cơ quan cảm giác thường có cấu tạo bởi 3 bộ phân:
+ Bộ phận ngoại biên (phần thụ cảm hay receptor): bao gồm các TB cảm
giác chuyên biệt với từng loại KT khác nhau của môi trường, tiếp nhận các
KT và biến KT thành xung động TK
+ Bộ phần dẫn truyền: là các dây dẫn truyền hướng tâm, dẫn truyền các
xung động TK từ thụ quan vào não
+ Bộ phận trung ương: là các cấu trúc TKTW, phân tích xung động TK gây
ra cảm giác
11.1.3. Phân loại các cơ quan cảm giác.
- Theo vị trí cấu tạo:
+ Các receptor bên ngoài: là những TB thụ cảm chuyên biệt và nằm trong
các bộ phận cấu tạo riêng, chúng hình thành nên các cơ quan cảm giác. Ví
dụ: mắt, tai, mũi…
+ Các receptor bên trong: là các TB thụ cảm phân bố tại các cơ quan bên
trong cơ thể có nhiệm vụ tiếp nhận các kích thích nội môi tác động vào các
phủ tạng Ví dụ: Các receptor áp lực trong dạ dày, bàng quang…
+ Các receptor bản thể (tự receptor) là các TB thụ cảm hình thành nên các
receptor nằm sâu trong cơ thể, có nhiệm vụ nhận biết các KT cảm giác
đồng thời nhận biết các KT trả lời từ các vị trí như ở gan, cơ khớp.
- Theo hình thức thu nhận KT:
+ Receptor trực tiếp: là những receptor thu nhận KT tác động trực tiếp vào
TB thụ cảm. Ví dụ: cơ quan cảm giác vị giác, xúc giác
+ Receptor gián tiếp: là những receptor thu nhận KT từ những khoảng cách
xa như: mắt, tai, mũi.
- Theo bản chất của các KT:
+ Receptor hoá học: là những recetor thu nhận các KT hoá học như: mùi, vị
khuếch tán trong không khí…
+ Receptor lý học là những receptor tiếp nhận các KT về vật lý như:
receptor cơ học, nhiệt học, quang học….
11.1.4. Các học thuyết về phân tích quan
11.1.4.1. Thuyết năng lượng đặc trưng của Muler:
Bản chất của cảm giác không phụ thuộc vào bản chất của KT mà được xác định
hoàn toàn bởi một năng lượng đặc trưng tồn tại trong các cơ quan cảm giác. Thuyết này
phủ định tính chất khách quan của cảm giác.
11.1.4.2. Thuyết song hành của Hering:
Tâm lý và sinh lý là 2 quá trình hoàn toàn độc lập với nhau, song song tồn tại
không phụ thuộc vào nhau. Thuyết này phủ nhận cơ sở sinh lí của các quá trình tâm lý.
11.1.4.3. Học thuyết Pavlov:
Phân tích quan là một hệ thống nhiều tầng phức tạp có chức năng phân tích các
kích thích từ bên ngoài hay bên trong cơ thể, nhằm đảm bảo mối quan hệ giữ cơ thể với
môi trường, sự thống nhất giữa các cơ quan trong cơ thể
11.1.5. Tính chất hoạt động của các thụ quan.
11.1.5.1. Khả năng hưng phấn
- TB thụ cảm có hưng tính hay sự nhạy cảm cao đối với những KT đặc trưng quen
thuộc và phù hợp với chức năng được chọn lọc trong quá trình tiến hoá của loài
Vd: mắt có các receptor nhạy cảm với áng sáng…
- Các TB thụ cảm còn có khả năng hưng phấn chung với các kích thích không
chuyên biệt. Tuy nhiên, các KT không chuyên biệt này thường gây ra các cảm giác giả
tạo.
Vd: Kích thích cơ học mạnh vào mắt hoặc tai tạo cảm giác nổ đom đóm mắt hoặc
ù tai
- Các KT được các cơ quan thụ cảm nhận biết khi chúng đạt tới một ngưỡng nhất
định. Tuỳ theo bản chất của các KT tác động vào các cơ quan thụ cảm tương ứng hoặc
không tương ứng mà có các ngưỡng KT khác nhau: Ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt.
+ Ngưỡng tuyệt đối: là dấu hiệu quan trọng để nhận biết được các yếu tố
KT. Đó là mức năng lượng tối thiểu đủ để chuyển các TB thụ cảm từ trạng
thái nghỉ ngơi sang trạng thái hoạt động (gây hưng phấn)
+ Ngưỡng sai biệt là khả năng hưng phấn của động vật đối với các KT
không chuyên biệt của các cơ quan thụ cảm, đòi hỏi chúng phải có cường
độ KT cao hơn hẳn.
- Nguyên lý chung của quá trình hưng phấn: Khi các thụ quan tiếp nhận KT sẽ
biến các KT thành các xung động TK truyền về trung ương TK theo các dây TK hướng
tâm. Trung ương TK phân tích các xung động TK đó để cho nhiều loại cảm giác khác
nhau. Mỗi loại KT có một cảm giác tương ứng. Cảm giác còn phản ánh tần số, cường độ,
tính chất, thời gian, phương hướng, vị trí tác động của các tác nhân KT.
11.1.5.2. Mối tương quan giữa cường độ KT và mức độ cảm giác
- Cường độ KT và mức độ cảm giác có mối tương quan phụ thuộc lẫn nhau, tương
quan này được biểu hiện bởi các công thức sau:
- Công thức Weber:
K = dI/I
Trong đó: I: cường độ KT ban đầu
dI: cường độ KT tăng lên hoặc giảm xuống
Một sự thay đổi cường độ KT sẽ chỉ gây ra được một sự khác biệt về cảm giác khi
đạt tới một giá trị tối thiểu K xác định đối với từng loại thụ quan
Ví dụ: Káp lực tay= 0,03 nghĩa là: Khi cầm một vật nặng 50g, để nhận biết một vật
tương tự nặng hơn thì vật này phải tăng thêm 50 x 0,03= 1,5g.
Điều kiện đúng với công thức Weber: với các receptor cảm giác, thị giác, thính
giác….trong phạm vi thu nhận KT của TB thụ cảm.
- Công thức Fechner: Fechner thấy rằng khi cường độ kích thích tăng theo cấp số
nhân thì cảm giác chỉ tăng theo cấp số cộng. Do đó ông nêu ra “cảm giác là log của kích
thích” (theo quy luật toán học: một trị số tăng theo cấp số cộng, log của nó tăng theo cấp
số nhân)
S = a x logR + b
Trong đó: S: trị số cảm giác
R: cường độ KT
a, b: hằng số đặc trưng cho từng loại receptor.
11.1.5.3. Sự thích nghi của cơ quan cảm giác.
Biểu hiện đặc điểm của sự thích nghi là sự giảm dần mức độ cảm giác đối với các
KT kéo dài hoặc thường xuyên, mặc dù các KT có cường độ tới ngưỡng
Thời gian tiềm tàng của các phản xạ thị giác- vận động; thính giác-vận động …
của con người xảy ra “sự thích nghi” thể hiện ở sự tăng dần thời gian tiềm tàng của các
phản xạ nếu một loại kích thích nào đó lặp lại nhiều lần.
11.1.6. Mã thông tin giác quan.
- Thông tin giác quan được mã hóa thành các xung điện và được dẫn truyền đến
các cơ quan trung ương, tại đây xung điện được giải mã cho cơ thể các cảm giác thực.
Quá trình này diễn ra phụ thuộc vào các tham số sau:
+ Cường độ kích thích: với những tác nhân khích thích đặc trưng các receptor
tương ứng có tính hưng phấn cao (ánh sáng đối với các receptor thị giác hay âm thanh
đối với các receptor thính giác…). Ngược lại những tác nhân kích thích không đặc trưng
đòi hỏi kích thích phải có cường độ lớn hơn nhiều mới gây ra hưng phấn. Các kích thích
có tác dụng làm thay đổi tính thấm của màng các receptor từ đó làm xuất hiện điện thế
hoạt động. Cường độ điện của receptor tỷ lệ thuận với logarit của lực kích thích
+ Tính chất của các tác nhân kích thích: dòng điện receptor khi lớn lên đến mức độ
nhất định sẽ làm xuất hiện điện hoạt động trên eo Ranvier gần nhất của sợi thần kinh cảm
giác, từ đó hưng phấn lan truyền về trung ương thần kinh. Tần số xung động truyền trên
sợi thần kinh tỷ lệ thuận với trị số điện receptor và với logarit của lực kích thích.
- Các cách mã hóa thông tin:
+ Sự mã hóa thông các thông tin: khi có kích thích từ môi trường ngoài hay trong
có thể tác động lên các receptor sẽ làm xuất hiện điện receptor, tuy nhiên chỉ những kích
thích nào đủ ngưỡng mới làm xuất hiện điện thế hoạt động lan truyền trên sợi thần kinh
về trung ương thần kinh. Tại đây xung thần kinh sẽ được não giải mã cho ta nhận biết
được cảm giác do kích thích gây ra.
+ Sự mã hóa qua số lượng các dây thần kinh dẫn truyền: sự cảm nhận đối với các
kích thích của các tế bào thu cảm trong một số receptor khác nhau, do đó số lượng dây
thần kinh lan truyền hưng phấn thay đổi.
+ Sự mã hóa thông qua tần số và số lượng các xung động thần kinh lan truyền trên
các sợi thần kinh hướng tâm từ receptor về trung ương thần kinh dưới những loạt xung.
Mỗi loại kích thích có tần số và số lượng xung trong mỗi loạt khác nhau, do đó mật ma
thông tin đã được phân biệt một phần trước khi về não bộ.
11.2. Sinh lý các cơ quan cảm giác.
11.2.1. Cơ quan cảm giác da và nội tạng.
11.2.1.1. Cấu tạo của cơ quan cảm giác da.
Da là phần bọc ngoài của cơ thể có cấu tạo gồm 3 lớp: lớp biểu bì, lớp da chính
thức và lớp dưới da. Ở người trưởng thành, tổng diện tích bề mặt da khoảng 1,5m 2, độ
dày khoảng 0,5-3mm. Ở da người và thú không có các tế bào thụ cảm riêng biệt. Các đầu
mút thần kinh cảm giác toả ra một cách tự do trên da gọi là các tiểu thể để tiếp nhận các
kích thích khác nhau từ môi trường, đó là:
+ Thể Meissner thu nhận kích thích cơ học ma sát
+ Thể Paccini thu nhận kích thích cơ học áp lực
+ Thể Krause thu nhận kích thích nhiệt độ lạnh
+ Thể Ruffini thu nhận kích thích nhiệt độ nóng
+ Các đầu mút thần kinh thu nhận kích thích đau.
Có tác giả cho rằng thụ quan nhiệt chung cho cả cảm giác nóng, lạnh, còn thụ
quan ma sát và áp lực gọi chung là thụ quan cơ học, còn không có thụ quan đau riêng biệt
mà khi có kích thích cơ hoặc nhiệt có cường độ lớn đều sinh cảm giác đau.
Da được coi là cơ quan xúc giác nói chung, là cơ quan cảm giác nhiệt và đau.
Theo Donalson trên bề mặt da có khoảng 500.000 điểm thu nhận cơ học; 250.000
điểm thu nhận nhiệt độ lạnh; 30.000 điểm thu nhận nhiệt độ nóng; 3.500.000 điểm thu
nhận cảm giác da. Các điểm này phân bố không đều trên da. Ở một số loài như hổ, mèo,
thỏ chó… râu của chúng làm nhiệm vụ thu nhận cảm giác cơ học rất nhạy.
11.2.1.2. Cảm giác xúc giác.
- Cảm giác xúc giác thuộc loại cảm giác nông gồm:
+ Cảm giác thô sơ gồm:
Cảm giác thô sơ ma sát, chúng phân bố trên da và một số niêm mạc miệng, hốc
mũi… mật độ cao nhất ở môi, ngón tay.
Cảm giác thô sơ áp lực phân bố ở lớp sâu của da, ở gân, dây chằng, phúc mạc, mạc
treo ruột… bên trong cơ thể.
Đường dẫn truyền hướng tâm của các cảm giác thô sơ theo các dây thần kinh tuỷ.
Sau khi vào sừng xám ở rãnh sau, chúng tập trung thành bó Dejerine để chạy lên hành
tuỷ, đồi não và vùng đỉnh vỏ não.
+ Cảm giác tinh vi là loại cảm giác nông có ý thức, nhờ nó mà phân biệt kích thích
tinh tế như lần biết chữ nổi, hướng chuyển động trên da. Loại cảm giác cũng do các tiểu
thể như của cảm giác thô sơ thu nhận, nhưng sau khi vào tuỷ sống chúng được truyền lên
phần cao của não bộ qua bó Goll và Burdach.
- Cảm giác nhiệt độ: thể Ruffini tiếp nhận các kích thích nóng, thể Krause tiếp
nhận kích thích lạnh, (ở một số vùng da không có các thụ cảm này nhưng vẫn nhận được
kích thích nhiệt độ, đó là do có thể đầu mút tân cùng các nhánh thần kinh đã nhân kích
thích trực tiếp) xung động hướng tâm theo dây thần kinh tủy về sưng xám tủy sống và
theo các bó Dejerine sau để dẫn truyền lên hành tủy đến Thalamus và vỏ não. Do thể
Ruffini nằm ở độ sâu 0,3mm còn Krause ở độ sâu 0,17mm nên thường kích thích nhiệt độ
lạnh gây phản ứng nhanh hơn nhiệt độ cao. Cảm giác nhiệt độ còn tùy thuộc vào sự tương
phản nhiệt - mối tương tác giữa nhiệt độ cơ thể, môi trường cũng như bản chất của các
kích thích.
- Cảm giác đau: Các thể thụ cảm tiếp nhận kích thích gây cảm giác đau đầu mút
dây thần kinh không có bao myelin tiếp nhận cảm giác đau. Cảm giác đau là một cơ chế
tự vệ xảy ra do có các kích thích quá mạnh dẫn đến phá hủy cấu trúc cơ thể. Phản ứng trả
lời cảm giác đau là một loạt các phản xạ tự vệ của nhiều hệ cơ quan như : tăng nhịp tim,
nhịp thở, co mạch, tăng huyết áp ... Trung khu đau chính nằm ở thalamus (đồi thị) thuộc
não trung gian, ngoài ra còn nằm ở vùng dưới đồi, ở thể lưới thân não. Các tế bào thần
kinh tiết của vùng dưới đồi tiết chất endorphin, enkephalin có tác dụng giảm đau.
Cảm giác ngứa thường kèm theo phản xạ gãi. Cảm giác ngứa sẽ mất đi khi cảm giác
đau mất (khi tiêm thuốc mê cục bộ). Nếu có kích thích nào gây tiết histamin làm tăng
cảm giác ngứa.
Cảm giác buồn cũng liên quan với cảm giác đau, khi kích thích cơ học yếu gây buồn
(khi bị cù), nhưng cù mạnh lại gây đauCảm giác ngứa thường kèm theo phản xạ gãi. Cảm
giác ngứa sẽ mất đi khi cảm giác đau mất (khi tiêm thuốc mê cục bộ). Nếu có kích thích
nào gây tiết histamin làm tăng cảm giác ngứa.
Cảm giác buồn cũng liên quan với cảm giác đau, khi kích thích cơ học yếu gây buồn (khi
bị cù), nhưng cù mạnh lại gây đau - Cảm giác ngứa: các receptor tiếp nhận cảm giác ngứa
thường xuất hiện chậm và kéo dài sau kích thích như: sờ mó, áp lực ... thường cảm giác
ngứa gây ra phản xạ gãi.
- Cảm giác buồn: cảm giác này xuất hiện khi có những kích thích cơ học yếu và
chúng thường liên quan đến cảm giác đau.
- Cảm giác nội tạng : Các cơ quan nội tạng cũng có các thụ quan, tiếp nhận các KT
về mặt nhiệt độ, ma sát, áp lực, thành phần hóa học tạo thành các xung động hướng tâm
qua hệ thần kinh giao cảm, phó giao cảm truyền về tủy sống, hành tủy và phần cao của
não bộ (như thể lưới thân não hypothlamus, hệ limbic, vỏ não). Các xung ly tâm trực tiếp
qua dây thần kinh hoặc theo con đường thể dịch tới các cơ quan đó. Các phản xạ nội tạng
là các phản xạ thực vật giúp cho từng cơ quan hoạt động đồng thời phối hợp giưca các cơ
quan tạo nên sự thống nhất.
11.5.2.2. Cơ quan phân tích khứu giác.
11.5.2.2.1. Cấu tạo cơ quan phân tích khứu giác
- Phần thụ cảm: cơ quan cảm giác khứu giác là những tế bào khứu giác nằm trong
màng nhầy khoang mũi, chúng có khả năng thu nhận kích thích bằng hơi.
- Phần dẫn truyền: dây thần kinh khứu giác
- Phần trung ương thần kinh: vùng khứu giác trên vỏ não.
11.5.2.2.2. Cơ chế tiếp nhận mùi.
- Cơ chế kích thích receptor : lông tế bào khứu giác là mơi tiếp nhận kích thích
hóa học, Màng của phần lông có nhiều phân tử protein xuyên suốt chiều dày của màng và
các phân tử protein này có thể gắn với phân tử có mùi. Quá trình gắn với các phân tử mùi
cần cho việc kích thích tế bào khứu giác. Có 2 thuyết giải thích cơ chế kích thích :
+ Thuyết cho rằng khi gắn với phân tử mùi thì phân tử protein bị biến dạng, làm
mở các kênh ion Na đi vào gây khử cực tế bào khứu giác
+ Thuyết cho rằng khi protein gắn với phân tử mang mùi thì nezym
adenylatcyclase ở đầu phía trong tế bào trở nên hoạt động dẫn đến tạo thành nhiều AMP v,
AMPv được sinh ra lại tác động đến protein khác gây nên mở các kênh ion.
- Trong điều kiện bình thường điện thế màng tế bào khứu giác khoảng -55mV, tần
số dao động do tế bào phát ra là từ 1xung/20s đến 2-3 xung/s. Khi có mùi kích thích sẽ
gây khử cực màng tế bào khứu giác xuống còn -30mV hoặc ít hơn đồng thời tần số dao
động tăng lên khoảng 20 xung/s (Tần số xung tỉ lệ thuận với logarit cường độ kích thích).
Sau khi có sự khử cực màng xung động hướng tâm được tạo ra cảm giác khứu giác được
truyền về não tại đây nó được chia thành 2 đường:
+ Đường đi tới vùng khứu giác giữa (nhóm nhân nằm ở phần giữa nên của não
trước và ở phía trên vùng dưới đồi) đáp ứng các phản ứng sơ đẳng đối với khứu giác như:
liếm môi, tiết nước bọt...
+ Đường dẫn truyền cũ và vùng khứu giác bên (vùng trước lê, vỏ lê, hạnh nhân) từ
đây có các đường dẫn đi đến hầu hết các phần của hệ limbic nhất là đồi hải mã, và vỏ não
cổ nhất thuộc phần trước giữa thùy thái dương.
- Ngưỡng kích thích khứu giác rất thấp, tuy nhiên việc xác định ngưỡng kích thích
khứu giác của các mùi khác nhau rất khó khăn vì khứu giác có tính chủ quan và khi đo
cần phải loại trừ hoàn toàn các mùi khác. Các tế bào khứu giác có khả năng thích nghi rất
cao. Khi bị kích thích receptor khứu giác thích nghi đến 50% sau giây đầu tiên sau yếu
dần, do đó ngưỡng khuáu giác hay độ nhạy cảm khứu giác giảm khi ngửi lâu một hơi nào
đó. Khứu giác có thể nhân biết được từ 7 đến 50 loại mùi cơ bản tùy theo loài động vật.
11.5.2.3. Cơ quan phân tích vị giác.
11.5.2.3.1. Cấu tạo cơ quan phân tích vị giác.
- Phần thụ cảm là lưỡi : Lưỡi là một khối cơ nằm trong khoang miệng, trên bề mặt
lưỡi có các thể thụ cảm vị giác ở trên các gai vị giác nhất là gia vòng, gai lá còn gọi là các
núm vị giác, phần lớn nằm ở chỗ V lưỡi. Một số ít hơn thể thụ cảm nằm ở gai lưỡi có
hình nấm trong diễn phẳng dưới lưỡi, một số khác nằm ở gai dọc hai bên. Ngoài ra có các
núm vị giác nằm rải rác ở vòm hầu, trụ màng hầu, thậm chí ở ngay gần thực quản.
Mỗi tế bào vị giác có cấu tạo đầu phía trên là các nhung mao, đầu dưới là các sợi
thần kinh cảm giác vị giác. Vị ngọt, mặn được cảm nhận chủ yếu ở đầu lưỡi, vị chua
được cảm nhận ở hai bên còn vị đắng được cảm nhận phía sau lưỡi và màng hầu.
- Phần dẫn truyền : dây thần kinh vị giác
- Phần trung ương thần kinh: vùng vị giác trên vỏ não.
11.5.2.3.2. Cơ chế tiếp nhận vị.
- Cơ chế kích thích tế bào vị giác: khi chất hóa học gắn với các phân tử protein
tiếp nhận trên màng lông tế bào vị giác làm mở các kênh ion Na khiến các ion Na đi vào
gây khử cực dẫn đến phát sinh điện thế hoạt động từ các tế bào vị giác truyền về não bộ
tạo nên các cảm giác vị giác và phản xạ liên quan đến ăn uống.
- Quá trình dẫn truyền cảm giác vị giác: mỗi gai vị giác có từ 2-3 sợi thần kinh
+ Những gai vị giác ở 2/3 phía trước của lưỡi theo dây thần kinh số V qua thừng
nhĩ vào dây thần mặt từ đó nhận vào bó đơn độc ở thân não.
+ Những cảm giác phần sau của lưỡi theo dây thần kinh lưỡi hầu cũng nhập vào
bó đơn độc nhưng ở chỗ thấp hơn.
+ Cảm giác ở nền lưỡi và các vùng hầu theo dây thần kinh X đi vào bó đơn độc.
- Cảm giác vị giác còn phụ thuộc vào nhiệt độ của dung dịch chất hòa tan khi tác
dụng vào lưỡi. Ở người nhiệt độ thuận lợi nhất là từ 20-30 oC. Nếu nhiệt độ tăng cảm giác
ngọt và chua tăng nhiệt độ giảm cảm giác vị đắng và mặn tăng. Nếu nhiệt độ quá thấp
hoặc quá cao sẽ làm mất cảm giác vị giác.
- Nếu liên tiếp kích thích một số vị khác nhau lên lưỡi sẽ xảy ra hiện tượng phản vị
giác.
11.5.2.4. Cơ quan phân tích thính giác.
11.5.2.4.1. Cấu tạo cơ quan phân tích thính giác.
- Phần thụ cảm : tai gồm 3 phần :
+ Tai ngoài gồm : vành tai và ống tai ngoài có chức năng dẫn truyền sóng âm. Đầu
trong tai ngoài được bịt kín bởi màng nhĩ. Màng nhĩ rất mỏng (0,1mm), có tính đàn hồi
cao, hình phễu, đỉnh hướng vào trong, tiếp giáp với xương búa.
+ Tai giữa gồm : khoang tai giữa, hệ thống xương (xương búa, xương đe, xương
bàn đạp) và vòi Eustachio thông với họng để đảm bảo sự cân bằng áp lực hai bên màng
nhĩ.
+ Tai trong có cấu tạo phức tạp gồm: mệ lộ xương bên ngoài, mê lộ màng bên
trong và các dịch chúa đầy các xoang. Tai trong có bộ máy tiền định, ba ống bán khuyên
và ốc tai. Trong ốc tai có cơ quan corti làm nhiệm vụ thụ cảm âm thanh.
* Cấu tạo cơ quan corti gồm:
Màng cơ sở : có khoảng 24.000 sợi dài ngắn khác nhau
Năm hàng tế bào thính giác có khoảng 23.500 tế bào
Màng mái, phủ trên các tế bào thính giác
Hạch corti.
- Phần dẫn truyền: dây thần kinh thính giác
- Phần trung ương thần kinh: vùng thính giác trên vỏ não
11.5.2.4.2. Cơ chế thu nhận âm thanh
- Tai người có khả năng thu nhận âm thanh có tần số 16-20.000Hz đến 30.000Hz.
Âm thanh từ bên ngoài theo ống tai ngoài đến tác động đến màng nhĩ làm rung
động màng nhĩ và được truyền qua hệ thống xương tai giữa theo nguyên tắc đòn bẩy đến
màng cửa sổ bầu dục.(Khi vào tai giữa sóng âm được khuếch đại lên 22 lần nhờ sự chênh
lệch giữa diện tích màng nhĩ (72mm2) và màng của sổ bầu dục (3,2mm 2)).Màng cửa sổ
bầu dục rung động lõm vào tác động lên ngoại dịch ở khoảng tiền đình làm dồn ép dịch
xuống thang nhĩ (thông qua lỗ Hélicotrema), dịch trong ống thang nhĩ bị nén sẽ đẩy cửa
sổ tròn lồi ra về phía tai giữa. Ngược lại khi màng bầu dục lồi về phía tai giữa sẽ làm cho
ngoại dịch thang màng nhĩ rút lên tiền đình làm cho màng của sổ tròn lõm vào. Như vậy
khi có sóng âm tác động thì cả cửa sổ bầu dục và của sổ tròn lồi rung động ngược chiều
nhau và ngoại dịch thang tiền đình và thang màng nhĩ cũng rung theo. Vì màng tiền đình
phía trên mỏng nên dao động của ngoại dịch trong thang tiền đình cũng làm nội dịch
trong màng ống và màng cơ sở dao động theo. Sự rung động của nội dịch và màng cơ sở
là những kích thích tác động lên các tế bào thính giác của cơ quan corti là nơi phát sinh
xung động điện. Từ đó xung động điện được truyền đi theo các sợi thần kinh từ hạch
xoắn ốc Corti nằm ở trung tâm ốc tai truyền theo dây thần kinh số VIII và trung ương
thần kinh. Tại trung ương thần kinh xảy ra quá trình phân tích phức tạp và kết quả cho ta
nhận biết cảm giác về âm thanh.
- Các thuyết về thu nhận âm thanh:
+ Thuyết cộng hưởng của Helmholtz (1863) : màng nền ốc tai gồm các sợi căng
ngang giữa hai bờ xương, các sợi phía đầu xương ngắn khoảng 0,04mm còn các sợi ở
đỉnh dai hơn khoảng 0,5mm. Các sợi này canưg ngang như răng lược giống như các giây
của đàn dương cầm, mỗi sợi hoặc nhóm sợi có tần số dao động khác nhau và có khả năng
cộng hưởng với âm thanh tương ứng. Trên mỗi sợi hoặc nhóm sợi có các tế bào thụ cảm,
do đó khi sóng dao động cộng hưởng được hình thành các tế bào thụ cảm tiếp nhận biến
thành xung động thần kinh truyền đi. Mỗi sóng âm đều có các sợi căng ngang tương ứng:
âm cao được thu nhận ở phần đầu và âm thấp được thu nhận ở đỉnh ốc tai.
+ Thuyết microphon của Reserford (1880) : tần số xung động thần kinh trên dây
thính giác tương ứng với tần số dao động của âm thanh đã thu nhận. Về sau phát hiện tần
số xung động dây thần kinh trên dây thính giác không phù hợp với âm thanh có tần số
cao.
+ Thuyết hiện đại: quá trình truyền sống âm là sự kết hợp của cả hai thuyết nói
trên. Đó là sự cộng hưởng không chỉ riêng màng nền mà là sự cộng hưởng của cả màng
nền , của dịch ngoại bào tiền đình và thang nhĩ, của dịch nội bào của ống màng. Với âm
thấp sự cộng hưởng lan rộng trên màng và ống dịch làm cho số tế bào thụ cảm ở cơ quan
corti hưng phấn nhiều tạo ra tần số xung động thần kinh tương tự. Với âm cao, sự cộng
hưởng diễn ra trên đoạn màng và ống dịch ngắn hơn thu về phía đầu ốc tai làm cho số tế
bào thụ cảm hưng phấn ít hơn, nghĩa là tần số âm thanh truyền vào bị biến đổi.
11.5.2.4.3. Cảm giác thăng bằng hay cảm giác tiền đình
- Phần thụ cảm là các vòng bán khuyên và cơ quan tiền đình.
+ Vòng bán khuyên được xếp theo 3 hướng trong không gian : ống trước theo mặt
phẳng trái - phải; ống sau theo mặt trước - sau; ống ngoài theo mặt trên - dưới. Bên trong
các ống bán khuyên chứa dịch nội bào, bên ngoài là dịch ngoại bào. Phần chân 3 ống bán
khuyên nối với nhau, phình ra, bên trong có cơ quan thụ cảm Cupula có các tế bào lông
hình trụ. Mỗi tế bào lông có một lông dài nhất là kinocilium. Tất cả các lông tập hợp
thành một khối thạch hình nấm gọi là vòm, đầu kia của tế bào có sợi trục tập hợp về
nhánh tiền đình của dây số VIII
+ Khoang tiền đình, mê lộ màng làm thành 2 túi: túi cầu và túi bầu. Trong 2 túi
này có các cơ quan thụ cảm thăng bằng thu nhận kích thích cơ học có dạng hình trụ một
đầu gồm các lông trong đó có 1 lông dài nhất cử động được, còn lại khoảng 60-80 lông
ngắn hơn gắn lại với nhau tạo thành chóp bút lông, đầu kia của tế bào có sợi trục tập hợp
lại thành nhánh tiền đình dây số VIII. Trong túi còn có dịch nội bào và màng nhĩ thạch.
Khi cơ thể chuyển động các tế bào thụ cảm và màng nhĩ thạch đều bị rung động theo.
- Cảm giác thăng bằng :
+ Bộ phần tiền đình : khi cơ thể chuyển động quay hoặc thẳng bộ phần tiền đình
và màng nhĩ thạch rung động gây ra sự va chạm của các hạt nhĩ thạch với các sợi lông kết
quả tế bào cảm giác xuất hiện hưong phấn. Trong chuyển động quay còn có thêm ngưỡng
phân biệt độ nghiên. Xung động thần kinh theo nhanh tiền đình dây VIII truyền về trung
ương thần kinh.
+ Bộ phận vòng bán khuyên : khi cơ thể chuyển động quay làm nội dịch trong các
ống bán khuyên chuyển động không đều pha, nội dịch tác động vào vòm lông hình nấm
của tế bào thu cảm làm chúng hưng phấn. Xung động được dẫn truyền theo nhánh tiền
đình dây VIII.
11.2.5 Cơ quan phân tích thị giác (mắt).
11.2.5.1. Cấu tạo cơ quan phân tích thị giác.
Cấu tạo cơ quan phân tích thị giác gồm:
- Phần thụ cảm: cầu mắt nằm trong hốc mắt, có các cơ bám vào xương sọ làm cho
mắt cử động, đường kính cầu mắt khoảng 24mm, gồm 3 lớp màng:
+ Màng cứng: nằm ngoài cùng có chức năng bảo vệ mắt, phần trước của màng
cứng trong suốt gọi là giác mạc
+ Màng mạch: nằm giữa, chứa nhiều mạng máu nuôi cầu mắt. Phần trước mằng
mạch biến thành thể mi và mống mắt. Giữa mống mắt có một lỗ hở gọi là con ngươi. Con
ngươi có thể mở rộng hoặc thu nhỏ để điều chỉnh lượng ánh sáng vào mắt.
+ Màng lưới (võng mạc): nằm trong cùng chứa các tế bào thần kinh và các thụ
quan thị giác. Thụ quan thị giác là những tế bào que có chứa Rodopsin và tế bào nón có
chứa Iodopsin.
+ Hệ thống quang học của mắt gồm: giác mạc, thủy tinh thể, thủy tinh dịch (chất
dịch trong suốt chứa đầy cầu mắt). Hệ thống này hoạt động thống nhất có tác dụng hội tụ
ánh sáng để tạo thành hình ảnh trên võng mạc, trong đó thủy tinh thể có dạng thấu kính
lồi 2 mặt có khả năng đàn hồi, đòng vai trò chủ yếu.
- Phần dẫn truyền: dây thần kinh thị giác
- Phần trung ương thần kinh: vùng thị giác trên vỏ não
11.2.5.2. Cơ chế thụ cảm ánh sáng.
Quá trình thụ cảm ánh sáng diễn ra ở võng mạc.
- Khi ánh sáng chiếu vào mắt, hệ thống quang học có tác dụng làm cho ánh sáng bị
khúc xạ trước khi đến võng mạc, kết quả ánh sáng được tập trung ở điểm vàng đáy mắt,
tại đây hình ảnh của vật được thu nhỏ, rõ nét và ngược so với vật thật.
- Võng mạc là nơi tập trung các tế bào thụ cảm ánh sáng: tế bào que, tế bào nón.
+ Dưới tác dụng của ánh sáng trong tế bào que Retinen chuyển từ dạng 11 – cix
(dạng cong) sang dạng all – trans (dạng thẳng) và tách khỏi opsin (Rodopsin trong tế bào
que phân giải thành opsin và retinen) làm thay đổi điện thế của tế bào que gây ra xung
động thần kinh. Xung động được gửi về não và não phân tích cho cảm giác.
VitaminA 11- cis VitaminA 11- cis
Enzym Oxy hóa Enzym Oxy hóa

Opsin + Retinen 11-cis  Rodopsin Rodopsin  Opsin + Retinen 11


trans

Ở trong tối Ở ngoài sáng

(Vai trò của vitamin là tham gia vào quá trình tổng hợp Rodopsin, tiếu vitamin A
gây bệnh quáng gà: khi ánh sáng yếu không nhìn rõ vì cần nhiều ánh sáng mới kích thích
được tế bào que ngoài ra thiếu vitamin A còn gây bệnh khô giác mạc, làm giác mạc dễ
tổn thương và gây mù lòa.)
+ Hoạt động của Iodopsin trong tế bào nón cũng tương tự như Rodopsin. Có 3 loại
Iodopsin khác nhau, mỗi loại nhạy cảm nhất với một bước sóng nhất định: loại nhạy cảm
với bước sóng 445nm (màu lam); loại nhạy cảm với bước sóng 535nm (màu lục) và loại
nhạy cảm với bước sóng 579nm (màu đỏ). Các màu khác là sự pha trộn của 3 màu này
với tỷ lệ khác nhau. Tùy từng màu mà thành phần, tỷ lệ tế bào nón tham gia thụ cảm khác
nhau. Não nhận được các loạt xung động, mã hóa, phân tích và tổng hợp để cho cảm giác
về màu đó.
(Bệnh mù màu do ở một số người thiếu đi một hoặc hai lọai tế bào nón khiến cho
người ấy không cảm nhận được màu tương ứng với bước sóng đặc hiệu của tế bào non bị
thiếu. Đây là một bệnh di truyền trên NST giới tính X, người bệnh là nam giới)
11.2.5.3. Sự điều tiết mắt.
Để thấy rõ vật ở những khoảng cách khác nhau thì mắt phải điều tiết bằng sự thay
đổi độ hội tụ ánh sáng của thủy tinh thể. Nếu khoảng cách từ vật đến mắt thích hợp thì
ảnh của vật hiện đúng trên võng mạc nên nhìn rõ vật.
- Nếu vật ở xa, thì ảnh của vật hiện trước võng mạc. Muốn ảnh hiện đúng võng
mạc thì độ hội tụ của ánh sáng phải giảm nên thủy tinh thể phải xẹp.
- Nếu vật ở gần hơn thì ảnh hiện sau võng mạc, do đó muốn ảnh hiện đúng võng
mạc thì độ hội tụ ánh sáng phải tăng lên nên thủy tinh thể phải phồng thêm.
Khả năng điều tiết của mắt có giới hạn và mắt chỉ có thể nhìn thấy rõ vật ở giữa 2
điểm: điểm xa (viễn điểm) và điểm gần (cận điểm). Khả năng này thay đổi theo lứa tuổi
vì tính đàn hồi của thủy tinh thể yếu dần theo lứa tuổi.
Ví dụ: cận điểm của trẻ 10 tuổi là 7cm, 20 tuổi là 20 cm, 30 tuổi là 17cm, 60 tuổi
là 1m.
Nếu mắt luôn phải điều tiết sẽ bị mệt mỏi và tình trạng này kéo dài sẽ dễ dẫn đến
cận thị hoặc viễn thị
- Cận thị chỉ có khả năng nhìn được các vật ở rất gần. Nguyên nhân do cầu mắt
quá dài hoặc thủy tinh thể quá phồng, muốn khắc phục phải đeo kính lõm. Nếu trẻ em
nhìn vật ở quá gần, mắt phải thường xuyên điều tiết thì thể thủy tinh phải luôn phồng, lâu
dần thành quán tính có thể gây ra cận thị.
- Viễn thị chỉ có thể nhìn vật ở khá xa. Nguyên nhân do trục cầu mắt quá ngắn,
muốn khắc phục phải dùng kính lồi 2 mặt. Ở người già. Viễn thị là do giảm tính đàn hồi
của thủy tinh thể.

You might also like