You are on page 1of 14

Bài văn mẫu lớp 11:

Triết lý nhân sinh trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Dàn ý chi tiết triết lý nhân sinh trong bài thơ Vội vàng

1. Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, và triết lý nhân sinh trong tác
phẩm. (1,0 điểm)
2. Triết lý nhân sinh trong Vội vàng: (1,0 điểm)
Triết lý nhân sinh trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu là triết lý sống
mãnh liệt, sống là tận huởng, tận hiến. Triết lý nhân sinh đó được tắm đẫm
trong cảm xúc trữ tình thành một dòng tâm trạng sống động. Cụ thể:
a. Vẻ đẹp của thiên đường nơi trần thế: (2,5 điểm)
– Thiên nhiên là một khu vườn đầy xuân sắc, xuân tình, tuơi trẻ, đầy sức sống:
“tuần tháng mật, hoa đồng nội…khúc tình si”→ nhà thơ đã phát hiện có một
thiên đường ngay trên mặt đất này với những hoa thơm, trái ngọt của mùa
xuân.
– Vẻ đẹp thiên đường trần thế là do chính con người tạo ra.
– Chính đối mắt “xanh non”, “biếc rờn” của nhà thơ mới đã khám phá, phát
hiện ra vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên. Hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ
ái tình.
b. Trong cuộc sống trần thế, con người là đẹp nhất. Đặc biệt là trong độ tuổi
trẻ và tình yêu: (2,5 điểm)
– Với Xuân Diệu, con người là chuẩn mực cho vẻ đẹp chứ không phải thiên
nhiên là chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người như thơ xưa.
– Nhà thơ đã sáng tạo ra những hình ảnh độc đáo, táo bạo “Tháng giêng ngon
như một cặp môi gần”→ hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình.
c. Con người phải biết tận huởng, sống hết mình với tuổi thanh xuân của mình:
(2,5 điểm)
– Xuân Diệu là người rất nhạy cảm với bước đi của thời gian bởi chính nhà
thơ ý thức được sâu sắc về giá trị của sự sống cá thể trong cuộc đời:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.
→ Khát khao được sống sôi nổi, mãnh liệt, hết mình, tận hưởng phần ngon
nhất của đời người: tuổi trẻ, tình yêu.
– Khát vọng sống đến vồ vập, cuống quýt: “ta muốn ôm’, “ta muốn riết”, “ta
muốn say”, “ta muốn thâu”, “cho chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê”, “muốn
cắn”…
3. Nghệ thuật: (1,0 điểm)
– Ngoài việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật: sử dụng đại từ nhân xưng,
động từ mạnh…
-Triết lí nhân sinh mới lạ của bài thơ còn biểu hiện qua việc sử dụng những
hình ảnh biểu tượng: Mùa xuân – tuổi trẻ. Dùng các hình ảnh biểu tượng là thủ
pháp nghệ thuật quan trọng của văn học lãn mạn. Mùa xuân là biểu tượng của
hạnh phúc, tình yêu và tuổi trẻ…tình yêu là biểu tượng cho hạnh phúc thế
gian. Con người không phải tìm hạnh phúc ở cõi Niết Bàn của phật hay nơi
thiên đường của Chúa mà hạnh phúc khởi phát từ trong lòng người và tồn tại
trên mặt đất.
4. Khái quát vấn đề: (1,0 điểm)
Triết lý nhân sinh trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu thể hiện rõ “cái
tôi” của nhà thơ, một “cái tôi” điển hình cho thời đại thơ mới. Đó là một ý
thức sâu sắc về giá trị đời sống cá thể (một ý thức nhân bản, nhân văn cao).
Một niềm thiết tha với cuộc sống trần thế. Một khát khao mãnh liệt và một tâm
thế sống cuồng nhiệt, tích cực.

Triết lý nhân sinh trong bài thơ Vội vàng - Mẫu 1


Xuân Diệu một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ Mới, ông được đánh
giá là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Đạt được danh vị như vậy
không chỉ bởi những vần thơ mới mẻ, cách luật so với thơ cũ, mà còn bởi
những triết lí nhân sinh hết sức mới mẻ trong thơ ông. Vội vàng được trích từ
tập thơ đầu tay của Xuân Diệu, nhưng đã thể hiện những quan điểm triết lí
nhân sinh mới mẻ, đúng đắn của chàng trai khi tuổi đời mới 22.

Triết lí nhân sinh là những quan niệm của tác giả về thế giới, con người và
vạn vật. Mỗi người sẽ có những quan niệm nhân sinh khác nhau. Đối với Xuân
Diệu trong bài thơ Vội vàng triết lí nhân sinh của ông chính là lối sống tận
hưởng, tận hiến cho cuộc đời. Và nó được thể hiện đầy đủ, trọn vẹn từ đầu cho
đến cuối tác phẩm bằng một giọng văn nhiệt huyết, sôi nổi, thẫm đẫm cảm xúc
trữ tình.

Trước hết Xuân Diệu quan niệm thiên đường không ở đâu xa, mà chính ở
ngay cuộc sống trần thế này.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

….

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Bằng lòng yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên tha thiết, Xuân Diệu đã đưa
người đọc vào một khu vườn mùa xuân đầy màu sắc, âm thanh và ánh sáng:
đồng nội xanh rì của lá non, cành tơ phơ phất trước gió, là khúc tình si hòa
trong không gian mơn mởn sức sống, là ánh sáng ngập tràn khắp nơi. Vẻ đẹp
đó đã được ông hữu hình hóa bằng hình ảnh hết sức cụ thể: “Tháng giêng
ngon như một cặp môi gần”. Một khái niệm thuộc về sự trừu tượng, dưới con
mắt của Xuân Diệu đã được hữu hình hóa, cụ thể hóa bằng cặp môi mọng đầy,
căng tràn của người thiếu nữ. Bằng đôi mắt “xanh non” “biếc rờn” Xuân
Diệu đã khám phá và khẳng định trốn thần tiên chẳng ở đâu xa, mà hiện hữu ở
chính cuộc sống này. Đây là quan niệm hết sức mới mẻ và chính xác, trong bối
cảnh xã hội lúc bấy giờ, không ít nhà thơ, nhà văn lãng mạn thoát li thực tại để
trở về quá khứ (Nguyễn Tuân) hay lẩn tránh vào thế giới siêu nhiên, ma quái
(Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử) thì Xuân Diệu lại nhận thấy vẻ đẹp đích thực của
cuộc sống trần thế. Nó thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh, tiến bộ và tích
cực của ông.

Không chỉ vậy, ông còn quan niệm trong cuộc sống trần thế, con người là
thứ đẹp nhất và đặc biệt là trong độ tuổi của tình yêu. Nếu như thơ xưa luôn
lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp: “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở
nang” “Làn thu thủy nét xuân sơn” (Truyện Kiều Nguyễn Du) thì đối với
Xuân Diệu con người là đẹp nhất, là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp trong cuộc
sống. Khu vườn mùa xuân đã biến thành khu vườn của tình nhân, của tình yêu
nhập tràn. Trong khu vườn ấy có ong bướm lượn từng đàn trong ngày tháng
mật hạnh phúc, có nhưng đóa hoa tươi trong đồng nội xanh rì,.. đâu đâu sự vật
cũng gắn kết, hòa quyện với nhau. Thi nhân từ chỗ cảm nhận vẻ đẹp của mùa
xuân đã chuyển thành kẻ tình nhân si tình trong khu vườn tình yêu. “Tháng
giêng ngon như một cặp môi gần” là một hình ảnh so sánh lạ, sử dụng phép
tương giao của thơ phương Tây, họ cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự
tương giao với nhau, nếu tháng giêng là cự căng mọng, tràn trề nhựa sống của
mùa xuân, thì cặp môi chính là biểu hiện của thanh xuân, của tuổi trẻ. Bằng sự
hữu hình hóa các khái niệm trừu tượng, Xuân Diệu đã hữu hình hóa để tận
hưởng vẻ đẹp mùa xuân một cách rõ nét, trọn vẹn. Đây tiếp tục là quan niệm
nhân sinh mới mẻ, tiến bộ của Xuân Diệu, con người là chuẩn mực của mọi
cái đẹp.

Và cuối cùng, trước cuộc sống quá đỗi đẹp đẽ như vậy con người phải biết
tận hưởng trọn vẹn, không chỉ vậy còn phải tận hiến thanh xuân của mình cho
cuộc đời. Xuân Diệu rất nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian, bởi ông ý
thức được thời gian trôi đi là không bao giờ trở lại.

“Xuân đương tới, nghĩa la xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn


Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.

Thời gian không tuần hoàn, mà chảy trôi một đi không trở lại, cũng giống
như tuổi xuân của con người, chúng ta chỉ có một đời người, một thanh xuân,
làm sao có thể đảo ngược thời gian để sống lại một lần nữa cảm xúc nồng cháy
của thanh xuân. Bởi vậy tôi mới “bâng khuâng” “tiếc cả đất trời”. Chính vì
hiểu được sự chảy trôi của thời gian nên hình thành trong Xuân Diệu khát
vọng sống cuống quýt đến mức vồ vập: tôi muốn ôm, ta muốn riết, ta muốn
say, ta muốn thâu. Càng về sau ước muốn càng trở nên mãnh liệt, “tham lam”
một cách đáng yêu, “thâu” tất cả sự sống, cái đẹp, tình yêu trong một nụ hồn
say đắm, nồng nàn để cho “chếnh choáng” “đã đầy” “no nê” thanh sắc, hương
thơm của cuộc đời. Ông dang rộng vòng tay, mở tung cảm xúc của bản thân để
đón nhận những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời vào lòng. Và cuối cùng là hành
động đầy mạnh bạo, một lời mời gọi đầy tha thiết: “Hỡi xuân hồng, ta muốn
cắn vào ngươi”.

Để thể hiện triết lí nhân sinh mới mẻ của mình, Xuân Diệu đã sử dụng thành
công hình ảnh biểu tượng mùa xuân gắn liền với tuổi trẻ. Mùa xuân chính là
tuổi trẻ, thanh xuân, là hạnh phúc, là tình yêu. Bên cạnh đó ông cũng sử dụng
biện pháp so sánh, điệp từ, các động từ mạnh, lối chuyển đổi cảm giác độc
đáo, góp phần tạo nên sự thành công trong tác phẩm.

Xuân Diệu quả xứng danh là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới.
Ngay từ tập thơ đầu tay với bài Vội vàng ông đã thể hiện quan niệm nhân sinh
mới mẻ của mình, đó là tình yêu vào cuộc sống trần thế và đề cao con người.
Đây là quan niệm nhân sinh tiến bộ và đầy tính nhân văn. Nó cho thấy nhân
sinh quan lành mạnh, tích cực của một con người luôn sống hối hả, gấp gáp để
tận hưởng, tận hiến cho cuộc đời.

Triết lý nhân sinh trong bài thơ Vội vàng - Mẫu 2

Vội vàng, một sáng tác của nhà thơ Xuân Diệu, là một trong số những bài
thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Nhưng có lẽ đây là bài thơ rất khác so với
nhiều bài thơ cùng thời. Vẫn là cảm xúc của cái tôi, vẫn là thiên nhiên, vẫn là
tình yêu, song Vội vàng lại mang theo những ý nghĩa mang đậm chất triết lý
nhân sinh mà trong đời thơ không phải nhà thơ nào cũng thể hiện được.

Một bài thơ lại giàu tính triết lý, những tưởng là điều chỉ xảy ra với những
hồn thơ mang nặng tính suy tưởng, hơi hướng chính luận. Nhưng thơ Xuân
Diệu lại dặt những nỗi niềm cảm xúc. Thật khó có thể tưởng tượng, tính triết lý
sẽ được thể hiện trong thơ ông. Ấy vậy mà triết lý trong Vội vàng lại hình thành
từ chính những cảm xúc ấy. Không những được bộc lộ rất tự nhiên mà nó trở
thành giá trị nội dung vô cùng sâu sắc đằng sau một hồn thơ đa cảm. Triết lý
nhân sinh trong bài thơ được bắt nguồn từ chính quan niệm sống cuồng nhiệt,
đắm say, thiết tha của Xuân Diệu. Đó là quan niệm sống vội vàng. Lối sống của
một cái tôi rất đỗi trần thế, rất con người trong thơ.

Vội vàng là bài thơ “tuyên ngôn” cho người ta thấy, nhất là người trẻ, thế nào
là tình yêu cuộc sống, yêu cuộc đời. Vào những năm ấy thơ ca đương thời đang
ẩn sâu trong nỗi buồn sâu thẳm của cả một thế hệ. Cái nỗi niềm “thiếu quê
hương” khiến họ lẩn tránh trong những góc khuất của quá khứ, trong những
cuộc phiêu lưu ái tình và cả trong những cảnh sắc của thiên nhiên đất nước
mình. Biết bao nhà thơ yêu đời, yêu người tha thiết nhưng vẫn cứ trống trải,
buồn bã, cô đơn. Còn Xuân Diệu thì khác, nhà thơ mang đến hơi thở rất đời, rất
hiện thực mà vẫn dạt dào cảm xúc trong thơ. Vội vàng mở đầu ngay bằng
những khát vọng về tình yêu cuộc đời đầy cháy bỏng, tha thiết:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi

Đó là khát vọng quá ngông cuồng, phi lí của nhân vật trữ tình. Làm sao tắt
nắng? Làm sao buộc gió? Ấy là quy luật của tạo hóa, tự nhiên. Chủ thể trữ tình
lại muốn can thiệp, muốn đoạt quyền để tự mình ngưng đọng thời gian. Mấu
chốt của khát vọng ấy là giữ lại được hương sắc cuộc đời để mà tận hưởng,
đắm chìm. Sẽ không có gì là ngạo mạn hay hoang đường, khi điều đó được
xuất phát từ một tình yêu lớn lao với cuộc sống. Thể hiện tình yêu ấy qua khát
vọng này, nhà thơ đã “tuyên ngôn” cho một lẽ sống mang đậm tính triết lý nhân
sinh.

Nhưng lẽ yêu đời, yêu người không dừng lại ở khát vọng mà ở hiện thực cuộc
sống với những vấn đề trái ngược, đối lập nhau. Xuân Diệu khao khát cuộc
sống này là bởi vì nó đẹp, đẹp như một chốn thiên đường ngay trên mặt đất
nhưng lại đầy lo sợ, run rẩy trước sự trôi chảy nghiệt ngã của thời gian sẽ cuốn
phăng đi tất cả những vẻ đẹp đó. Bởi vậy, phần tiếp theo của bài thơ là sự giãi
bày, tranh biện của Xuân Diệu về cuộc sống, về thời gian để thổ lộ tình yêu tha
thiết của mình. Ông đã tự trả lời cho câu hỏi vì sao lại muốn tắt nắng, buộc gió
bằng đoạn thơ:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân

Nếu lướt qua, người đọc tưởng mình đang lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh
nào đó. Nhưng chợt nhận ra, đó toàn là những thứ rất gần gũi, thân thuộc, ngay
xung quanh mình: ong bướm, hoa đồng nội, lá, yến anh,…. Xuân Diệu chỉ
thêm một động tác là thổi hồn vào đó những gì căng tràn, mơn mởn, tươi non
nhất của sắc xuân và hơi thở ngây ngất, quyến rũ của tình yêu, làm cho vạn vật
đẹp đẽ, giàu sức sống ở thời khắc xuân thì. Các điệp từ của, này đây và thủ
pháp liệt kê đã biến tất cả những thứ đơn sơ ấy trở thành một bữa tiệc của trần
gian mà nhà thơ như ra sức vẫy gọi, mời chào. Thật không sai khi chứng kiến
khung cảnh ấy lại nhớ đến lời của nhà phê bình Hoài Thanh nói: “Xuân Diệu
đã đốt cảnh bồng lai, xua ai nấy về hạ giới”. Bởi vậy mới cho rằng, Xuân Diệu
là nhà thơ của trần thế, ông không kiếm tìm vẻ đẹp ở đâu xa xôi, ở những thứ
cao sang, quý phái. Chính sự đơn thuần, mộc mạc gắn bó với cuộc đời ấy đã
làm tình yêu cuộc sống của nhà thơ mang đậm tính triết lý nhân sinh.

Và trong khoảnh khắc mê đắm khung cảnh thiên nhiên, cuộc sống ấy, nhà thơ
vẫn không quên dành tình yêu cho con người. Ở Vội vàng con người không
hiện lên bằng hình hài, chân dung, số phận nào cụ thể. Chỉ thông qua một cách
so sánh đặc biệt để nhà thơ đưa ra một quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, độc đáo,
khác xưa:

- Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Ánh sáng, tháng giêng là những thứ thuộc về tự nhiên. Mà trước đây, mọi cái
đẹp đều lấy chuẩn mực từ tự nhiên. Nhưng nay Xuân Diệu lại nhìn thấy thứ
ánh sáng buổi bình minh lóe lên lại đẹp như cái chớp hàng mi của người thiếu
nữ, hay tháng giêng – tháng của mùa xuân lại ngon như một cặp môi gần. Lấy
con người là thước đo cho mọi cái đẹp, sự hoán đổi thú vị mà vô cùng hợp lý
này đã tạo ra cho nhà thơ một quan niệm thẩm mĩ đầy mới mẻ và có ý nhĩa
nhân sinh sâu sắc. Đó là cách nhà thơ tự khẳng định, đề cao và tôn vinh con
người. Không phải là thứ gì khác, con người mới chính là sản phẩm tuyệt vời,
đẹp đẽ nhất của tạo hóa.

Thế nhưng thiên nhiên, con người dẫu đẹp đến đâu cũng không thể chống lại
được quy luật của thời gian. Xuân Diệu đã dùng cả một đoạn thơ dài như lời
tranh biện hăng say để nói lên sự nghiệt ngã trong quy luật ấy. Ông nhìn thấy,
thậm chí cảm thấu được từng bước đi của nó. Nên trong hơi thở của sự sống,
nhà thơ như một “bậc tiên tri” dự cảm những điều “chẳng lành” mà thời gian
đem lại. Vẫn là mùa xuân, nhưng không còn tươi non, mơn mởn nữa, mà giờ
đây xuân càng tới nghĩa là xuân càng qua, xuân càng non nghĩa là xuân
đang già. Tại sao Xuân Diệu lại lo sợ đến mức run rẩy như thế? Hóa ra bấy lâu
nay thời gian đâu có tuần hoàn như người ta tưởng, nó vẫn lặng lẽ trôi đi và
cuốn phăng mọi thứ mà không bao giờ trở lại. Mỗi phút trôi qua là một điều
mất mát, với đời người là sự rút ngắn thời gian sống trên cuộc đời. Minh chứng
cho điều ấy, nhà thơ bẽ bàng chỉ ra hiện thực: lòng tôi rộng nhưng lượng trời
cứ chật, tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Bao nhiêu niềm tiếc nuối, ngậm ngùi
lan tràn sang cả cảnh vật thiên nhiên. Đất trời, sông núi, cỏ cây, chim muông
đều trong tình cảnh tan tác, chia lìa bởi nghịch cảnh mang tên thời gian. Nhà
thơ đã thay lời cho biết bao nhiêu hồn ham sống để “cảnh báo” mọi người về
quy luật khắc nghiệt của thời gian. Nhiều người nói rằng, rốt cuộc Xuân Diệu
cũng như bao nhà thơ mới khác, có yêu đời đến đâu cũng vẫn lo lắng, sợ hãi để
rồi buồn thương, chua xót, ngậm ngùi. Vội vàng có điều ấy nhưng nó không
khiến người ta chán nản, lo âu mà như một lời nhắc nhở về thái độ sống sao
cho đúng trước những vấn đề bất trắc của cuộc đời. Như cách nhìn về thời gian
đầy tính mất mát trong bài thơ này, ông đã bộc lộ rất sâu sắc quan điểm có tính
triết lý nhân sinh.

Chính vì thế, Vội vàng không phải là một bài thơ buồn, càng không phải là
một bài thơ nặng nề, ảo não những suy tư. Ngược lại, nó vô cùng khí thế, sục
sôi, nhờ những lời giục giã mạnh mẽ của nhà thơ đối với mọi người về lẽ sống
vội vàng. Thơ Xuân Diệu thường luôn căng tràn nhiệt huyết sống, nhiệt huyết
yêu, đến với Vội vàng người đọc lại càng có ý thức yêu và sống sao cho đúng
đắn. Nhà thơ nhắn nhủ:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm

-Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào người.

Ý nghĩa nhân sinh của bài thơ được tạo nên từ lời giục giã mọi người hãy
“lên đường” để sống. Xuân Diệu khuấy động người ta bằng cách đưa ra hàng
loạt những trạng thái sống mãnh liệt nhất. Nào ôm, nào riết, say, thâu và
cả cắnnữa. Ông không bỏ lỡ một phút sống nào. Xuân Diệu cuống quýt, vồ vập
nhưng không xuề xòa hay tùy tiện. Nếu để ý, ông giục giã mọi người hãy sống
vội vàng vào những khoảnh khắc, thời điểm đáng sống nhất. Cho nên khi sự
sống mới bắt đầu mơn mởn, mây đưa gió lượn, cánh bướm với tình yêu, cái
hôn nhiều… không được để lãng phí. Những giây phút ấy phải sống toàn tâm,
toàn trí, sống toàn hồn. Triết lý nhân sinh nằm ngay ở lời giục giã ấy như thế.
Con người vì cuộc sống mà có lúc xao lòng, mềm yếu, chán nản… nhưng khi ở
vào mỗi khoảnh khắc, nhất là thời tuổi trẻ phải sống sao cho đáng sống, để
không bao giờ phải nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời, cũng không còn
phải tôi muốn tắt nắng đi, buộc gió lại.

Giá trị lớn nhất của triết lý nhân sinh là giúp chúng ta nhận ra con người là
một hiện hữu, chấp nhận đời sống của con người là một thực tại sinh tồn. Vội
vàng. chỉ là một bài thơ chứ không phải một báo cáo triết học. Nhưng Xuân
Diệu qua tác phẩm này cũng vô cùng xứng đáng được liệt vào hàng ngũ những
người có tư duy triết học lớn. Thi phẩm giúp người ta nhận ra một lẽ sống, giúp
chúng ta nhận ra mình sống để làm gì, con người có vai trò, ý nghĩa giá trị ra
sao… Đó chính là triết lý nhân sinh mà nhà thơ gửi gắm, nó đưa tác phẩm vượt
xa khỏi giới hạn của một bài thơ. Chắc chắn bao thế hệ bạn đọc đã qua và mai
sau sẽ vẫn cảm nhận được giá trị to lớn bắt nguồn từ triết lý nhân sinh mà nhà
thơ Xuân Diệu đã thể hiện trong tác phẩm Vội vàng.

Triết lý nhân sinh trong bài thơ Vội vàng - Mẫu 3

“Trên cánh đồng văn chương màu mỡ nhà văn như những hạt bụi bay lượn
trong không khí để tìm những nguồn ánh sáng độc đáo cho riêng mình”. Xuân
Diệu đã tìm cho mình hơi hướng mới về cách sáng tác, sự yêu đời hòa mình
vào thiên nhiên cuộc sống để tìm ra ý nghĩa của cuộc đời. Điều đó đã được ông
thể hiện trong “vội vàng” tác phẩm là sự sáng tạo độc đáo của ông và ở đó còn
thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc.

Quả không sai khi nói rằng thơ là tiếng nói tình cảm và cảm xúc. Nếu
không có cảm xúc thì người nghệ sĩ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay,
ngôn từ cũng chỉ là những xác chữ vô hồn, nằm thẳng đơ trên trang giấy. Nói
như Ngô Thì Nhậm: “thi sĩ phải xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”. Đúng
vậy thơ không phải là những dòng chữ thẳng đứng được sản xuất ra từ trí tưởng
tượng của nhà thơ, mà ở đó phải có hồn, có cảm xúc để tạo ra chất riêng cho
tác phẩm. Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng của thơ tình, là nhà thơ
xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông luôn khao khát một sự sống trỗi dậy từ
vạn vật xung quanh, ông có những ước muốn táo bạo như muốn vươn mình
trong cuộc sống, và điều đó được ông thể hiện trong Vội Vàng là một trong
những tác phẩm nổi tiếng của ông trích trong tập “thơ thơ” xuất bản năm 1938.
Tác phẩm là cảm hứng trội dậy về cuộc sống vội vàng đồn thời cũng thể hiện
triết lý nhân sinh sâu sắc của ông.

Mở đầu bài thơ ta bắt gặp một khát khao táo bạo muốn đoạt quyền của tạo
hóa, để thỏa mãn ước muốn của mình:

“Tôi muốn tắt nắng đi


cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

cho hương đừng bay đi”

Với sự độc đáo và táo bạo, ở đây không chỉ là sự ngông cuồng mà còn thể
hiện những ước muốn vươn lên của tạo hóa, thi nhân muốn tắt nắng, buộc
gió…. ngưng đọng lại những gì đẹp nhất của cuộc đời, không chỉ vậy tác giả sử
dụng thể thơ ngũ ngôn, tái tạo lại sự dứt khoát mạnh mẽ, khẳng định về cái mà
mình muốn làm bằng được. Nhà thơ muốn vũ trụ ngừng quay, thời gian ngừng
chảy để níu giữ những gì tốt đẹp nhất của cuộc sống, để thi nhân tận hưởng
những giây phút của tuổi trẻ bởi tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Với tâm hồn
khao khát sống, khao khát yêu thương, khao khát tận hưởng và khao khát giao
cảm mãnh liệt, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp của xuân phơi phới đầy tình
tứ, ở những cảnh vật quen thuộc

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây của đồng nội xanh rì

Này đây là của cành tơ phơ phất

Của Yến Anh này đây khúc tình si

Và này đầy ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Đây là một bức tranh thiên nhiên, từ chính con mắt xanh non biếc rờn của
tác giả, được khao khát yêu đời, khao khát về cuộc sống. Nxhưng cảnh vật
trước mặt hiện ra thật sinh động, cảnh vật ấy đang ở độ non tơ, diễm lệ. Bức
tranh ấy hội tụ đầy đủ những hương thơm, ánh sáng và màu sắc âm thanh. Đây
chính là phép tương giao, sự sáng tạo mới mẻ của Xuân Diệu khi ông học được
ở Thơ mới. Cảnh vật ông vẽ ra đều có cặp, có đôi như sự tương đồng, sự táo
bạo ấy còn chỗ ông lột tả trong câu thơ

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Bởi lẽ câu thơ là Xuân Diệu đang tưởng tượng tháng giêng ngon, tươi như
cặp môi của một người thiếu nữ đang ở độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời, điều này
càng làm rõ thêm triết lý nhân sinh cao cả về cuộc sống của ông tạo ra. Không
chỉ vậy trong khao khát cháy bỏng ấy, Xuân Diệu bỗng Cảm thấy lo lắng cho
tương lai phía trước:

“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Từ đây cho thấy thi nhân sẽ không dừng lại khi chưa đạt được ước muốn,
câu thơ như bẻ đôi bởi dấu chấm như có hai trạng thái đối ngược nhau: một bên
là lo lắng, một bên là sung sướng, đối lập nhau nhưng nó hoàn toàn có ý nghĩa
tương phản của cuộc sống và cuộc đời. Và Xuân Diệu sẽ không để cuộc sống
trôi qua dễ dàng, mà ông vẽ lên những gì ông có thể tận hưởng đầy đủ. Được
mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” triết lý nhân sinh
của ông càng trở nên sâu sắc khi ông biết nghĩ cho cuộc đời, cuộc sống của
mình: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”

Câu thơ ấy đã làm rõ ý nghĩ của tác giả, đây chính là quy luật của tạo hóa
mà không ai có thể thay đổi được. Nhà thơ nhận thức được điều đó với việc sử
dụng các cặp từ trái ngược nhau “tới – qua, non- già”, tác giả đã tạo ra sự tương
phản sinh động, nhấn mạnh sự trôi chảy của thời gian. Ý thức được điều đó
Xuân Diệu tự nhận thấy “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất” tuổi xuân được
xem là tuổi đẹp nhất của con người, Nếu trôi qua thì sẽ không bao giờ trở lại
được nữa. Ông luôn suy nghĩ về quá khứ để tái hiện nên hiện tại, từ những cảm
nhận đó mà ông thấy sự phai tàn của vạn vật xung quanh nó trôi qua như một
sự quên lãng:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp núi sông đang than thầm tiễn biệt

Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc

Phải chăng hơn vì nỗi phải bay đi

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng hờn độ phai tàn sắp sửa

Tất cả vạn vật, tạo hóa và thời gian trôi vào quên lãng của quá khứ, và một
quá khứ ra đi thì không thể quay lại được nữa, tương lai là một điều mờ mịt vậy
nên tác giả mới thấy được sự trôi chảy của thời gian một cách nhanh chóng.
Đến đây ý thức về cuộc sống của tác giả lại càng ngày càng rõ rệt và Xuân
Diệu đã trở nên vội vàng để bắt kịp với cuộc sống, với thời gian:

“Chẳng bao giờ

Ôi! chẳng bao giờ nữa”

Tác giả đã phải dùng những câu cảm thán để nói về sự trôi chảy của cuộc sống.
Xuân Diệu đã vội vàng đến tận hưởng hết mùa xuân tươi đẹp của mình

“Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều”

Sử dụng điệp từ “ta muốn” làm nên sự vội vàng gấp gáp, để nhấn mạnh nên
cuộc sống không chờ đợi ai và chúng ta phải biết nắm bắt nó. Đến đây triết lý
nhân sinh của ông càng trở nên sâu sắc hơn, bằng một câu thơ kết:

“Hỡi Xuân Hồng ta muốn cắn vào ngươi”


Triết lý nhân sinh của Xuân Diệu mới mẻ, tạo ra sự tươi mới trong thơ ca
về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, cùng với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc tạo
sự táo bạo. Câu thơ giàu hình ảnh gợi cảm, nhấn mạnh sự cần thiết của cuộc
sống với những động từ mạnh tạo sự vội vàng gấp gáp của cuộc sống, cần phải
nắm trọn tất cả những gì tốt đẹp nhất trong cuộc sống, bởi thời gian trôi qua là
không thể quay trở về được nữa.

Đọc xong những câu thơ của Xuân Diệu, ta thấy rằng thơ của ông được
xuất phát từ cuộc đời và “Vội Vàng” là tác phẩm thể hiện rõ sáng tạo nghệ
thuật độc đáo của ông, sự sáng tạo ngông cuồng để tận hưởng những thứ đẹp đẽ
của cuộc đời. Tác phẩm này Xuân Diệu cũng thể hiện được triết lý nhân sinh
sâu sắc một cách tinh tế, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

You might also like