Professional Documents
Culture Documents
tạo nên vũ trụ, gồm cả các hạt trực tiếp cấu thành vật chất và những hạt truyền
tương tác. Thế nào là hạt nhỏ nhất? Đó là các hạt phải đạt yêu cầu cơ bản là không
thể phân chia thêm. Giống như xây một ngôi nhà bằng các viên gạch thì các viên
gạch được coi là cơ bản, không ai ghép các mẩu nhỏ hơn không phải gạch để thành
gạch cả.
Bạn có thể nói bạn sẽ đập vỡ nó ra, nhưng các mảnh vỡ đó chẳng qua cũng là gạch
thôi, và sẽ đến lúc có đập mãi nó cũng không thể vỡ thêm được. Các hạt cơ bản
chính là cái thành phần nhỏ đến mức không thể đập vụn thêm của vật chất, nó
không cấu thành từ cái gì cả mà chính nó cấu thành mọi thứ khác.
Về định nghĩa và diễn giải thì là như thế, còn trong thực tế thì loài người đã mất
không biết bao nhiêu thời gian để truy tìm các hạt cơ bản. Lịch sử của nó nay đã
Hi Lạp cổ có mấy bác nghĩ ra cái khái niệm các yếu tố cơ bản (element), như bác
Tallet thì nói tất cả chỉ đều là nước (tất cả sẽ phải về hết với nước), bác Aristotle
thì cho rằng phải có tới 4 yếu tố là đất, không khí, nước và lửa. Rồi thì khái niệm
nguyên tử ra đời khi bác Dalton (John Dalton 1766 - 1844) phát hiện và đưa ra ý
tưởng rằng toàn bộ vật chất cấu tạo từ các phân tử, mỗi phân tử lại do một hoặc
nhiều nguyên tử cấu tạo thành. Cái từ Atom (nguyên tử) ra đời do người ta cho
rằng đó chính là hạt cơ bản của tự nhiên, các nguyên tử là không thể phân chia
thêm. Rồi khi phát hiện ra rằng nguyên tử cũng được cấu tạo từ các hạt nhỏ hơn thì
một chuyện hơi buồn cười nảy sinh là người ta đế thêm vào định nghĩa một chút để
nguyên tử trở thành "thành phần không thể phân chia trong các phản ứng hoá học"
và cái hay nhất là ở chỗ nhiều nơi lại nói "phản ứng hoá học là phản ứng xảy ra ở
cấp độ nguyên tử", tức là 2 khái niệm đá thằng vào mặt nhau . Nhưng thôi thì cái
Chúng ta nói tiếp đến thế giới các hạt cơ bản ngày nay đã biết
Nguyên tử không phải hạt nhỏ nhất, nó được cấu tạo bởi một hạt nhân trung tâm và
các electron quay xung quanh trên các quĩ đạo có năng lượng xác định (mẫu
Hạt nhân nguyên tử được cấu tạo bởi các hạt baryon, tên chung của proton và
neutron.
Trong một thời gian dài, 3 loại hạt này được coi là thành phần cơ bản của vật chất.
Nhưng sau đó thì ánh sáng được biết đến cũng được cấu tạo bởi các dòng hạt gọi là
photon, và lí thuyết lượng tử yêu cầu rằng tất cả các tương tác của tự nhiên đều
phải được truyền bởi các loại hạt, được gọi chung là các hạt boson.
Hiện nay người ta cũng biết rằng proton và neutron cũng được cấu tạo từ các hạt
nhỏ hơn, mỗi proton hoặc neutron được tạo thành bởi 3 hạt quark - tên chung của 6
(đây không phải diễn đàn vật lí nên tôi nói qua thôi và vì giao diện của TVCD hạn
chế nên các kí hiệu hạt sẽ tạm bỏ qua, chỉ nhắc tên và phân loại hạt)
Các hạt cơ bản được chia làm 2 nhóm chính là fermion (các hạt tạo nên vật chất
trong vũ trụ) và boson (các hạt truyền tương tác - cụ thể là 4 loại tương tác cơ bản/
Boson gồm 4 loại cơ bản tương ứng với 4 loại tương tác cơ bản là
Fermion gồm 12 loại chia làm 2 nhóm là quark - các hạt nặng và lepton - các hạt
nhẹ.
Quark gồm 6 loại là up, down, charm, strange, top và bottom. Trong đó vật chất
chúng ta thấy hàng ngày có hạt nhân gồm neutron và proton, ở đó neutron được tạo
Lepton là những hạt rất rất nhẹ so với quark, chúng gồm 6 loại, trong đó có 3 hạt
tham gia tạo thành vật chất trực tiếp và tương ứng với chúng là 3 neutrino tương
ứng.
Tất cả những hạt nêu trên còn có một số kết hợp khác nữa để tạo thành một số loại
hạt khác, tuy nhiên ở đây do độ dài hạn chế của bài viết này nên tôi tạm khong nêu
ra, mặt khác các sự kết hợp đó cũng đương nhiên không được tính là hạt cơ bản,
Bản thân bảng hạt này ngày nay tạm được coi là cơ bản, nó vẫn có khả năng được
cấu thành từ những hạt nhỏ hơn. Tuy nhiên hiện nay ngay cả các hạt này cũng chưa
phải đã được xác định chính xác, mà chỉ bằng lí thuyết (như graviton) và các hiệu
Khoảng hơn 20 năm nay là thời kì phát triển mạnh mẽ của một lí thuyết cố gắng
thống nhất 4 loại tương tác cơ bản của tự nhiên và như thế cũng có nghĩa là thống
nhất bảng hạt cơ bản về cũng một gốc, đó là lí thuyết dây (string theory), chúng ta
Rất nhiều người chưa có nghiên cứu nhiều về vũ trụ học thường nhầm lẫn 2 khái
niệm này, coi chúng là một. Thực chất vật chất tối (dark matter) và năng lượng tối
(dark energy) là 2 khái niệm hoàn toàn độc lập từ lịch sử đên bản chất.
Năm 1933, Fritz Zwicky phát hiện ra sự xuất hiện của loại vật chất này khi đo vận
Người ta thường đo khối lượng của một thiên hà bằng 2 cách cơ bản. Cách thứ
nhất là sự phân tán vận tốc trong quần thiên hà. Thiên hà có khối lương càng lớn sẽ
càng có sự phân tán vận tốc rõ nét ra các thiên hà lân cận và nhờ phương pháp đó
có thể xác định được tổng khối lượng của quần thiên hà. Cách thứ hai là xác định
độ trưng của các thiên hà để rút ra khối lượng của chúng và từ đó tính được tổng
khối lượng của quần thiên hà. Điều đáng chú ý là khối lượng của một quần thiên hà
tính theo cách thứ nhất luôn lớn hơn rất nhiều khối lượng tính theo cách hai cho dù
tính đến sai số rất cao. Như vậy có thể suy đoán rằng có sự tồn tại của một loại vật
chất còn chưa biết. Chính sự tồn tại của vật chất này mà khối lượng thật của các
thiên hà thực chất lớn hơn rất nhiều khối lượng có thể quan sát được. Hiện vẫn
chưa có thực nghiệm nào xác nhận hoàn toàn sự có mặt của các vật chất tối này.
Tuy nhiên việc tồn tại của nó hiện nay là rất được tin tưởng do những hiệu ứng đã
đo được. Ứng dụng các phương pháp đo nói trên và so sánh kết quả của chúng,
người ta nhận ra rằng có một số tỉ lệ nhất định về khối lượng đo được qua 2
phương pháp trên. Tỷ lệ khối lượng đo được bằng cách thứ nhất so với cách thứ
hai đôi với một số thiên hà elip đã đưọc xác định là khoảng 7 (7:1), tức là khối
lượng thật lớn hơn 7 lần khối lượng đo được dựa vào độ trưng của thiên hà. Các
thiên hà xoắn có mật độ vật chất cao hơn thì tỷ lệ chỉ từ 4 đến 5. Và khi áp dụng
cách tính này cho qui mô tổng quát của vũ trụ thì tỷ lệ này trong vũ trụ, vốn có
không gian hầu hết là trống rỗng lên đến 300, có nghĩa là nó khẳng định cho việc
vật chất tối có mặt tại khắp mọi nơi trong vũ trụ.
Nhiều người coi vật chất tối đóng góp một phần trong nghịch lí Olbers.
Nghịch lí này là câu hỏi đặt ra tại sao với rất rất nhiều sao như thế mà vũ trụ
không sáng rực mà lại tối thui như thế này, và tại sao vũ trụ không đạt được trạng
Khi lí thuyết BigBang ra đời cùng các kiểm chứng thuyết phục cũng như các hệ
quả và các suy đoán sau nó, người ta giải thích nghịch lí này như sau: Trong giai
đoạn đầu hình thành vũ trụ, vũ trụ trải qua một thời gian giãn nở lạm phát, tự tăng
kích thược và khối lượng (qua việc tạo ra các hạt co bản liên tiếp) với tốc độ rát
lớn (tăng thêm 10^50 lần chỉ trong vòng 10^-33 giây). Mặt khác vũ trụ hình thánh
cách đây đã 15 tỉ năm, trong khi các ngôi sao sớm nhất ra đời sau đó hơn 1 tỉ năm,
sau khi vũ trụ đã trải qua thời kì lạm phát và vẫn đang giãn nở. do đó ánh sáng từ
các ngôi sao ở các vùng khác nhau của vũ trụ không bao giờ đủ thời gian truyền
đến với nhau, có một chân trời giới hạn đường đi của các tia sáng đó trong không -
thời gian. Chính vì thế mà vũ trụ không sáng rự như ban ngày và các ngôi sao
không đủ thời gian để truyền toàn bọ nhiệt của chúng cho không gin xung quanh.
Một phần lí do nữa là có một số người giải thích rằng vật chất tối nói tới ở trên đã
"ăn" bớt mất ánh sáng, do đó chúng làm giảm một cách đáng kể mật độ ánh sáng
trong vũ trụ. Tuy nhiên hiện nay thì chưa có kiểm chứng nào cho thấy hạt ánh sáng
Tuy nhiên, sự tồn tại phổ biến của vật chất tối cũng nói lên một vai trò rát quan
trọng nữa của nó. Đó là nó đóng góp vào việc kiềm chế sự nở ra của vũ trụ, tránh
cho vũ trụ có một cấu trúc không - thời gian lạm phát hoàn toàn, như thế thì hẳn đã
Khác hẳn với vật chất tối, năng lượng tối (dark energy) là loại năng lượng ẩn chứa
trong không gian trống rỗng của vũ trụ. Nó được suy ra từ kết quả của phương
trình trường Einstein, phương trình nổi tiếng của thuyết tương đối rộng (general
theory of relativity). Như chúng ta đều biết, phương trình rường chứa trong nó một
hằng số vũ trụ học (cosmological constant) - một trong những hằng số quan trọng
nhất của vũ trụ. Tuy nhiên nóp từng bị chính Einstein bác bỏ vì sự có mwtj của nó
khiến phương trình trường mô tả một vũ trụ giãn nở vĩnh viễn với khởi đầu là một
kì dị. Einstein không tin vào những kì dị và xác xuất của nó, ồng từng nói "Chúa
không chơi trò xúc xắc!", tuy nhiên những gì kiểm định từ lí thuyết BB lại cho thấy
Chúa có chơi, và hằng số vũ trụ là cần thiết. Và hằng số này cho biết rằng mô hình
chuẩn của vũ trụ giãn nở lạm phát đòi hỏi sự có mặt của một loại năng lượng tràn
ngập không gian, đủ sức chống lại hấp dẫn của vạt chất trong vũ trụ để làm nó giãn
nở vĩnh viễn, và người ta đã gọi loại năng lượng này là "nang lượng tối"
(sự có mặt của năng lượng tối dẫn đến sự giãn nở lạm phát của vũ trụ và hiện nay
Theo các tính toán hiện nay, năng lượng vũ trụ có đến 73% là năng lượng tối, 23%
là năng lượng của vật chất tối và chỉ có 4% còn lại là của vật chất thông thường mà
chúng ta biết.