Professional Documents
Culture Documents
Cơ sở tự nhiên và xã hội (phần khoa học )là một học phần quan trọng và cần thiết để sinh viên
sau khi ra trường có thể giảng dạy tốt các bộ môn: Tự nhiên – Xã hội lớp 1, 2, 3 và Khoa học 4 và 5 ở
bậc tiểu học.
Học phần này cung cấp cho sinh viên những tri thức cơ bản về sinh học: nguồn gốc của sự sống, khái
quát về phân loại sinh vật, từ tế bào đến cơ thể thực vật và động vật, những ảnh hưởng của sinh vật với
môi trường, con người và sức khỏe, và vật chất năng lượng. Sinh viên sẽ trình bày được những kiến
thức, kỹ năng cơ bản về thế giới thực vật, động vật, con người – sức khỏe và vật chất và năng lượng ở
lứa tuổi tiểu học. Từ đó, sinh viên sẽ xác định được hệ thống tri thức cơ bản về sinh học trong môn tự
nhiên và xã hội, môn Khoa học ở bậc tiểu học. Nội dung học phần gồm 5 chương
Chương 1: Phân loại sinh vật
Sinh viên sẽ trình bày được những kiến thức, kỹ năng về Nguồn gốc sự sống và sự phân chia sinh giới.
Chương 2: Tế bào và các hệ cơ quan của cơ thể thực động vật
Sinh viên sẽ trình bày được những kiến thức, kỹ năng về Tế bào và sự phân chia tế bào, Cấu tạo và
chức năng của các cơ quan trong cơ thể thực vật và động vật.
Chương 3: Sinh vật với môi trường
Sinh viên trình bày được Khái niệm và các loại môi trường, Mối quan hệ giữa môi trường và con
người, Sự trao đổi chất giữa sinh vật với môi trường, Ảnh hưởng của các nhân tố vô sinh đến đời sống
thực vật và động vật, chuỗi thức ăn và lưới thức ăn và Tài nguyên thiên nhiên
Chương 4: Con người và sức khỏe
Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản Khái quát về cơ thể người, Cấu tạo và chức năng các
hệ cơ quan trong cơ thể người và Một số bệnh thông thường và tai nạn thường gặp ở lứa tuổi Tiểu học
Chương 5: Vật chất và năng lượng
Cung cấp cho sinh viên những kiến thức về nước và tầm quan trọng của nước; vai trò và đặc điểm của
khí quyển, ánh sáng, âm thanh; một số chất khí trong khí quyển; một số kim loại thông dụng; thủy tinh,
đồ gốm và xi măng và các nguồn năng lượng.
Những kiến thức này không chỉ giúp sinh viên nắm được các thông tin cơ bản môn học mà còn giúp
sinh viên phát triển được năng lực tư duy tích cực, tự học, tự nghiên cứu.
Chương 1. PHÂN LOẠI SINH VẬT
1.1. NGUỒN GỐC SỰ SỐNG
1.1.1. Tiến hóa hóa học
1.1.1.1 Quá trình hình thành các chất hữu cơ đơn giản từ các chất vô cơ
- Giả thuyết của Oparin và Handan: Các hợp chất hữu cơ đầu tiên trên Trái Đất được hình thành từ
các chất vô cơ theo con đường tổng hợp hóa học nhờ nguồn năng lượng tự nhiên là sấm sét, tia tử
ngoại, núi lửa…
- Thí nghiệm của Milơ và Urây: Xử lí hỗn hợp khí H 2, CH4, NH3 và hơi nước bằng điện cao thế →
các hợp chất hữu cơ đơn giản (có axit amin).
1.1.1.2. Quá trình trùng phân tạo nên các đại phân tử hữu cơ
a) Thí nghiệm của Fox và các cộng sự
- Đun nóng hỗn hợp aa khô ở 150 – 1800C → các chuỗi peptit ngắn (Prôtêin nhiệt).
- Sự trùng phân tạo các đại phân tử hữu cơ:
+ Các axit amin → chuỗi pôlipeptit → Prôtêin.
+ Các nuclêôtit → chuỗi pôlinuclêôtit → axit nuclêic (ARN, ADN).
- Sự hình thành cơ chế dịch mã: Các aa liên kết yếu với các N/ARN và liên kết với nhau → chuỗi
pôlipeptit ngắn (ARN giống như khuôn mẫu cho cho aa bám). CLTN tác động, giữ lại những phân
tử hữu cơ có khả năng phối hợp → cơ chế phiên mã, dịch mã.
b) Kết luận
- Là quá trình tiến hóa từ các hợp chất vô cơ (CH 4, NH3, CO, C2H2...) → hợp chất hữu cơ. Từ các
hợp chất hữu cơ đơn giản → hợp chất hữu cơ phức tạp (CH→ CHO → CHON). Từ các đại phân tử
→ hệ đại phân tử.
- Nguồn năng lượng cho các phản ứng xảy ra: tia tử ngoại, sự phân rã của các nguyên tố phóng xạ,
hoạt động núi lửa, sự phóng điện trong khí quyển, va chạm các thiên thạch...
- Các chất hữu cơ ấy theo những trận mưa hòa tan vào đại dương và tiếp tục hình thành những hợp
chất hữu cơ phức tạp hơn.
1.1. 2. Giai đoạn tiến hóa tiền sinh học
1.1.2.1.Sự tạo thành giọt coaserva
Giọt coaserva là những phân tử có khả năng phân chia, sinh trưởng và hấp thụ chất dinh dưỡng
từ môi trường ngoài, đây được coi là những biểu hiện đầu tiên của sự sống. Các nhà khoa học đã tạo
được các giọt coaserva khi trộn polymer trong dung dịch nước (hiện tượng hóa keo), chúng dễ dàng
được tạo thành mà không đòi hỏi những điều kiện đặc biệt.
Coaserva có thể tự lắp ráp khi lắc dung dịch có chứa các phân tử lipid, protein, nucleotit acid và
polisaccarit. Coaserva tách biệt với môi trường ngoài bởi màng kỵ nước. Các hạt coaserva có thể hấp
thụ enzim và các chất khác từ môi trường, giải phóng các sản phẩm của phản ứng enzyme. Khi hấp thụ
các chất, coaserva sinh trưởng và phân chia thành các coaserva nhỏ. Các coaserva có thành phần tốt
hơn sẽ to ra và phân chia tiếp.
Theo Oparin, chọn lọc tự nhiên sẽ giữ lại và hoàn thiện các giọt tốt hơn để tạo nên tế bào.
Từ các chất hữu cơ cao phân tử có hiện tượng đông tụ thành giọt keo gọi là giọt coaserva, đây là dấu
hiệu sơ khai của sự sống (trao đổi chất, lớn lên, phân chia).
1.1.2.2. Sự hình thành lớp màng
Sự hình thành lớp màng nhằm phân cách coaserva với môi trường. Thông qua màng, coaserva sẽ thực
hiện sự trao đổi chất với môi trường. lớp màng này gồm những phân tử protein và lipid sắp xếp theo
một trật tự xác định.
Các đại phân tử lipid, protit, axit nucleic… xuất hiện trong nước và tập trung cùng nhau dẫn tới việc
các phân tử lipid có tính kỵ nước sẽ lập tức hình thành nên lớp màng bao bọc lấy tập hợp các đại phân
tử hữu cơ tạo nên các giọt nhỏ li ti khác nhau. Các giọt này chịu sự tác động của chọn lọc tự nhiên sẽ
dần tiến hóa và tạo nên các tế bào sơ khai.
1.1.2.3. Sự xuất hiện của enzyme
Các enzyme đóng vai trò xúc tác, làm cho quá trình tổng hợp và phân giải các chất hữu cơ xảy
ra nhanh hơn. Tiền thân của các enzyme đó có thể là những chất hữu cơ phân tử lượng thấp kết hợp với
các ion kim loại và liên kết với các polypeptide.
1.2.4. Hình thành cơ chế di truyền
Theo chọn lọc tự nhiên, môi trường sẽ chọn lọc những tế bào thích nghi và đào thải những tế bào
không thích nghi. Các đặc tính của tế bào không thể duy trì và tiến hóa qua từng thế hệ nếu như không
có cơ chế di truyền. Trong tế bào, thông tin di truyền được mã hóa trong axit nucleit (DNA và RNA),
nhưng DNA xuất hiện trước RNA hay ngược lại? Đó vẫn còn là điều bí ẩn.
a) . Giả thuyết cho rằng DNA xuất hiện trước
Năm 1929, G.Muller một nhà di truyền học nổi tiếng nêu giả thuyết cho rằng sự sống bắt đầu từ một
hoặc vài gen tạo thành không do các sinh vật. Trong một thời gian dài, giả thuyết này không được chú
ý. Nhưng sau đó đã xuất hiện một vài bằng chứng cho thấy giả thuyết này ngày càng có lí:
Thứ nhất: cấu trúc phân tử và sự tái sinh của virus. Chúng ta biết rằng sau khi virus xâm nhập
vào vi khuẩn chỉ có DNA hoặc RNA được bơm vào và tự nó sao chép rồi tạo ra các hạt virus mới.
Thứ hai: trong quá trình tổng hợp protein, ngoài DNA và mRNA thông tin, còn có sự tham gia
của tRNA vận chuyển và rRNA của ribosome. Điều này cho thấy nucleic acid có trước.
Thứ ba: nhiều nucleotide giữ vai trò quan trọng và đa dạng ở tất cả các sinh vật
b) Giả thuyết RNA là nguyên liệu di truyền đầu tiên
Một số ý kiến cho rằng chính RNA mới là nguyên liệu di truyền đầu tiên, và để chứng minh cho điều
này, các nhà khoa học đã nêu ra một vài bằng chứng như:
RNA bền hơn.
RNA có khả năng nhân đôi từ mạch khuôn mẫu nhanh hơn và ít sai sót hơn các trình tự khác.
RNA dễ tổng hợp hơn DNA.
Sự sai sót trong quá trình tái bản cùng với tác động chọn lọc tự nhiên đã tạo ra sự đa dạng của RNA.
RNA là chất tự xúc tác (với rARN, tARN và mARN).
Vậy DNA có trước hay RNA có trước? Đó vẫn là vấn đề nghiên cứu của các nhà khoa học và hi vọng
rằng họ sẽ cho ta câu trả lời sớm nhất.
Giả sử rằng khoảng trống trong sự hiểu biết của chúng ta về nguồn gốc sự sống một ngày nào đó sẽ
được lấp trống, ta hãy tìm xem các phân tử bằng cách nào đã tương tác với nhau để liên kết thành một
cấu trúc có dạng tế bào nói cách khác một “tiền tế bào” (protocell).
Các màng bao bọc các tế bào hiện tại gồm một lớp kép lipid chứa phospholipid & choesterol. Những
loại protein phức tạp nằm trong các màng đó đóng vai trò thủ môn giữ khung thành, chúng bơm ra và
hút vào tế bào những phân tử trong khi đó những protein khác lại có nhiệm vụ hàn gắn các màng. Thử
hỏi làm thế nào mà các tiền tế bào với cấu trúc đơn sơ lại có thể đảm nhiệm những công việc trên bào
với cấu trúc đơn sơ lại có thể đảm nhiệm những công việc trên mà không có bộ máy protein?
Những màng nguyên thủy có lẽ được cấu thành bởi những phân tử đơn giản, như các acid béo ( một
thành phần của các phospholipid phức tạp). Những nghiên cứu trong những năm 1970 chứng tỏ rằng
các màng đó được hình thành nhờ kết hợp tự phát từ những acid béo, tuy nhiên một cảm nhận chung là
những màng như thế sẽ làm thành một rào ngăn cản sự thâm nhập các nucleotide và các chất dinh
dưỡng phức tạp khác vào tế bào. Vì ý niệm này mà người ta cho rằng quá trình chuyển hóa
(metabolism) đã phát triển đầu tiên nhờ vậy mà các tế bào có khả năng tự tổng hợp được các
nucleotide.
Tuy nhiên các nghiên cứu trong Szostak Lab ( phòng thí nghiệm do Szostak chủ nhiệm) cho thấy rằng
các phân tử lớn như các nucleotide trong thực tế có thể thẩm thấu qua các màng đó khi mà các
nucleotide cũng như các màng đang còn có cấu trúc đơn giản “ nguyên sơ” hơn hiện tại. Điều này cho
phép tiến hành một thí nghiệm mô phỏng khả năng của một tiền tế bào sao chép thông tin di truyền
bằng cách sử dụng các chất dinh dưỡng trong môi trường. Các nhà sinh học trong Szostak Lab đã tạo
nên những túi có màng bằng acid béo trong chứa một đoạn ngắn đơn sợi DNA. Mẫu sợi đơn này sẽ
đóng vai trò một bản in (template) cho sợi ( strand) mới. Sau đó các tác giả cho các túi này tham gia
vào các phản ứng hóa học mạnh giữa các nucleotide. Các nucleotide đã đi xuyên qua các màng và sau
tương tác với nhau tạo nên một sợi bổ sung. Thí nghiệm này chứng tỏ rằng những tiền tế bào nguyên
thủy chứa RNA có khả năng sao chép chất liệu di truyền mà không cần đến enzyme.
Để cho các tiền tế bào bắt đầu sinh sản chúng phải có khả năng lớn lên, sao chép nôi dung di truyền rồi
phân chia thành những tế bào thế hệ “con”. Các thí nghiệm chứng tỏ rằng các túi ( vesicle) nguyên sơ
này có thể phát triển theo hai phương thức khác nhau. Trong các công trình tiên phong vào những năm
1990, Pier Luigi và cộng sự ( Swiss Federal Institute of technology, Zurich) đã thêm các acid béo vào
nước bao quanh các túi nói trên. Kết quả là các màng bao bọc túi đã hấp thụ acid béo và lớn lên về diện
tích.
1.1.3. Giai đoạn tiến hóa sinh học
Tiến hóa sinh học: là một quá trình lich sử tiến hóa rất lâu dài, từ coaxecva hình thành những
dạng sống chưa có cấu tạo tế bào, đến đơn bào và sinh vật đa bào như ngày nay.
Khi đã hình thành nên các tế bào sơ khai thì chọn lọc tự nhiên sẽ không còn tác động lên từng phân tử
hữu cơ riêng rẽ mà tác động nên cả tập hợp các phân tử như một đơn vị thống nhất. Tế bào sơ khai nào
có được tập hợp các phân tử giúp chúng có khả năng trao đổi chất và năng lượng với bên ngoài, có khả
năng phân chia và duy trì thành phần hoá học thích hợp của mình thì sẽ được giữ lại và nhân rộng.
Từ những tế bào sơ khai ban đầu, trải qua quá trình chọn lọc và tiến hóa khắc nghiệt những tế bào đó
sẽ hình thành và phát triển thành các cơ thể đơn bào đơn giản, dần dần sẽ tiến hóa thành tế bào sinh vật
nhân sơ và tế bào sinh vật nhân thực rồi từ tế bào sinh vật nhân thực sẽ tiếp tục tiến hóa thành cơ thể
nhân thực, đơn bào nhân thực và cuối cùng là đa bào nhân thực. Tất cả đều chịu sự tác động mạnh mẽ
của chọn lọc tự nhiên, các tế bào sẽ dần hoàn thiện và hình thành nên các sinh vật đầu tiên của Trái
Đất.
14 1 15
2 14
2.1.3.1. Các bào quan
13 13 1
a) Mạng nội chất (ER) 3
12
Được phát hiện vào năm 1945 nhờ kính hiển vi tương phản12pha (phase-contrast microscope), ở tất cả tế2
bào nhân thật. Kính hiển vi điện tử cho thấy mạng
4 nội chất
11
nối liền với màng ngoài của nhân ở một số 3
vị trí. Mạng nội chất giống như một hệ thống ống và túi, tròn hay dẹp, thông thương với nhau và có 4
5
màng bao quanh (cisternae). Khoảng giữa hai màng của10túi, ống được gọi là khoang (lumen). Ở hầu hết
11 5
tế bào, mặt ngoài của mạng nội chất có các thể ribô gắn vào, khi đó nó được gọi là mạng nội chất hạt
9
(RER), nơi không có các thể ribô được gọi là mạng nội chất trơn (SER) (hình 1.4).
10 6 8 6
7
7
9
8
B A
Hình 2.1. Cấu tạo tế bào thực vật (A) và tế bào động vật (B)
hoang (lumen) của mạng nội chất liên hệ trực tiếp với vùng ngoại vi của màng nhân. Do đó, những
kênh trên mạng nội chất có thể là con đường để vận chuyển vật chất giữa nhân và những phần khác của
tế bào chất, tạo ra một hệ thống thông tin giữa nhân là trung tâm điều khiển và phần còn lại của tế bào.
Hầu hết protein liên kết với màng hay được vận chuyển bởi mạng nội chất được tổng hợp bởi thể ribô
của mạng nội chất hạt. Protein tổng hợp từ các thể ribô tự do trong tế bào chất sẽ thực hiện chức năng
trong dịch tế bào chất. Ngoài nhiệm vụ là đường vận chuyển bên trong tế bào, màng của mạng nội chất
là nơi chứa các protein và các protein này có cả hai chức năng, vừa là thành phần cấu trúc vừa là enzim
xúc tác các phản ứng hóa học. Hiện nay, có nhiều bằng chứng cho thấy rằng ít nhất là một số protein
cấu tạo mạng nội chất hoạt động như enzim; một số của những enzim này được gắn thêm một đường
đa mạch ngắn. Đường này có nhiệm vụ như một cái nhãn đưa thư (mailing label) để đưa protein đến
đúng nơi nhận trong tế bào. một chuỗi gồm 14 phân tử đường gắn vào phân tử protein trên mạng nội
chất hạt có chức năng như một cái nhãn, protein nào không có nhãn thì sẽ ở lại mạng nội chất. Khi bốn
phân tử đường cuối cùng được tách ra thì protein sẽ được chuyển đến hệ Golgi (G: glucoz, M: manoz,
N: N-acetyl-glucosamin). Mạng nội chất còn có nhiệm vụ như một xưởng chế tạo, các enzim của
chúng xúc tác sự tổng hợp các phospholipid và cholesterol được dùng để tạo ra màng mới hay các
protein màng được tổng hợp bởi thể ribô trên mạng nội chất là thành phần của màng lipid mới. Vùng
trơn đặc biệt gia tăng ở các tế bào có nhiệm vụ tổng hợp lipid như hormon steroid. Ở tế bào gan của
động vật có xương sống, protein màng của vùng
Khoang
trơn có vai trò quyết định trong sự thải chất độc
dược phẩm như thuốc giảm đau, thuốc kích thích
(camphetamin, morphin và codein)...
c) Hệ Golgi
Nhãn gắn
Camillo Golgi là người đầu tiên mô tả vào năm
Polypeptid
1898, hệ golgi gồm một hệ thống túi dẹp có màng
Thể ribô
bao và xếp gần như song song nhau. Mặt phía gần
nhân được gọi là mặt cis, phía đối diện là mặt Màng của lưới nội chất
Túi tiết
Tế bào Túi
A
Tế bào chất
Lưới nội chất
Thực bào
túi thức Hệ golgi
ăn
Thể lyso
Túi chuyển
Cơ quan tử cũ
Sự tiêu hoá
Màng tế bào
thực bào
Cơ quan tử
Dịch ngoài
cũ bị bẻ gãy
tế bào
Hình 2.5. Sự tiêu hoá nội bào có sự tham gia của tiêu thể
e) Peroxisom
Peroxisom được sinh ra từ peroxisom có trước. Tế bào phải được thừa hưởng ít nhất một peroxisom từ
tế bào chất của tế bào mẹ. Có hình dạng tương tự như tiêu thể, peroxisom chứa enzim nhưng là enzim
oxy hóa, chúng xúc tác các phản ứng trong đó nguyên tử hydro được chuyển từ hợp chất hữu cơ (như
formaldehyd và rượu ethyl) đến oxy, để tạo ra hydro peroxyd (H 2O2), là một chất cực độc đối với tế
bào. Tuy nhiên, peroxisom còn có một enzim khác nữa là catalaz, sẽ chuyển chất H 2O2 độc này thành
nước và oxy. Tế bào gan và thận người có rất nhiều peroxisom, do đó rượu ethyl do người uống được
oxy hóa nhờ các peroxisom trong những tế bào này.
f) Không bào
Được tìm thấy cả ở tế bào thực vật và động vật, đặc biệt rất phát triển ở tế bào thực vật. Có một màng
bao quanh, bên trong chứa một dịch lỏng, với nhiều loại không bào khác nhau về chức năng. Ở một số
động vật nguyên sinh, có không bào đặc biệt gọi là không bào co bóp (contractile vacuole) giữ vai trò
quan trọng trong sự thải nước ra khỏi tế bào hay các không bào tiêu hóa để tiêu hóa thức ăn. Ngoài ra,
ở vi khuẩn và vi khuẩn lam có không bào khí chứa khí giúp tế bào nổi lên mặt nước và điểm đặc biệt là
màng bao của không bào khí được cấu tạo bằng protein.
Ở hầu hết tế bào thực vật, có một không bào rất to chiếm từ 30 - 90% thể tích tế bào. Các tế bào
chưa trưởng thành có nhiều không bào nhỏ xuất xứ từ mạng nội chất và hệ Golgi. Các túi này tích chứa
nước, to ra và có thể hòa vào nhau để tạo ra một không bào to ở tế bào trưởng thành. Không bào ở tế
bào thực vật chứa một dịch lỏng gồm nước và một số chất hòa tan trong đó (hình 1.8).
Màng không bào có tính thấm đặc biệt và có thể điều khiển sự di chuyển vật chất qua màng này.
Không bào tích nước bằng sự thẩm thấu, trương lên và đẩy tế bào chất ra sát vách tế bào, áp lực này
tạo cho tế bào một sức trương nhất định. Vách tế bào đủ cứng rắn để giữ cho tế bào không bị vỡ ra.
Sức trương của tế bào rất quan trọng, nó giúp cho các cơ quan của cây như lá, thân non đứng vững
được. Khi sức trương này không còn nữa, cây sẽ héo. Nhiều chất quan trọng cho đời sống của thực vật
được chứa trong không bào: các hợp chất hữu cơ như đường, các acid hữu cơ, acid amin, một vài
protein, sắc tố antocianin cho màu tím, xanh và đỏ đậm thường thấy trong cánh hoa, trái và lá vào mùa
thu. Áp suất thẩm thấu cao của không bào giúp cho cây có thể hấp thu được nước ở đất rất khô bằng sự
thẩm thấu. Ngoài ra, không bào còn là nơi tích chứa những chất thải do các quá trình biến dưỡng. Một
số chất thải có thể được sử dụng lại dưới tác dụng của enzim. Chức năng này rất quan trọng vì cây
không có thận hay các cơ quan khác để thải chất bã như động vật, thực vật thải chất bã khi rụng lá.
g) Ty thể
Ty thể là nơi tổng hợp năng lượng chủ yếu của tế bào nhân thật, là nơi diễn ra quá trình hô hấp, lấy
năng lượng từ thức ăn để tổng hợp ATP là nguồn năng lượng cần thiết cho các hoạt động của tế bào
như để co cơ hay cung cấp cho các bơm hoạt động trong sự vận chuyển tích cực qua màng tế bào. Số
lượng ty thể tùy thuộc vào mức độ hoạt động của tế bào. Thí dụ, tế bào cơ tim nếu co thắt 72 lần trong
một phút thì có chứa hàng ngàn ty thể. Giống như nhân, mỗi ty thể được bao bọc bởi hai màng, màng
ngoài trơn, màng trong với các túi gấp nếp, sâu vào bên trong chất căn bản làm gia tăng diện tích của
màng trong lên rất nhiều. Ty thể có chứa ADN, thể ribô riêng nên có thể nhân lên độc lập với sự phân
chia của nhân (hình 1.9).
h) Lạp thể
Được tìm thấy trong hầu hết tế bào thực vật, trừ tế bào nấm, mốc và tế bào động vật, có thể quan sát
được dưới kính hiển vi thường. Có hai loại lạp chính là sắc lạp và vô sắc lạp.
* Lục lạp (chloroplast): Lục lạp là sắc lạp có chứa diệp lục tố (chlorophyll), và các sắc tố vàng hay
cam gọi là carotenoid. Phân tử diệp lục tố hấp thu năng lượng ánh sáng mặt trời để tổng hợp ra các
phân tử hữu cơ phức tạp (đặc biệt là đường) từ các nguyên liệu vô cơ như nước và khí carbonic, chất
thải ra là ôxy.
1
2
3
4
A
C
Hình 2.7. Cấu tạo lục lạp
A. Tế bào thực vật; B. Cấu tạo một lục lạp; C. Ảnh hiển vi điện tử lục lạp
1. Màng ngoài; 2. Màmg trong; 3. Cột; 4. Túi dẹp (thylakoid); 5. Chất nền
Dưới kính hiển vi điện tử, một lục lạp được bao bọc bởi hai màng và vô số các túi dẹp có màng bao
được gọi là thylakoid nằm trong chất cơ bản gần như đồng nhất được gọi là stroma. Thylakoid hoặc
phân bố khắp trong stroma, hoặc xếp chồng chất lên nhau được gọi là grana (cột). Diệp lục tố và
carotenoid gắn trên màng thylakoid. Lục lạp cũng có chứa ADN và thể ribô riêng như ty thể (hình
1.10).
* Sắc lạp không có diệp lục tố: Thường có màu vàng hay cam (đôi khi có màu đỏ) vì chúng chứa
carotenoid. Sắc lạp này làm cho hoa, trái chín, lá vàng có màu vàng đặc trưng. Một số sắc lạp không
bao giờ chứa diệp lục tố, một số khác thì mất diệp lục tố, đây là trường hợp của trái chín và lá mùa thu.
* Vô sắc lạp: Vô sắc lạp có chứa các vật liệu như tinh bột, dầu và protein dự trữ. Lạp có chứa tinh bột
được gọi là bột lạp, thường gặp ở hột như lúa và bắp, hay dự trữ trong rễ và thân như carot và khoai
tây, ngoài ra có thể hiện diện trong tế bào ở các phần khác của cây. Tinh bột là hợp chất dự trữ năng
lượng dưới dạng từng hạt. Cây có hột giàu tinh bột là nguồn
lương thực giàu năng lượng.
i) Thể ribô
Thể ribô là những hạt nhỏ không có màng bao có đường kính từ
25 - 30nm, trong tế bào chất chứa vài triệu thể ribô. Thể ribô
gồm hai bán đơn vị (phần) được tạo ra trong hạch nhân từ những
phân tử ARN và protein. Ở tế bào nhân thật các bán đơn vị này đi qua lỗ của màng nhân ra ngoài tế
bào chất, nơi đây chúng sẽ kết hợp với phân tử mARN để tổng hợp protein. Thể ribô trược dọc theo sợi
mARN tạo ra một chuổi thể ribô được gọi là polyribosom hay polysom, các thể ribô sau khi tổng hợp
protein vẫn tiếp tục tự do trong tế bào chất hay chúng có thể gắn vào bề mặt của mạng nội chất. Chúng
có thể gắn trên vùng hạt của mạng nội chất hay trôi nổi trong tế bào chất. Protein được tổng hợp từ các
thể ribô tự do trong tế bào chất thì không được đưa ra khỏi tế bào hay tham gia vào cấu trúc màng tế
bào mà là những enzim trong dịch tế bào chất (hình 1.11).
3
4 2
5
nhau là phiến giữa hay lớp chung, là một lớp mỏng giàu chất
2
polysaccharid gọi là pectin, thường hiện diện dưới dạng là pectat calci.
Khi chất pectin bị hóa nhày, các tế bào không còn gắn chặt vào nhau
nữa như khi chín trái trở nên mềm đi. Khi tế bào trưởng thành và 3
ngừng tăng trưởng, một số tế bào tạo thêm lớp cứng hơn gọi là vách
thứ cấp nằm giữa vách sơ cấp và màng tế bào. Vách thứ cấp thường 4
dày có nhiều lớp được cấu tạo bằng các sợi celluloz xếp theo nhiều
hướng khác nhau, nên vách tế bào trở nên rắn chắt hơn. Ngoài celluloz Hình 2.14. Vách của ba tế bào
vách thứ cấp còn có thể tẩm thêm nhiều chất khác như lignin. Khi vách thực vật liên kề
thứ cấp được thành lập hoàn toàn, tế bào có thể chết đi, khi đó chỉ còn 1. Tế bào; 2. Tấm ngăn chung
làm nhiệm vụ nâng đỡ hay dẫn truyền (hình 1.19). Trên vách của tế giữa các tế bào; 3.Vách thứ cấp;
bào thực vật có những lỗ nhỏ giúp các chất thông thương giữa các tế 4. Vách sơ cấp
bào với nhau, các lỗ này được gọi là cầu liên bào, ở vị trí này tế bào chất của hai tế bào liên kề liên tục
nhau.
2.1.4.2 Vỏ của tế bào động vật
Ở thực vật, nấm và vi khuẩn, vách tế bào riêng biệt với màng tế bào, ngược lại ở tế bào động vật, vỏ
không độc lập với màng. Các carbohydrate cấu tạo nên vỏ tế
bào thành lập các cầu nối hóa trị với các phân tử lipid hay
protein trên màng tế bào. Kết quả tạo ra các glycolipid hay
glycoprotein, do đó vỏ tế bào còn được gọi là glycocalyx. Lớp
này nằm bên ngoài. Theo các nghiên cứu mới đây, trong
glycocalyx có những điểm nhận diện trên bề mặt tế bào, đặc
điểm này giúp các tế bào phân biệt chủng loại. Thí dụ, trong
môi trường cấy các tế bào gan và thận riêng rẻ được trộn đều, sau một thời gian các tế bào gan nhận ra
các tế bào cùng loại và tổ hợp lại với nhau, tương tự điều này cũng xảy ra ở những tế bào thận. Các
sinh vật ký sinh cũng nhờ các carbohydrat trên glycocalyx để nhận ra tế bào chủ để xâm nhập vào. Cơ
chế nhận dạng ở mức phân tử này cũng thường gặp như trường hợp các phản ứng dị ứng với các chất lạ
cũng như trong sự dẫn truyền các xung thần kinh từ tế bào này sang tế bào khác (hình 1.20).
2.1.5. Tiêm mao và roi
Ở một số tế bào động vật và tế bào thực vật có một hay nhiều sợi tơ giống như tóc cử động được ở bề
mặt ngoài của tế bào. Nếu chỉ có một vài sợi và có chiều dài tương đối dài hơn so với chiều dài của tế
bào thì được gọi là roi, nếu có rất nhiều và ngắn thì được gọi là tiêm mao. Ở tế bào nhân thật, cấu trúc
cơ bản của chúng giống nhau, và hai từ này dùng lẫn lộn qua lại. Cả hai cơ cấu này đều giúp cho tế bào
chuyển động hoặc làm chuyển động chất lỏng quanh tế bào. Thường gặp hai cơ cấu này ở những sinh
vật đơn bào và những sinh vật đa bào có kích thước nhỏ và ở giao tử đực của hầu hết thực vật và động
vật. Chúng cũng có ở những tế bào lót ở mặt trong của các ống, tuyến ở động vật, các tiêm mao này
giúp đẩy các chất di chuyển trong lòng ống. Ở khí quản người, có thể có đến một tỉ tiêm mao trên
1cm2.
Tiêm mao và roi là phần kéo dài ra của màng tế bào, với mười một nhóm vi ống nằm trong chất căn
bản là tế bào chất, trong đó có chín nhóm với từng đôi vi ống xếp ở chu vi và hai vi ống đơn ở trung
tâm .
Mỗi roi hay tiêm mao có một thể gốc ở đáy. Tiêm mao và roi cử động khi vi ống này trượt qua một vi
ống khác. Các vi ống ở ngoại biên được nối với nhau bằng các tay protein, các protein này hoạt động
như các cầu bắt ngang giữa các đôi vi ống.
Khi các tay protein uốn cong lại sẽ đẩy đôi vi ống này qua một vị trí khác, sau đó các tay rời ra và bắt
đầu bám vào vị trí mới trên đôi vi ống, và quá trình này được tiếp tục gây ra sự cử động của tiêm mao
và roi. Sự cử động này cần năng lượng do ATP cung cấp.
2.2. Phân chia tế bào
Đối với vi khuẩn, quá trình tổng hợp ADN xảy ra liên tục trong suốt chu trình của tế bào. Khi hàm
lượng ADN được nhân đôi thì tế bào to lên và bắt đầu tổng hợp thành tế bào ở vùng giữa tế bào. Sự
kiện này làm tách hai tế bào con về hai phía của tế bào và khi thành tế bào mới hoàn thiện, vi khuẩn
tách thành hai tế bào con riêng biệt. Quá trình lặp lại liên tục khi sinh vật còn trong chu kỳ sinh trưởng.
Chu trình tế bào ở sinh vật nhân thật diễn ra với những khác biệt đáng kể. Sự phân chia các tế bào
soma (không tạo thành giao tử) trải qua 4 giai đoạn: Pha G1, pha S, pha G2 và pha M (như đã trình bày
ở trên). Các nhiễm sắc thể được sao chép trong pha S (đơn bội hoặc lưỡng bội) và trong quá trình
nguyên phân (pha M) phân ly về hai tế bào con.
2.2.1. Nguyên phân
Hình 3.21. Sơ đồ nguyên phân ở tế bào động vật
a) Kỳ đầu; b) Kỳ giữa; c) Kỳ sau; d) Kỳ cuối.
Nguyên phân là cơ chế duy trì số lượng các nhiễm sắc thể trong các tế bào soma (đơn bội hoặc lưỡng
bội) trong quá trình phân bào bình thường. Khi tế bào pha nghỉ được nhuộm nhân tế bào có thể quan
sát được dưới kính hiển vi, được bao bọc bởi màng nhân. Trong nhân có một hoặc hai vùng chứa nhiều
ARN gọi là hạch nhân. Trong pha S, mỗi nhiễm sắc thể được sao chép nhưng tâm động không phân
chia. Thực ra ADN của tâm động đã được nhân đôi, nhưng chỉ một cấu trúc nhìn thấy được. Sản phẩm
sao chép của hai nhiễm sắc thể là hai bản sao chính xác gọi là các nhiễm sắc tử chị em (sister
chromatids), vẫn dính với nhau bởi tâm động chưa phân chia. Nguyên phân được chia thành 4 giai
đoạn gọi là kỳ đầu, kỳ giữa, kỳ sau và kỳ cuối (hình 3.21). Tế bào trong hình 3.21 là tế bào lưỡng bội,
đối với tế bào đơn bội nguyên phân cũng diễn ra tương tự.
a. Kỳ đầu
- Các nhiễm sắc thể hiện rõ dần lên do bị xoắn lại.
- Mỗi nhiễm sắc thể gồm hai nhiễm sắc thể chị em.
- Cuối pha đầu, hạch nhân và màng nhân bị tan vỡ.
b. Kỳ giữa
- Các sợi thoi xuất hiện và toả ra từ hai cực đối diện của tế bào. Ở động vật các sợi thoi dính với các
cấu trúc gọi là trung tử (centriole) nằm ở hai cực; các cấu trúc như thế không thấy có ở các tế bào thực
vật.
- Các sợi thoi lần lượt gắn với tâm động của nhiễm sắc thể.
- Các nhiễm sắc tử chị em tập trung trên mặt phẳng cắt ngang tế bào ở một vùng gọi là tấm kỳ giữa
(metaphase plate).
b. Kỳ sau
Giai đoạn này bắt đầu khi tâm động được phân đôi, các nhiễm sắc tử chị em tách rời nhau ra thành
các nhiễm sắc tử con và tiến về hai cực đối diện của tế bào. Như vậy, hai bản sao giống hệt nhau của
nhiễm sắc thể được tách về hai cực khác nhau.
b. Kỳ cuối
- Kết thúc quá trình vận chuyển các nhiễm sắc thể con về hai cực của tế bào, với số lượng và thành
phần giống hệt nhau.
- Màng nhân hình thành bao bọc mỗi nhóm nhiễm sắc thể.
- Tái tạo lại các hạch nhân.
- Các sợi thoi biến mất.
- Các nhiễm sắc thể dãn xoắn và trở nên không quan sát được dưới kính hiển vi được nữa. Lúc này
thấy rõ hai nhân ở pha nghỉ điển hình.
- Trong phần lớn trường hợp, tiếp theo kỳ cuối là quá trình phân chia tế bào chất (cytokinesis), tách hai
nhân mới về hai tế bào con riêng biệt. Ở các tế bào động vật, quá trình phân chia tế bào chất diễn ra với
việc tạo thành một eo ở giữa tế bào, eo thắt dần lại cho đến khi hai tế bào con được hình thành. Ngược
lại, các tế bào thực vật phân chia bằng cách tạo ra màng và thành tế bào mới giữa hai nhân mới mà sinh
ra hai tế bào mới.
Như vậy, từ quan điểm di truyền học những điểm mấu chốt của nguyên phân là:
- Mỗi nhiễm sắc thể phân chia để cho hai nhiễm sắc tử giống hệt nhau trong pha S của chu trình tế bào.
- Các nhiễm sắc thể gồm hai nhiễm sắc tử sắp xếp một cách ngẫu nhiên trên tấm kỳ giữa.
- Nguyên phân duy trì thông tin di truyền của tế bào từ thế hệ này sang thế hệ sau.
+ Sự thụ phấn và thụ tinh. Sự thụ phấn là giai đoạn đầu của quá trình sinh sản hữu tính ở thực vật có
hoa, đó là sự tiếp xúc giữa hạt phấn và nhụy. Sự thụ phấn có thể được thực hiện theo hai cách: tự thụ
phấn (với điều kiện là hạt phấn và nhụy chín cùng một lúc và được thực hiện dễ dàng ở hoa lưỡng tính)
và thụ phấn chéo (giao phấn) nhờ sâu bọ, gió, nước, chim… Sau khi thụ phấn mới xảy ra sự thụ tinh.
Sau khi thụ tinh noãn sẽ biến thành hạt, bầu nhụy biến thành quả. Các bộ phận của hoa hoặc héo rồi
rụng đi, hoặc còn giữ lại trên quả (thường là đài: hồng, thị, ổi…), có khi phát triển thành những bộ
phận phát tán như cánh, lông…
3.4.2. Hạt
Có hình dạng, kích thước khác nhau tuỳ loài cây và có những phần chính: vỏ hạt, phôi, nội nhũ và
ngoại nhũ.
3.4.3. Quả
Là phần mang hạt. Những quả do bầu biến đổi thành gọi là quả thật, còn những quả trong quá trình
phát triển, ngoài bầu, còn có các thành phần khác của hoa như đế hoa, trục lá bắc tham gia vào hình
thành quả thì gọi là quả giả.
Quả được cấu tạo bởi ba lớp vỏ tương ứng với baphần của vách bầu biến đổi thành: vỏ quả ngoài tương
ứng với lớp biểu bì ngoài của vách bầu; vỏ quả giữa tương ứng với phần thịt của vách bầu và vỏ quả
trong tương ứng với lớp biểu bì trong của vách bầu.
Xuất phát từ các kiểu bộ nhụy khác nhau: một lá noãn, nhiều lá noãn rời hoặc đính mà chia thành ba
nhóm quả chính:
- Nhóm quả đơn: được hình thành từ một hoa có một lá noãn hoặc nhiều lá noãn đính nhau. Tuỳ
theo tính chất khi quả chín có thể tự mở hay không mà chia làm hai loại: quả đóng và quả mở. Quả
đóng gồm quả mọng: như nho, chuối, cà chua,… và quả hạch: đào, mận, mơ, dừa…; quả mở như quả
đậu, cải…
- Nhóm quả kép cũng được hình thành từ một hoa nhưng bộ nhụy có lá noãn rời, mỗi lá noãn tạo
thành một quả riêng biệt như quả hồi, quả dâu tây, quả hoa hồng…
- Nhóm quả phức được hình thành từ cả một cụm hoa, trong thành phần của quả có cả trục cụm hoa,
bao hoa, lá bắc…, như quả mít, quả dứa, quả sung…
4. Sự sinh sản của thực vật
Mọi cơ thể sinh vật không ngừng sinh trưởng, phát triển và đến giai đoạn nào đó sẽ sinh ra những cá
thể mới giống mình. Đó là sự sinh sản. Cơ sở của quá trình sinh sản là khả năng phân chia và phân hóa
tế bào. Ở thực vật có ba hình thức sinh sản chính: sinh sản sinh dưỡng, sinh sản vô tính và sinh sản hữu
tính.
4.1. Sinh sản sinh dưỡng:
Kiểu sinh sản này gặp ở cả thực vật bậc thấp và thực vật bậc cao. Trong quá trình sinh sản cơ thể mới
được tạo thành trực tiếp từ cơ quan sinh dưỡng. Có hai kiểu sinh sản sinh dưỡng: tự nhiên và nhân tạo.
Sinh sản sinh dưỡng tự nhiên
Thực vật bậc thấp sinh sản sinh dưỡng bằng cách phân chia từ 1 tế bào thành 2, rồi thành 4, rồi thành 8
cơ thể mới... (ví dụ: tảo đơn bào). Đối với thực vật đa bào thì sự sinh sản sinh dưỡng bằng cách cắt đôi
sợi tảo hoặc một đoạn cơ thể, gọi là sinh sản sinh dưỡng bằng khúc sợi hay khúc tản.
Thực vật có hoa sinh sản sinh dưỡng rất đa dạng, những cá thể mới được sinh ra từ các cơ quan dinh
dưỡng của cây: rễ, thân, thân rễ và lá.
Ở một số loài thực vật, cây mới có thể mọc từ rễ mọc, từ lá, từ những đoạn thân hay dạng biến đổi của
thân.
Sinh sản nhân tạo
Hình thức sinh sản do con người thực hiện trên các bộ phận cơ quan dinh dưỡng hoặc dựa vào khả
năng tái sinh của cây: giâm cành, chiết cành, ghép cành. Ngày nay người ta còn áp dụng phương pháp
nuôi cấy mô để nhân giống nhanh.
4.2. Sinh sản vô tính
Sinh sản vô tính của thực vật nhờ một tế bào đặc biệt gọi là bào tử. Bào tử được hình thành trong túi
bào tử.
Đối với thực vật đơn bào, khi sinh sản vô tính, toàn bộ cơ thể trở thành túi bào tử, như tảo Chorella. Ở
thực vật bậc cao, khi bào tử nảy mầm không cho trực tiếp ra cây dương xỉ con, mà cho ra một dạng
giống như tản của tảo, gọi là nguyên tản. Cây dương xỉ con được hình thành sau một quá trình sinh sản
tiếp theo.
4.3. Sinh sản hữu tính
Sinh sản hữu tính là quá trình sinh sản có sự kết hợp giữa hai giao tử đực và cái, tạo thành hợp tử, rồi
từ đó sinh trưởng, phát triển thành cơ thể mới. Các giao tử được hình thành nhờ quá trình giảm phân,
do đó trong mỗi tế bào giao tử đều có số lượng nhiễm sắc thể đơn bội (n), vì thế hợp tử có số lượng
nhiễm sắc thể lưỡng bội (2n). Sinh sản hữu tính có ba trường hợp khác nhau: đẳng giao, dị giao và
noãn giao.
- Sinh sản hữu tính đẳng giao là quá trình sinh sản có sự tham gia của hai giao tử đực và cái giống
nhau về hình dạng, kích thước và cùng có khả năng di động nhờ roi. Đây là hình thức sinh sản đơn
giản nhất và thường gặp ở Tảo.
- Sinh sản hữu tính dị giao là quá trình sinh sản có sự tham gia của hai giao tử đực và cái khác nhau
về kích thước và khả năng di động: giao tử đực có kích thước nhỏ và có khả năng di động nhanh, giao
tử cái có kích thước lớn hơn và di động chậm.
- Sinh sản hữu tính noãn giao là quá trình sinh sản có sự kết hợp giữa tinh trùng và tế bào trứng,
trong đó giao tử đực là tinh trùng có khả năng di chuyển nhanh hoặc tinh tử không có roi và không di
động được. Cơ quan sinh ra tinh trùng gọi là túi tinh (túi đực). Giao tử cái không có roi nên không di
chuyển được và thường có hình trứng gọi là noãn cầu hay noãn bào - tế bào trứng. Cơ quan sinh ra
noãn cầu gọi là túi noãn (túi cái).
Sinh sản hữu tính tiến hoá hơn so với sinh sản vô tính và sinh sản sinh dưỡng. Sinh sản hữu tính tạo ra
thế hệ con cái đa dạng hơn, dễ thích nghi với môi trường sống, có sức sống cao và đảm bảo cho sự tồn
tại của loài.
5. CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG CỦA CÁC CƠ QUAN ĐỘNG VẬT
5.1. Hệ hô hấp
Ôxy được dùng trong các phản ứng ô xy hoá cung cấp năng lượng cho hoạt động sống. Cơ quan hô hấp
được hình thành ở động vật đa bào để lấy ôxy từ môi trường ngoài. Trong quá trình tiến hóa động vật
đã hoàn thiện cấu tạo cơ quan hô hấp.
* Các hình thức hô hấp
Do môi trường sống đa dạng nên cách lấy ôxy của động vật khác nhau. Gồm:
- Hô hấp trực tiếp: Trao đổi khí xảy ra qua bề mặt tế bào, ôxy hòa tan trong nước trực tiếp từ môi
trường nước vào trong cơ thể động vật, chỉ gặp ở các động vật sống dưới nước.
- Hô hấp gián tiếp: Thu nhận ôxy từ môi trường ngoài qua cơ quan hô hấp của động vật (động vật ở
nước và động vật sống trên cạn). Có thể chia thành 2 kiểu:
+ Động vật nhận ô xy từ không khí và thải CO 2 qua cơ quan hô hấp - hô hấp hiếu khí, phổ biến ở động
vật sống tự do trong các môi trường khác nhau.
+ Từ sự phân giải chất hữu cơ- hô hấp kỵ khí, phổ biến ở động vật kí sinh .
* Hướng tiến hóa hệ hô hấp động vật
- Từ đơn giản (chưa hình thành cơ quan hô hấp - trao đổi khí qua da) đến có cơ quan đơn giản như
mang lá đối, phổi nước đến cơ quan hô hấp chuyên hoá như phổi sách, túi khí, ống khí và phổi.
- Xuyên suốt quá trình tiến hóa đó, quan trọng nhất là hoàn thiện dần động tác hô hấp (hay hoạt động
hô hấp ngày càng hiệu quả).
* Các kiểu cấu tạo của cơ quan hô hấp ở động vật
Gồm: mang (và dạng biến đổi), phổi, ống khí, phổi sách... Có nguồn gốc khác nhau, có cấu tạo thay đổi
tùy theo môi trường sống. Đều mang tính đặc trưng là mỏng, trơn, bề mặt ẩm ướt để dễ hoà tan khí
5.1.1 Hô hấp của Động vật đơn bào và động vật đa bào thấp:
Các động vật thấp từ động vật nguyên sinh đến Giun tròn thì sự trao đổi khí thực hiện qua bề mặt
cơ thể. Một số động vật này ký sinh trong môi trường không có hoặc có ít không khí thì quá trình dị
hoá diễn ra theo kiểu lên men – ôxy hoá glycogen trong cơ thể để cung cấp năng lượng trong các hoạt
động sống của nó. Chúng chưa có cơ quan hô hấp chuyên hoá.
5.1.2 Hô hấp của Giun đốt
- Ở giun nhiều tơ, cơ quan hô hấp chân bên. Mỗi chi bên gồm 2 thùy (lưng, bụng), có các sợi và chùm
lông tơ, các sợi này đan xen nhau tạo thành một tấm lưới rộng, gọi là mang (hình 6.3). Khi bơi, các sợi
tơ này chuyển động trong nước, xáo động nước, giúp cho sự khuyếch tán khí được thuận lợi.
- Ở giun ít tơ (giun đất), không có cơ quan hô hấp chuyên dùng như mang của giun nhiều tơ, do vậy
quá trình trao đổi khí qua da. Để thích nghi, thành cơ thể của giun ít tơ có nhiều tế bào tuyến tiết chất
nhầy tạo ẩm ướt thuận tiện cho sự khuyếch tán khí.
5.1.3 Hô hấp của Thân mềm
Thân mềm đầu tiên ở nước có cơ quan hô hấp là mang - phần lồi của màng nhầy có nhiều mạch
máu tới. Song kinh (Loricata) có 66 - 68 tấm mang. Mang có thể ở bên ngoài, ở trước hoặc ở sau. Trên
bề mặt mang có nhiều tơ làm cho nước thay đổi luôn giúp trao đổi khí dễ dàng hơn.
Ruột
Phòng
Động mạch ngực mang
Xoang ngực
Vỏ ngoài
Hình 24. Cắt ngang phần ngực của tôm (theo Hickman)
Chân khớp ở cạn như hình nhện, cơ quan hô hấp là túi phổi (phổi sách). Nhện có 4 đôi túi phổi.
Hoặc ống khí - những ống phân nhánh len lõi vào tất cả các phần cơ thể (ve), ống khí phát triển nhất ở
Côn trùng.
Côn trùng thấp gồm hệ thống ống khí chạy dọc, ít phân nhánh. Côn trùng cao, ống khí phân nhánh
nhỏ đến tận các tế bào cơ thể. Thành ống khí có lót lớp cuticun mỏng ở trong. Lớp này dày lên vào phía
bên trong làm thành một đường xoắn trôn ốc có tác dụng nâng đỡ. Ôxy không phân tán trong cơ thể
được mà phải chạy theo một luồng nhất định.
Hệ thống ống khí và túi khí ở côn trùng
Ống khí thông với ngoài qua lỗ thở ở hai bên hông. Các lỗ thở
đều có mắp đậy. Đôi khi trên hệ thống ống khí có các chổ phình to
gọi là túi khí. Đối với các sâu bọ sống trên cạn, các túi khí có tác dụng
làm cho hệ ống khí luôn luôn thoáng, còn đối với sâu bọ ở nước thì có
tác dụng dự trữ không khí cho cơ thể.
5.1.5 Hô hấp của Da gai
Động vật da gai sống chuyên hóa dưới nước, hệ hô hấp kém phát triển.
+ Cơ quan hô hấp của Sao biển là mang da, là các phần lồi của da có chứa một phần thể xoang bên
trong, ở 2 bên rãnh chân ống. Ngoài ra thành chân ống là nơi trao đổi khí.
+ Cầu gai có cơ quan hô hấp là 5 đôi mang phân nhánh quanh miệng.
+ Hải sâm là phổi nước, là 2 túi lớn, chia nhiều nhánh, nằm ở 2 bên ruột. Phần cuối hai phổi đổ chung
vào một ống, rồi đổ vào huyệt. Nước biển vào và ra phổi rất nhịp nhàng để trao đổi khí.
5.1.6. Hô hấp của động vật Có dây sống
5.1.6.1 Hô hấp của các lớp cá.
* Lớp Cá Miệng Tròn
Ống hô hấp thông với các túi mang
* Lớp Cá Sụn
Hô hấp thụ đông nhờ áp lực của dòng nước vào - ra qua mang
Có 5 đôi khe mang, mang thông trực tiếp ra ngoài qua 2 bên hoặc dưới mặt hầu. Không có nắp mang.
Cung mang bằng chất sụn. Có vách ngăn nằm giữa 2 khe mang. Trên vách mang có gắn các lá mang
* Lớp Cá Xương
Hô hấp chủ động, có sự phối hợp nhịp nhàng của miệng, xương nắp mang và màng mang
5.1.6.2. Hô hấp của Lưỡng cư (Amphibia)
Lưỡng cư cơ quan hô hấp có 3 bộ phận cấu tạo khác nhau là mang, da và phổi.
- Mang chỉ tồn tại ở ấu trùng, chỉ có mang ngoài, được hình thành từ cung mang.
- Hô hấp bằng phổi ở con trưởng thành nhưng chưa hoàn chỉnh, chỉ là một túi khí do vậy bổ sung hô
hấp bằng da.
- Đường hô hấp trong của phổi ếch gồm 1 ống khí thông trực tiếp với phổi, chia 2 nhánh phế quản vào
phổi.
Động tác hô hấp của Lưỡng cư rất đặc biệt, thở bằng nuốt không khí.
5.1.6.3. Hô hấp của Bò sát (Reptilia)
Phổi tiến hóa hơn lưỡng cư, bên trong có nhiều vách ngăn, chia thành các phế nang, nối với phế quản
bằng phế quản phụ (cấp I, II, III), phổi xốp nên diện tích phân bố mao mạch tăng lên, dung tích lớn,
đảm nhận được chức năng trao đổi khí.
Đường hô hấp đã phân hóa rõ ràng gồm có đường thanh quản phát âm thanh (có sụn nhẫn và sụn hạt
cau) và ống khí dài, phân thành 2 phế quản đi vào 2 lá phổi.
Cử động hô hấp của bò sát theo nhiều kiểu:
- Thở bằng ngực, thực hiện nhờ sự co giãn của cơ gian sườn.
- Thở bằng thềm miệng như Lưỡng cư.
- Thở bằng cử động chi và đầu ở rùa.
5.1.6.4. Hô hấp của Chim (Aves)
- Phổi của chim rất phát triển, đó là 1 túi xốp, dung tích lớn, diện tích mao mạch rất lớn do nhiều phế
nang, tiểu phế nang.
- Túi khí có thể tích lớn hơn phổi nhiều lần, có 9 túi (1 túi lẻ, 1 đôi túi ở cổ, 2 đôi ở ngực, 1 đôi túi
bụng)
- Đường hô hấp: Khe họng đưa đến thanh quản (minh quản) có 2 loại dây thanh dài ngắn khác nhau,
nhờ cơ hót phát ra tiếng kêu rất đặc trưng.
Động tác hô hấp rất đặc trưng: Khi chim không bay, sự hô hấp được thực hiện do cử động lồng ngực
nhờ các cơ gian sườn.
Khi bay, chim thở bằng túi khí qua cơ chế hô hấp kép
5.1.6.6. Hô hấp của Thú
Phổi thú có cấu tạo phức tạp, xu thế tiến hóa là làm tăng diện tích phân bố mao mạch và dung tích.
Phổi gồm 1 đôi thể xốp, có cấu tạo phân nhánh phức tạp gồm phế quản cấp I, II, III cuối cùng là tiểu
phế quản thông với các túi mỏng là phế nang
Đường hô hấp từ thanh quản có sụn hạt cau và sụn nhẫn, có thêm sụn giáp trang và sụn lưỡi gà đặc
trưng cho thú.
Động tác hô hấp thực hiện nhờ cách nở xẹp của lồng ngực, nhờ tác động của cơ gian sườn và cơ hoành
(đặc trưng cho thú vừa tham gia hô hấp vừa thải phân).
5.2. Hệ tuần hoàn
Hệ tuần hoàn của động vật không xương sống rất đa dạng, tùy thuộc vào kích thước và hình dạng cơ
thể. Môi trường sống khác nhau cũng gây ra sự biến đổi của hệ tuần hoàn.
5.2.1. Xoang tiêu hóa- tuần hoàn
Những động vật đơn giản như hải miên, ruột khoang chưa có hệ tuần hoàn thực sự. Thành cơ thể của
chúng chỉ gồm 2 lớp tế bào bao lấy một xoang ở trung tâm gọi là xoang tiêu hóa- tuần hoàn. Xoang
này vừa để tiêu hóa, vừa để phân phối các chất cho cơ thể. Các chất dịch trong xoang thông với môi
trường ngoài qua một lỗ duy nhất.
5.2.2. Sự xuất hiện của các đôi “tim bên” ở giun đốt
Ở giun đốt, hệ tuần hoàn có cấu tạo gồm: Một mạch máu lưng, mạch bụng và mạch dưới thần kinh.
Đặc biệt, có các đôi “ tim bên” bơm máu vào các mạch, thực chất đây là 5 đôi mạch vòng có cấu tạo từ
các yếu tố cơ .
Máu lưu chuyển là nhờ sự co bóp của mạch lưng và các đôi “tim bên”. Máu được chuyển từ mạch
lưng xuống mạch bụng, giữa 2 mạch máu chính có các mạch máu nhỏ dẫn đến thành cơ thể, máu có
màu. Huyết sắc tố phân tán trong huyết tương.
Như vậy ở giun đốt có hệ tuần hoàn kín với áp suất máu cao, do đó sự vận chuyển máu cung cấp chất
dinh dưỡng cho nhu cầu trao đổi chất cao trong các mô và tế bào.
5.2.4. Sự xuất hiện tim chính thức và hệ tuần hoàn hở ở ngành chân khớp và ngành thân mềm
Ở chân khớp và đa số thân mềm, hệ tuần hoàn phát triển yếu vì một phần chức năng vận chuyển
khí đã được hệ hô hấp đảm nhận.
Cấu tạo hệ tuần hoàn gồm các buồng tim nằm dọc ở mặt lưng, phía trước có động mạch đầu là phần
kéo dài của động mạch chủ.
Mỗi buồng tim có 1 đôi lỗ tim. Sự hoạt động của buồng tim do các cơ duỗi của mặt lưng và mặt bụng.
Các cơ này làm co giãn xoang lưng và xoang bụng để đưa máu ra hay vào buồng tim, kết hợp với sự co
giãn của cơ buồng tim.
Máu di chuyển từ thể xoang vào buồng tim qua đôi lỗ tim (do cơ duỗi co đã làm giãn xoang bao tim).
Tiếp theo thành ống tim co để đẩy máu lên động mạch đầu và vào nội quan. Cơ màng bụng co làm cho
máu từ vùng đầu chuyển ra nội quan phía sau rồi tập trung vào các khe xoang hổng trước khi trở về
xoang bao tim. Số lượng buồng tim thay đổi tuỳ loài (gián có 13 buồng, côn trùng thấp có ít
hơn). Số lần co bóp cũng khác nhau tuỳ nhóm và tuỳ trạng thái hoạt động của cơ thể.
Máu của côn trùng phần lớn không có màu hay có thể có màu vàng nhạt hay màu xanh (thay đổi tuỳ
loài và theo giới tính như ở ấu trùng bướm Lymantria). Máu gồm huyết tương lỏng và huyết thể. Thành
phần huyết tương của máu thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển khác nhau như lột xác, hoá nhộng, hoá
trưởng thành...bao gồm muối vô cơ, chứa nhiều chất dinh dưỡng các chất thải, men và sắc tố, trong đó
hàm lượng nước giao động khoảng 75 – 90%. Các huyết thể (tế bào máu) gồm các tế bào amip bơi lội
tự do trong huyết tương, có khả năng thực bào, các tế bào tham gia vào chức năng bài tiết (tế bào
quanh tim, tế bào vàng…). Máu của côn trùng không có sắc tố hoạt tải ô xy hay cố định
khí cacbonic. Riêng ấu trùng muỗi Chironomus máu có chứa sắc tố hemoglobin, khi nồng độ ôxy
trong nước giảm, lượng sắc tố cũng giảm.
Như vậy, hệ tuần hoàn của chân khớp đã có buồng tim tuy nhiên đây là hệ tuần hoàn hở, một
phần máu lưu thông bên ngoài hệ mạch (máu đổ vào xoang bao quanh các cơ quan) máu trộn lẫn với
dịch mô và trao đổi chất trực tiếp với các tế bào của cơ thể, máu lưu thông trong động mạch dưới một
áp lực thấp, khả năng phân phối và điều hòa máu tới các phần của cơ thể còn yếu.
5.2.5. Các dạng hệ tuần hoàn ở động vật có xương sống
Hệ tuần hoàn của động vật có xương sống gồm có tim, hệ động mạch, hệ tĩnh mạch và mao mạch được
tổ chức trên một sơ đồ chung. Trong quá trình tiến hóa từ cá đến động vật có xương sống bậc cao kể cả
người, hệ tuần hoàn có những biến đổi thể hiện ở cấu tạo tim và do sự biến đổi trong cơ chế hô hấp từ
mang sang phổi.
5.2.5.1. Hệ tuần hoàn của Cá sụn (Chondrichthyes)
- Tim: gồm 2 ngăn: một tâm thất và một tâm nhĩ. Ngoài ra còn có xoang tĩnh mạch và côn chủ động
mạch. Có một vòng tuần hoàn, máu đi nuôi cơ thể là máu đỏ tươi.
5.2.5.2. Hệ tuần hoàn ở Cá xương (Osteichthyes)
- Tim có 2 ngăn: Một tâm thất, một tâm nhĩ. Có xoang tĩnh mạch và bầu chủ động mạch. Có một vòng
tuần hoàn, máu đi nuôi cơ thể là máu đỏ tươi.
5.2.5.3. Hệ tuần hoàn ở Lưỡng cư(Amphibia)
- Tim có 3 ngăn: 2 tâm nhĩ và một tâm thất. Tâm thất chưa có vách ngăn nên máu có sự pha trộn
đi nuôi cơ thể, tuy nhiên sự pha trộn này không nhiều, do có dây cơ ở đáy tâm thất hay hệ thống van
phức tạp. Có 2 vòng tuần hoàn lớn và nhỏ.
5.2.5.4. Cấu tạo hệ tuần hoàn của Bò sát(Reptilia)
Bò sát cơ quan hô hấp hoàn toàn là phổi.
- Tim có ba ngăn: Hai tâm nhĩ và một tâm thất, tâm thất có vách ngăn không hoàn toàn, riêng cá sấu đã
có vách ngăn đầy đủ. Sự xuất hiện của vách ngăn này đã làm giảm sự pha trộn máu trong mạch đi một
cách đáng kể. Khi tim co bóp, vách ngăn này được nâng lên chạm vào nóc của tâm thất, phân chia rõ
ràng máu trong tim thành hai nửa trái và phải. Đây là một đặc điểm tiến hóa chuyển tiếp quan trọng,
giúp hệ tuần hoàn được hoàn thiện hơn ở Bò sát và tiếp tục biến đổi thích nghi ở các nhóm động vật
sau.
Có 2 vòng tuần hoàn lớn và nhỏ.
5.2.5.7. Hệ tuần hoàn ở chim (Aves)
- Tim lớn, hai vòng tuần hoàn hoàn toàn biệt lập với nhau.
Tim: gồm 4 phần hoàn chỉnh: hai tâm thất và hai tâm nhĩ riêng biệt, làm tim phân ra hai nửa, nửa bên
phải chứa máu tĩnh mạch và nửa bên trái chứa máu động mạch. Đây là đặc điểm tiến hóa nổi trội so
với Bò sát. Máu từ hệ tĩnh mạch đổ thẳng vào tâm nhĩ, áp lực máu lớn, góp phần giúp cho tốc độ lưu
thông máu nhanh hơn.
Tim chim đập rất nhanh, nhịp tim tỉ lệ nghịch với khối lượng cơ thể, nhờ đó máu lưu thông nhanh
trong hệ mạch, đảm bảo cung cấp oxy cho cơ thể.
5.2.5.8. Cấu tạo hệ tuần hoàn của Thú (Mammalia)
- Tim có bốn ngăn: hai tâm nhĩ và hai tâm thất. Tâm thất trái đẩy máu vào vòng tuần hoàn lớn, thành
dày hơn tâm thất phải, tâm thất phải đẩy máu vào vòng tuần hoàn nhỏ.
- Máu của Thú có các tế bào hồng cầu không nhân, hình lõm hai mặt để giảm thể tích, tăng diện tích
tiếp xúc với oxy và CO2, tăng hiệu quả vận chuyển khí trong mạch và giúp tế bào hồng cầu có thể lách
qua các mao mạch nhỏ.
5.3. Hệ thần kinh
5.3.1. Hệ thần kinh dạng lưới
Động vật thuộc ngành Ruột khoang, đời sống hầu như cố định, xuất hiện hệ thần kinh dạng lưới bao
gồm các tế bào cảm giác và tế bào thần kinh liên kết với nhau (như các mắt lưới của một chiếc rọ). Các
tế bào thần kinh có các nhánh liên hệ với các tế bào biểu mô cơ hoặc các tế bào gai.
Khi các tế bào cảm giác bị kích thích sẽ chuyển thành xung thần kinh truyền qua mạng lưới thần kinh
đến các tế bào biểu mô cơ hoặc đến các tế bào gai, làm cơ thể co lại để tránh kích thích hoặc phóng gai
vào con mồi.
Tuy đã xuất hiện tổ chức thần kinh, con vật có phản ứng nhanh kịp thời nhưng chưa thật chính xác, vì
khi kích thích ở bất kì điểm nào của cơ thể cũng gây phản ứng toàn thân. Cũng vì vậy mà phản ứng
tiêu tốn nhiều năng lượng.
5.3.2. Hệ thần kinh dạng chuỗi hạch
Động vật thuộc các ngành giun, cơ thể đã phân hoá thành đầu – đuôi, lưng - bụng, các tế bào thần kinh
tập trung thành dạng chuỗi hạch thần kinh bụng (chuỗi hạch bậc thang) có não ở phía đầu, từ đó phát
đia hai chuỗi hạch thần kinh bụng. Cơ thể đã có phản ứng định khu, song vẫn chưa hoàn toàn chính
xác, tuy nhiên, mỗi hạch thần kinh là một trung tâm điều khiển hoạt động ở một vùng xác định của cơ
thể nên tiết kiệm được năng lượng truyền xung thần kinh.
Thân mềm và chân khớp là những động vật không xương sống, có hệ thần kinh tập trung hơn thành
dạng thần kinh hạch gồm hạch não, hạch ngực và hạch bụng. Trong đó hạch não đặc biệt phát triển,
liên hệ với sự phát triển và phân hoá của các giác quan. Hạch não tiếp nhận kích thích từ các giác quan
và điều khiển các hoạt động phức tạp của cơ thể chính xác hơn.
5.3.3. Hệ thần kinh dạng ống
Tất cả các động vật có xương sống đều có hệ thần kinh dạng ống nằm ở phía lưng, có nguồn gốc từ lá
phôi ngoài, được phân hoá thành não, tuỷ sống, các dây thần kinh và hạch thần kinh. Não và tuỷ sống
thuộc bộ phận thần kinh trung ương được bảo vệ trong hộp sọ và ống xương sống. Liên hệ với não và
tuỷ sống là các cơ quan thụ cảm (các giác quan và nội thụ quan) và cơ quan phản ứng (cơ, tuyến…)
nhờ các dây thần kinh não và dây thần kinh tuỷ thuộc bộ phận thần kinh ngoại biên.
5.4. Hệ tiêu hóa
5.4.1. Tiêu hoá ở động vật chưa có hệ tiêu hóa
Cơ thể động vật nguyên sinh cấu tạo từ một tế bào nên lấy thức ăn trực tiếp từ ngoài môi trường thông
qua quá trình thực bào. Quá trình tiêu hoá thức ăn ở động vật nguyên sinh là quá trình tiêu hoá hoá học
và quá trình này diễn ra bên trong tế bào (tiêu hoá nội bào).
5.4.2. Tiêu hoá ở động vật có túi tiêu hoá
Các loài Ruột khoang và Giun dẹp có túi tiêu hoá. Thành cơ thể của động vật có túi tiêu hoá mà điển
hình là thuỷ tức được cấu tạo từ hai lớp tế bào. Lớp tế bào bên trong tạo thành túi tiêu hoá, lớp tế bào
này bao gồm 2 loại tế bào : tế bào tuyến tiết enzim vào xoang túi tiêu hoá và tế bào có roi có khả năng
thực bào và tiêu hoá nội bào các mảnh vụn thức ăn.
Túi tiêu hoá có một lỗ thông duy nhất ra bên ngoài. Lỗ thông vừa làm chức năng của miệng, vừa làm
chức năng của hậu môn, nghĩa là thức ăn đi qua lỗ thông để vào túi, đồng thời các chất thải cũng đi qua
lỗ thông đó ra ngoái.
Như vậy trong túi tiêu hoá thức ăn vừa được tiêu hoá ngoại bào (tiêu hoá bên ngoài tế bào nhờ enzim)
vừa được tiêu hoá nội bào (tiêu hóa bên trong tế bào, giống như ở trùng giày).
So với động vật nguyên sinh, động vật có túi tiêu hoá có thể ăn được thức ăn có kích thước lớn hơn.
5.4.3. Tiêu hóa ở động vật có ống tiêu hóa
Ống tiêu hóa có ở động vật có xương sống (cá, lưỡng cư, bò sát, chim, thú) và ở nhiều loài động vật
không xương sống như giun đốt, côn trùng.
Ống tiêu hoá cùng với các tuyến tiêu hoá như tuyến nước bọt, tuyến tuỵ, gan tạo thành hệ tiêu hoá.
Ống tiêu hoá được chia làm các đoạn chính : miệng, thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già. Ống tiêu hoá
của chim, giun đốt có thêm diều.
Hệ tiêu hoá dạng ống phân hoá thành các cơ quan khác nhau. Mỗi cơ quan có đặc điểm cấu tạo khác
nhau, đảm nhận những chức năng tiêu hoá nhất định, giúp cho quá trình tiêu hoá đạt hiệu quả cao.
Trong ống tiêu hoá, thức ăn được tiêu hoá ngoại bào thông qua quá trình biến đổi cơ học và hoá học
thành các dạng đơn giản dễ hấp thụ.
6. Sự sinh sản của động vật
Sinh sản không chỉ là quá trình gia tăng số lượng cá thể mà còn là quá trình đổi mới chất liệu cá thể
(chất lượng bộ NST). Chúng ta phân biệt sinh sản vô tính (vegetative reproduction) với sinh sản hữu
tính (generative reprođuction). Dù theo hình thức sinh sản nào thì bộ NST cũng có các giai đoạn biến
đổi: phân ly cặp NST tương đồng, nhân đôi NST, phân ly NST kép, tái tổ hợp cặp NST tương đồng.
6.1. Sự sinh sản vô tính (Vegctative reproduction)
Sinh sản vô tính có thực chất là quá trình phân bào nguyên nhiễm. Cá thể con cháu có hình thái, hoạt
động và nhất là chất liệu di truyền giống hệt cá thể xuất phát. Đặc điểm của phương thức sinh sản này
là chỉ một cá thể (không phân biệt đực hay cái) tham gia vào quá trình sinh sản; kết thúc quá trình này
cá thể ban đầu không tồn tại nữa và số lượng cá thể mới được tạo ra bao giờ cũng tăng lên (ít nhất là
gấp đôi). Tuỳ theo đặc điểm về cơ chế diễn biến của quá trình, cách thức phân chia và theo số lượng cá
thể được hình thành người ta phân biệt những kiểu sinh sản vô tính dưới đây.
a. Phân chia cơ thể: diễn ra chủ yếu ở động vật đơn bào, ngay sau sự phân chia nhân là sự phân chia
bào chất. Phân dọc ở Trùng roi: nhân nguyên phân, phân chia bào chất đọc cơ thể và hình thành các
bào quan còn thiếu (roi, thể gốc roi, điểm mắt, bào khẩu, bào giang, màng uốn...). Phân ngang ở Trùng
tơ: nhân nguyên phân, phân chia bào chất cơ thể và hình thành các bào quan còn thiếu (tơ, hệ gốc tơ,
bào khẩu, bào giang, nhân lớn...).
b. Liệt sinh (Schizogonie): một giai đoạn của vòng đời động vật đơn bào: một nhân đơn bội nguyên
phân nhiều lần thành vô số nhân đơn bội, liền sau đó là sự phân chia tế bào chất cho mỗi nhân và kết
thúc được rất nhiều cá thể đơn bội mới.
c. Mọc chồi ở Ruột khoang, ởấu trùng Giun dẹt và ở ấu trùng Có bao. Có các kiểu nọc chồi như:
Sự mọc chồi ra ngoài: tại một vài điểm trên cơ thể có những tế bào lưỡng bội chưa phân hóa thành mô
bào, chúng nguyên phân liên tục tạo ra nhiều tế bào mới để dần hình thành cơ thể hoàn chỉnh. Những
cá thể con (ở Ruột khoang) này có thể vẫn bám vào cá thể mẹ và cuối cùng hình thành tập đoàn với
nhiều hình dạng khác nhau (tính đa dạng - Polymorphie). Đốt cổ của Sán dây (Cestoda) có sự mọc chồi
tạo thành chuỗi đốt thân.
Sự mọc chồi vào trong: một loạt tế bào chưa biệt hóa có vỏ bọc gọi là mầm ngủ (gemulae) ở hình tấm
nước ngọt, ởấu trùng Sán lá hay ởấu trùng Sán dây. Sự mọc chồi ở cá thể trưởng thành hay thậm chí ở
cả những trạng thái ấu trùng hoặc thai gọi là bội thai sinh (Polyembryonie).
d. Tái sinh hay Phục sinh (Regenerate): quá trình nguyên phân hình thành phần cơ hể bị mất (ở Thủy
tức - Hydra, Giun tơ - Turbellaria, Giun đốt - Annelida, Có bao - runicata, Sao biển - Asteroidea). Khả
năng này giảm nhiều ở loài có tổ chức cơ thể cao hơn. Động vật Có xương sống bổ sung các thành
phần đã mất như mỏ sừng, tóc, móng, quốc, răng, ngạc gọi là tái tạo -Restitlltion; sự làm lành vết
thương Reparation. Lưỡng cư có thể mọc chi, mọc đuôi; Bò sát chỉ có thể mọc đuôi, Giun dẹp sống tự
do (như Planaria có thể mọc đầu) thì gọi là sinh dị phần -Heteromorphose. Khả năng rụng một hành
phần cơ thể (rụng đuôi ở thằn lằn, rụng xúc tu ở giun biển, rụng xúc tu sinh dục ở cá mực) gọi là sự tự
rụng -Alltotomie. Xúc tu tự rụng hay bị gẫy ở Sao biển nếu có chứa nội mẩu của phần thân vẫn phát
triển thành cơ thể mới.
6.2. Sự sinh sản hữu tính (Generative reproduction)
Khác với hình thức sinh sản vô tính, các cá thể mới sinh ra sau quá trình sinh sản hữu tính không nhất
thiết giống hoàn toàn cá thể bố hay mẹ. Nội dung chính của sinh sản hữu tính là sự thay đổi chất liệu di
truyền chứa chủ yếu ở bộ NST và một phần không thể thiếu ở bào chất. Như vậy tuỳ theo sự thay đổi
chất liệu di truyền ởđâu mà ta có thể phân biệt 3 kiểu sinh sản hữu tính: sự liên hợp, sự tiếp hợp và sự
thụ tinh.
a. Sự tiếp hợp: Kiểu sinh sản hữu tính này không có sự trao đổi bào chất, cũng không có sự hình thành
giao tử nhưng đã có sự giảm phân nhân lưỡng bội thành nhân đơn bội. Hơn thế nữa ởđây còn diễn ra
sự kết hợp 2 nhân đơn bội thành nhân lưỡng bội ở cả 2 cá thể ban đầu. Sự kết hợp chéo này giữa hai
nhân đơn bội dẫn đến sự đổi mới chất liệu di truyền ở bộ NST trong cả 2 cá thể đơn bào ban đầu. Cơ
chế gồm các pha: hai cá thể áp sát nhau, màng bào nơi áp sát tan biến, nhân sinh dưỡng tan biến, nhân
sinh sản lưỡng bội giảm phân thành 4 nhân đơn bội, 3 trong 4 nhân đơn bội tan biến, nhân đơn bội còn
lại nguyên phân thành 1 nhân đơn bội bất động và 1 nhân đơn bội di động, hai cá thể trao đổi nhân đơn
bội di động và có sự tổ hợp nhân di động và nhân bất động trong mỗi cá thể, hai cá thể rời nhau và phát
triển thành 2 cá thể với sự đổi mới bộ NST (diễn ra duy nhất ở Trùng tơ).
b. Sự thụ giao: có bản chất là sự kết hợp giữa hai giao tử nguồn gốc khác nhau và tính dục không
giống nhau. Tùy theo tương quan hình thái của hai giao tử mà phân biệt 3 dạng của kiểu sinh sản này là
đồng giao (khác nhau về tính dục; giống nhau về hình thái, kích thước), là dị giao (khác nhau về tính
dục, về kích thước nhưng giống nhau về hình tháp và là noãn giao (khác nhau về tính dục, hình thái và
kích thước). Đối với dạng noãn giao ta thường gọi giao tử đực là tinh trùng (nhỏ, có đuôi để vận động,
rất ít bào chất) và giao tử cái là noãn (quen gọi là trứng dù chưa được thụ tinh; lớn hơn, hình cầu hay
hình quả trứng, không có khả năng vận động). Kiểu sinh sản này không có trao đổi bào chất nhưng có
sự thay đổi chất liệu di truyền nhờ trải qua 2 quá trình: sự sinh giao tử và sự thụ tinh.
Sự sinh giao tử là quá trình hình thành giao tử (đơn bội khác nhau về tính dục thông qua cơ chế giảm
phân từ tế bào sinh dục nguyên thủy (lưỡng bội) của một cá thể (loài lưỡng tính biệt) hoặc của hai cá
thể phân biệt giới tính (loài đơn tính dục).
Sự thụ tinh là quá trình kết hợp của hai giao tử khác nhau về nguồn gốc và tính dục mà thực tế là sự tổ
hợp hai nhân đơn bội thành hợp tử có bộ NST lưỡng bội. Tuỳ theo lối sống của các loài, ta thấy ở động
vật có hai hình thức thụ tinh phân biệt nhau rõ rệt là sự thụ tinh trong nay ngoài cơ thể.
Sự thụ tinh ngoài phổ biến ở những loài sống trong nước. Kiểu thụ tinh này có xác suất gặp gỡ giữa
tinh trùng và trứng nhìn chung thấp; vì vậy để đảm bảo duy trì nòi giống cơ thể ban đầu phải sinh
nhiều giao tử vào mỗi kỳ sinh sản.
Sự thụ linh trong cơ thể thường gặp ở các loài sống ký sinh (Giun dẹt, Giun tròn, Giun đốt) và các loài
sống trên cạn. Do trứng và tinh trùng các loài này không tự di chuyển được trong điều kiện khô nên
cần phải thụ tinh trong để đảm bảo trứng gặp được tinh trùng. Từđó cá thể cái không đẻ nhiều trứng
vào mỗi kỳ sinh sản.
Mặt khác, ở kiểu sinh sản thụ giao người ta còn phân biệt hai trường hợp thụ tinh là thụ tinh chéo giữa
hai giao tử (ở các loài đơn tính biệt và đa số loài lưỡng tính biệt) và tự thụ tinh (ở một số loài lưỡng
tính biệt như Sán lá, Sán dây: tinh trùng thụ tinh cho trứng của cùng một cá thể hay tinh trùng của đốt
sán non thụ tinh cho trứng của đốt sán già hơn).
6.3. Sinh trưởng và phát triển của động vật
a. Sinh trưởng và phát triển không qua biến thái.
- Sinh trưởng và phát triển của động vật không qua biến thái là kiểu phát triển mà con non có các đặc
điểm hình thái, cấu tạo và sinh lí tương tự con trưởng thành. Đa số động vật có xương sống và rất
nhiều loài động vật không xương sống phát triển không qua biến thái. Quá trình phát triển của người là
ví dụ điển hình, gồm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn phôi
Diễn ra trong tử cung của người mẹ. Hợp tử phân chia nhiều lần tạo thành phôi. Các tế bào của phôi
phân hóa và tạo thành các cơ quan (tim, gan, phổi, mạch máu…), kết quả hình thành thai nhi.
+ Giai đoạn sau sinh
Giai đoạn sau sinh của người không có biến thái, con sinh ra có đặc điểm hình thái và cấu tạo tương tự
như người trưởng thành. Cơ thể con lớn lên không qua lột xác.
b. Sinh trưởng và phát triển không qua biến thái hoàn toàn.
- Sinh trưởng và phát triển của động vật qua biến thái hoàn toàn là kiểu phát triển mà ấu trùng có hình
dạng, cấu tạo và sinh lí rất khác với con trưởng thành, trải qua giai đoạn trung gian, ấu trùng biến đổi
thành con trưởng thành. Có ở đa số loài côn trùng (bướm, ruồi, ong…), các loài lưỡng cư…
Ví dụ quá trình phát triển của bướm:
+ Giai đoạn phôi
Diễn ra trong trứng. Hợp tử phân chia nhiều lần tạo thành phôi, các tế bào của phôi phân hóa tạo thành
các cơ quan của sâu bướm (sâu bướm nở ra từ trứng).
+ Giai đoạn hậu phôi:
Sâu bướm → nhộng → bướm non → bướm trưởng thành → trứng → sâu bướm.
c. Sinh trưởng và phát triển qua biến thái không hoàn toàn
- Sinh trưởng và phát triển qua biến thái không hoàn toàn là kiểu phát triển mà ấu trùng phát triển chưa
hoàn thiện, trải qua nhiều lần lột xác ấu trùng biến đổi thành con trưởng thành. Gặp ở một số loài côn
trùng như: châu chấu, cào cào, gián…
Ví dụ quá trình phát triển của châu chấu:
+ Giai đoạn phôi
Diễn ra trong trứng. Hợp tử phân chia nhiều lần tạo thành phôi, các tế bào của phôi tiếp tục phân hóa
tạo thành các cơ quan của ấu trùng (ấu trùng nở ra từ trứng).
+ Giai đoạn hậu phôi
Ấu trùng → lột xác nhiều lần → châu chấu trưởng thành. Ấu trùng và con trưởng thành có cấu tạo và
chức năng sinh lí cơ thể gần giống nhau.
CHƯƠNG 3: SINH VẬT VỚI MÔI TRƯỜNG
3.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC LOẠI MÔI TRƯỜNG
3.1.1. Khái niệm
Môi trường sống của sinh vật là phần không gian bao quanh sinh vật mà ở đó các các yếu tố cấu
tạo nên môi trường tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự sinh trưởng, phát triển của chúng.
3.1.2. Các loại môi trường
Tùy vào mỗi loại sinh vật mà chúng thích nghi được trong các môi trường sống khác nhau. Sinh
vật tồn tại trên bề mặt trái đất bị chi phối bởi bốn kiểu môi trường là:
- Môi trường nước: trong môi trường nước lại được chia ra nhiều loại nước khác nhau: nước
mặn, nước ngọt, nước lợ,.. Ví dụ: cá rô phi sống trong môi trường nước ngọt, cá thu sống trong môi
trường nước mặn, tôm thẻ chân trắng sống trong môi trường nước lợ, tôm càng xanh sống trong môi
trường nước ngọt, san hô chỉ sống được ở biển (nước mặn) mà không thể sống ở môi trường nước
ngọt.
- Môi trường trong đất: môi trường đất bao gồm đất cát, đất sét, đất đá, sỏi,.. tùy vào từng điều
kiện môi trường mà các loài sinh vật sinh sống ở đó là khác nhau. Ví dụ: con giun đất sống ở trong
lòng đất, loài tê tê có thể bơi được trong cát...
- Môi trường trên cạn: bao gồm các môi trường đồi núi, đồng bằng, bầu khí quyển trong trái
đất,… Đây là môi trường có rất nhiều sinh vật và con người cũng sống trong môi trường này. Ví dụ:
các loại cây xanh, các loại động vật,...
- Môi trường sinh vật: sinh vật cũng là một môi trường sống lý tưởng cho các loại sinh vật
khác. Ví dụ: các loại cây xanh là môi trường sống của khí, bộ lông chó là nơi cư trú của các loại bọ,
giun sán sống trong ruột người,...
3.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔI TRƯỜNG VÀ CON NGƯỜI
3.2.1. Vai trò của môi trường đối với con người
Đối với sinh vật nói chung và con người nói riêng thì môi trường sống có các chức năng chủ yếu sau:
3.2.1. Môi trường là không gian sinh sống cho con người và thế giới sinh vật (Habitat).
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi một người đều cần một không gian nhất định để phục vụ cho
các hoạt động sống như: Nhà ở, nơi nghỉ, đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, kho tàng,
bến cảng,... Trung bình mỗi ngày mỗi người đều cần khoảng 4m3 không khí sạch để hít thở; 2,5 lít
nước để uống, một lượng lương thực, thực phẩm tương ứng với 2000 - 2400 Calo. Như vậy, chức năng
này đòi hỏi môi trường phải có một phạm vi không gian thích hợp cho mỗi con người. Ví dụ, phải có
bao nhiêu m2, hecta hay km2 cho mỗi người. Không gian này lại đòi hỏi phải đạt những tiêu chuẩn
nhất định về các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học, cảnh quan và xã hội. Tuy nhiên, diện tích không gian
sống bình quân trên Trái Đất của con người đang ngày càng bị thu hẹp (bảng 1).
Bảng 1. Suy giảm diện tích đất bình quân đầu người trên Thế giới (ha/người)
(Nguồn: Lê Thạc Cán, 1996)
Năm - 106 - 105 - 104 O(CN) 1650 1840 1930 1994 2010
Dân số 0,125 1,0 5,0 200 545 1.000 2.000 5.000 7.000
(tr.ng)
Diện tích 120.000 15.000 3.000 75 27,5 15 7,5 3,0 1,88
(ha/ng)
Yêu cầu về không gian sống của con người thay đổi theo trình độ khoa học và công nghệ. Trình
độ phát triển càng cao thì nhu cầu về không gian sản xuất sẽ càng giảm. Tuy nhiên, trong việc sử dụng
không gian sống và quan hệ với Thế giới tự nhiên, có 2 tính chất mà con người cần chú ý là tính chất
tự cân bằng (homestasis), nghĩa là khả năng của các hệ sinh thái có thể gánh chịu trong điều kiện khó
khăn nhất. Gần đây, để cân nhắc tải lượng mà môi trường phải gánh chịu đã xuất hiện những chỉ thị
cho tính bền vững liên quan đến không gian sống của con người như:
- Khoảng sử dụng môi trường (Environmental use space EUS) là tổng các nguồn tài nguyên
thiên nhiên có thể được sử dụng hoặc những ô nhiễm có thể phát sinh để đảm bảo một môi trường lành
mạnh cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
- Dấu chân sinh thái (Ecological Footprint) được phân tích dựa trên định lượng tỷ lệ giữa tải
lượng của con người lên một vùng nhất định và khả năng của vùng để duy trì tải lượng đó mà không
làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Giá trị này được tính bằng diện tích đất sản xuất hữu
sinh (đất trồng trọt, đồng cỏ, rừng, ao hồ, đại dương,....) và cộng thêm 12% đất cần được dự trữ để bảo
vệ đa dạng sinh học. Nếu tính riêng cho nước Mỹ, trong năm 1993 thì một công dân Mỹ trung bình sản
xuất một dấu chân sinh thái là 8,49 ha. Điều này có nghĩa là hơn 8 ha sản xuất hữu sinh (tính theo năng
suất trung bình của Thế giới) phải liên tục sản xuất để hỗ trợ cho một công dân Mỹ. Dấu chân sinh thái
này chiếm diện tích gấp hơn 5 lần so với 1,7 ha trên một công dân của Thế giới. Chỉ những nước với
dấu chân sinh thái thấp hơn 1,7 ha mới có một tác động Toàn cầu, bền vững đối với mọi người mà
không làm cạn kiệt kho vốn thiên nhiên của Trái Đất. Như vậy, môi trường là không gian sống của con
người (hình 1) và có thể phân loại chức năng không gian sống của con người thành các dạng cụ thể
sau:
- Chức năng xây dựng: Cung cấp mặt bằng và nền móng cho các đô thị, khu công nghiệp, kiến
trúc hạ tậng và nông thôn.
- Chức năng vận tải: Cung cấp mặt bằng, khoảng không gian và nền móng cho giao thông
đường thuỷ, đường bộ và đường không.
- Chức năng sản xuất: Cung cấp mặt bằng và phông tự nhiên cho sản xuất nông - lâm - ngư
nghiệp.
- Chức năng giải trí của con người: Cung cấp mặt bằng, nền móng và phông tự nhiên cho việc
giải trí ngoài trời của con người (trượt tuyết, trượt băng, đua xe, đua ngựa,...)
3.2.2. Môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản xuất của
con người.
Trong lịch sử phát triển, loài người đã trải qua nhiều giai đoạn. Bắt đầu từ khi con người biết
làm ruộng cách đây khoảng 14 - 15 nghìn năm, vào thời kỳ đồ đá giữa cho đến khi phát minh ra máy
hơi nước vào thế kỷ thứ XVIII, đánh dấu sự khởi đầu của công cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
trong mọi lĩnh vực. Xét về bản chất thì mọi hoạt động của con người để duy trì cuộc sống đều nhằm
vào việc khai thác các hệ thống sinh thái của tự nhiên thông qua lao động cơ bắp, vật tư công cụ và trí
tuệ.
Với sự hỗ trợ của các hệ thống sinh thái, con người đã lấy từ tự nhiên những nguồn tài nguyên
thiên nhiên cần thiết phục vụ cho việc sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu của mình. Rõ
ràng, thiên nhiên là nguồn cung cấp mọi nguồn tài nguyên cần thiết. Nó cung cấp nguồn vật liệu, năng
lượng, thông tin (kể cả thông tin di truyền) cần thiết cho hoạt động sinh sống, sản xuất và quản lý của
con người.
Nhu cầu của con người về các nguồn tài nguyên không ngừng tăng lên cả về số lượng, chất
lượng và mức độ phức tạp theo trình độ phát triển của xã hội. Chức năng này của môi trường còn gọi là
nhóm chức năng sản xuất tự nhiên gồm:
- Rừng tự nhiên: Có chức năng cung cấp nước, bảo tồn tính đa dạng sinh học và độ phì nhiêu
của đất, nguồn gỗ củi, dược liệu và cải thiện điều kiện sinh thái.
- Các thủy vực: Có chức năng cung cấp nước, dinh dưỡng, nơi vui trơi giải trí và các nguồn hải
sản.
- Động và thực vật: Cung cấp lương thực và thực phẩm và các nguồn gen quý hiếm.
- Không khí, nhiệt độ, ánh sáng Mặt Trời: Để chúng ta hít thở, cây cối ra hoa và kết trái.
- Các loại quặng, dầu mỏ: Cung cấp năng lượng và nguyên liệu cho các hoạt động sản xuất
nông nghiệp...
3.2.3. Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt
động sản xuất.
Trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của cải vật chất, con người luôn đào thải ra các chất thải
vào tự nhiên và quay trở lại môi trường. Tại đây, các chất thải dưới tác động của các vi sinh vật và các
yếu tố môi trường khác sẽ bị phân huỷ, biến đổi từ phức tạp thành đơn giản và tham gia vào hàng loạt
các quá trình sinh địa hoá phức tạp. Trong thời kỳ sơ khai, khi dân số nhân loại còn ít, chủ yếu do các
quá trình phân huỷ tự nhiên làm cho chất thải sau một thời gian biến đổi nhất định lại trở lại trạng thái
nguyên liệu của tự nhiên. Sự gia tăng dân số Thế giới nhanh chóng, quá trình công nghiệp hoá, đô thị
hoá làm số lượng chất thải tăng lên không ngừng dẫn đến chức năng này ở nhiều nơi, nhiều chỗ trở nên
quá tải, gây ô nhiễm môi trường. Khả năng tiếp nhận và phân huỷ chất thải trong một khu vực nhất
định được gọi là khả năng đệm (buffer capacity) của khu vực đó. Khi lượng chất thải lớn hơn khả năng
đệm, hoặc thành phần chất thải có nhiều chất độc, vi sinh vật gặp nhiều khó khăn trong quá trình phân
huỷ thì chất lượng môi trường sẽ giảm và môi trường có thể bị ô nhiễm. Có thể phân loại chi tiết chức
năng này thành các loại sau:
- Chức năng biến đổi lý - hoá học: Pha loãng, phân huỷ hoá học nhờ ánh sáng; hấp thụ; sự tách
chiết các vật thải và độc tố.
- Chức năng biến đổi sinh hoá: Sự hấp thụ các chất dư thừa; chu trình nitơ và các bon; khử các
chất độc bằng con đường sinh hoá.
- Chức năng biến đổi sinh học: Khoáng hoá các chất thải hữu cơ, mùn hoá, amôn hoá, nitrat hoá
và phản nitrat hoá,...
3.2.4. Chức năng giảm nhẹ tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh vật trên trái đất
Trái đất trở thành nơi sinh sống của con người và các sinh vật nhờ một số các điều kiện môi
trường đặc biệt: nhiệt độ không khí không quá cao, nồng độ O2 và các khí khác tương đối ổn định, cân
bằng nước ở các đại dương và trong đất liền. Tất cả các điều kiện đó cho đến nay chưa tìm thấy trên
một hành tinh nào trong và ngoài hệ mặt trời. Sự phát sinh và phát triển sự sống xảy ra trên TĐ nhờ
hoạt động của hệ thống các thành phần của môi trường TĐ như khí quyển, thủy quyển, sinh quyển và
thạch quyển.
- Khí quyển giữ cho nhiệt độ TĐ tránh được các bức xạ quá cao, chênh lệch nhiệt độ lớn, ổn
định nhiệt độ trong khả năng chịu đựng của con người,…
- Thủy quyển thực hiện chu trình tuần hoàn nước, giữ cân bằng nhiệt độ, các chất khí, giảm nhẹ
tác động có hại của thiên nhiên đến con người và sinh vật.
- Thạch quyển liên tục cung cấp năng lượng, vật chất cho các quyển khác của TĐ, giảm tác
động tiêu cực của thiên tai tới con người và sinh vật.
3.2.5 Chức năng lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
Môi trường Trái Đất được coi là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người. Bởi vì, chính
môi trường Trái Đất là nơi:
- Cung cấp sự ghi chép và lưu trữ lịch sử địa chất, lịch sử tiến hoá của vật chất và sinh vật, lịch
sử xuất hiện và phát triển văn hoá của loài người.
- Cung cấp các chỉ thị không gian và tạm thời mang tính chất tín hiệu và báo động sớm các
hiểm hoạ đối với con người và sinh vật sống trên Trái Đất như phản ứng sinh lý của cơ thể sống trước
khi xảy ra các tai biến tự nhiên và các hiện tượng tai biến tự nhiên, đặc biệt như bão, động đất, núi
lửa,....
- Lưu trữ và cung cấp cho con người sự đa dạng các nguồn gen, các loài động thực vật, các hệ
sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp, cảnh quan có giá trị thẩm mỹ để thưởng ngoạn, tôn giáo và
văn hoá khác.
3.2.2. Tác động của con người đối với môi trường
3.2.2.1. Lịch sử tác động của con người đến môi trường
a. Ở thời kì đồ đá cũ
Con người xuất hiện trên trái đất cách đây khoảng 3 – 4 triệu năm và đã tác động làm biến đổi
thiên nhiên môi trường.
- Mở đầu là thời kì hái lượm
Số lượng người ít, sống thưa thớt. Với công cụ bằng đá họ đã khai thác tự nhiên: đào rễ cây, hái
quả, săn bắn động vật ...Cuộc sống của họ thích nghi với môi trường là chủ yếu. Tác động vào môi
trường không đáng kể.
- Từ khi tìm ra lửa
Lửa để sưởi ấm, nấu nướng, săn bắt động vật. Họ dùng lửa săn bắt động vật bằng cách đốt lửa
dồn thú xuống hố sâu đào sẵn.
Lửa gây cháy rừng, savan phát triển, động vật móng guốc phát triển (bò Bison ở Bắc Mĩ rất phát
triển ở thời kỳ này). Nhiều loài động vật bị tiêu diệt, làm suy giảm tính đa dạng sinh học.
Nhiều bằng chứng cổ sinh học đã chứng minh con người đã tiêu diệt nhiều loài động vật có kích
thước lớn ở thời kỳ này. Ngày nay người ta đã phát hiện ra những hố chứa hàng đàn xác chết của các
loài thú do chúng bị vây và bị dồn bởi ngọn lửa xuống các hầm hố đã được đào trước.
b. Thời kì văn minh nông nghiệp :từ 5500 TCN đến 1650 SCN
- Con người biết sử dụng cung tên, chế tạo đồ gốm, làm nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi,
thành lập hệ thống thuỷ nông). Sự thực hiện nền nông nghiệp được coi là cuộc cách mạng kỹ thuật có
tầm quan trọng thứ hai sau ngọn lửa .
- Dân số gia tăng. Số dân thời kỳ nguyên thủy là 3 triệu, đầu công nguyên là 300 triệu, cuối thời
kỳ văn minh nông nghiệp là 500 triệu.
- Tác động đến môi trường :
Tiêu diệt những loài thú lớn, vì chúng được coi là kẻ thù của động vật chăn thả và gia súc.
Rừng được thay thế bằng bãi chăn thả hoặc đất trồng trọt.
Độ đa dạng của cây rừng nguyên thuỷ bị thay thế bằng những loài cây trồng của cư dân cổ chọn
làm cây lương thực thực phẩm.
Tuy nhiên so với nền văn minh công nghiệp sau này thì tác động đến thiên nhiên của con người
còn rất yếu. Nguồn năng lượng sử dụng chủ yếu là năng lượng mặt trời, các nguồn năng lượng khác sử
dụng chưa nhiều. Nguồn sinh sống của con người chủ yếu có nguồn gốc động vật, thực vật, yếu tố ô
nhiễm hoàn toàn vắng mặt.
c. Ở thời đại văn minh công nghiệp
Cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII nền khoa học kĩ thuật đã có những chuyển biến cho phép
nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ.
- Chế tạo ra hàng loạt máy móc đưa vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận
tải… (Máy hơi nước đầu tiên ra đời (1784), đầu máy xe lửa đầu tiên (1804), pin Volta (1799), máy
phát điện xoay chiều (1869), tua bin hơi nước (1893)…) đã tạo ra năng suất và khối lượng hàng hoá
lớn.
- Sản xuất phát triển, nhu cầu sử dụng các nguồn nguyên liêu và nhiên liệu ngày càng nhiều, đòi
hỏi khai thác tài nguyên (khai thác mỏ, quặng, khoáng sản, rừng…) ngày càng mở rộng. Đó là nguồn
gốc gây ra những tác động to lớn đối với môi trường.
Việc tăng sử dụng nhiên liệu mà chủ yếu là nhiên liệu truyền thống như than, củi, dầu đã làm
cho tài nguyên bị cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm.
- Nông nghiệp thời kì này phát triển nhanh theo hướng nông nghiệp – công nghiệp hoá (sử dụng
máy móc, phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật…), đã tạo ra nhiều vùng trồng trọt lớn nhưng đồng
thời cũng làm cho đất đai bị ô nhiễm, rừng bị thu hẹp.
- Đô thị hoá thời kì này cũng phát triển nhanh chóng đã làm cho thiên nhiên những vùng này bị
biến đổi hoàn toàn và được thay thế bằng những công trình nhân tạo, đất nông nghiệp bị thu hẹp. Dân
số tập trung đông, việc tiêu thụ sản phẩm, nước, năng lượng nhiều và lượng chất thải thải ra lớn làm
môi trường đất, nước, không khí bị ô nhiễm .
- Thời kì công nghiệp hoá là thời kì chủ nghĩa thực dân phát triển mạnh, tài nguyên của các
nước thuộc địa bị khai thác tàn bạo (khoáng sản, rừng và động vật hoang dại ) .
Như vậy qua các giai đoạn phát triển của xã hội nhất là giai đoạn công nghiệp, những tác động
tiêu cực của con người đến môi trường hết sức mạnh mẽ. Con người đã làm nguồn tài nguyên không
tái tạo bị cạn kiệt, nguồn tài nguyên đất và sinh học bị suy thoái, hệ sinh thái tự nhiên bị biến đổi,
không còn hoặc khó có khả năng phục hồi, đa dạng sinh học suy giảm, môi trường bị ô nhiễm, cuộc
sống của con người bị ảnh hưởng nặng nề.
Theo thống kê, hàng năm con người rút ra khỏi thạch quyển gần 100 tỷ tấn đá (riêng khoáng sản
là 7 tỷ tấn), 9 tỷ tấn sản phẩm sinh vật, 8–10 tỷ tấn O2 của khí quyển bị đốt cháy và tuôn vào khí quyển
24 tỷ tấn khí CO2 0.5 tỷ tấn khí độc khác, hàng tỷ tấn bụi.
Trong thời đại ngày nay với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật và công nghệ mới con
người ngày càng khai thác môi trường tự nhiên một cách sâu rộng hơn và triệt để hơn, không một bộ
phận nào của bề mặt trái đất, một diện tích nào của đại dương, một tầng lớp nào của khí quyển mà lại
không chịu tác động này hay tác động khác của con người.
Hoạt động không mệt mỏi của con người đã làm cho bề mặt trái đất thay đổi theo hai hướng:
- Bộ mặt trái đất nhiều nơi ngày càng đẹp hơn, môi trường ngày càng phù hợp hơn với cuộc
sống con người.
- Môi trường tự nhiên bị biến đổi ghê gớm, nhiều nơi bị ô nhiễm nặng nề.
3.2.2.2. Tác động của con người làm suy thoái môi trường tự nhiên
Một trong những tác động lớn nhất của con người tới môi trường tự nhiên là phá hủy thảm thực
vật, từ đó gây ra nhiều biến đổi khí hậu.
Mối nguy hại chính ảnh hưởng đến môi trường có liên quan đến các hoạt động của con người là:
phá hủy, chia cách, làm suy thoái (kể cả ô nhiễm) nơi sinh sống; khai thác quá mức các loài phục vụ
cho các mục đích sử dụng của loài người; du nhập các loài ngoại lai và gia tăng các dịch bệnh. Hầu hết
các loài bị đe dọa chịu ảnh hưởng của ít nhất là hai trong số các yếu tố nói trên, những yếu tố này làm
cho sự tuyệt chủng sẽ tiếp diễn nhanh hơn, bất chấp mọi cố gắng nhằm bảo vệ loài. Các mối hiểm hoạ
đe dọa đa dạng sinh học nêu ở trên gây ra do việc sử dụng, khai thác tài nguyên ngày càng tăng và mức
tăng dân số quá nhanh của loài người.
a. Sự phá hủy những nơi cư trú
Mối đe dọa chính đối với đa dạng sinh học là nơi cư trú bị phá hủy và mất mát. Do vậy việc làm
có ý nghĩa nhất để bảo vệ đa dạng sinh học là bảo tồn nơi cư trú của các loài. Mất nơi cư trú là nguy cơ
đầu tiên làm cho các loài động vật có xương sống bị tuyệt chủng và rõ ràng đó là nguy cơ đối với cả
động vật không xương sống, thực vật, các loài nấm và các loài khác.
Hơn 50% những nơi cư trú là các rừng nguyên sinh bị phá hủy tại 47 nước trong tổng số 57
nước nhiệt đới trên thế giới. Tại Châu Á nhiệt đới, 65% các nơi cư trú là các cánh rừng tự nhiên đã bị
mất.
Tốc độ phá hủy đặc biệt lớn tại các nước Philippines, Bangladesh, Sri Lanka, Việt Nam, Ấn Độ,
các nước châu Phi,... đã làm mất phần lớn các các nơi cư trú của các loài hoang dã, trầm trọng nhất là
các nước Gambia, Ghana và Ruanda. Tốc độ phá rừng hiện nay khác nhau tại nhiều nơi trên thế giới,
tốc độ khá nhanh ở mức 1,5 đến 2% là các nước như Việt Nam, Paraguay, Mehico và Costa Rica. Tại
vùng Địa Trung Hải, diện tích rừng nguyên sinh chỉ còn 10%.
Đối với các loài động vật hoang dã quan trọng, phần lớn những nơi cư trú thích ứng của chúng
đã bị phá huỷ, chỉ còn lại một số rất ít được bảo vệ. Ví dụ loài đười ươi khổng lồ ở Sumatra và Borneo
đã mất 63% nơi sinh sống và chỉ còn 2% diện tích nơi sinh sống nguyên thuỷ của chúng được bảo tồn.
b. Nạn ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu
* Ô nhiễm môi trường
Các quần xã và các sinh vật sống trong đó có thể bị ảnh hưởng sâu sắc do ô nhiễm môi trường.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do thuốc trừ sâu, hóa chất và các chất thải công nghiệp,
chất thải sinh hoạt của con người và các ô nhiễm gây ra bởi các nhà máy, ô tô, cũng như các trầm tích
lắng đọng do sự xói mòn đất từ các vùng cao, sườn núi.
Việc sử dụng các loại thuốc trừ sâu để phòng trừ các loài côn trùng gây hại cho cây trồng và
phun vào nước để diệt các ấu trùng muỗi đã làm hại tới những quần thể khác sống trong thiên nhiên,
đặc biệt đối với những loài chim ăn côn trùng, cá và các loại động vật khác bị ảnh hưởng bởi DDT hay
các sản phẩm bán phân hủy của chúng. Tại các hồ và các cửa sông, dư lượng DDT và các loại thuốc
trừ sâu khác được tích luỹ lại trong cơ thể các loại cá lớn như cá heo và các động vật biển khác. Trên
các khu vực canh tác nông nghiệp, các loài côn trùng có ích hay các loài có nguy cơ bị tuyệt chủng
cũng đều bị tiêu diệt cùng với các côn trùng gây hại.
Ô nhiễm nước gây hậu quả xấu cho loài người như hủy hoại các nguồn thực phẩm thủy sản như
cá, ốc, hến và làm ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt. Tương tự như vậy, ô nhiễm nước còn gây tác hại to
lớn cho các quần xã sống dưới nước. Ô nhiễm không khí cũng làm suy thoái đa dạng sinh học. Ô
nhiễm không khí gây mưa axit sẽ làm giảm độ pH của đất và của nước trong các hồ, ao, sông suối trên
lục địa. Mưa axit đã tiêu diệt nhiều loài động và thực vật.
* Sự thay đổi khí hậu toàn cầu
Hiện tượng khí nhà kính gây nên hiện tượng trái đất nóng dần lên. Điều này ảnh hưởng đến các
quần thể sinh học là rất lớn. Ví dụ như các vùng khí hậu ở khu vực ôn đới miền bắc và miền nam sẽ
chuyển hoàn toàn về phía vùng cực. Các loài sống thích ứng với các khu rừng rụng lá phía Bắc Mỹ sẽ
phải di cư từ 55 -1000 km về phía Bắc trong suốt thế kỷ XXI để thích ứng với điều kiện khí hậu thay
đổi. Trong khi các loài có vùng phân bố rộng và dễ phát tán có thể thay đổi để thích ứng với sự thay
đổi, thì đối với nhiều loài có vùng phân bố hẹp hoặc do khả năng phát tán kém nên việc tuyệt chủng là
khó tránh khỏi.
Hiện tượng nhiệt độ tăng dần lên còn làm các khối băng ở vùng cực tan ra. Do việc giải phóng
một lượng nước lớn như vậy, trong vòng 50 -100 năm tới mức nước biển có thể tăng từ 0,2 -1,5 m.
Mức nước biển dâng cao có thể làm ngập lụt những vùng đất thấp, những khu đất ngập nước ven bờ
biển và nhiều thành phố lớn.
c. Khai thác quá mức
Nhằm thoả mãn các nhu cầu của cuộc sống, con người đã thường xuyên săn bắn, hái lượm thực
phẩm và khai thác các nguồn tài nguyên khác. Khi dân số loài người vẫn còn ít và phương pháp thu hái
còn thô sơ, con người đã thu hái và săn bắt một cách bền vững mà không làm cho các loài trở nên tuyệt
chủng. Tuy vậy, khi dân số tăng lên, nhu cầu khai thác tài nguyên cũng tăng theo. Các phương pháp
thu hái dần dần được cải tiến và trở nên hữu hiệu hơn. Việc khai thác quá mức là nguyên nhân thứ hai
sau nguyên nhân mất nơi cư trú và là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn các loài đến tuyệt
chủng.
d. Sự du nhập các loài ngoại lai
Phạm vi sống về địa lý của nhiều loài được giới hạn bởi các hàng rào do chính các yếu tố môi
trường và khí hậu tạo ra ngăn cản sự phát tán. Các sa mạc, đại dương, đỉnh núi, và những dòng sông
đều đã ngăn cản sự di chuyển của các loài. Ngày nay đã có một lượng lớn các loài do vô tình hay cố ý,
được đem đến những khu vực không phải là nơi cư trú gốc của chúng. Những loài đó đã được du nhập
do các nguyên nhân sau đây: chế độ thuộc địa của các nước Châu Âu, nghề trồng cây cảnh và làm
nông nghiệp, những sự vận chuyển không chủ đích.
Phần lớn các loài du nhập không sống được tại những nơi mới đến do môi trường không phải
lúc nào cũng phù hợp với điều kiện sống của chúng. Dù vậy, vẫn có một tỷ lệ nhất định các loài nhập
cư thiết lập được cuộc sống trên vùng đất mới và nhiều loài trong đó do chưa có các loài thiên địch còn
vượt trội, xâm lấn các loài bản địa. Các loài du nhập này thậm chí còn cạnh tranh với các loài bản địa
để có được nguồn thức ăn và nơi ở. Các loài du nhập còn ăn thịt các loài bản địa cho đến khi chúng
tuyệt chủng hoặc làm chúng thay đổi nơi cư trú đến mức nhiều loài bản địa không thể nào tồn tại được
nữa.
e. Sự lây lan của các dịch bệnh
Sự nhiễm trùng từ các sinh vật mang bệnh là điều thường xảy ra đối với động vật nuôi hay động
vật hoang dã. Các tác nhân gây nhiễm có thể là các vật ký sinh như virus, vi khuẩn, nấm, các động vật
đơn bào hay các ký sinh trùng kích cở lớn hơn như giun sán. Các loại bệnh dịch này có thể là nguy cơ
đe dọa đối với một số loài quí hiếm.
f. Sự nghèo đói và sức ép dân số
- Dân số gia tăng kéo theo sự gia tăng về các nhu cầu sinh hoạt và các nhu cầu thiết yếu khác
trong khi nguồn tài nguyên có hạn, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Hệ quả tất yếu dẫn
tới phải mở rộng đất nông nghiệp vào đất rừng, các khu ngập nước,... thu hẹp diện tích nơi sinh cư của
động vật hoang dã, gây suy thoái ĐDSH.
- Sự di dân: kết quả của các cuộc di cư có tổ chức theo kế hoạch và di cư tự do đã gây ảnh
hưởng rõ rệt đến tài nguyên rừng và ĐDSH ở các vùng này, nơi vốn có tài nguyên đất đai thuận lợi cho
hệ sinh vật tự nhiên phát triển.
- Sự đói nghèo: người nghèo không có vốn để đầu tư, sản xuất và bảo vệ tài nguyên. Họ buộc
phải khai thác tài nguyên sinh vật hoang dã để sinh sống làm cho tài nguyên này càng suy thoái một
cách nhanh chóng.
3.2.3. Một số biện pháp bảo vệ môi trường
Nhiều hoạt động của con người tác động tới môi trường tự nhiên, gây ô nhiễm môi trường và
làm suy thoái môi trường. Tuy nhiên, với sự hiểu biết ngày càng tăng, con người đã và đang nỗ lực
khắc phục tình trạng đó, đồng thời bảo vệ và cải tạo môi trường tự nhiên.
Những biện pháp chính:
- Hạn chế phát triển dân số quá nhanh.
- Sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên.
- Bảo vệ các loài sinh vật.
- Phục hồi và trồng rừng mới.
- Kiểm soát và giảm thiểu các nguồn chất thải gây ô nhiễm.
- Hoạt động khoa học của con người góp phần cải tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất
cao.
3.3. SỰ TRAO ĐỔI CHẤT GIỮA SINH VẬT VỚI MÔI TRƯỜNG
3.3.1. Sự trao đổi chất giữa thực vật với môi trường
Quá trình trao đổi chất ở thực vật là quá trình cây xanh lấy từ môi trường các chất khoáng, khí
CO2, khí O2, nước, và thải ra môi trường khí CO2, khí O2, hơi nước và các chất khoáng khác.
3.3.1.1. Sự trao đổi khí ở thực vật
a. Hô hấp ở thực vật
Cây cũng lấy khí O2và thải ra khí CO2 như người và động vật. Cây đã lấy khí O2 để phân giải
chất hữu cơ, tạo ra năng lượng cung cấp cho các hoạt động sống của cây, đồng thời thải ra khí CO2.
Cây hô hấp suốt ngày đêm. Mọi cơ quan của cây (thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt) đều tham gia hô hấp và
trao đổi khí trực tiếp với môi trường bên ngoài.
Phương trình tổng quát của hô hấp rút gọn:
C6H12O6 + 6O2 6CO2 + 6 H2O + 686Kcal
* Nguyên liệu của hô hấp
Nguyên liệu của hô hấp: glucide, lipid, protein, acid nucleic, các chất hữu cơ khác nhưng phổ
biến nhất là Glucose. Thực vật không chỉ sử dụng glucose là nguyên liệu hô hấp, chiết rút năng lượng
mà còn sử dụng các loại glucide, lipid, protein và các hợp chất hữu cơ khác. Khi cần thiết, tế bào có thể
đồng hóa các chất béo, các protein và các chất hữu cơ khác, trong đó có giai đoạn tạo ra sản phẩm
trung gian là acid pyruvic (CH3-CO-COOH) hoặc acetyl-CoA (CH3-CO~S-CoA).
- Các polysacarit khi bị thủy phân sẽ cho ra các monosacarit, sau đó tham gia vào quá trình hô
hấp như Glucose.
- Các chất béo khi bị thủy phân sẽ tao glicerol và acid béo. Glycerol biến đổi thành aldehyde
phospho glyceric (AlPG) và xâm nhập vào chuỗi hô hấp để chuyển hóa tiếp. Các acid béo bị phân cách
dần theo cơ chế β-oxy hóa tạo các phân tử 2C và sau đó thành Acetyl-CoA, rồi nhập vào chuỗi hô hấp
và tiếp tục bị phân giải.
- Các phân tử protein khi phân giải tạo thành các acid amin. Các acid amin được phân li thành
acid hữu cơ và thải NH3. Các acid hữu cơ này nhập vào chuỗi hô hấp và được oxy hóa tiếp theo bằng
con đường tạo acid pyruvic hoặc acetyl-CoA hoặc các chất trung gian của quá trình này.
* Các con đường hô hấp ở thực vật
Các con đường hô hấp ở thực vật gồm có: đường phân, chu trình krebs, con đường acid
glycoxylic, con đường pentozophotphat, hô hấp sáng (quang hô hấp), hô hấp kị khí.
Trong tế bào hô hấp tế bào thực chất là quá trình oxy hóa khử Glucose được thực hiện bởi 1 loạt
các enzyme trong ty thể. Kết quả là tạo ra các sản phẩm trung gian, CO 2 và năng lượng cung cấp cho
mọi hoạt động sống của tế bào, mô và cơ thể. Tùy thuộc vào điều kiện có oxy hay không có oxy mà hô
hấp tế bào xảy ra theo 2 hướng chính là:
- Phân giải kỵ khí: bao gồm 2 giai đoạn là đường phân và lên men. Ở thực vật phân giải kỵ khí
có thể xảy ra trong trường hợp rễ cây bị ngập úng hay trong khi hạt bị ngâm vào nước hoặc trong các
trường hợp cây ở điều kiện không có oxi.
- Phân giải hiếu khí: gồm 4 giai đoạn là đường phân, sự oxy hóa pyruvate, chu trình Krebs và
chuỗi chuyền electron trong hô hấp. Ở thực vật hô hấp sáng diễn ra mạnh trong các mô, cơ quan đang
hoạt động sinh lý mạnh như hạt đang nảy mầm, hoa đang nở,...
b. Quang hợp ở thực vật
Thực vật dùng năng lượng ánh sáng mặt trời để tổng hợp các chất hữu cơ (ví dụ chất đường, bột) từ các
chất vô cơ (nước, chất khoáng, khí CO2). Các chất hữu cơ này được dùng để nuôi cây.
Phương trình tổng quát của quang hợp:
6CO 2 + 6 H 2 O + Ánh sáng + diệp lục → C 6 H 12 O 6 + 6O 2
Quá trình quang hợp chia thành 2 pha là pha sáng và pha tối
- Pha sáng: trực tiếp liên quan tới việc chuyển hóa năng lượng ánh sáng thành năng lượng hóa
học.
+ Diễn ra khi có ánh sáng, đòi hỏi phải có sự tham gia trực tiếp của ánh sáng.
+ Xảy ra ở màng Thylacoid của lục lạp
+ Bản chất: chuyển năng lượng ánh sáng thành năng lượng trong các liên kết của ATP và NADPH, từ
đó cung cấp cho pha tối hoạt động.
+ Kết quả: phóng thích O2 ra ngoài (sản phẩm phụ), tạo ATP và NADPH.
- Pha tối:
+ Không cần có sự tham gia trực tiếp của ánh sáng (diễn ra khi có ánh sáng và cả trong tối)
+ Xảy ra trong chất nền của lục lạp
+ Bản chất: Sử dụng ATP và NADPH được tạo ra trong pha sáng, CO 2 sẽ bị khử thành
Carbonhydrat thông qua chu trình Calvin gồm nhiều phản ứng khác nhau được xúc tác bởi nhiều
enzyme trong chất nền lục lạp.
+ Sản phẩm: carbonhydrat (đường), ADP và NADP+ (sẽ được tái sử dụng trong pha sáng).
Qua bảng trên ta thấy: phân áp O2 trong phế nang cao hơn trong mao mạch phổi nên theo quy
luật khuêch tán thẩm thấu, O2 hoà tan trong lớp thành ẩm ướt của phế nang được khuếch tán qua lớp
biểu mô và thành mao mạch phổi để vào máu. Còn phân áp CO 2 trong mao mạch phổi lại cao hơn
trong phế nang, nên CO2 khuếch tán từ mao mạch phổi vào phế nang. Sau khi vào mao mạch, O 2 kết
hợp với Hb, biến máu từ đỏ thẫm (nghèo O 2) thành máu đỏ tươi (giàu O2) để vận chuyển về tim, rồi từ
đó đến các bộ phận cơ thể. Tốc độ khuếch tán của CO2 nhanh gấp 25 lần so với O2
* Sự trao đổi khí ở mô
Ở mô, các tế bào luôn xảy ra quá trình ôxi hoá các chất hữu cơ, nên hàm lượng O 2 thấp hơn và
hàm lượng CO2 cao hơn nhiều so với trong máu động mạch đến mô.
Từ phân tích thành phần khí, người ta xác định được phân áp của O 2 và CO2 của không khí
trong máu động mạch đến mô và trong mô. Kết quả như sau:
Chất khí khuyếch tán từ nơi có phân áp cao đến nơi có phân áp thấp. Sự chênh lệch phân áp của
mỗi nơi sẽ qui định chiều di chuyển của chất khí.
Ở bảng 3.4, ta thấy phân áp O 2 trong động mạch đến mô cao hơn ở bào chất, nên O 2 khuếch tán
từ máu động mạch sang bào chất của mô. Còn CO 2 lại khuếch tán từ bào chất sang máu động mạch cho
đến khi cân bằng phân áp O2 và CO2 giữa máu và dịch gian bào. Kết quả làm máu từ đỏ tươi (giàu O 2)
thành máu đỏ thẫm (giàu CO2), theo tĩnh mạch về tim.
Bảng 3.4. Phân áp oxy và cacbonic trong máu đến động mạch đến mô và ở mô người
ngừng quang hợp vì diệp lục bị biến dạng, ở nhiệt độ từ 40 0C trở lên sự hô hấp bị ngừng trệ. Các cây
ôn đới có khả năng hoạt động trong điều kiện nhiệt độ thấp hơn 0 0C, ví dụ như một số loài tùng, bách
mầm cây vẫn hô hấp khi nhiệt độ xuống -220C.
Quá trình thoát hơi nước của thực vật cũng chịu ảnh hưởng của nhiệt độ. Khi nhiệt độ không khí
càng cao, độ ẩm không khí càng xa độ bão hòa, cây thoát hơi nước mạnh. Ở giai đoạn nảy mầm, hạt
cần nhiệt độ thấp hơn thời kỳ nở hoa, vào thời kỳ quả chín đòi hỏi nhiệt độ cao hơn cả.
Khả năng chịu đựng nhiệt độ bất lợi của các cơ quan không giống nhau. Lá là cơ quan chịu ảnh
hưởng mạnh nhất của nhiệt độ. Trong những giai đoạn phát triển cá thể, yêu cầu về nhiệt độ khác nhau.
Hạt nẩy mầm cần nhiệt độ ấm hơn, khi ra hoa và lúc quả chín cây cần nhiệt độ cao nhất.
3.4.1.3. Ảnh hưởng của nước và độ ẩm đối với thực vật
Nước (độ ẩm) là một nhân tố sinh thái vô cùng quan trọng. Trong lịch sử phát triển của sinh giới
trên bề mặt trái đất luôn luôn gắn liền với môi trường nước. Các sinh vật đầu tiên xuất hiện trong môi
trường nước. Quá trình đấu tranh lên sống ở cạn, chúng cũng không tách khỏi môi trường nước; nước
cần thiết cho quá trình sinh sản.
Nước là chất vô cơ có vai trò rất quan trọng đối với cơ thể sinh vật. Nó là thành phần không thể thiếu
đối với tất cả các tế bào sống, chiếm 80-95% khối lượng của các mô sinh trưởng. Nước là nguyên liệu
cho cây trong quá trình quang hợp tạo ra các chất hữu cơ. Nước là môi trường hoà tan chất vô cơ và
phương tiện vận chuyển chất vô cơ và hữu cơ trong cây, vận chuyển máu và các chất dinh dưỡng ở
động vật. Nước tham gia vào quá trình trao đổi năng lượng và điều hòa nhiệt độ cơ thể. Cuối cùng
nước giữ vai trò tích cực trong việc phát tán nòi giống của các sinh vật và là môi trường sống của nhiều
loài sinh vật.
Nước có độ đậm đặc và có nhiệt độ ổn định hơn không khí, nên thực vật thuỷ sinh có kích thước
cơ thể lớn, mô cơ kém phát triển, lá cây nổi trên mặt nước như lá súng chỉ có mặt trên có lỗ khí, mặt
dưới tiếp xúc với nước không có lỗ khí.
Tùy theo chế độ nước khác nhau, thực vật trên cạn được chia thành 4 nhóm sinh thái cơ bản:
- Nhóm cây ngập nước định kỳ: bao gồm những loài thực vật sống trên đất bùn dọc bờ sông, cửa
sông, cửa biển chịu tác động định kỳ của thủy triều.
- Nhóm cây ẩm sinh: bao gồm những cây sống trên đất ẩm (bờ ruộng, bờ ao, bờ suối, trong rừng
ẩm). Môi trường sống của chúng bão hòa hơi nước, do vậy chúng không có những bộ phận bảo vệ sự
bay thoát hơi nước. Nhóm cây này phân biệt hai nhóm nhỏ: nhóm cây ưa ẩm chịu bóng (cây rêu, ráy...)
và nhóm cây ưa ẩm ưa sáng (cây rau bợ nước (Marsilea quadrifolia), một số loài thuộc họ cói
(Cyperaceae)).
- Nhóm cây hạn sinh: là những loài thực vật sống được trong những điều kiện khô hạn nghiêm
trọng và kéo dài, lúc đó quá trình trao đổi chất của chúng yếu nhưng không đình chỉ. Chúng phân bố ở
sa mạc và bán sa mạc, thảo nguyên, savan và vùng đất cát ven biển. Cây chịu hạn được chia làm hai
dạng chủ yếu: dạng cây mọng nước các loài trong các họ thầu dầu (Euphorbiaceae), họ xương rồng
(Cactaceae),...) và dạng cây lá cứng (bao gồm phần lớn thuộc họ lúa (Poaceae), một số loài cây gỗ
thuộc họ thông (Pinaceae), họ phi lao (Casuarinaceae),...).
- Nhóm cây trung sinh: nhóm cây này có những tính chất trung gian giữa cây hạn sinh và cây
ẩm sinh. Chúng phân bố rất rộng từ vùng ông đới đến vùng nhiệt đới chẳng hạn như những loài cây gỗ
thường xanh ở vùng nhiệt đới, rừng thường xanh ẩm á nhiệt đới, cây lá rộng xanh mùa hè ở rừng ôn
đới ... Phần lớn cây nông nghiệp là cây trung sinh.
Các nhân tố vô sinh: ánh sáng, nhiệt độ, nước, không khí và muối khoáng… có vai trò quan
trọng đối với đời sống của sinh vật. Thiếu một trong các nhân tố trên sẽ làm cho sinh vật phát triển
không bình thường. Vì vậy, trong trồng trọt và chăn nuôi, chăm sóc đúng kỹ thuật thường sẽ cho năng
suất cao.
3.4.2. Ảnh hưởng của các nhân tố vô sinh lên đời sống động vật
3.4.2.1. Ảnh hưởng của ánh sáng đối với động vật
Các loài động vật khác nhau cần thành phần quang phổ, cường độ và thời gian chiếu sáng khác
nhau.
Ánh sáng ảnh hưởng đến hình thái ngoài của động vật: nhóm động vật ưa sáng cơ thể thường có
màu sắc đôi khi rất sặc sỡ còn động vật ưa tối cơ thể có thể không màu hoặc có màu xỉn đen.
Ánh sáng là điều kiện cần thiết để động vật nhận biết các vật và định hướng bằng thị giác trong
không gian. Động vật bậc thấp có cơ quan thị giác kém phát triển nên không nhận biết được hình ảnh
của vật, nhưng nhận biết được sự giao động của độ chiếu sáng xen kẽ giữa độ chiếu sáng và bóng tối.
Động vật bậc cao có cơ quan thị giác hoàn thiện, cho phép nhận biết được kích thước, màu sắc, hình
dạng và khoảng cách của sự vật. Nhờ ánh sáng mà động vật có thể định hướng đi xa và trở về nơi cư
trú như các loài chim di cư, kiến bò theo đường mòn nhờ ánh sáng của Mặt Trăng vào ban đêm; ong đi
tìm mật nhờ ánh sáng Mặt Trời…
Thời gian chiếu sáng của ngày có ảnh hưởng đến hoạt động sinh sản của nhiều loài động vật.
Tăng thời gian chiếu sáng sẽ làm tăng số trứng đẻ trong một lứa của gà, vịt, ngan, … Một số loài thú
như cáo, một số loài thú ăn thịt nhỏ, một số loài gậm nhấm sinh sản vào thời kỳ có ngày dài (mùa hè),
ngược lại nhiều loài nhai lại có thời kỳ sinh sản ứng với ngày ngắn (mùa thu). Ở một số loài côn trùng
khi thời gian chiếu sáng không thích hợp sẽ xuất hiện hiện tượng đình dục (diapause).
Tùy theo sự đáp ứng đối với yếu tố ánh sáng mà người ta chia động vật thành hai nhóm:
+ Nhóm động vật ưa sáng: là những loài động vật chịu được giới hạn rộng về độ dài sáng,
cường độ và thời gian chiếu sáng. Nhóm này bao gồm các động vật hoạt động vào ban ngày, thường có
cơ quan tiếp nhận ánh sáng. Ở động vật bậc thấp cơ quan này là các tế bào cảm quang, phân bố khắp
cơ thể, còn ở động vật bậc cao chúng tập trung thành cơ quan thị giác. Thị giác rất phát triển ở một số
nhóm động vật như côn trùng, chân đầu, động vật có xương sống, nhất là ở chim và thú. Do vậy, động
vật thường có màu sắc, đôi khi rất sặc sỡ (côn trùng) và được xem như những tín hiệu sinh học
+ Nhóm động vật ưa tối: bao gồm những loài động vật chỉ có chịu được giới hạn hẹp về độ dài
sáng. Nhóm này bao gồm các động vật hoạt động vào ban đêm, sống trong hang động, trong đất hay ở
đáy biển sâu. Có màu sắc không phát triển và thân thường có màu xỉn đen. Những loài động vật ở dưới
biển, nơi thiếu ánh sáng, cơ quan thị giác có khuynh hướng mở to hoặc còn đính trên các cuống thịt,
xoay quanh 4 phía để mở rộng tầm nhìn, còn ở những vùng không có ánh sáng, cơ quan tiêu giảm hoàn
toàn, nhường cho sự phát triển cơ quan xúc giác và cơ quan phát sáng.
3.4.2.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đối với đời sống động vật.
Nhiệt độ được xem là yếu tố sinh thái có ảnh hưởng lớn nhất đối với động vật, nó tác động lên
động vật như một loại tín hiệu, tín hiệu nhiệt độ có thể làm thay đổi điều kiện phát triển, sinh sản và sự
hoạt động của động vật. Nhiệt độ đã ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự sống, sự sinh trưởng,
phát triển, tình trạng sinh lý, sự sinh sản, do đó có ảnh hưởng đến sự biến động số lượng và sự phân bố
của động vật.
Nhiệt độ ảnh hưởng đến đặc điểm hình thái cấu tạo của động vật: động vật vùng lạnh có lông
dày hơn, kích thước lớn hơn và có các bộ phận phụ nhỏ hơn so với thú sống ở vùng nóng.
Nhiệt độ ảnh hưởng đến các hoạt động sinh lý của động vật. Chẳng hạn như đối với tốc độ tiêu
hóa: nhiệt độ có ảnh hưởng đến lượng thức ăn và tốc độ tiêu hóa của ấu trùng mọt bột lớn ( Tenebrio
molitor) ở giai đoạn 4, ở nhiệt độ cao (360C) ăn hết 638mm2 lá khoai tây nhưng nếu ở nhiệt độ hạ thấp
xuống (160C) thì chỉ ăn hết 215mm2 lá khoai tây, ở nhiệt độ 25 0C mọt trưởng thành ăn nhiều nhất và ở
nhiệt độ 180C mọt ngừng ăn. Động vật biến nhiệt tạm ngừng hoạt động khi nhiệt độ quá cao hoặc quá
thấp, gọi là hiện tượng đình dục.
Nhiệt độ ảnh hưởng đến sự phát triển của động vật: động vật biến nhiệt có tốc độ phát triển và
số thế hệ trong một năm phụ thuộc vào nhiệt độ: khi nhiệt độ xuống thấp dưới một mức nào đó thì
động vật không phát triển được nhưng trên nhiệt độ đó sự trao đổi chất của cơ thể được hồi phục và bắt
đầu phát triển. Động vật đẳng nhiệt, nhờ sự phát triển và hoàn chỉnh cơ chế điều hòa nhiệt và sự hình
thành trung tâm điều khiển nhiệt ở não bộ và giữ cho nhiệt độ cơ thể ổn định, ít phụ thuộc vào môi
trường ngoài. Ngoài ra, một đặc điểm thích nghi khá độc đáo để điều hòa nhiệt độ ở động vật đẳng
nhiệt là tập tính tụ hợp lại thành đám. Ví dụ: chim cánh cụt ở vùng bão tuyết đã biết tập trung lại thành
một khối dày đặc.
Nhiệt độ còn ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của động vật. Sự sinh sản của nhiều loài động
vật chỉ tiến hành trong một phạm vi nhiệt độ thích hợp nhất định. Nếu nhiệt độ môi trường không thích
hợp (cao hoặc thấp) sẽ làm giảm cường độ sinh sản hoặc làm cho quá trình sinh sản đình trệ, vì nhiệt
độ môi trường đã ảnh hưởng đến chức năng của cơ quan sinh sản. Ví dụ: cá chép chỉ đẻ trứng khi nhiệt
độ nước cao hơn 15oC; chuột nhắt trắng sinh sản mạnh ở nhiệt độ 18 oC, nhưng sinh sản giảm và ngừng
ở nhiệt độ 30oC.
Để thích nghi với điều kiện nhiệt độ khác nhau, nhiều động vật đã có những tập tính kỳ diệu
giúp chúng thích ứng với môi trường. Đó là khả năng đào hang, xây tổ tránh nắng của kiến, ong, mối…
Châu chấu sa mạc vào mỗi buổi sáng xoè rộng đôi cánh để phơi nắng sưởi ấm, buổi trưa lại cụp cánh
lại để tránh nắng. Chim cánh cụt khi có bão tuyết tập trung thành đám lớn để tận dụng nhiệt cơ thể sưởi
ấm cho nhau, ….
3.4.2.3. Ảnh hưởng của độ ẩm đối với động vật
Độ đậm đặc của nước, lượng ôxy trong nước có ảnh hưởng rõ rệt đến đặc điểm cấu tạo và hoạt
động sinh lý của động vật thuỷ sinh.
Độ ẩm ảnh hưởng đến hình thái ngoài của động vật: động vật ưa ẩm có da trần, ẩm ướt còn
động vật ưa khô có da khô ít tuyến.
Độ ẩm ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý của động vật: khi độ ẩm tương đối thấp làm chậm sự
trao đổi chất. Loài cánh cứng ăn gỗ Passalus cornutus sống thành từng nhóm nhỏ dưới vỏ cây khô, khi
độ ẩm tăng hoạt động của chúng giảm đi, khi độ ẩm giảm hoạt động của chúng tăng lên.
Đối với động vật trên cạn, sự cân bằng nước của cơ thể nhờ các quá trình lấy nước (uống nước,
sử dụng nước qua thức ăn, nước thấm qua da, sử dụng nước qua quá trình trao đổi chất) và thải nước ra
ngoài môi trường. Nhiều động vật thải nước tiểu đậm đặc hay phân khô là thể hiện khả năng tiết kiệm
nước như các loài bò sát, sâu bọ, thân mềm ở cạn có nước tiểu là urat đặc, hay thú ở sa mạc như gậm
nhấm và sơn dương cũng thải nước tiểu đặc. Một số động vật lại có khả năng hạn chế sự bốc hơi nước
bằng cách tìm chỗ ẩm ướt, để trú ẩn hoặc hoạt động vào thời điểm có độ ẩm cao.
Độ ẩm ảnh hưởng đến sinh sản của động vật. Loài châu chấu Locusta migratoria ở độ ẩm tương
đối 70% tốc độ chín sinh dục và sinh sản của loài này đạt tối đa.
Tùy theo nhu cầu về nước, có thể chia động vật thành các nhóm sau:
- Động vật ưa ẩm: gồm những động vật có yêu cầu về độ ẩm hay lượng nước trong thức ăn cao,
các loài động vật chỉ sống được ở môi trường cạn có độ ẩm cao, trong cơ thể của chúng thiếu cơ chế dự
trữ và giữa nước. Hầu hết ếch, nhái trưởng thành, giun ít tơ, một số động vật ở đất, ở hang ... thuộc
nhóm này.
- Động vật ưa khô: các động vật sống trong môi trường thiếu nước như sa mạc, núi đá vôi, đất
cát ven biển ... chúng có khả năng chịu độ ẩm thấp, thiếu nước lâu dài, có nhu cầu nước thấp, lấy nước
từ thức ăn, thải phân khô, bài tiết ít nước tiểu, một số (lạc đà) sử dụng cả nước nội bào (ô xy hoá mỡ
dự trữ).
- Động vật trung sinh: bao gồm các loài động vật trung gian giữa hai nhóm trên, có yêu cầu vừa
phải về nước hoặc độ ẩm. Phần lớn các loài động vật ở vùng ôn đới và nhiệt đới gió mùa thuộc nhóm
này.
3.5. CHUỖI THỨC ĂN VÀ LƯỚI THỨC ĂN
3.5.1. Chuỗi thức ăn
Chuỗi thức ăn được tạo nên bởi mối quan hệ dinh dưỡng của các loài tồn tại trong quần xã,
trong đó loài này bắt một loài khác làm mồi, còn về phía mình lại trở thành thức ăn cho một số loài
khác tiếp theo.
Ví dụ: cỏ à sâu à ếch à rắn à chim đại bàng.
Ở chuỗi thức ăn, vật chất được chuyển từ bậc thấp đến bậc cao, càng lên bậc cao năng lượng
được tích tụ trong mỗi bậc càng giảm, song chất lượng sản phẩm hay sự giàu năng lượng tính trên đơn
vị sản phẩm càng lớn. Mỗi một nhóm sinh vật trong chuỗi thức ăn có thể khác nhau về bậc phân loại
nhưng cùng sử dụng một dạng thức ăn được gọi là bậc dinh dưỡng.
Trong hệ sinh thái tự nhiên có thể gặp 3 loại chuỗi thức ăn:
- Chuỗi thức ăn chăn nuôi: là chuỗi thức ăn được khởi đầu bằng thực vật, tiếp đến là những
loài “ăn cỏ” rồi đến động vật ăn thịt các cấp (1,2,3...). Chuỗi thức ăn chăn nuôi có dạng sau:
thực vật®động vật ăn cỏ®động vật ăn thịt cấp 1®động vật ăn thịt cấp 2®...
- Chuỗi thức ăn phế liệu: là chuỗi thức ăn được khởi đầu bằng phế liệu hay mùn bã, sau đó là
bậc dinh dưỡng của những loài ăn phế liệu, rồi đến các vật ăn thịt khác. Phế liệu được nhiều nhóm sinh
vật sử dụng như giun trong đất, còn trong vực nước là các loài thân mềm, giáp xác, giun, một số loài
cá. Chuỗi thức ăn phế liệu có dạng sau:
động vật ăn phế liệu ®động vật ăn thịt cấp 1® động vật ăn thịt cấp 2®…
- Chuỗi thức ăn thẩm thấu: là chuỗi thức ăn rất đặc trưng cho các hệ sinh thái ở nước với 2
tính chất: thứ nhất, nước là dung môi có thể hòa tan tất cả các muối vô cơ và những chất hữu cơ phân
cực có khối lượng phân tử thấp. Thứ hai, các sinh vật sống trong nước tức là sống trong một dung dịch
các chất. Đại bộ phận các loài sinh vật nhỏ bé (tảo, động vật nguyên sinh,...) có khả năng dinh dưỡng
các chất hữu cơ hoà tan bằng con đường thẩm thấu qua bề mặt cơ thể.
Trong tự nhiên, 3 chuỗi thức ăn hoạt động đồng thời, tuỳ môi trường và hoàn cảnh cụ thể mà
chuỗi thức ăn nào trở nên ưu thế, xích thức ăn nào thứ yếu.
3.5.2. Lưới thức ăn
Tổ hợp các chuỗi thức ăn sẽ hình thành nên lưới thức ăn, trong đó các loài tham gia vào các bậc
dinh dưỡng của một số chuỗi thức ăn, chúng tạo nên mối quan hệ dinh dưỡng rất phức tạp trong các
quần xã hay trong các hệ sinh thái.
Tính chất phức tạp của lưới thức ăn được tạo ra do sự tham gia của nhiều loài sinh vật, nhất là
những loài có phổ thức ăn rộng, tức là có khả năng tham gia vào nhiều bậc dinh dưỡng. Con người có
thể xem là sinh vật tiêu thụ cuối cùng của chuỗi thức ăn. Tuy vậy, con người có thể sử dụng nhiều loại
thức ăn, bắt đầu từ thực vật đến các nhóm sinh vật tiêu thụ khác nhau.
4.2. CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG CÁC HỆ CƠ QUAN TRONG CƠ THỂ NGƯỜI
4.2.1. Hệ vận động
4.2.1.1. Hệ xương
Vai trò hệ xương
- Là khung cứng làm chỗ dựa cho các phần mềm, làm cho cơ thể có hình dạng nhất định.
- Tạo ra các khoang chứa và bảo vệ các cơ quan.
- Đảm bảo các tư thế cho cơ thể.
- Cùng với hệ cơ làm nhiệm vụ vận động.
Hệ xương gồm: xương sọ, xương thân, xương chi.
a. Xương sọ
* Sọ não
- Do 8 xương hợp thành hộp sọ, 2 xương thái dương, 2
xương đỉnh, 1 xương chẩm, 1 xương trán, 1 xương bướm, 1
xương sàng.
- Hộp sọ chứa và bảo vệ não bộ.
* Sọ mặt
- Do 15 xương liên kết tạo thành: 3 xương lẻ (xương lá
mía, xương hàm dưới và xương móng) và 6 đôi xương chẵn
(xương hàm trên, khấu cái, gò má, xương lẻ, xoăn dưới).
Là cửa vào của một số cơ quan tiêu hoá, hô hấp.
Là nơi chứa và bảo vệ một số giác quan thị, khứu, vị,
thính giác.
b. Xương thân: gồm xương cột sống và xương lồng ngực.
* Cột sống
- Cột sống là phần chính của bộ xương nâng đỡ toàn bộ khối lượng của đầu, chi trên và mình.
Xương sống có 33 - 34 đốt sống xếp chống lên nhau, các đốt sống có sụn đàn hồi và nối với nhau bằng
các khớp bán động. Ở giữa là ống xương rỗng chứa tuỷ sống, 2 bên cột sống có nhiều lỗ nhỏ, là nơi đi
ra của dây thần kinh tuỷ.
- Cột sống hình chữ S, gồm 4 chỗ uốn (cổ, ngực, thắt lưng, cùng). Nhờ vậy mà sự di chuyển của
cột sống rất linh động, giúp cơ thể khi đứng trọng tâm rơi vào gót chân, giữ cơ thể thăng bằng, đi bằng
hai chân dễ dàng, giảm bớt ảnh hưởng những va chạm cơ học đối với cơ thể.
Hình 3.
Xương cột
sông
- Cột sống có
5 đoạn: Cổ (7
đốt), ngực (12
đốt), thắt lưng
(5 đốt), cùng
(5 đốt), cụt (5
đốt).
* Lồng ngực
- Lồng ngực do 12 đốt sống ngực,
12 đôi xương sườn và một xương ức tạo
thành. 10 đôi xương sườn nối với xương
ức bởi sụn, còn 2 đôi cuối tự do, gọi là
sườn cụt. Hình dạng giống cái lồng hình
chóp đỉnh trên, đáy dưới, rộng ngang, hẹp
trước sau.
- Lồng ngực bảo vệ phổi, tim, các
mạch máu lớn, khí quản, gan, dạ dày… và
thực hiện động tác hô hấp nhờ sự phối
hợp của các cơ giữa sườn và cơ hoành khi
co dãn làm thay đổi thể tích của lồng
ngực.
c. Xương chi
* Xương chi trên: gồm xương đai
vai và xương tay.
- Xương đai vai gồm xương đòn và
xương bả vai.
+ Xương đòn: Là một xương dài, chắc, ống tuỷ hẹp, cong hình chữ S, 1 đầu khớp với xương ức,
đầu kia khớp với xương bả vai. Xương đòn làm thành giá treo của phần chi và giữ cho khớp cánh – vai
xa lồng ngực 1 khoảng để tay vận động dễ dàng.
+ Xương bả vai: Xương dẹt hình tam giác, xương bả nối vào cột sống và vào xương đòn nhờ
các cơ, góc ngoài nối với xương cánh tay.
- Xương tay: gồm xương cánh tay, xương cẳng tay (gồm xương trụ và xương quay), 8 xương cổ
tay, 5 xương bàn tay, xương ngón tay
* Xương chi dưới: gồm
- Xương đai hông: xương cùng và hai cánh xương chậu
- Xương chân: gồm xương đùi, xương cẳng chân (gồm xương chày, xương mác trong đó xương
chày chịu áp lực của khối lượng toàn thân khi đi, đứng. Do đó xương chày là xương chắc nhất của cơ
thể), 7 xương cổ chân, 5 xương bàn chân, ngón chân.
Các khớp của xương chi hầu hết là khớp động, trong đó khớp đai hông ít cử động hơn nên nó
bảo vệ các cơ quan bên trong khoang bụng. Kích thước và cấu tạo của xương chậu biểu hiện khác nhau
theo giới tính, theo lứa tuổi. Ở trẻ em, xương chậu nam và nữ giống nhau. Khi trưởng thành, xương
chậu của nữ thấp và rộng hơn của nam. Xương chi trên và chi dưới có những đặc điểm giống nhau về
số lượng xương, về sự phân bố, sắp xếp. Nhưng sự khác nhau cơ bản là xương tay mảnh, nhỏ hơn, các
khớp cử động nhiều hơn. Còn xương chân to, chắc chắn hơn, các khớp ít cử động hơn.
d. Khớp xương
Là chỗ nối của 2 đầu xương hoặc nhiều đầu xương với nhau.
* Khớp bất động
Giữa các xương được nối với nhau nhờ lớp sụn hoặc nhờ khớp răng cưa.
Loại khớp này làm hạn chế sự di động của xương, xương được nối với nhau thành 1 khối chắc
chắn.
Ví dụ: khớp ở hộp sọ, ở mặt.
* Khớp bán động
Là khớp giữa các đốt sống của xương cột sống.
Giữa các phần phần thân của đốt sống có lớp sụn đàn hồi, do vậy mà cột sống mềm dẻo, hoạt
động đa dạng (gập về trước, ngả về sau và sang hai bên).
* Khớp động
Là khớp cử động được dễ dàng.
Mỗi khớp được bao bọc bởi 1 lớp mô liên kết dày (bao khớp). Xung quanh và thành trong của
bao khớp có các dây chằng đàn hồi vững chắc.
Mặt khớp được bao phủ bởi một lớp mô sụn trơn, nhẵn làm giảm sự cọ sát giữa các xương.
Trong bao khớp có bao hoạt dịch tiết dịch nhầy làm giảm ma sát khi xương cử động.
4.2.1.2. Hệ cơ
Cơ thể có 600 cơ chiếm 42 % trọng lượng cơ thể.
Hệ cơ có chức năng kiến tạo cơ thể, nối các xương và giữ tư thế cho cơ thể. Hệ cơ cùng với
xương làm cho cơ thể vận động được. Cơ co giải phóng năng lượng làm cho cơ thể nóng lên. Cơ còn
thực hiện các chức năng dinh dưỡng, tạo ra và biểu hiện các trạng thái của cơ thể. Cơ tham gia vào bộ
phận phát âm, phát ra tiếng nói, đảm bảo mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội.
* Nhóm cơ đầu: gồm
- Cơ nhai: gồm 4 cơ: cơ nhai, cơ thái dương, cơ chân bướm trong và chân bướm ngoài nằm sâu
ở trong, có vai trò vận động xương hàm dưới.
- Cơ nét mặt: gồm các cơ bám ở mặt. Biểu hiện tình cảm khác nhau của nét mặt. Tham gia vào
các hoạt động: nhai, mút, hô hấp, phát âm.
* Nhóm cơ cổ
Gồm các cơ ở vùng cổ và vùng gáy. Tham gia thực hiện các động tác ngả đầu, nghiêng đầu,
quay đầu.
* Nhóm cơ mình: gồm
- Cơ ngực: Gồm các cơ ở vùng ngực (cơ hô hấp): cơ ngực lớn, cơ ngực bé, cơ dưới đòn, cơ liên
sườn, cơ hoành. Chức năng: nâng, hạ lồng ngực.
- Cơ lưng: Gồm các cơ nằm dọc cột sống, bám vào các mấu đốt sống. Chức năng: uốn cột sống
thẳng, làm cong cột sống ra phía sau hoặc cong về 1 bên.
- Cơ bụng: Gồm các cơ nằm ở bụng và thắt lưng, gồm cơ thẳng bụng, cơ tháp, cơ chéo trong, cơ
chéo ngoài, cơ ngang bụng…). Chức năng: giúp cúi mình, ngửa mình, xoay mình.
* Nhóm cơ chi: gồm cơ chi trên và cơ chi dưới
- Cấu tạo 2 vùng cơ này tương đối giống nhau nhưng do chức năng khác nhau nên chúng có vài
điểm khác nhau.
- Chi trên là cơ quan lao động: cơ nhẹ, nhỏ, vận động nhanh nhẹn, dễ dàng.
- Chi dưới là cơ quan vận chuyển, đồng thời chịu sức nặng của toàn thân nên cơ to khoẻ.
4.2.1.3. Đặc điểm phát triển hệ cơ – xương ở học sinh tiểu học
Sự phát triển của bộ xương được tiếp tục ở học sinh tiểu học.
Trẻ 7 - 8 tuổi vòng đầu kém người lớn 2 cm, thể tích sọ não kém 10 %. Sự ổn định của đường
cong thắt lưng được thiết lập vào lúc 12 tuổi. Những khác biệt theo giới tính của xương sống được xuất
hiện từ 9 tuổi và lớn nhất là ở phần ngực. Phần trên của lồng ngực được mở rộng lúc 7 – 8 tuổi (ở em
trai), và sớm hơn một chút (ở em gái), tới 12 – 13 tuổi nó có hình dạng giống như ở người lớn. Từ 8
đến 10 tuổi ở em gái, khung chậu được tăng lên mạnh nhất. Ở em trai từ 7 tuổi chân lớn nhanh hơn ở
em gái. Tới 7 tuổi, các xương ống có đặc trưng cho người lớn. Xương ngón tay cốt hoá kết thúc lúc 9
tuổi, xương cổ tay lúc 12 tuổi.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, từ 7 – 12 tuổi có sự phát triển đồng đều của hệ cơ – xương, nhịp độ
tăng trưởng bị chậm lại đôi chút, nhưng trọng lượng của nó lại tăng lên. Từ 8 – 10 tuổi có sự phát triển
mạnh của hệ cơ. Tới 8 tuổi, trọng lượng cơ đối với trọng lượng cơ thể là 27%. Lực cơ của cả hai tay
tăng lên 2 – 2,5 lần. Lực tay phải dần dần gần tới lực tay trái. Tính không ổn định của hệ thần kinh – cơ
đạt được tiêu chuẩn của người lớn vào lúc 8 – 10 tuổi. Ở lứa tuổi này thấy rõ tính linh hoạt cao, nhưng
lại chóng mệt mỏi, vì các chức năng của hệ thần kinh chưa đạt tới sự phát triển đầy đủ. Từ 7 – 8 tuổi,
năng lực tiến hành những động tác tinh vi, chính xác được hình thành. Các động tác đơn điệu và những
sự cố gắng tĩnh đều có ảnh hưởng không lợi đến tuần hoàn và hô hấp.
4.2.1.4. Các biện pháp phòng ngừa sự sai lệch tư thế của trẻ
- Cho trẻ ăn uống đủ chất, đủ lượng và phù hợp với lứa tuổi để giúp cho cơ thể phát triển tốt,
tránh được còi xương, suy dinh dưỡng.
- Thường xuyên cho trẻ tập thể dục, thể thao, chơi các trò chơi vận động phù hợp lứa tuổi, cho
trẻ dạo chơi nơi thoáng đãng để củng cố sức khoẻ và bộ máy vận động của trẻ.
- Quan tâm đến tư thế của trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Khi trẻ ngồi học, ngồi ăn, … phải dạy trẻ ngồi
đúng tư thế. Muốn vậy thì bàn ghế cho trẻ ngồi phải phù hợp với lứa tuổi và tầm vóc của trẻ. Mặt khác,
khi sắp xếp bàn ghế trong lớp cần chú ý sao cho giáo viên có thể đến với trẻ một cách dễ dàng để kịp
thời uốn nắn tư thế của trẻ mỗi khi trẻ ngồi không đúng. Đồng thời cũng có thể xê dịch bàn ghế về các
hướng và đi ra khỏi bàn một cách dễ dàng, không làm ảnh hưởng đến trẻ bên cạnh.
- Không cho trẻ mang vác các vật nặng, lệch.
- Trong khi ngủ, không nên cho trẻ nằm trên đệm quá cứng hoặc quá mềm, hoặc nằm nghiêng
lâu một bên vì điều đó có ảnh hưởng đến cột sống của trẻ.
4.2.2. Hệ tuần hoàn
4.2.2.1. Cấu tạo và chức năng của hệ tuần hoàn
a. Cấu tạo của hệ tuần hoàn:
Hệ tuần hoàn của người gồm có tim và các mạch máu tạo thành một hệ thống kín.
Tim nằm trong lồng ngực, chếch sang bên trái và ra phía trước. Tim hình nón, đáy hướng lên
trên và chóp quay xuống dưới. Người Việt Nam tim ở nam giới nặng 267g, ở nữ là 240g. Tim gồm 2
nửa trái và phải hoàn toàn tách biệt nhau bởi một vách ngăn. Mỗi nửa gồm 2 xoang là tâm nhĩ ở phía
trên và tâm thất ở phía dưới, thông với nhau bởi van nhĩ thất. Van này làm cho máu chảy một chiều từ
tâm nhĩ xuống tâm thất. Giữa tâm thất và động mạch đều có van bán nguyệt (van tổ chim). Cơ tim cấu
tạo theo kiểu hợp bào nên xung động phát sinh từ một sợi cơ lan toả nhanh sang các sợi khác và xâm
chiếm toàn bộ cơ tim. Cơ tim không thể co rút lâu được. Thành của tâm thất dầy hơn của tâm nhĩ và
thành tâm thất trái dầy hơn thành của tâm thất phải nên công của tâm thất lớn hơn và công của tâm thất
trái đặc biệt lớn vì nó phải đẩy máu đi nuôi cơ thể. Trong tim có những tổ chức đặc biệt tạo thành các
hạch. Hạch phát động và dẫn truyền hưng phấn làm cho tim đập đều đặn.
Mạch máu: Hệ thống mạch máu gồm có động mạch, tĩnh mạch và mao mạch. Động mạch là
những mạch máu vận chuyển máu từ tim đến các tế bào, mô, cơ quan. Tĩnh mạch là những mạch máu
dẫn máu từ các tế bào, mô, cơ quan trở về tim. Mao mạch là những mạch máu rất nhỏ kết thành mạng
lưới nằm ở các cơ quan, các tổ chức nối liền các động mạch nhỏ và tĩnh mạch nhỏ với nhau. Càng xa
tim thì các mạch máu càng phân nhánh và càng nhỏ. Thành động mạch dày hơn thành tĩnh mạch.
Thành mao mạch rất mỏng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự trao đổi chất giữa máu trong mao mạch với
các tế bào. Mao mạch rất nhỏ, tổng chiều dài của chúng rất lớn và diện tích tiếp xúc là 5.000 m2.
b. Sinh lí tuần hoàn:
Nhịp tim: là số lần co bóp trong 1 phút. ở người lớn, khi nghỉ ngơi bình thường nhịp tim là 69 –
70 lần/ phút. ở trẻ em nhịp tim cao hơn nhiều (7 tuổi: 95 – 100 lần/ phút; 12 tuổi: 80 – 85 lần/ phút).
Nhịp tim có thể thay đổi khi lao động hay trong các trạng thái cảm xúc khác nhau.
Thể tích co tim là lượng máu do tim đẩy vào động mạch trong 1 lần co. Thể tích co tim tăng dần
theo tuổi (7 tuổi: 23ml, 12 tuổi: 41ml; người lớn: 70ml).
Thể tích phút là lượng máu do tim đẩy vào động mạch trong 1 phút, nó phụ thuộc vào nhịp tim
và thể tích co tim. Mỗi lần tim co bóp trải qua 3 pha, gọi là chu kì hoạt động của tim:
–Pha đầu tâm nhĩ co, kéo dài 0,1 giây. Lúc này van nhĩ – thất mở, làm cho máu từ tâm nhĩ dồn
xuống tâm thất.
–Pha tiếp theo là tâm thất co, kéo dài 0,3 giây. Lúc này van nhĩ – thất đóng lại, van bán nguyệt
mở cho máu từ tâm thất dồn vào động mạch.
–Pha cuối cùng là pha dãn chung, kéo dài 0,4 giây. Lúc này cả tâm thất và tâm nhĩ đều dãn, các
van bán nguyệt đóng, và các van nhĩ – thất đều mở, máu từ tĩnh mạch đổ vào tâm nhĩ và từ tâm nhĩ đổ
xuống tâm thất. Sức làm việc của tim rất lớn. Nguyên nhân của sự không mệt mỏi của tim là do tim
làm việc nhịp nhàng dưới sự điều khiển của hệ thần kinh tự động ở tim. Hoạt động của tim còn chịu sự
điều hoà của thần kinh trung ương thông qua dây giao cảm và dây mê tẩu.
4.2.2.2. Máu và sự tuần hoàn máu
Máu, cùng với bạch huyết và dịch tổ chức, tạo thành môi trường bên trong của cơ thể (nội môi).
Cũng như bạch huyết và dịch tổ chức, máu có thành phần tương đối ổn định, không đổi. Đó là điều
kiện cần thiết của hoạt động sống bình thường của các mô, các cơ quan khác nhau và toàn bộ cơ thể
nói chung. Khi cơ thể bị bệnh, thành phần và thuộc tính của máu thay đổi. Căn cứ vào những thay đổi
này có thể phỏng đoán đến một mức độ nào đó về tính chất của bệnh. Máu là một chất lỏng màu đỏ, có
vị mặn.
a. Chức năng của máu
Máu thực hiện các chức năng quan trọng sau:
- Chức năng hô hấp: Máu vận chuyển oxi từ phổi đến các tế bào, mô, cơ quan và cacbonic từ tế
bào, mô, cơ quan đến phổi để thải ra ngoài.
- Chức năng dinh dưỡng: Máu vận chuyển các chất dinh dưỡng (aminnoaxit, đường glucozơ,
vitamin, muối khoáng, axit béo… ) từ ống tiêu hóa đến các tế bào, mô, cơ quan.
- Chức năng đào thải: Máu lưu thông khắp cơ thể lấy các chất cặn bã từ tế bào đưa đến các cơ
quan bài tiết (thận, phổi, tuyến mồ hôi) để thải ra ngoài.
- Chức năng điều hòa hoạt động các cơ quan: Máu mang các chất tiết của các tuyến nội tiết
(hoocmon) tới các cơ quan trong cơ thể, các chất này kích thích làm tăng cường hoặc ức chế hoạt động
của các cơ quan.
- Chức năng bảo vệ: Trong máu có những tế bào bạch cầu có khả năng thực bào và tiêu diệt vi
trùng. Trong máu có các kháng thể, kháng độc để ngăn cản và tiêu diệt vi sinh vật gây bệnh.
- Chức năng điều hoà thân nhiệt: Máu làm tăng hoặc giảm nhiệt cơ thể một cách nhanh chóng
do trong máu có nhiều nước.
b. Thành phần của máu
Máu gồm 2 thành phần: huyết tương và các yếu tố (thể) hữu hình.
* Huyết tương là một chất dịch màu hơi vàng, trong đó chứa hơn 90% nước; 1% muối natri
clorua, natri cacbonat và vài loại muối vô cơ khác; phần còn lại 7% là prôtêin, trong đó có chất sinh sợi
huyết (phibrinôgen), khoảng 0,1% là đường và có một lượng rất ít các chất khác nữa. Trong huyết
tương còn chứa một lượng khí hoà tan là oxi và cacbonic. Huyết tương chiếm 45% thể tích máu.
* Các thể hữu hình gồm các hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu.
- Hồng cầu là những tế bào hình đĩa, lõm hai mặt, không có nhân, không có khả năng sinh sản.
Hồng cầu người Việt Nam dày 2,3 micrômet, đường kính 7,45 ± 0,2 micrômet. Số lượng hồng cầu ở
người lớn nam giới là 4.200.000 ± 210.000 và ở nữ giới là 3.800.000 ± 160.000 trong 1mm3 máu. Thời
gian sống của mỗi hồng cầu trung bình 100 – 120 ngày, tối đa là 150 ngày. Cứ mỗi giây cơ thể lại có
mấy nghìn hồng cầu do gan, tì và tuỷ xương sinh ra. Có thể nói chức năng cơ bản của hồng cầu là vận
chuyển khí CO2, O2.
- Bạch cầu là những tế bào có nhân, chuyển động được bằng chân giả theo kiểu amip, do đó có
thể vận chuyển, thậm chí ngược với dòng máu. Bạch cầu lớn hơn hồng cầu, có các loại: bạch cầu hạt,
bạch cầu đơn nhân và bạch cầu limphô. Bạch cầu, nhất là bạch cầu trung tính có khả năng thực bào,
tham gia tích cực vào việc bảo vệ cơ thể. Trong mỗi mm3 máu người Việt Nam có 7.000 ± 700 bạch
cầu (nam) và 6.200 ± 550 bạch cầu (nữ). Bạch cầu do tuỷ xương, gan, tì, lách và các hạch bạch huyết
sinh ra.
- Tiểu cầu là những thể nhỏ, không nhân, hình dáng không ổn định, đường kính khoảng 2 – 4
micrômet. Một mm3 máu có 200 đến 400 nghìn tiểu cầu. Tiểu cầu tăng khi bữa ăn có nhiều thịt, lúc
chảy máu và khi bị dị ứng. Tiểu cầu giảm trong bệnh thiếu máu ác tính, ban xuất huyết, choáng phản
ứng, khi bị phóng xạ... Chức năng chính của tiểu cầu là giải phóng trômbôplastin để gây đông máu.
Tiểu cầu chỉ sống 3 – 5 ngày.
c. Nhóm máu:
Căn cứ vào sự hiện hữu của các chất bị ngưng (ngưng nguyên) trên màng hồng cầu và các chất
gây ngưng (ngưng tố) trong huyết tương, người ta chia máu thành các nhóm khác nhau. Máu đã có một
loại ngưng nguyên thì tất nhiên không thể đồng thời có ngưng tố đối lập nên có thể xếp thành 4 nhóm
máu sau:
Các nhóm máu
Tên nhóm Ngưng Ngưng tố
máu nguyên
A A Chống B
B B Chống A
AB A và B Không
O Không Chống A và
Chống B
Nhóm máu O không có ngưng nguyên, cho ai cũng được (gọi là nhóm máu chuyên cho). Nhóm
máu AB không có ngưng tố, nhận của ai cũng được (gọi là nhóm chuyên nhận).
Các nhóm máu ở người Việt Nam
Dân tộc Kinh Mường Tày
Nhóm máu A 19,46% 14,20% 32,46%
B 27,94% 45,54% 35,93%
AB 4,24% 6,68% 0,86%
O 48,35% 33,56% 30,73%
Sự truyền máu
Những người cùng nhóm máu truyền sang nhau dễ dàng.
Nhóm máu O: truyền sang cho mọi nhóm được, nhưng chỉ nhận được máu cùng nhóm (nhóm chuyên
cho)
Nhóm máu AB: nhận được máu của mọi nhóm nhưng chỉ truyền sang cùng nhóm (nhóm chuyên
nhận)
A
O AB
B
B
- Cơ chế vận chuyển chủ động: Khi nồng độ các chât dinh dưỡng ở trong ruột thấp hơn trong máu,
các chất dinh dưỡng này sẽ được gắn vào những chất vận chuyển, vì vậy chúng vẫn được hấp thu vào máu.
Các chất vận chuyển thường là các loại prôtêin khác nhau, muối mật, axit phôtphoric... Ví dụ: vitamin
B1 vận chuyển gluczơ, VTM B6 vận chuyển axit amin.
Hệ mao mạch của ruột non chứa các chất đã hấp thụ được theo tĩnh mạch gánh về gan, rồi từ
gan về tĩnh mạch chủ dưới để về tim. Gan có vai trò điều hoà hàm lượng của một số chất, ví dụ khi hấp
thụ được nhiều gluxit thì gan chuyển thành glycôgen dự trữ ở gan. Khi thiếu glucôzơ trong máu, gan
lại chuyển glycôgen thành glucôzơ. Gan còn có khả năng khử một số chất độc, và dự trữ nhiều chất
khác như vitamin, Fe, Zn, Cu,...
4.2.3.3. Đặc điểm tiêu hoá ở học sinh tiểu học
Những răng hàm lớn đầu tiên được mọc lúc 6 – 8 tuổi. Tới lúc 12 – 14 tuổi, sự thay thế các răng
sữa bằng răng vĩnh viễn được kết thúc. Chiều dài của ống tiêu hoá được tăng lên 2 – 3cm. Lúc 10 – 12
tuổi dung tích của dạ dày đạt đến 0,5dm3. Từ 10 tuổi, do sự tăng trưởng nhanh của cơ thể, sự tăng
trưởng nhanh của ruột được bắt đầu.
4.2.4. Hệ hô hấp
4.2.4.1. Cấu tạo và chức năng hệ hô hấp
a. Cấu tạo hệ hô hấp
Hệ hô hấp gồm có mũi, hầu, khí quản và phổi.
- Mũi: được cấu tạo bởi các xương sụn và bao phủ với lớp niêm mạc. Bề ngoài mặt niêm mạc có
nhiều lông mũi có tác dụng cản bụi. Dưới niêm mạc có nhiều mạch máu sưởi ấm không khí và các
tuyến tiết chất nhày cản bụi, tiêu diệt vi khuẩn. Mũi làm cho không khí qua đó được lọc sạch, sưởi ấm
và làm ẩm. Ngoài ra mũi còn tham gia tiếp nhận các kích thích là mùi nhờ các tổ chức thần kinh trên
thành của khoang mũi.
- Thanh quản: Gồm nhiều mảnh sụn: sụn nhẫn, sụn phễu, sụn giáp, sụn thanh thiệt liên kết với
nhau bằng cơ và dây chằng. Bên trong của thanh quản có lót 1 lớp niêm mạc, trên bề mặt lớp niêm mạc
ở mỗi bên có 2 nếp gấp, đó là các dây thanh âm. Giữa 2 dây thanh âm cùng bên có 1 rãnh lõm xuống
gọi là buồng thanh quản. Khoảng trống giữa 2 thanh âm ở 2 bên gọi là thanh môn . Do áp lực luồng
không khí đi qua thanh quản làm căng (hoặc giãn) dây thanh âm làm thanh môn lúc mở, lúc khép và
phát ra âm thanh. Vai trò: Dẫn khí và phát âm thanh.
- Khí quản gồm 16 – 20 vành sụn móng ngựa, mặt trong có những tiêm mao và tiết dịch nhờn,
để lọc sạch không khí và dẫn khí vào phế quản. KHI tới phổi, khí quản chia thành 2 nhánh đi vào 2 lá
phổi.
- Phổi nằm gồm hai lá phổi nằm trong lồng ngực, phía sau sát với xương sườn, là cơ quan hô
hấp chủ yếu. Ở phổi diễn ra quá trình trao đổi khí giữa cơ thể với môi trường. Mỗi lá phổi bao gồm:
các thùy phổi, tiểu thùy, phế nang và màng phổi bao bọc. Các tiểu phế quản phân nhánh nhỏ dần,
nhánh tận cùng rất nhỏ, đường kính 0,1 – 0,2mm và nối với phế nang. Phế nang là những túi khí nhỏ
(700 triệu - 800 triệu/ 2 lá phổi) đường kính 0,1 - 0,2 mm. Thành phế nang có những sợi đàn hồi và 1
lớp tế bào biểu bì dẹt có khả năng thực bào và tiêu hủy những tế bào lạ. Bao quanh phế nang là mạng
lưới mao mạch dày đặc.
Phế nang là nơi thực hiện sự trao đổi khí.
b. Động tác thở
Không khí trong phổi luôn luôn được đổi mới nhờ động tác thở. Khi cơ liên sườn ngoài co, nâng
xương sườn lên, xương ức nhô ra về phía trước, làm cho thể tích lồng ngực tăng theo hướng trước sau
và hai bên. Đồng thời cơ hoành co và hạ xuống làm cho thể tích lồng ngực tăng theo hướng trên dưới.
Kết quả là thể tích lồng ngực tăng gây ra áp suất âm trong khoang ngực, do đó phổi bị kéo căng làm
tăng thể tích của phổi và không khí từ ngoài tràn vào phổi. Đó là sự hít vào. Khi các cơ liên sườn ngoài
thôi không co nữa, cơ liên sườn trong co, hạ xương sườn và xương ức xuống, làm cho thể tích lồng
ngực giảm theo hướng trước sau và hai bên. Đồng thời cơ hoành dãn trồi lên trên làm cho thể tích lồng
ngực giảm theo hướng trên dưới. Kết quả là thể tích lồng ngực giảm gây áp suất lớn ép lên phổi, làm
cho không khí trong phổi bị đẩy ra ngoài. Đó là sự thở ra.
Khi thở sâu, ngoài các cơ liên sườn và cơ hoành, còn có sự tham gia của cơ ức đòn chũm, cơ
ngực lớn, cơ răng cưa lớn và cơ bụng. Dưới tác dụng của các cơ này, lồng ngực nở rộng hơn khi hít
vào và thu nhỏ hơn khi thở ra. Do đó, lượng không khí được trao đổi ở phổi tăng lên.
Dung tích sống: Dung tích sống là lượng không khí tối đa có thể trao đổi qua phổi trong một lần
thở. Bình thường mỗi lần hít vào thở ra 0,5l, gọi là khí lưu thông. Sau khi hít vào bình thường, nếu cố
gắng hít vào hết sức sẽ đưa thêm vào phổi khoảng 1,5l khí nữa, gọi là khí bổ trợ. Nếu sau khi đã thở ra
bình thường, cố gắng thở ra thật lực, sẽ đẩy thêm ra khỏi phổi khoảng 1,5l khí nữa gọi là khí dự trữ.
Tuy nhiên, dù đã thở ra tận lực thì phổi cũng không xẹp xuống hoàn toàn, trong phổi vẫn còn chứa
khoảng 1,5l gọi là khí cặn. Như vậy, dung tích sống là lượng khí sau khi đã hít vào hết sức rồi thở ra
tận lực. Nó gồm 3 thành phần hợp lại: khí lưu thông, khí bổ trợ và khí dự trữ. Dung tích sống của nam
vào khoảng 3 – 3,5l ; của nữ là 2,5 – 3l. Việc luyện tập thường xuyên có thể làm tăng dung tích sống.
Lượng khí trao đổi qua phổ trong 1 phút gọi là thể tích phút. ở người lớn, bình thường là 6 – 8l, ở trẻ
em thì nhỏ hơn và thay đổi theo tuổi. Khi lao động, nhịp thở tăng và lượng khí lưu thông tăng nên thể
tích phút tăng lên rất nhiều, nếu là lao động nặng có thể lên đến 60 – 100l.
4.2.4.2. Sự trao đổi khí ở phổi và ở tế bào
Ở phổi diễn ra sự trao đổi khí giữa mao mạch phổi về phế nang, còn ở mô diễn ra sự trao đổi
khí giữa tế bào và mao mạch. Sự trao đổi khí diễn ra chủ yếu theo cơ chế khuếch tán. Các loại khí CO2
và O2 khuếch tán từ nơi có nồng độ cao đến nơi có nồng độ thấp. Phân áp của các loại khí tỉ lệ với hàm
lượng của nó.
a. Trao đổi khí ở phổi
Là sự trao đổi khí giữa không khí trong phổi và các chất khí trong máu đến phổi.
Được thực hiện qua bề mặt của phế nang .
Dựa trên hiện tượng khuếch tán các chất khí từ nơi có phân áp cao đến nơi có phân áp thấp.
Cơ chế:
Máu chảy xung quanh các phế nang ở phổi là máu từ tĩnh mạch chảy về tim và được đưa lên
phổi nên có tỷ lệ oxi thấp (phân áp của O2: 37 - 40 mmHg), tỷ lệ CO2 cao (phân áp CO2: 46 mmHg).
Không khí trong phế nang là không khí mới hít vào nên có tỷ lệ oxi cao (phân áp của khí O2:
107 - 110 mmHg), CO2 thấp (phân áp của khí CO2: 40 mmHg).
Do có sự chênh lệch về phân áp của các chất khí ở phế nang và ở máu nên sự trao đổi các chất
khí xảy ra, các chất khí khuếch tán từ nơi có phân áp cao đến nơi có phân áp thấp, theo sơ đồ:
Các chất khí Phế nang Máu đến phổi
Oxy (O2) 107 - 110mmHg 37 - 40 mmHg
Cacbonic (CO2) 40 mmHg 46 mmHg
Kết quả:
Máu đến phổi có màu đỏ sẫm (có nhiều CO2), sau khi trao đổi, trở thành máu đỏ tươi (có nhiều
oxy) ra khỏi phổi trở về tâm nhĩ trái qua tĩnh mạch phổi.
Phế nang nhận CO2 từ máu rồi CO2 được thải ra ngoài qua động tác thở ra.
b. Trao đổi khí ở tế bào
Là sự trao đổi khí giữa các tế bào và máu
Dựa trên hiện tượng khuếch tán các chất khí từ nơi có phân áp cao đến nơi có phân áp thấp.
Cơ chế:
- Tế bào luôn tiêu dùng oxi và thải ra CO2 nên ở tế bào tỷ lệ oxi thấp (P: 0 mmHg),
CO2 cao (P: 60 - 70 mmHg).
- Máu ở mao mạch chảy xung quanh các tế bào là máu động mạch chủ giàu oxi (P: 100 mmHg)
và ít CO2 (P: 40 mmHg).
Do có sự chênh lệch về phân áp của các chất khí giữa máu và tế bào nên xảy ra hiện tượng
khuyếch tán các chất khí theo sơ đồ:
Các chất khí Máu mao mạch Tế bào
Oxy (O2 ) 100 mmHg 0 mmHg
Cacbonic(CO2) 40 mmHg 60 - 70 mmHg
Kết quả:
Máu đỏ tươi khi qua tế bào đã nhường oxy và nhận khí cacbonic trở thành máu đỏ sẫm rồi theo
tĩnh mạch về tim (tâm nhĩ phải).
Tế bào nhận được khí oxy từ máu và thải khí cacbonnic vào máu.
4.2.4.3. Đặc điểm hô hấp của học sinh tiểu học
Sự phát triển của hệ hô hấp còn được phát triển ở học sinh tiểu học. Tới 12 tuổi, sự hình thành
khoang sọ, khoang mũi về cơ bản được kết thúc. Tới 12 tuổi ở em trai, chiều dài của những dây thanh
âm chính thức trở nên lớn hơn so với em gái, điều này làm hạ thấp giọng nói của các em trai. Tới 8 –
10 tuổi, trọng lượng của 2 lá phổi đạt được 455 – 495g. Tần số hô hấp trong 1 phút bị giảm từ 23
xuống 21. Độ sâu của hô hấp tăng từ 163cm3 ở 7 tuổi lên 260cm 3 ở 12 tuổi. Thể tích phút của hô hấp
từ 7 tuổi đến 12 tuổi tăng từ 3650cm3 lên 4700cm 3. Thể tích phút tương đối của hô hấp trên kg trọng
lượng ở tuổi 11 lớn hơn 1,5 lần so với ở người lớn, và là 150cm 3. Bởi vậy, sự cung cấp oxi cho máu và
sự thải CO2 tương đối tốt hơn so với ở người lớn. Dung tích sống của phổi từ 7 đến 12 tuổi tăng từ
1.400cm3 lên 2.200cm3 ở em trai và từ 1.200cm3 lên 2.000cm3 ở em gái. Giới hạn hô hấp được tăng từ
40 lên 60dm3, còn dự trữ hô hấp cũng được tăng lên tương ứng một cách rõ rệt. Theo lứa tuổi, sự hấp
thụ oxi từ 1dm3 không khí tăng đến 35 – 36cm3. Nhu cầu về oxi tăng từ 140cm3 đến 195cm3 trong 1
phút ở trạng thái tĩnh.
4.2.5. Hệ bài tiết
4.2.5.1. Cấu tạo và chức năng của hệ bài tiết
a. Cấu tạo:
Cơ quan bài tiết nước tiểu gồm 2 quả thận, 2 ống dẫn nước tiểu (niệu quản), bóng đái (bàng
quang) và ống dẫn đái. Thận có tổ chức lọc nước tiểu, ống dẫn nước tiểu từ thận xuống bóng đái và
ống dẫn đái dẫn nước tiểu từ bàng quang xuống cơ quan bài tiết nước tiểu ra ngoài.
* Thận:
Gồm 2 quả thận màu đỏ nâu nằm sát thành sau khoang bụng ở hai bên cột sống (từ đốt sống
ngực 11 - 12 đến đốt sống lưng 1 - 2). Thận phải thấp hơn thận trái 2 - 3 cm.
Kích thước: dài 10 - 12 cm, rộng 5 - 6 cm, dày 3 - 4 cm. Khối lượng: 100 - 120 g
Hình dạng: hạt đậu, chính giữa bờ cong nhỏ là rốn thận, là nơi ra vào của động mạch, tĩnh mạch,
dây thần kinh, niệu quản.
Mỗi quả thận gồm 2 miền: Miền vỏ nằm ngoài màu nâu đỏ, dày 5 - 7 mm, có nhiều mao mạch
và các cấu trúc hình hạt gọi là cầu thận; miền tủy nằm trong, màu sáng, chứa hệ thống ống thận tạo
thành các hình tháp, đáy của tháp bắt nguồn từ lớp vỏ, còn đỉnh thì hướng vào bể thận.
Đơn vị hoạt động của thận là Nephron. Mỗi quả thận gồm khoảng 1 triệu đơn vị thận. Mỗi đơn
vị thận gồm: cầu thận, ống thận.
- Cầu thận: gồm nang Bowman và quản cầu Malpghi. Nang Bowman là 1 khoang rỗng bao bọc
lấy quản cầu, nang Bowman thông với ống thận. Quản cầu Malpighi: là 1 búi mao mạch (khoảng 50
mao mạch rất nhỏ), quản cầu nằm gọn trong nang Bowman.
- Ống thận: gồm ống lượn gần, quai Henle, ống lượn xa.
Ống góp: không thuộc đơn vị thận mà nhận nước tiểu từ nhiều đơn vị thận đổ tới. Nhiều ống
góp nhỏ đổ vào ống góp chung và nhiều ống góp chung chụm đầu lại thành bó tháp thận để đổ nước
tiểu vào bể thận.
* Niệu quản
Gồm hai niệu quản hình ống dài 25 - 30 cm, xuất phát từ bể thận và nối với bàng quang. Thành
niệu quản, có ba lớp: Lớp ngoài là màng liên kết, lớp giữa là cơ trơn: gồm cơ vòng, cơ dọc, lớp trong là
màng nhầy. Niệu quản co bóp trung bình 1 - 2 lần/ phút đưa nước tiểu xuống bàng quang.
* Bàng quang
Nằm ở hố chậu bé trước trực tràng (ở nam), trước tử cung và âm đạo (ở nữ). Thành bàng quang
gồm 3 lớp: Lớp ngoài: là màng liên kết ; lớp giữa: là cơ vòng, cơ dọc đan chéo vào nhau, đầu dưới
bàng quang (cổ bàng quang) cơ vòng tạo thành cơ thắt trơn ở trong và một cơ thắt vân ở ngoài, các cơ
này chỉ giãn ra khi đi tiểu; lớp trong là niêm mạc có nhiều nếp gấp có tác dụng làm cho bàng quang
giãn ra khi chứa nhiều nước tiểu.
* Niệu đạo
Là một ống nhỏ có nhiệm vụ dẫn nước tiểu từ bàng quang ra ngoài. Ở nam niệu đạo chung với
đường dẫn tinh.
b. Cơ chế tạo nước tiểu:
Cơ chế tạo nước tiểu theo quy luật áp suất thẩm thấu và những phương thức vận chuyển tích
cực. Có 2 giai đoạn chủ yếu: lọc ở nang Baoman và lọc ở ống thận.
* Giai đoạn lọc ở nang Baoman
Diễn ra ở nang Bowman và kết thúc bằng sự tạo thành nước tiểu đầu (dịch lọc).
Động mạch thận mang máu đến thận được phân chia thành nhiều động mạch nhỏ và cuối cùng
tạo thành hệ thống mao mạch của quản cầu Malpighi. Ở đây máu có áp lực lớn nên nước và các chất
hoà tan trong nước (trừ protein) được thấm qua thành mao mạch vào khoang Bowman tạo thành nước
tiểu loạt đầu.
Trung bình mỗi phút có 1300ml máu chảy qua thận (tương đương 650 ml huyết tương) và có
125 ml dịch lọc được tạo thành.
Mỗi ngày thận lọc khoảng 170 - 180 lít dịch lọc (nước tiểu loạt đầu).
Thành phần nước tiểu lọat đầu gần giống thành phần huyết tương gồm nước, đường glucozơ,
muối, chất thải.
* Giai đoạn lọc ở ống thận (tái hấp thu hình thành nước tiểu chính thức)
Xảy ra ở các ống nước tiểu uốn khúc (ống lượn gần, quai Henle, ống lượn xa) và kết thúc bằng
sự tạo thành nước tiểu chính thức.
Nước tiểu loạt đầu chảy theo chiều dài của ống thận, nhiều chất được hấp thu trở lại máu:
+ Nước hấp thu: 98 - 99 %.
+ Protein, axit amin: hấp thu 100 %.
+ Glucozơ: được hấp thu hòan toàn nếu nồng độ trong máu nhỏ hơn 180mg/l.
+ Na+ Cl – ; vi tamin: hấp thu lại 98 %.
+ Một số chất khác: axit Uric, Ure, Ca2++ , H3PO4: được hấp thu với tỉ lệ thấp.
+ Creatin, xenlulô, H2SO4...: không được hấp thu.
Cùng với quá trình tái hấp thu, 1 số chất như sản phẩm quá trình chuyển hóa (NH 3, K+), một số
chất lạ, màu thực phẩm… được bài tiết vào ống thận.
Kết quả từ 170 - 180 lít dịch lọc đã tạo thành 1 - 1,5 lít nước tiểu chính thức.
Nước tiểu chính thức theo các ống góp đổ vào các tháp thận rồi vào bể thận.
Thành phần nước tiểu chính thức gồm: nước, ure, axit uric, creatin, các sản phẩm trao đổi, một
số muối vô cơ ….
c. Sự bài tiết nước tiểu:
Nước tiểu chảy xuống bóng đái nhờ nhu động của 2 niệu quản, cổ bóng đái có cơ thắt trơn ở
phía trên và cơ thắt vân ở phía dưới. Các cơ này chịu sự chi phối của trung ương thần kinh. Khi nước
tiểu chứa đầy bóng đái làm căng bóng đái, kích thích cơ quan thụ cảm, làm xuất hiện xung động thần
kinh truyền về trung khu phản xạ tiểu tiện ở tuỷ sống, gây ra phản xạ. Trung khu ở tuỷ sống lại chịu
ảnh hưởng của các trung khu cao hơn như hành tuỷ, não trung gian và vỏ não. ở trẻ em, khả năng kìm
nén phản xạ tiểu tiện được tăng dần theo tuổi.
d. Sự bài tiết qua da:
Mồ hôi được tiết ra liên tục. Số lượng mồ hôi tiết ra trong một ngày phụ thuộc vào nhiệt độ
không khí bên ngoài. Khi nhiệt độ môi trường thấp, mỗi ngày cơ thể tiết 500 – 700ml mồ hôi. Còn khi
nhiệt độ môi trường cao, mồ hôi tiết ra nhiều hơn, có thể tới vài lít. Sự tiết mồ hôi có tác dụng điều hoà
thân nhiệt. Muốn thân nhiệt không thay đổi, cơ thể phải luôn bài tiết ra ngoài một lượng nhiệt nhất
định. Lượng nhiệt này một phần thoát ra ngoài cùng với khí thở ra, một phần theo phân và nước tiểu,
nhưng có khoảng 90% là qua da. Sự tiết mồ hôi được điều hoà bởi hệ thần kinh. Phản xạ tiết mồ hôi là
phản xạ tự động do tuỷ sống và hành tuỷ điều khiển, kích thích trực tiếp là nhiệt độ của môi trường
xung quanh.
4.2.5.2. Đặc điểm bài tiết của học sinh tiểu học
Bề mặt tương đối của da trên 1kg trọng lượng cơ thể ở học sinh tiểu học vượt bề mặt thân thể
của người lớn 0,5 lần. Do đó, sự toả nhiệt ở chúng lớn hơn rõ rệt so với ở người lớn. Lượng nước tiểu
trong 1 ngày đêm tăng lên đến 0,5dm3, còn lượng nước tiểu trong 1 khẩu phần là 150 – 250cm3. Khối
lượng tương đối của urê, axit uric, muối clorua và phôtphat trên 1kg trọng lượng nhỏ hơn chút ít so với
ở trẻ mẫu giáo, nhưng khối lượng tuyệt đối của chúng lại lớn hơn một cách rõ rệt. Bởi vậy tỉ trọng
nước tiểu tăng lên. Do sự hoàn thiện chức năng của hệ thần kinh mà các quá trình thực vật trở nên ổn
định hơn.
4.2.6. Hệ thần kinh
4.2.6.1. Tế bào thần kinh (nơ ron)
a. Cấu tạo
Tế bào thần kinh vừa là đơn vị cấu tạo vừa là đơn
vị chức năng của hệ thần kinh. Đó là những tế bào được
biệt hoá cao thích nghi với chức năng phát sinh và dẫn
truyền xung động thần kinh. Chúng có hình dạng, kích
thước khác nhau nhưng đều gồm 3 phần:
* Thân tế bào: Hình cầu, hình que hoặc hình sao.
- Ngoài là màng
- Trong là nguyên sinh chất chứa vô số những hạt
màu xám (gọi là thể NISS) chứa nhiều ARN.
Hình
6.1. Tế bào thần kinh
Thể NISS chứa đựng bí ẩn về bản chất hoạt động
của tế bào thần kinh. Khi tế bào thần kinh mệt mỏi, tổn
thương thì thể NISS cũng mất theo.
- Giữa là nhân chứa ADN
* Nhiệm vụ của thân tế bào:
- Nuôi dưỡng tế bào
- Truyền hưng phấn
- Giữ lại dấu vết hưng phấn đã truyền qua
- Tạo nên chất xám ở vỏ não và tủy sống
* Đuôi gai (tua ngắn)
Là những tua bào tương ngắn và phân nhánh ở gần thân tế bào, làm nhiệm vụ tiếp nhận các
xung thần kinh.
* Sợi trục (tua dài)
- Là một tua bào tương dài từ một vài m đến 1m.
- Đầu tận cùng chia thành nhiều nhánh, tận cùng của mỗi nhánh được nối với các tua ngắn của
các tế bào thần kinh khác (phần nối đó gọi là diện tiếp hợp - xi náp).
- Sợi trục thường được bao bọc bởi các tế bào Schwanm tạo nên lớp vỏ. Các tế bào Schwanm
xếp không liền nhau tạo nên những khe hở (eo Ranvier), có tác dụng dẫn truyền hưng phấn rất nhanh.
Giữa các lớp của tế bào Schwanm có chứa chất myelin có tính cách điện.
- Các sợi trục tập trung thành từng bó sợi thần kinh, tạo nên chất trắng của hệ thần kinh.
- Nhiệm vụ: dẫn truyền xung động thần kinh.
b. Nhiệm vụ của nơ ron
- Tiếp nhận, xử lý, tàng trữ thông tin.
Thực hiện được nhiệm vụ này là do nơ ron có khả năng hưng phấn (hưng phấn là sự thay đổi từ
trạng thái nghỉ ngơi sang trạng thái hoạt động, biểu hiện trước hết ở sự xuất hiện dòng điện động của
nơ ron).
- Dẫn truyền thông tin
+ Trong 1 nơ ron hưng phấn được dẫn truyền theo 1 chiều từ tua ngắn sang thân tế bào, rồi sang
tua dài.
+ Sự dẫn truyền từ nơ ron này sang nơ ron khác được thực hiện qua xi náp bởi các chất môi giới
hóa học.
Xi náp là nơi tiếp xúc giữa nhánh tận cùng của sợi trục tế bào thần kinh trước với đuôi gai hoặc
thân của tế bào thần kinh tiếp theo.
+ Tốc độ dẫn truyền phụ thuộc vào cấu tạo sợi thần kinh. Các sợi thần kinh có đường kính to
dẫn truyền nhanh hơn các sợi nhỏ, các sợi có vỏ mielin dẫn truyền nhanh hơn các sợi không có vỏ
mielin.
+ Trong 1 bó sợi thần kinh, xung động được dẫn truyền riêng rẽ trong từng sợi.
4.2.6.2. Hệ thần kinh người
Vai trò của hệ thần kinh người
- Nhờ có hệ thần kinh nói chung và bộ phận trung ương nói riêng – não bộ và tuỷ sống – mà cơ
thể tiếp nhận được tất cả mọi biến đổi xảy ra trong môi trường bên trong và bên ngoài, và phản ứng lại
một cách tích cực đối với những biến đổi đó, làm thay đổi quan hệ của mình đối với chúng.
- Hệ thần kinh bảo đảm hoạt động thống nhất của các mô và cơ quan với nhau, điều chỉnh sự
hoạt động của chúng làm cho hoạt động của các cơ quan thích nghi với những điều kiện luôn thay đổi
của môi trường bên ngoài trong từng thời điểm riêng lẻ cũng như trong suốt cuộc đời của cơ thể.
- Nhờ có phần cao cấp của hệ thần kinh – bán cầu đại não và đặc biệt là vỏ não – mà con người
có tư duy và tâm lí. Vỏ não là cơ sở vật chất của toàn bộ hoạt động tâm lí của con người. Hệ thần kinh
chính là cơ quan điều khiển, điều hoà và phối hợp các hoạt động của cơ thể như là một khối thống
nhất.
Chiếm tỉ trọng
Thành phần Chiếm tỉ trọng (%) Thành phần (%)
-2 35,2 +2 20,4
CO3 Ca
12,4 3,4
-2 +2
SO4 Mg
- 5.7 + 5,8
Cl Na
11,7 + 2,1
SiO2 K
0,9 2,7
- (FeAl2)O3
NO3
2.1.1.2. Cấu trúc của phân tử nước
Công thức đơn giản nhất của nước là H2O. Các hạt nhân của các nguyên tử hiđro và oxi trong
phân tử nước tạo thành tam giác cân, ở đỉnh là hạt nhân của nguyên tử ôxi còn ở đáy là các hạt
nhân hiđrô. Do cấu trúc không đối xứng nên nước là phân tử có cực.
2.1.2. Một số tính chất và hằng số vật lí quan trọng của nước
Nước là một chất lỏng trong suốt, không màu, không mùi, không vị. Lớp nước sâu có màu
xanh. Nước có tính chất vật lý bất thường, khác với tất cả các chất khác.
o
Khối lượng riêng lớn nhất của nước ở nhiệt độ 4 C là 1g/ cm3; dưới và trên nhiệt độ này khối
lượng riêng của nước nhỏ hơn. Chính vì vậy, vào mùa đông, ở xứ lạnh biển, hồ đóng băng lớp nước
trên bề mặt, còn ở dưới, các sinh vật vẫn tồn tại.
o o
Nhiệt độ nóng chảy của nước là 0 C và nhiệt độ sôi là 100 C ở áp suất 1atm.
Nhiệt độ sôi và nhiệt độ nóng chảy của nước khác biệt so với nhiệt độ sôi và nhiệt độ nóng
o
chảy của những hợp chất có thành phần và cấu trúc tương tự như lưu huỳnh (H2S sôi ở - 60,75 C);
o o
Sê len (H2Se sôi ở - 41 C) ;Tulen (H2Te sôi ở - 1,8 C) là những nguyên tố nằm cùng nhóm với oxi,
cũng như khác với các hợp chất hiđrô khác của các phi kim.
Nhiệt hoá hơi của nước ở các điều kiện chuẩn là 2250 j/g lớn hơn các chất
khác, vì thế nước có thể sử dụng rộng rãi trong các quá trình truyền nhiệt.
o
Nhiệt nóng chảy ở 0 C là 333 j/g.
Nhiệt dung riêng 4,18 j/kg cao hơn nhiệt dung riêng của các chất lỏng khác (trừ amôniac)
nên nước có thể ổn định nhiệt độ và điều hoà khí hậu ở các vùng Địa lý khác nhau trên Trái Đất.
- Nước có hằng số điện môi là 81 và chiết suất 1,33. Nước là dung môi quan trọng có khả năng hoà
tan nhiều chất.
Về phương diện hoá học nước là hợp chất rất có khả năng phản ứng. Các kim loại kiềm, kiềm
thổ phản ứng mạnh với nước ở nhiệt độ thường. Nhôm và magiê đang cháy có thể cháy tiếp trong
hơi nước. Các kim loại chuyển tiếp như sắt, kẽm, niken, côban...tác dụng với nước ở nhiệt độ cao
bằng phản ứng thuận nghịch. Thuỷ ngân và các kim loại quý không tác dụng với nước. Nước còn
tham gia các phản ứng hiđrat hoá và các phản ứng thuỷ phân. Nước có khả năng hoà tan một số chất
rắn, là dung dịch điện li với các cation, anion. Khi nồng độ chất tan càng lớn thì nhiệt độ sôi của
dung dịch càng cao và nhiệt độ đóng băng càng thấp. Độ hoà tan của không khí trong nước phụ
thuộc vào nhiệt độ và áp suất. Thường độ hoà tan của khí tăng khi nhiệt độ giảm và áp suất tăng.
Nước còn là chất xúc tác cho nhiều phản ứng. Nước được sử dụng rộng rãi, làm dung môi và thuốc
thử đối với các quá trình hoá học khác nhau, được sử dụng để làm lạnh và nhiều mục đích khác.
2.1.3 Các nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước
Môi trường nước bị ô nhiễm chủ yếu do các loại nước thải công nghiệp từ các nhà máy hoá chất,
nước thải không qua xử lí từ các khu dân cư, nhà hàng, bệnh viện chảy vào các sông suối ao hồ, các
chất dùng trong nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ... mà con người đã phun trên
đồng ruộng chưa phân huỷ hết bị nước mưa cuốn theo chảy vào các sông, suối và đổ vào đại dương
gây ô nhiễm. Nước bị ô nhiễm ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng nước sinh hoạt, tới sức khoẻ và gây
ra nhiều bệnh tật cho con người. Cách khắc phục là phải xử lý nước thải.
2.2. Tìm hiểu vai trò và đặc điểm của khí quyển, ánh sáng, âm thanh
2.2.1. Khí quyển
* Vai trò của khí quyển
Khí quyển là lớp không khí bao quanh bề mặt Trái đất. Khí quyển có tác dụng duy trì và bảo vệ sự
sống trên Trái Đất, ngăn chặn những độc hại của tia tử ngoại, những tia phóng xạ từ vũ trụ đến Trái
Đất. Nhưng nó lại cho ánh sáng nhìn thấy, tia hồng ngoại và sóng vô tuyến đi vào trái đất. Khí
quyển còn giữ cho nhiệt độ trên Trái Đất luôn luôn ổn định, cũng là nơi cung cấp ôxi, khí cácbônic,
hợp chất chứa nitơ, hơi nước... rất cần cho sự sống con người, động vật và thực vật. Căn cứ về tính
không đồng nhất về nhiều mặt như nhiệt độ, áp suất, chiết suất... mà các nhà Khoa học đã chia khí
quyển ra nhiều tầng khác nhau. Mỗi tầng của khí quyển được đặc trưng bởi nhiệt độ và áp suất với
những đặc điểm riêng biệt của những hiện tượng vật lý, hoá học...
Hàng năm con người thải vào khí quyển khoảng vài trăm triệu tấn bụi. Cũng như nguồn nước ô
nhiễm, không khí đang là vấn đề nghiêm trọng ở nhiều thành phố lớn trên thế giới. Các chất hoá
học nguy hiểm đang được tìm thấy trong cơ thể nhiều trẻ sơ sinh và dự đoán trên thế giới cứ
bốn người thì có một người không khoẻ mạnh do các chất khí ô nhiễm.
2.2.2. Ánh sáng
2.2.2.1. Một số tính chất cơ bản của ánh sáng
Ánh sáng có bản chất là sóng điện từ. Ánh sáng nhìn thấy có bước sóng nằm trong khoảng từ 0,40
μ m đến 0,70 μm. Nó chiếm một giải hẹp trong thang sóng điện từ. Nếu sắp xếp theo thứ tự bước
sóng tăng dần thì sóng điện từ có các loại sau: Tia gamma (γ), tia Rơn ghen, tia tử ngoại, ánh sáng
nhìn thấy, tia hồng ngoại, sóng vô tuyến điện.
Tia hồng ngoại là những bức xạ không nhìn thấy có bước sóng lớn hơn bước sóng của ánh sáng đỏ
(0,75 μ m). Tia tử ngoại cũng là bức xạ không nhìn thấy có bước sóng ngắn hơn bước sóng ánh sáng
tím (0,4 μ m). Tia hồng ngoại, ánh sáng nhìn thấy, tia tử ngoại do các vật bị nung nóng phát ra.
Vật tự phát ra ánh sáng gọi là nguồn sáng (Mặt Trời, ngọn nến đang cháy, đèn điện...). Các vật sáng
bao gồm nguồn sáng và vật được chiếu sáng.
2.2.2.2. Các định luật của quang hình học
a. Định luật truyền thẳng của ánh sáng
Trong một môi trường trong suốt đồng tính ánh sáng truyền theo đường thẳng. Định luật này cho ta
giải thích được các hiện tượng như: sự xuất hiện bóng đen, bóng mờ, nhật thực, nguyệt thực...
b. Định luật phản xạ ánh sáng
Tia phản xạ nằm trong mặt phẳng tới và góc phản xạ bằng góc tới.
c. Định luật khúc xạ ánh sáng
Tia khúc xạ nằm trong mặt phẳng tới và tỉ số giữa sin của góc tới và sin của góc khúc xạ là một đại
lượng không đổi đối với hai môi trường đã cho trước.
Ngoài tính chất sóng của ánh sáng người ta cũng đã chứng minh ánh sáng còn mang tính chất hạt.
Ánh sáng là một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với Trái Đất chúng ta mà Mặt Trời là nguồn
cung cấp năng lượng chủ yếu. Ánh sáng giúp cho người và động vật nhìn thấy mọi vật xung quanh,
giúp cho thực vật tổng hợp nên chất sống, gây ra các phản ứng quang hoá, hiện tượng quang điện và
các hiện tượng khác được ứng dụng trong Khoa học và kỹ thuật.
Ví dụ 1. Phản ứng quang hoá
Các phản ứng hoá học chỉ xảy ra dưới tác dụng của ánh sáng được gọi là phản ứng quang hoá, tác
dụng của ánh sáng trong các phản ứng này được gọi là tác dụng quang hoá. Một trong những phản
ứng quang hoá có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự sống trên trái đất là sự phân li khí cacbônic
xảy ra trong cây xanh dưới tác dụng của ánh sáng. Trong phản ứng này, khi hấp thụ một phôtôn tử
ngoại, phân tử CO2 bị phân tích thành CO và giải phóng O2.
2CO2 + hf → 2CO + O2
Ví dụ 2. Hiện tượng quang điện
Hiện tượng quang điện là sự giải phóng các electrôn ra khỏi bề mặt kim loại, khi tấm kim loại này
được rọi sáng bằng ánh sáng thích hợp. Người ta đã ứng dụng hiện tượng này để chế tạo ra pin quang
điện dùng trong các máy tính bỏ túi, trên các vệ tinh nhân tạo...
2.2.3. Âm thanh
- Các vật dao động (rung động) phát ra sóng âm. Tai con người cảm thụ dao động âm có tần số từ
16Hz đến khoảng 20.000Hz. Sóng âm truyền được trong chất khí, chất lỏng và chất rắn với vận tốc
khác nhau (không truyền được trong chân không). Những vật liệu như bông, nhung, xốp truyền âm
kém.
- Những đặc tính sinh lý của âm đó là: Độ cao của âm, âm sắc, độ to của âm liên quan đến sự cảm
thụ âm của con người. Âm thanh rất cần cho cuộc sống con người. Tuy nhiên mức cường độ âm lớn
sẽ làm ảnh hưởng đến sức khoẻ gây mệt mỏi, giảm thính lực ảnh hưởng xấu đến hệ thần kinh.
2.3. Tìm hiểu một số chất khí trong khí quyển
Các chất khí có vai trò rất quan trọng và là những thành phần cơ bản trong khí quyển, có ý nghĩa
sống còn đối với sinh giới đó là oxi (~20,947% thể tích), nitơ (~78,082% thể tích), khí cácbonic
-2 -5
(~3,50.10 % thể tích), hiđrô (~5.10 % thể tích).
2.3.1. Ôxi
2.3.1.1. Trạng thái tự nhiên
Ôxi là nguyên tố phổ biến nhất cấu tạo nên vỏ Trái Đất. Trong khí quyển ôxi chiếm khoảng 23% về
khối lượng, trong nước 89%, trong các thành phần của nhiều chất hữu cơ có nguồn gốc thực vật và
động vật. Không có oxi thì người và động vật không thể sống được. Không có oxi thì cũng không có
sự cháy.
2.3.1.2. Một số tính chất cơ bản
- Ở điều kiện thường, ôxi là chất khí không màu, không mùi, tan ít trong nước và trong các dung môi
o o
khác. Ở áp suất khí quyển oxi hoá lỏng ở -183 C, hoá rắn ở - 219 C. Ở trạng thái rắn và lỏng ôxi có
màu xanh da trời. Oxi nặng hơn không khí 1,106 lần. Ở nhiệt độ thường một lít oxi nặng 1,428 g.
- Ôxi tác dụng với hầu hết các kim loại (trừ một số kim loại quý) tạo thành các ôxit.
- Ôxi tác dụng với hầu hết các phi kim (trừ halogen) tạo thành oxit axit hoặc axit không tạo muối.
- Ôxi nguyên tử hoạt động hơn ôxi phân tử. Tính chất này được sử dụng để tẩy trắng những vật liệu
khác nhau (dễ phá huỷ màu của các chất hữu cơ). Oxi phân tử có thể tồn tại dưới dạng ôxi (O2) và
ôzôn (O3).
- Ôxi được sử dụng rộng rãi trong kĩ thuật. Quá trình oxi hoá xảy ra trong oxi mạnh hơn trong không
khí. Oxi được dùng để tăng cường quá trình oxi hoá trong công nghiệp hoá học và công nghiệp luyện
kim. Ôxi tinh khiết được dùng trong y học, trong các bình dưỡng khí khi làm việc dưới nước, dưới
hầm mỏ.v.v. cũng như dùng làm chất ôxi hoá của nhiên liệu tên lửa.
2.3.2. Nitơ
2.3.2.1. Trạng thái tự nhiên
Không khí là nguồn cung cấp nitơ lớn nhất. Nitơ tự do chiếm khoảng 78% thể tích không khí. Ở trạng
thái liên kết, nitơ có trong natri nitrat hay diêm tiêu (NaNO3), tìm thấy nhiều mỏ ở Chi Lê. Trong
đất ở khắp nơi có một lượng nitơ đáng kể dưới dạng các muối tan. Nitơ tham gia vào cấu tạo các
hợp chất dưới dạng phân đạm cung cấp cho đất để nuôi sống cây trồng.
2.3.2.2. Một số tính chất cơ bản
c
Nitơ là chất khí không màu, không mùi, không vị, hoá lỏng ở -195,8 C; hoá rắn ở nhiệt độ -
c o
209,86 C. Nitơ hoà tan trong nước rất ít. Một lít nước ở 0 C hoà tan 0,23 lít khí nitơ, oxi hoà tan
trong nước lớn hơn nitơ khoảng hai lần, điều đó rất quan trọng đối với các loài động vật sống
dưới nước. Nitơ không cháy và không duy trì sự cháy như ôxi. Ở nhiệt độ thường nitơ là một chất
khí rất trơ. Ở nhiệt độ cao thì tính hoạt động hoá học của nitơ tăng lên đáng kể. Ở nhiệt độ hồ quang
điện nitơ kết hợp được với ôxi. Ở nhiệt độ cao nitơ kết hợp với một số kim loại và một số ít hợp
chất. Khi có xúc tác, nitơ tác dụng với hiđrô ở nhiệt độ cao và áp suất cao.
2.3.3. Hiđrô
2.3.3.1. Trạng thái tự nhiên
Hàm lượng của hiđrô trong vỏ Trái Đất gần bằng 1% về khối lượng và 17% về số tổng số nguyên tử.
Hiđro là nguyên tử nhẹ nhất trong tất cả các nguyên tố. Hầu hết hiđro trên Trái Đất có trong thành
phần của nước (khoảng 11% về khối lượng) và trong thành phần của nhiều khoáng chất và đất đá,
cũng như có trong tất cả các hợp chất hữu cơ. Có một lượng nhỏ hiđrô (khoảng 0,00005%) ở trạng
thái tự do trong tầng cao của khí quyển và trong một số khí đốt thiên nhiên.
2.3.3.2. Một số tính chất cơ bản
Trạng thái tự do của hiđro tồn tại dưới dạng phân tử H2 gồm hai nguyên tử.
Ở điều kiện thường, hiđro là chất khí không màu, không mùi. Nó nhẹ hơn không khí 14,5 lần, tan rất
o
ít trong nước (100 thể tích nước hoà tan được 2 thể tích hiđro). Hiđro hoá lỏng ở nhiệt độ - 253 C và
0
áp suất khí quyển, hoá rắn ở - 259 C. Vì có khối lượng phân tử nhỏ, nên hiđro dễ dàng khuếch tán
qua màng xốp và thậm chí qua cả màng kim loại đốt nóng. Khí hiđro có độ dẫn nhiệt lớn hơn không
khí.
Hiđrô có ba đồng vị: proti có số khối bằng 1, đơtơri có số khối bằng 2 và triti có số khối bằng 3.
Phần chính của hiđro tự nhiên là proti (99,98%).Ở nhiệt độ thường hiđrô kém hoạt động về mặt
hoá học. Ở nhiệt độ cao hiđrô tan tốt trong nhiều kim loại (niken, platin, palađi). Hiđrô có thể
tương tác hầu hết với các nguyên tố phi kim: oxi, clo, lưu huỳnh, nitơ. v.v. Tuỳ thuộc vào hoạt tính
của phi kim mà phản ứng diễn ra với tốc độ khác nhau. Ví dụ hiđrô tương tác với flo luôn luôn gây
ra nổ. Phản ứng của hiđro với clo diễn ra rất chậm trong bóng tối và không đun nóng, ngoài ánh
sáng xảy ra rất nhanh, còn khi được kích thích (chiếu sáng, đun nóng) phản ứng có thể diễn ra tức
thời và nổ. Hiđrô cháy trong khí quyển clo. Brôm, iôt phản ứng với hiđrô rất chậm.
Oxi và clo tạo với hiđro thành hỗn hợp gọi là hỗn hợp nổ, khi được kích thích sẽ nổ. Vì vậy khi tiếp
xúc với hiđrô cần phải rất thận trọng. Hiđrô có thể lấy oxi hoặc halogen từ nhiều hợp chất của kim
loại và phi kim. Trong trường hợp này nó là chất khử và được dùng để điều chế kim loại tự do,
các phản ứng này xảy ra ở nhiệt độ cao. Kim loại càng hoạt động, oxit hay clorua của nó càng khó
phản ứng với hiđro. Đa số phi kim tương tác được với hiđro hoặc ở nhiệt độ cao (lưu huỳnh, selen),
hoặc ở nhiệt độ cao có áp suất (nitơ), hoặc có chất xúc tác.
Hiđro nguyên tử hoạt động hơn hiđrô phân tử, vì vậy tất cả những phản ứng với hiđro nguyên tử
xảy ra mãnh liệt hơn. Hiđrô nguyên tử có thể khử nhiều kim loại từ muối của chúng trong dung
dịch nước. Nếu hướng dòng khí chứa hiđro nguyên tử vào chất rắn, thì do tạo thành các phân tử hiđro
o
mà nhiệt độ bề mặt chất rắn tăng đến 4000 C. Phản ứng này được dùng để hàn kim loại.
2.3.4. Khí cacbonic
Cacbon đioxit là một khí, gọi là khí cacbonic, chiếm một lượng rất nhỏ trong khí quyển, nhưng nó là
thành phần không khí quan trọng đối với sự sống trên trái đất. Khí cacbonnic không màu, có mùi và
vị hơi chua, dễ hoá lỏng và dễ hoá rắn, dễ hoà tan trong nước. Cacbon đioxit rất bền với nhiệt, ở nhiệt
độ cao mới phân huỷ. Khí cacbonic không cháy và không duy trì sự cháy. Trong thực tế người ta sử
dụng tính chất này để chữa cháy. Trong công nghiệp hoá học CO2 được dùng để sản xuất sôda,
urê...Nguyên nhân chủ yếu gây ra hiệu ứng nhà kính là khí CO2 trong khí quyển tăng lên.
2.4. Nhận biết một số kim loại thông dụng
2.4.1. Sắt
o
Sắt nguyên chất là kim loại có màu trắng bạc, nóng chảy ở nhiệt độ 1539 C. Khối lượng riêng 7,8
3 -6 -1 o
g/cm , hệ số dãn nở dài 11.10 K , điện trở suất (ở 20 C)
-6
9.10 Ω.m. Nó có tính dẻo và tính dẫn điện, dẫn nhiệt tốt, dễ dàng bị từ hoá và bị khử từ. Tính chất
này của nó được sử dụng trong các máy phát điện, động cơ điện và nam châm điện.
Sắt có độ tinh khiết cao tương đối bền trong không khí, còn sắt thường chứa nhiều tạp chất sẽ bị gỉ
nhanh trong không khí ẩm (bị ăn mòn). Sắt dễ tan trong axit clohiđric, axit sunfuric loãng, tan tốt
trong axit nitric loãng. Ở nhiệt độ thường sắt không tan trong axit sunfuric đặc, còn khi nóng thì
phản ứng tiến hành cho thoát ra khí SO2.
- Ở điều kiện thường sắt không tác dụng với nước, nhưng vì trong nước có oxi,nên sắt chứa tạp
chất sẽ bị ăn mòn dần khi tiếp xúc lâu với nước. Sắt đẩy được nhiều kim loại đứng sau nó trong dãy
điện thế ra khỏi muối.
Những vật liệu và đồ dùng dân dụng phục vụ sinh hoạt không phải dạng sắt nguyên chất mà ở dạng
hợp kim với các bon và các phụ gia khác, đó là gang hoặc thép.
2.4.2. Đồng
o o
- Đồng là kim loại màu đỏ, nóng chảy ở nhiệt độ 1083 C, sôi ở 2877 C. Đồng tinh khiết tương đối
mềm, dễ kéo dài và dát mỏng. Các tạp chất làm tăng độ cứng của đồng. Đồng có độ dẫn điện và dẫn
-8
nhiệt rất cao (điện trở suất 1,7.10 Ω.m). Các tạp chất asen và antimon làm giảm rất nhiều tính dẫn
điện của đồng. Đồng tạo thành những hợp kim khác nhau.
- Đồng là kim loại kém hoạt động. Ở nhiệt độ thường nó phản ứng với oxi của không khí rất yếu.
Đồng bị oxi hoá hoàn toàn khi bị đốt nóng.
- Ở nhiệt độ thường clo khô không phản ứng với đồng, khi có hơi nước thì phảnứng xảy ra khá
mạnh. Khi đốt nóng đồng phản ứng khá mạnh với lưu huỳnh
- Đồng chỉ tan trong axit sunfuric đặc nóng và tan trong axit nitric nguội.
2.4.3. Nhôm
3 o
- Nhôm là kim loại nhẹ, khối lượng riêng 2,7 g/cm ; nhôm có màu trắng bạc, nóng chảy ở 650 C,
o
sôi ở nhiệt độ 2467 C; Nhiệt dung riêng 0,9 j/gk.
- Ở nhiệt độ thường nhôm rất dẻo, dễ kéo thành sợi và dát mỏng thành lá. Có thể chế tạo được lá
nhôm mỏng hơn 0,01mm (dùng để gói bánh kẹo). Nhôm dẫn nhiệt và dẫn điện rất tốt (điện trở suất
-6
2,5.10 Ω.m). Hợp kim nhôm với các kim loại khác rất nhẹ và bền.
- Nhôm là kim loại rất hoạt động. Nhưng trong không khí nó tương đối bền, vì bề mặt của nó được
phủ một lớp oxit mỏng và bền, ngăn không cho nó tiếp xúc với không khí nên trong thực tế nhôm
không bị gỉ ở trong không khí. Nếu sợi dây nhôm được cạo sạch lớp oxit bảo vệ, thì nhôm phản ứng
mãnh liệt với oxi và hơi nước của không khí, chuyển thành khối xốp nhôm hiđroxit.
- Nhôm tan tốt trong axit sunfuric và axit clohiđric loãng.
- Axit nitric loãng và nguội thụ động hoá nhôm, nhưng khi đun nóng nhôm tan trong nó, giải phóng
ra nitơ mônô ôxit, đinitơ ôxit, nitơ tự do hay amoniac.
- Vì nhôm oxit và nhôm hiđroxit có tính lưỡng tính, nên nhôm dễ dàng tan trong dung dịch kiềm,
trừ amoni hiđroxit.
- Nhôm dễ dàng lấy oxi và halogen ở oxit và muối của các kim loại khác. Phản ứng phát ra một lượng
nhiệt lớn.
- Quá trình dùng nhôm khử oxit kim loại để điều chế kim loại của chúng được gọi là phương pháp
nhiệt nhôm. Phương pháp nhiệt nhôm được dùng để điều chế một số kim loại hiếm, là những kim
loại tạo thành hợp chất bền với oxi (niobi, tantan, molipđen, vonfram v.v...).
- Hỗn hợp bột mịn của nhôm và quặng sắt từ được gọi là tecmit. Sau khi đốt cháy tecmit bằng mồi
o
lửa, phản ứng tự xảy ra và nhiệt độ của hỗn hợp lên đến 3500 C. Ở nhiệt độ này sắt ở trạng thái
nóng chảy. Phản ứng này được dùng để hàn ngay tại chỗ những chi tiết bằng sắt.
2.5. Những hiểu biết về thủy tinh, đồ gốm, và vật liệu thông dụng khác
2.5.1. Thuỷ tinh
Thuỷ tinh là chất "vô định hình", khi đun nóng, nó mềm dần rồi mới nóng chảy.
Người ta có thể tạo ra các đồ vật có hình thù rất khác nhau theo cách thổi, ép hoặc cán như: Chai, lọ,
bóng đèn, kính cửa... Thành phần của thuỷ tinh thường gồm Na2O.CaO.6SiO2 hỗn hợp cát thạch anh,
O
đá vôi và sođa ở nhiệt độ 1400 C.
Ở nhiệt độ thường thuỷ tinh là một chất rắn, không mùi, trong suốt; rất cứng, nhưng dòn, dễ vỡ, dẫn
-6 -1
nhiệt kém, hệ số dãn nở nhiệt 8,5.10 K , chiết suất 1,5, không thấm các chất lỏng.
Thuỷ tinh loại thường là không bền với nước. Khi nghiền nhỏ với nước, thuỷ tinh thường cho môi
trường kiềm. Thuỷ tinh thường bị dung dịch kiềm ăn mòn mạnh. Để tăng tính chịu nhiệt và tính bền
hoá học người ta giảm bớt lượng kim loại kiềm và kiềm thổ trong thuỷ tinh và thay bo và nhôm vào.
Muốn làm cho thuỷ tinh có những màu sắc khác nhau, người ta cho thêm vào một số ôxit kim loại.
Ôxit này sẽ tạo nên những silicat kim loại có màu, như coban oxit (CoO) cho màu xanh thẫm, niken
oxit (NiO) cho màu nâu hoặc tím, đồng oxit (CuO) hay crom oxit (Cr2O3) cho màu lục. Đồng kim
loại (CuO2) khi cho vào thuỷ tinh sẽ có màu đỏ.
Thuỷ tinh, đồ vật làm bằng thuỷ tinh được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày của chúng ta.
Ngoài ra nó còn được dùng trong ngành xây dựng, trong công nghiệp, chế tạo các loại kính (kính lúp,
hiển vi, thiên văn) phục vụ cho việc nghiên cứu Khoa học và kỹ thuật. Ngoài những ứng dụng trên,
người ta đã phát minh ra sợi quang dùng trong các "ống dẫn ánh sáng". Sợi quang được làm bằng
thuỷ tinh thạch anh rất tinh khiết. Nó được dùng để truyền tải thông tin đi khá xa mà năng lượng hầu
9
như không suy giảm. Một sợi cáp quang mảnh bằng sợi tóc có thể truyền được 10 cuộc đàm thoại
cùng một lúc.
2.5.2. Đồ gốm
Gốm là những sản phẩm đất nung. Nguyên liệu chủ yếu để làm đồ gốm là đất sét và cao lanh.Đất sét
tự nhiên có thành phần chủ yếu là caolinit, montmorilonit và galoazit và các tạp chất như cát, oxit sắt
v.v
Cao lanh tinh khiết có màu trắng, sờ thấy mịn.
Quá trình sản xuất đồ gốm bao gồm các giai đoạn như sau:
Trộn đất sét hoặc cao lanh với nước làm thành một hỗn hợp nguyên liệu dẻo, tuỳ theo sản phẩm mà
người ta tạo dáng cách nặn, ép và đúc, phơi khô rồi sấy, nung ở nhiệt độ cao, tráng men, trang trí và
nung lại sau khi đã tráng men.
Để sản xuất đồ gốm người ta dùng đất sét có pha thêm cát và một số chất khác như bột đất nung, bột
thạch anh... để khi nung các sản phẩm không bị nứt, vỡ. Đồ gốm gồm có các sản phẩm chủ yếu: gạch
và ngói, đồ sành, đồ sứ.
2.5.2.1. Gạch và ngói
Gạch và ngói được làm từ đất sét loại thường trộn với một ít cát, nhào kỹ vớinước đem nặn, ép khuôn
o
phơi khô rồi đem nung ở nhiệt độ khoảng 900 C. Sau khi nung, gạch và ngói thường có màu đỏ do
ôxit sắt có ở trong đất sét. Vì được nung ở nhiệt độ không cao lắm nên gạch và ngói đều xốp.
o
Gạch chịu nhiệt chịu được nhiệt độ ít nhất là 1600 C. Gạch chịu nhiệt phổ biến nhất là gạch samôt.
Gạch samôt thường làm từ đất sét chịu lửa. Nung trước đất sét chịu lửa, nghiền nhỏ thành bột, trộn
o
với đất sét dẻo và nước, đóng viên, sấy khô và nung lại ở 1450 C. Gạch samôt được dùng để lót lò,
xây lò cho nồi hơi. Ngoài gạch samot ra còn có gạch silimanit, đinas...
2.5.2.2. Đồ sành
0
Những đồ bằng sành được làm từ đất sét và nung ở nhiệt độ cao khoảng 1200 - 1300 C.
Sành là vật liệu cứng, thường có màu xám, vàng hoặc nâu. Sành rất bền đối với hoá chất. Mặt
ngoài của sành là lớp men muối mỏng tạo nên bằng cách vãi muối ăn vào lò nung. Sành được dùng để
sản xuất ra các bình, lọ, chum, vại, hũ v.v...dùng trong gia đình và một số vật liệu xây dựng như các
bình chứa và ống dẫn dùng trong xây dựng.
2.5.2.3. Đồ sứ
Để làm đồ sứ người ta dùng cao lanh, phenspat và thạch anh. Trước hết cao lanh được tinh chế để
loại bỏ tạp chất, nhất là hợp chất sắt. sau đó nghiền mịn nhào kĩ với nước, tạo hình, phơi khô và nung
0 0
lần thứ nhất ở nhiệt độ khoảng 1000 C rồi tráng men và nung ở nhiệt độ cao hơn khoảng 1400 C -
0
1450 C.
Về mặt sử dụng người ta chia gốm ra làm hai loại: Gốm dân dụng và gốm kỹ thuật.
Gốm dân dụng là loại gốm thông thường mà chúng ta sử dụng hàng ngày nhưgạch, ngói, sành
sứ...dùng vào việc xây cất nhà cửa, các công trình xây dựng, làm đồdùng hàng ngày chum, vại, bát
chén...
Gốm kỹ thuật là những vật liệu có những đặc tính khác như chịu nhiệt cao, chịu ăn mòn, chịu mài
mòn, không bị biến dạng khi nén. Nhược điểm nổi bật nhất của gốm là dòn.
Gốm kỹ thuật đã dược sử dụng để thay thế kim loại trong máy bay, tên lửa và tàu vũ trụ. Gốm có vai
trò quan trọng trong công nghiệp điện tử và công nghiệp khác.
2.5.3. Xi măng
Xi măng là hỗn hợp canxi aluminat và những silicat của canxi.
Xi măng Pooclăng là loại xi măng quen thuộc nhất. Thành phẩm của nó ở dạng bột mịn màu lục
xám. Xi măng Pooclăng là sản phẩm thu được khi nung đá vôi, đất sét có nhiều SiO2 và một ít
quặng sắt. Người ta nghiền nhỏ các nguyên liệu và trộn với nhau rất kĩ rồi nung ở nhiệt độ cao trong
lò quay hiện đại.
Khi dùng xi măng để làm chất kết dính trong xây dựng người ta trộn xi măng với cát và nước. Hỗn
hợp phản ứng kết tủa dưới dạng vi tinh thể kết nối và gắn chặt với nhau và đông cứng lại.
Xi măng là vật liệu vô cùng quan trọng trong xây dựng nhà cửa, công trình, cầu cống..
2.6. Tìm hiểu về các nguồn năng lượng
2.6.1. Năng lượng
Theo Lương Duyên Bình (1997) tất cả các dạng cụ thể của vật chất vận động đều có năng lượng.
Năng lượng là một đại lượng đặc trưng cho mức độ vận động của vật chất.Một vật ở trạng thái nhất
định thì có một năng lượng xác định.
Năng lượng tồn tại dưới dạng than, củi gỗ, rơm rạ, bức xạ mặt trời, hạt nhân, năng lượng sinh học,
nước chảy, sức gió, vật đang chuyển động.... các dạng năng lượng này đều có thể biến đổi thành cơ
năng, nhiệt năng, điện năng, quang năng và chúng lại có thể chuyển hoá lẫn nhau.
2.6.2. Các nguồn năng lượng
2.6.2.1. Năng lượng của chất đốt
Đây là nguồn năng lượng sẵn có, dễ kiếm, rẻ tiền như: củi, gỗ, rơm, rạ...được sử dụng rộng rãi và từ
lâu đời thường dùng để đun nấu chủ yếu trong sinh hoạt gia đình ở các vùng nông thôn. Ngoài ra,
người ta còn sử dụng nhiều đến năng lượng dạng hoá thạch như: dầu mỏ, khí hoá lỏng chạy xe máy
ôtô, máy bay. Than đá, than cốc dùng trong các nhà máy nhiệt điện, trong các lò cao luyện gang thép.
Tuy nhiên nguồn năng lượng này ngày càng cạn kiệt do nhu cầu tiêu thụ năng lượng ngày càng cao.
Về môi trường khí cháy thải ra sinh ra ô nhiễm, độc hại.
2.6.2.2. Năng lượng điện
Trong thời đại ngày nay điện là một nhu cầu không thể thiếu được đối với mỗingười, mỗi nhà, mỗi
quốc gia. Điện được sử dụng rộng rãi trong mọi hoạt động đời sống và trong các lĩnh vực Khoa học
kỹ thuật, công nghiệp, thông tin... Thực chất năng lượng điện là sự biến đổi từ các dạng năng lượng
khác nhờ các tiến bộ Khoa học như hoá năng, cơ năng, năng lượng mặt trời, năng lượng hoá thạch...
2.6.2.3. Nguồn năng lượng hạt nhân
Sử dụng năng lượng từ phản ứng phân hạch và phản ứng nhiệt hạch.
* Phản ứng phân hạch - phản ứng dây chuyền
Sự phân hạch là hiện tượng một hạt nhân (loại rất nặng) hấp thụ một nơtrôn rồi vỡ thành hai hạt
nhân trung bình
235
Người ta dùng nơtron chậm bắn phá hạt nhân U thì nó sẽ vỡ làm hai mảnhtrung bình và sinh ra
-11
hai đến ba nơtron đồng thời toả ra một năng lượng khoảng W = 200MeV = 3,2.10 J. Nhưng 1g
235 21
U chứa tới 2,5.10 hạt nhân nên khi phân hạch hoàn toàn sẽ cho năng lượng rất lớn, bằng 8.1010
235
J tương dương 22.000KWh. Theo tính toán lý thuyết thì nếu 1 kg 92 U phân hạch hoàn toàn thì
giải phóng một năng lượng tương đương với năng lượng của 1.800 tấn benzen hay 2.500 tấn than đá.
* Phản ứng nhiệt hạch và năng lượng nhiệt hạch
Nếu cho kết hợp các đồng vị của hiđrô để tạo thành hạt nhân heli thì các phản ứng đó toả ra
năng lượng. Ví dụ:
2 2 3 1
1𝐻 + 1𝐻 → 2��𝑒 + 0𝑛 + 3,25����𝑉
2 3 4 1
1𝐻 + 1𝐻 → 2��𝑒 + 0𝑛 + 17,56����𝑉
Năng lượng nhiệt hạch lớn hơn năng lượng hạt nhân nhiều lần. Tuy nhiên phản ứng kết hợp này rất
khó xảy ra vì theo tính toán phải nâng nhiệt độ lên tới khoảng 50 - 100 triệu độ thì mới duy trì được phản
ứng.
2.6.3. Các nguồn năng lượng sạch (không gây ô nhiễm môi trường)
2.6.3.1. Năng lượng mặt trời
Năng lượng mặt trời là nguồn năng lượng hầu như vô tận, có thể nói đó là nguồn năng lượng của tương
lai. Từ lâu con người đã biết khai thác nguồn năng lượng này để phục vụ cho mình như sưởi ấm, phơi sấy
lương thực, thức ăn... Trong tương lai các nguồn nănglượng hoá thạch dần dần bị cạn kiệt, thì nguồn năng
lượng mặt trời là một trong những nguồn năng lượng được khai thác để đáp ứng nhu cầu năng lượng của
con người. Nguồn năng lượng khai thác từ mặt trời là nguồn năng lượng sạch, không gây ô nhiễm môi
trường. Người ta đã sử dụng năng lượng mặt trời vào thiết bị đun nước nóng (Biến đổi quang năng thành
nhiệt năng), pin mặt trời (hiệu ứng quang điện)...
Ví dụ: Nguyên lí biến đổi quang - nhiệt. Cấu tạo hộp thu phẳng - nhiệt độ thấp (hình 2.1), dựa trên
nguyên lý hiệu ứng lồng kính
Hình 2.1. Hộp thu phẳng thu năng lượng mặt trời
Dựa trên nguyên lí hiệu ứng lồng kính đó là các tia hồng ngoại có bước sóng dài không thể qua được
kính cửa sổ, chỉ cho các tia sáng có bước sóng ngắn hơn
0,7μm qua được kính mà thôi. Phổ bức xạ quang học của mặt trời gồm miền hồng ngoại, miền ánh sáng
nhìn thấy và miền tử ngoại. ánh sáng nhìn thấy có bước sóng λ = 0,4μm ÷ 0,7μm.
Tia hồng ngoại λ ≥ 0,7μm là không nhìn thấy. Khi ta cho bức xạ mặt trời xuyên qua tấm kính ở hình
vẽ thì các tia sáng có bước sóng λ ≥ 0,7μm bị kính ngăn không cho qua. Còn tất cả các tia sáng có λ <
0,7μm thì đi qua tấm kính và đập lên mặt hấp thụ. Do tương tác của các phôtôn lên vật chất làm phát xạ
ra các tia nhiệt thứ cấp có bước sóng dài - tia hồng ngoại, và chúng bị giam lại trong hộp kín. Bản chất
của tia hồng ngoại là "tia nhiệt" nên làm cho vật đặt trong hộp nóng lên.
2.6.3.2. Năng lượng gió
Gió cũng là nguồn năng lượng vô tận mà từ lâu con người đã sử dụng trong đời sống. Người ta đã chế
tạo ra các động cơ gió để bơm nước, phát điện v.v...
2.6.3.3. Năng lượng nước chảy
Con người cũng đã biết sử dụng nguồn năng lượng này từ rất lâu để đưa gỗ, tre,nứa và những lâm sản
khác theo dòng nước chảy từ nơi này đến nơi khác.
Năng lượng nước chảy trên các dòng sông, con suối để làm quay các bánh xe đưa nước lên cao phục vụ
trồng trọt và sinh hoạt. Nước ta đã và đang xây dựng nhiều nhà máy thuỷ điện lớn, sử dụng năng
lượng của dòng nước chảy từ các đập làm quay tuabin kéo máy phát điện, sản xuất ra điện năng phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Nước ta có những nhà máy thuỷ điện lớn là Hoà
Bình, Trị An, Ya-Ly, loại vừa là Thác Bà, Đa Nhim và nhiều nơi khác.
2.6.3.4. Năng lượng thuỷ triều
Thuỷ triều là hiện tượng mực nước ở ven biển, cửa sông lên xuống theo quy luậtxác định với chu kì
24h52ph. Chu kì này đúng bằng khoảng thời gian giữa hai lần Mặt Trăng liên tiếp qua kinh tuyến trên
của mỗi nơi. Nguyên nhân chủ yếu gây ra thuỷ triều trước hết là do lực hấp dẫn của Mặt Trăng.