Mon CNXHKH

You might also like

You are on page 1of 21

CÂU HỎI THẢO LUẬN – ÔN TẬP

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN


(PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC)

Họ và tên: Nguyễn Văn Ba


Lớp: H744
Đơn vị công tác: Trường Trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai

Câu 1: Hãy phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân? Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay?
1. Lý luận của Mác – Lênin về giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân
1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô sản thực ra là gì và phù hợp với tồn
tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”. Để chỉ giai cấp công nhân, các nhà
kinh điển dùng nhiều khái niệm như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân ... hoàn
toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình và lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản
hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp như những cụm từ đồng nghĩa để
biểu thị cùng một khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền đại công
nghiệp TBCN, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại. Giai
cấp công nhân hiện đại chỉ bắt đầu sản sinh từ cuộc cách mạng công nghiệp cơ khí - là công nhân đại công
nghiệp. Các ông rất thận trọng khi nói vô sản công nghiệp, phân biệt rất rõ với loại vô sản lưu manh, các loại
tầng lớp vô sản nông thôn và thị thành là những lực lượng khác nhau về chất lượng. Các ông đã viết: "còn
tầng lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối nát của những tầng lớp thấp nhất trong xã hội
cũ, có thể được cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào; nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn
sàng bán mình cho phe phản động hơn”.
Để tìm hiểu bản chất giai cấp công nhân là gì, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xét trên 2 tiêu chí:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công nhân là những tập đoàn người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại
và ngày càng có trình độ xã hội hoá cao.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất TBCN: đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải
bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Trong hai tiêu chí này, C.Mác và Ph.Ăngghen nói tới tiêu chí: một đó là công nhân công xưởng, được coi là
bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại; hai ông cho rằng: “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và
tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của nền đại công
nghiệp”; “công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc cũng vậy ... công
nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền đại công nghiệp hiện đại”.
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh vì chính điều này khiến cho người
công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản: “giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai
cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm,
và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những
công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem
bán như bất cứ một món hàng nào khác, vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống
của thị trường”. Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc trưng cơ bản nhất của giai cấp công nhân dưới
chế độ tư bản, do đó C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
1.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Cống hiến vô cùng to lớn của C.Mác, Ph.Ăngghen đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là các
ông đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Nhờ phát hiện này, các ông đã
khắc phục được hạn chế của các nhà tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng; chỉ ra được lực lượng xã
hội to lớn là giai cấp công nhân, giai cấp có khả năng tổ chức, lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong
là Đảng Cộng Sản nhằm xóa bỏ CNTB xây dựng CNXH, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới và
trong phạm vi từng quốc gia.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương thức sản xuất tương lai; do vậy, về mặt khách
quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ
mọi chế độ áp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới – XHCN và cộng sản chủ nghĩa.
Trong tác phẩm Chống Đuyrrinh, khi nói về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
“… phương thức sản xuất TBCN tạo ra một lực lượng bị buộc phải hoàn thành cuộc cách mạng ấy,
nếu không thì sẽ bị diệt vong” và “thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản hiện đại”.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cần phải
trải qua hai bước: Bước thứ nhất: “… giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị”. Và “Giai cấp vô
sản chiếm lấy chính quyền nhà nước”. Bước thứ hai là: “ Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của
mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư
bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức là trong tay
giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị và để tăng nhanh số lượng những lực lượng sản
xuất” Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân nhất định phải tập hợp được các
tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó, tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị và văn hóa, tư tưởng. Đó là một quá trình lịch sử hết sức lâu
dài và khó khăn.
Trong rất nhiều tác phẩm C.Mác và Ph.Ăngghen đều khẳng định giai cấp công nhân vừa là sản phẩm cơ bản
nhất vừa là chủ thể trực tiếp nhất của nền công nghiệp hiện đại, là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất
tiên tiến, nhưng lại là giai cấp phải làm thuê cho giai cấp tư sản. Trong tác phẩm phê phán cương lĩnh Gôta,
C.Mác khẳng định: “ Giai cấp vô sản là một giai cấp cách mạng so với giai cấp tư sản, bởi vì bản thân nó,
tuy lớn lên trên mảnh đất của đại công nghiệp, nhưng lại muốn làm cho nền sản xuất trút bỏ các tính chất
TBCN mà giai cấp tư sản đang cố duy trì”. Ph.Ăngghen còn chỉ rõ: “thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới
ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại. Phân tích phương thức sản xuất TBCN, từ khi ra đời
và trong quá trình phát triển của nó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ vai trò to lớn của giai cấp tư sản. Các
ông khẳng định rằng: giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên đã cho chúng ta thấy “hoạt động của loài người có
khả năng làm được
những gì”. Bởi vì, giai cấp ấy trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản
xuất nhiều hơn, đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Mặt khác, cùng với sự
phát triển của lực lượng sản xuất to lớn, mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất TBCN đồng thời nảy
sinh. Đó là: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa, với chế độ chiếm hữu tư nhân
TBCN. Việc chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá, với thủ đoạn giá trị thặng dư của công nhân đã dẫn đến kết
cục là: “ Giai cấp tư sản không những đã đúc những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng
những vũ khí ấy, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và
thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như nhau.”
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tiếp tục
khẳng định vai trò sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, đồng thời bổ sung, phát triển
thêm nhiều luận điểm và nội dung lý luận quan trọng. V.I.Lênin đã khẳng đinh “Lực lượng sản xuất của toàn
thể nhân loại là công nhân, rằng giai cấp công nhân đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất”
.V.I.Lênin nêu quan niệm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
trong điều kiện mới là “Giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật
đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn
các giai cấp”. V.I.Lênin còn chỉ rõ “… chỉ có một giai cấp nhất định - chính là công nhân thành thị và, nói
chung, công nhân nhà máy, công nhân công nghiệp - mới có khả năng lãnh đạo được toàn thể quần chúng
lao động và những người bị bóc lột trong cuộc đấu tranh để lật đổ ách tư bản, trong chính ngay quá trình lật
đổ đó, trong cuộc đấu tranh để duy trì và củng cố thắng lợi, trong sự nghiệp sáng tạo ra một chế độ xã hội
mới, chế độ XHCN, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp”.
Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là do những điều kiện khách quan quy định. Tuy nhiên,
để giai cấp công nhân có thể thực hiện được sứ mệnh vẻ vang đó lại phải đòi hỏi hàng loạt nhân tố chủ quan,
trong đó; quan trọng quyết định nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Ngay trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã luận giải rất thuyết phục về quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân, trước hết từ quan hệ lợi
ích: “Những người cộng sản không phải là một Đảng riêng biệt, đối lập với các Đảng công nhân khác.
Họ tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Họ không đặt ra nguyên
tắc riêng biệt nhằm khuôn phong trào vôsản theo những nguyên tắc ấy”. Mục đích trước mắt của
những người công sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các Đảng vô sản khác; tổ chức những người vô
sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền. Với tư cách
là đội tiên phong, những người dẫn dắt phong trào công nhân, trước hết về tư tưởng, lý luận, những người
cộng sản, tập hợp trong Đảng Cộng sản sẽ là tổ chức mà thông qua đó giai cấp công nhân thể hiện vai trò
lãnh đạo của một giai cấp, vươn lên thành giai cấp thống trị.

Sự đổ vỡ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh vai trò to lớn, quyết định của Đảng Cộng
sản với tư cách là nhân tố chủ quan quyết định việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Công
cuộc cải cách, đổi mới với những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của Trung Quốc, Việt Nam do Đảng
Cộng sản khởi xướng và lãnh đạo là những minh chứng hùng hồn thể hiện sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng Sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ của Đảng, của
giai cấp và dân tộc Việt Nam đã từng khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong luận
điểm nổi tiếng: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu
với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế,
giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt
Nam”. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng Sản việt nam về vai trò, sứ mệnh của giai
cấp công nhân Việt Nam, mối quan hệ
giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và giai cấp công nhân Việt Nam là cơ sở đánh giá về vai trò của giai cấp
công nhân Việt Nam trong cách mạng việt nam qua các thời kỳ lịch sử.

2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.


2.1. Khái niệm, đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
“ Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao
động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công
nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.” Để đánh giá đúng về việc thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, trước hết cần thấy rõ những đặc điểm của giai cấp công
nhân Việt Nam, từ lịch sử ra đời đến quá trình phát triển.
Thứ nhất: Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dù số lượng ít, cơ cấu
chưa hợp lý nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn của
dân tộc Việt Nam. Là sản phẩm trực tiếp của hai cuộc khai thác thuộc địa (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX),
giai cấp công nhân Việt Nam chính là sản phẩm của nền đại công nghiệp thực dân, một nền công nghiệp du
nhập vào Việt Nam vì mục đích duy nhất là khai thác tài nguyên khoáng sản từ thuộc địa của tư bản
Pháp. Theo số liệu thống kê, đến trước cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam
mới chỉ gần 10 vạn. Sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai vào năm 1929, giai cấp công nhân Việt Nam đã
lên tới 22 vạn. Từ khi mới ra đời giai cấp công nhân Việt Nam đã tiếp thu truyền thống yêu nước, ý chí tự
cường, tự tôn dân tộc, vì vậy giai cấp công nhân đã sớm đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình khi có
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của dân tộc.
Thứ hai: công nhân Việt Nam xuất thân chủ yếu từ nông dân lao động, có mối quan hệ mật thiết với nông
dân, khối liên minh công – nông sớm được tạo lập. Đây là đặc điểm nổi bật trong lịch sử trưởng thành của
giai cấp công nhân Việt Nam. Một mặt xuất thân từ nông dân, chịu cả hai tầng áp bức của thực dân Pháp và
phong kiến giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó lợi ích với giai cấp nông dân trong sự nghiệp chung là giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức, bất công. Mặt khác, do xuất thân từ nông dân, chưa
được tôi luyện trong nền đại công nghiệp, công nhân Việt Nam, vì chịu ảnh hưởng khá nặng tư tưởng tiểu
nông, chậm hình thành tác phong công nghiệp.
Thứ ba: Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác –
Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập vào
ngày 3/2/1930 là mốc chấm dứt tình trạng tự phát của phong trào công nhân Việt Nam. Giai cấp công nhân
Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên sớm đảm nhận sứ mệnh lịch sử mà dân tộc giao phó là
lãnh đạo cách mạng Việt Nam thông qua đội tiền phong là Đảng
Cộng sản. Vì thế, không có sự cạnh tranh, giành giật vị thế, vai trò lãnh đạo cách mạng với giai cấp tư sản
dân tộc, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam gắn liền với sứ mệnh lãnh đạo cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư: Quá trình trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam chủ yếu gắn liền với cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ nên sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân
tộc do Đảng lãnh đạo. Việc chuyển giai đoạn, từ chiến tranh sang hòa bình, từ chiến đấu sang xây dựng và
bảo vệ tổ quốc đã và đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay trong quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh
tế quốc tế.
Những đặc điểm trên đã tạo điều kiện cho giai cấp công nhân Việt Nam sớm bước lên vũ đài lịch sử, trở
thành giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam được thực hiện từng bước trong quá trình Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930–1931); phong trào đấu tranh dân chủ (1936-1939); phong trào
vận động cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao
động (1939-1945). Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ do Đảng lãnh đạo, kết thúc bằng chiến
thắng Điện Biên Phủ, thể hiện sinh động vai trò nòng cốt của giai cấp công nhân trong khối liên minh công –
nông – binh vững chắc. Bản chất cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiền phong của giai cấp
công nhân Việt Nam còn thể hiện rõ rệt trong việc xác định tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược –
đưa Miền Bắc tiến lên
CNXH; tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giành độc lập dân tộc trọn vẹn cho
cả nước. Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thể hiện hào hùng việc thực hiện sứ
mệnh vẻ vang của giai cấp công nhân trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Báo cáo
chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch
của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, đội
tiên phong dày dạn của giai cấp công nhân Việt Nam, người đại biểu trung thành và đầy đủ lợi ích sống còn,
những nguyện vọng sâu xa và chính đáng của nhân dân Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam, người kết hợp
nhuần nhuyễn và thành công khoa học cách mạng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa Mác – Lênin. Với
nghị lực chiến đấu phi thường và sức sáng tạo vô tận của nhân dân ta, với những tinh hoa trong truyền thống
bồn nghìn năm của dân tộc ta.
Bước chuyển giai đoạn từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sang cách mạng XHCN trên phạm vi cả
nước đồng thời cũng là bước chuyển trong nội dung, nhiệm vụ thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam.
Từ năm 1976, giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện bước thứ hai: tức là sử dụng chính quyền của mình tổ
chức quản lý, phát triển lực lượng sản xuất, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN. Giai cấp
công nhân Việt Nam trong thời kỳ này đóng vai trò là lực lượng đi đầu trong thực hiện đường lối chung của
cách mạng XHCN mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch ra.
Đường lối chung đó đã được đại hội xác định: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, tiến hành động thời ba cuộc cách mạng…góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH”.
Thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn – là giai cấp tổ chức xây dựng xã hội mới, xã hội XHCN, giai cấp công
nhân Việt Nam còn là lực lượng tiên phong trong thực hiện đường lối kinh tế mà Đảng Cộng sản Việt Nam
đã đề ra tư tưởng chỉ đạo của đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam là “phấn đấu hoàn thành về cơ bản
quá trình đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN trong khoảng 20 năm”. Nhưng do
nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quản lý kinh tế với kế hoạch hóa, nhà nước quản lý bằng các biện pháp hành
chính, bao cấp nên chủ trương phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất tạo dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
CNXH dựa trên nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN, coi cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt
không đạt hiệu quả như mong muốn. Từ năm 1979 đất nước ta lâm vào khó khăn, khủng hoảng kinh tế kéo
dài, lạm phát gia tăng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những đổi
mới từng phần trong đường lối phát triển kinh tế để đến đại hội VI (12/1986) chủ trương đổi mới đất nước
toàn diện, sâu sắc.
Lập trường, bản lĩnh giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện trong việc nêu rõ những sai lầm, khuyết
điểm trong 10 năm xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước. Cả nhận thức cúng như hành động chúng ta chưa
thực sự thừa nhận cơ chế kinh tế nhiều thành phần ở nước ta sẽ còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài,
chưa năm vững và vận đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất. Về chủ trương công nghiệp hóa, quá nóng vội khi đặt vấn đề “ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng dựa trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”; nội dung và lộ trình của công
nghiệp hóa chưa được xác định rõ, chưa gắn CNH với HĐH. Cũng chính vì vậy việc thực hiện vai trò của
giai cấp công nhân Việt Nam – với tư cách là lực lượng đi đầu của công nghiệp hóa, nòng cốt của liên minh
công – nông – trí thức, gặp nhiều khó khăn.
2.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân việt nam trong thời kỳ CNH-HĐH, phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế
Quan niệm từ công nghiệp hóa XHCN nói chung đến đẩy mạnh CNHHĐH với phát triển kinh tế tri thức,
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình đổi
mới nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Bản thân sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước, chiến lược phát triển CNH-HĐH cơ sở kinh tế - xã hội là những cơ sở để Đảng xác định, bổ sung,
hoàn thiện vai trò, nhiệm vụ của giai cấp công nhân Việt Nam.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) Đảng Cộng sản Việt
Nam, lần đầu tiên xác định 6 đặc trưng của xã hội XHCN mà ta xây dựng, đồng thời xác định 7
phương hướng cần thực hiện trong thời kỳ quá độ lện CNXH. Trong đó có phương hướng “Phát triển lực
lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn với một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng
nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”.
Quan điểm về CNH-HĐH cũng đã được Đảng ta xác định rõ là: giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng
hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính
đi đối với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế
giới. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp
gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu. Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ; đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại; hình thành
một số ngành mũi nhọn như chế biến nông, lâm, thủy sản, khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện tử
và công nghệ thông tin; phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.
Để phát huy vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, Đảng ta
chủ trương: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số lượng, giác ngộ về
giai cấp, nâng cao trình độ học vấn và tay nghề, có năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, có tác
phong công nghiệp và ý thức tổ chức, kỷ luật, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao,
làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh công nhân, nông dân, trí
thức và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam có những bước tiến mới trong nhận
thức, lý luận về giai cấp công nhân trong quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH, phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là cơ sở lý luận mới để xem xét về nội dung, nhiệm vụ
của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Đại hội IX của Đảng xác định:
“Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng
lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng
với những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là mối quan
hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc
trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liến với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Cũng tại đại hội IX, nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được khẳng định, đó
chính là kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN. Đại hội cũng bổ sung, xác định rõ thêm về thành phần kinh tế ở nước ta. Theo đó, ở Việt
Nam có 6 thành phần kinh tế, bao gồm: Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là
lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; kinh tế
tập thể được phát triển với nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt; kinh tế cá thể, tiểu chủ
phát triển cả ở nông thôn và thành thị, có vị trí quan trong lâu dài; kinh tế tư bản tư
nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất; kinh tế tư bản nhà nước với
các hình thức liên doanh, liên kết giữa tư bản nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài;
và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Để giai cấp công nhân thực hiện được sứ mệnh lịch sử to lớn, vẻ vang
lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu lên những định hướng xây dựng, phát
triển về số lượng và chất lượng:
“Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện trí thức hóa công nhân, nâng cao năng lực ứng dụng
và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng
trong thời kỳ mới. Bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của giai cấp công nhân trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường. Tăng cường đào tạo cán bộ lãnh đạo,
quản lý và kết nạp Đảng viên từ công nhân ưu tú, tăng thành phần công nhân trong đội ngũ cán bộ lãnh
đạo các cấp, các ngành”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu những quan điểm về tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, khắng định: “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; trong đó kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Để giai cấp công nhân
có thể thực hiện, hoàn thành sứ mệnh của mình trong giai đoạn mới, đại hội X của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Đối
với giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng
cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghệ nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Những quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN về đẩy mạnh CNH-HĐH, mở rộng và tích cực, chủ động hội
nhập quốc tế với vị trí, vai trò, nhiệm vụ to lớn của giai cấp công nhân chính là cơ sở lý luận để làm rõ sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam: “Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: là giai cấp lãnh
đạo cách mạng cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên
phong trong sự nhiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt
trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”.

Kết luận
Tóm lại, từ các phân tích trên về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cả về lý luận lẫn thực tiễn đã khẳng
định tính khách quan của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đúng như lời của C.Mác nói: giai cấp công
nhân là một giai cấp tiên tiến, có vai trò to lớn trong lịch sử phát triển của thế giới, là một lực lượng xã hội
tiên phong trong công cuộc cải tạo khoa học công nghệ vào sản xuất của xã hội. Hiểu được rõ về giai
cấp công nhân, đặc biệt là hiểu được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một vấn đề hết sức quan
trọng trong nhận thức của mỗi chúng ta, giúp ta có những nhận thức đúng đắn đối với các giai cấp trong xã
hội nói chung và giai cấp công nhân nói riêng. Qua đó, mỗi cá nhân trong xã hội cần không ngừng nâng cao
ý thức trách nhiệm về giai cấp, về nhận thức xã hội để nâng cao tri thức văn hóa của mình.
Trước những đòi hỏi mới của công cuộc đổi mới hiện nay, để đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta luôn đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa bản chất giai cấp công nhân
thì mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Cùng với việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam sẽ tăng nhanh về số
lượng. Việc tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước trong giai cấp công nhân là một yêu cầu cấp thiết cho thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

Câu 2: Trình bày tính tất yếu ra đời và các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa? Nêu sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đặc trưng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay?
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp
lên cao, từ giai đoạn xã hội xã hội chũ nghĩa (chủ nghĩa xã hội) lên xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong chủ nghĩa xã hội, chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa mới đạt tới giới hạn bảo đảm cho xã hội thực
hiện nguyên tắc phân phối "làm theo năng lực, hưởng theo lao động". Khi nói về giai đoạn thấp của hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, C.Mác đã khẳng định: "Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là
một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản
chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo
đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra".
Giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản là giai đoạn xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ở giai đoạn này, con người
không còn lệ thuộc một cách phiến diện và cứng nhắc vào phân công lao động xã hội: đồng thời, lao động
trong giai đoạn này không chỉ là phương tiện kiếm sống mà nó trở thành nhu cầu số một của con người. Khi
đó, con người thực hiện nguyên tắc phân phối "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".
C .Mác còn khẳng định, giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa có một thời kỳ quá độ từ
xã hội nọ sang xã hội kia, là thời kỳ cải biến cách mạng một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Sau này, tronc tác phẩm Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước, trên cơ sơ diễn đạt tư tưởng của C.Mác,
V.I.Lênin đã phân tích quá trình hình thành, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa qua
các giai đoạn: 1) "Những cơn đau đẻ kéo dài" (thời kỳ quá độ); 2) Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ
nghĩa: 3) Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa .
a) Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội:
Để chuyển từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa - xã hội mà chủ nghĩa xã hội phát triển trên
chính cơ sở vật chất - kỹ thuật của nó, cần phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau đây:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên
cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất; dựa trên chế độ áp bức bóc lột. Chủ nghĩa xã hội
được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại dưới hai hình thức là nhà nước
và tập thể: không còn các giai cấp đối kháng, không còn tình trạng, áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy
cần phầi có một thời kỳ lịch sử nhất định.
Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao. Quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tiền đề vật chất - kỹ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội, nhưng muốn
cho tiền đề vật chất - kỹ thuật đó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội cần có thời gian tổ chức, sắp xếp lại.
Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ
cho việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội có thể phải kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm
của nó là tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản, chúng là
kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình
độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa, do vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Bốn là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới mẻ, khó khăn và phức tạp, phải cần có thời gian để
giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công việc đó.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tể - xã hội khác nhau có thể diễn
ra với khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở
trình độ cao thì khi tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua
giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước ở trình độ phát triển tiền
tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp.
- Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của
xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh
với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong
một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối
với những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Vận dụng tư tưởng về tính tất yếu của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần vào quá trình chỉ đạo xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xôviết. V.I.Lênin đã phân tích kết cấu kinh tế nước Nga lúc đó với 5 thành
phần, được xếp theo trình độ phát triển của chúng từ thấp đến cao trong lịch sử, đó là: kinh tế nông dân kiểu
gia trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế xã hội chủ nghĩa. Các
thành phần kinh tế này tồn tại trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn và đấu tranh với nhau. Mâu
thuẫn giữa các thành phần kinh tế đó chỉ có thể được giải quyết trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác lập trên cơ sở khách quan
của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan
xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối
theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
Trên lĩnh vực chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên
kết cấu giai cấp xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng, phức lạp. Thời kỳ này có giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp
tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong một giai cấp, tầng lớp cùng có nhiều bộ phận có trình độ, có ý thức khác
nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư
tưởng và văn hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm
lý tiểu nông, V.V.. V.I.Lênin cho rằng, tính tự phát tiểu tư sản là "kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy
hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công khai” . Trên lĩnh vực văn hóa cũng tồn tại các yếu tố văn
hóa cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
Thực chấi của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai
cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại, không còn là giai cấp thống trị vả những thế lực chống phá chủ nghĩa
xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều
kiện mới là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã
hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong mọi lĩnh vực chính trị. kinh tế
và tư tưởng - văn hóa.
- Nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Trong lĩnh vực kinh tế: Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực
hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng
quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt
đời sống của nhân dân lao động.
Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định không thể theo ý muốn chủ quan nóng
vội mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Vận dụng tư tưởng đó vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin chẳng những coi
trọng các chính sách phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần mà còn coi trọng các quan hệ kinh tế hàng
hóa - tiền tệ, chủ trương coi trọng thương nghiệp, coi đó là "mắt xích" cực kỳ quan trọng trong điều khiên
hoạt động của nền kinh tế mà chính quyền nhà nước vô sản và đảng cộng sản đang nắm quyền lãnh đạo,
"phải đem toàn lực ra nắm lấy", nếu không như vậy, chúng ta sẽ không đặt được nền móng của những mối
quan hệ kinh tế và xã hội trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I.Lênin đưa ra
là một trong những chính sách điển hình của việc tôn trọng và vận dụng quy luật phát triển kinh tế trong thời
kỳ quá độ ở nước Nga, phù hợp với bối cảnh lịch sứ lúc đó.
Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những
nước này, nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ phải là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước khác nhau với những điều kiện
lịch sử khác nhau có thể được tiến hành với những nội dung cụ thể, hình thức và bước đi khác nhau. Đó
cũng là quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong việc xác định những nội dung, hình thức và bước đi trong
tiến trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong lĩnh vực chính trị: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội;
tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm
quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động; xây dựng các tổ
chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng đảng cộng
sản ngày càng trong sạch, vũng mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa: Nội dung cơ bán trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là thực hiện tuyên truyền, phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp
công nhân trong toàn xã hội: khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền
văn hóa trên thế giới.
Trong lĩnh vực xã hội: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là phải
thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát
triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây
dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng lá tự do của người này và điều kiện,
tiền đề cho sự tự do của người khác.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên con đường phát triển của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế,
chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó.
b) Xã hội xã hội chủ nghĩa
Xã hội xã hội chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản) là một xã hội có những
đặc trưng cơ bản sau đây.
Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp được phát triển lên từ
những tiền đề vật chất - kỹ thuật của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng của nó, phản ánh trình độ phát triển kinh
tế - kỹ thuật của chế độ đó. Công cụ thủ công là đặc trưng cho cơ sở vật chất - kỹ thuật của các xã hội tiền tư
bản chủ nghĩa. Nên đại công nghiệp cơ khí đã từng là cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Chủ
nghĩa xã hội nảy sinh với tư cách là một chế độ xã hội phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, do vậy cơ sở vật
chất - kỹ thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp phát triển lên từ tiền đề vật chất - kỹ thuật của
nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, có trình độ cao hơn so với trình độ nền công nghiệp của xã hội tư bản
chủ nghĩa.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen có nhận định rằng: sau khi giành
được chính quyền nhà nước, "giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để tìm từng bước một
đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay
nhà nước.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp vô sản phải từng bước đoạt lấy tư liệu sản xuất từ trong tay giai cấp tư
sản, tập trung những tư liệu ấy vào trong tay nhà nước để phục vụ cho toàn xã hội. Do vậy, chỉ đến xã hội xã
hội chủ nghĩa thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xác lập đầy đủ.
Tới thời kỳ này, tư liệu sản xuất còn tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể; người
lao động làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội, do đó không còn tình trạng người bóc lột người.
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới.
Khi đạt tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa, không còn chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, do vậy đã tạo điều kiện cho ngựời lao động kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể
và lợi ích toàn xã hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội cũng tạo ra được cách thức tổ chức lao động mới dựa
trên tinh thần tự giác của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản và quản lý thống nhất của nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở vật chất - kỹ thuật là nền đại công nghiệp ở trình độ phát triển
cao, do vậy đòi hỏi một kỷ luật lao động chặt chẽ trong từng khâu, từng lĩnh vực, trong sản xuất của toàn xã
hội theo những quy định chung của luật pháp.
C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cho rằng: lao động được tổ chức có kế hoạch, trên tinh thần tự giác, tự
nguyện là đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, để có một kiểu tổ chức lao động kỷ luật và tự
giác cao như vậy, một mặt đòi hỏi phải đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, vận động, mặt khác phải đẩy
mạnh cuộc đấu tranh khắc phục tư tưởng, tác phong của người sản xuất nhỏ.
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, coi đó là
nguyên tắc cơ bản nhất.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tuy sản xuất đã phát triển, nhưng vẫn còn có những hạn chế nhất định, vì vậy
thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là tất yếu. Mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số
lượng sản phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương với số lượng, chất lượng, hiệu quả lao động mà họ đã tạo
ra cho xã hội. Ngoài phương thức phân phối theo lao động là phương thức cơ bản nhất, người lao động còn
được phân phối theo phúc lợi xã hội. Bằng thu thuế, những đóng góp khác của xã hội, nhà nước xã hội chủ
nghĩa xây dựng trường học, bệnh viện, công viên, đường giao thông. V.V..Đó là những công trình phúc lợi,
phục vụ cho mọi người trong xã hội. Nguyên tắc phân phối này vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế -
xã hội trong xã hội chủ nghĩa, vừa thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
Thư năm, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, có tính
nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân vì nhà nước xã hội chủ nghĩa là cơ quan quyền
lực tập trung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản nhằm
bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thực hiện trấn áp những thế lực phản động,
những lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi. Nhà nước này tập hợp đại biểu các tầng lớp nhân
dân, nhằm bảo vệ những lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia ngày càng
nhiều vào công việc của nhà nước với tinh thần tự giác, tự quản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng thực
hiện tốt hơn quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của
nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính dân tộc sâu sắc. Giai cấp công nhân là người đại diện chân chính cho
dân tộc, có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đoàn kết
được các dân tộc, tạo nên sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc cả trên cơ sở pháp lý và trong thực tiễn
cuộc sống, đấu tranh bảo vệ những lợi ích chân chính của dân tộc, không ngừng phát huy những giá trị của
dân tộc, nâng chúng lên ngang tầng với yêu cầu của thời đại.
Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự giải phóng con người khỏi ách áp bức,
bóc lột; thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi sự bóc lột về kinh tế, nô dịch về tinh
thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Xã hội xã hội chủ nghĩa đã thực hiện xóa bỏ chế độ
chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã thực hiện việc
xóa bỏ đối kháng giai cấp, xóa bỏ bóc lột, con nguời có điều kiện phát triển tài năng cá nhân, mang tài năng
đó đóng góp cho xã hội; thực hiện được công bằng, bình đẳng xã hội, trước hết là bình đẳng về địa vị xã hội
của con người. Tuy nhiên, do giới hạn phát triển của những điều kiện khách quan, sự bình đẳng trong chủ
nghĩa xã hội vẫn chưa đạt tới mức hoàn thiện như trong giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
c) Giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển lực lượng sản xuất của xã hội loài người, C.Mác đã có những dự
báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn cao của chủ
nghĩa cộng sản).
Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ của cải xã hội đã trở nên dồi dào, ý thức con
người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động của con người được giảm nhẹ, lúc đó nhân loại mới có
thể thực hiện được nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã dự báo: "Khi mà lao động trở thành không những là
một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống; khi mà cùng với sự
phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ cũng ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải
xã hội đều tuôn ra dồi dào – chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp
quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".
Về mặt xã hội: Trình độ xã hội ngày càng phát triển, con người có điều kiện phát triển năng lực của mình, tri
thức con người được nâng cao, không còn có sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn. Theo V.I.Lênin. "khi
bọn tư bản đã tiêu tan đi rồi và không còn có giai cấp nữa (nghĩa là giữa các thanh viên trong xã hội không
còn có sự phân biệt nào nữa về những quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất xã hội), chỉ lúc đó "nhà
nước mới không còn nữa và mới có thế nói đến tự do". Chỉ lúc đó, một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thực sự
không hạn chế, mới có thể có được và được thực hiện. Chỉ lúc đó, chế độ dân chủ mới bắt đầu tiêu vong vì
lý do đơn giản là một khi thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi những sự khủng khiếp, những
sự dã man... thì người ta sẽ dần dần quen với việc tôn trọng các quy tắc sơ thiểu của đời sống chung trong xã
hội".
Đến giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhà nước trở thành không cần thiết, nó tự tiêu vong. Sự
tiêu vong của nhà nước là một quá trình. Theo V.I.Lênin: "Chúng ta chỉ có quyền nói rằng nhà nước tất
nhiên sẽ tiêu vong, đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của quá trình ấy, sự phụ thuộc của quá trình ấy
vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản": rằng "không một người xã hội chủ nghĩa
nào lại đi "hứa" rằng giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản sẽ đến"' mà chỉ "dự kiến giai đoạn cao của chủ
nghĩa cộng sản sẽ đến, thì việc đó giá định rằng năng suất lao động lúc đó sẽ khác năng suất lao động ngày
nay và sẽ không còn con người tầm thường ngày nay nữa". Tới khi đó không còn tình trạng con người suy bì
"khéo không lại làm nhiều hơn anh bạn bên cạnh ta nửa giờ, khéo không lại lĩnh lương ít hơn anh ta".
Như vậy, tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người sẽ được giải phóng
hoàn toàn và được phát triển một cách thực sự toàn diện. Khi đó, nhân loại có thể chuyển từ "vương quốc
của tất yếu sang vương quốc của tự do", có điều kiện phát triển toàn diện năng lực, mang hết tài năng và trí
tuệ cống hiến cho xã hội.
Để có giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản, đòi hỏi giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải nỗ lực
phấn đâu, phải không ngừng nâng cao năng suật lao động, phát triển lực lượng sản xuất, cải tạo quan hệ sản
xuất lao động, phát triển xã hội, không ngừng nâng cao ý thức của con người, phải kiểm soát nghiêm ngặt
mức độ lao động và tiêu dùng. Có thực hiện như vậy mới từng bước xây dựng được kỷ luật tự giác trong xã
hội, từng bước xây dựng đuợc thói quen tự nguyện tuân thủ những quy định trong dân cư.
Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa đã cho thấy:
Một là, chỉ có thể đạt tới giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa khi trong thực tế khách quan của sự
phát triển xã hội đã có được những điều kiện, tiền đề phù hợp. Mọi ý muôn chủ quan muốn thực hiện ngay
những nguyên tắc của giai đoạn cao trong sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa khi
chưa có những điều kiện phát triển kinh tế - xã hội tương ứng thì nhất định sẽ mắc phải sai lầm chủ quan duy
ý chí và nhất định sẽ thất bại.
Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài,
bằng việc không ngừng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tổ chức xã hội về mọi mặt, giáo dục nâng
cao tinh thần tự giác của con người. Nếu không có quá trình này cũng không thể xuất hiện được giai đoạn
đó.
Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước khác
nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tùy thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện. Khi
chưa xuất hiện giai đoạn cao thì "trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn
pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản!". Khi chưa đạt đến
giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa tư bản,
chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, về dân chủ
vẫn còn nguyên giá trị. Tính chất giai cấp của nhà nước, của dân chủ vẫn tồn tại.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đưa ra các dự báo và luận giải về sự ra đời, phát triển của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa trên cơ sở phân tích quy luật kinh tế của sự vận động trong xã hội,
đặc biệt là quy luật kinh tế của sự vận động trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng lịch sử phát triển của
xã hội luôn luôn chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan trong những điều kiện xác định,
từ đó tạo nên tính phong phú, đa dạng trong tiến trình lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người cũag như
của toàn bộ lịch sử nhân loại. Do vậy, tiến trình phát triển của lịch sử không bao giờ là con đường thẳng, trái
lại nó có thể phải trải qua những bước thăng trầm với những con đường vòng, thậm chí phải trải qua những
bước khủng hoảng và thụt lùi tạm thời trên con đường phát triển của nó. Đó là biện chứng của quá trình phát
triển xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động. Công cuộc đổi mới thành công bước đầu đã cụ thể hóa tư tưởng của V.I. Lê-nin
vào điều kiện Việt Nam. Thành quả to lớn có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta giành được trong thời gian qua
là nhờ đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Những đặc trưng
của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, các phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng
như các mối quan hệ lớn cần quán triệt và giải quyết trong khi thực hiện các phương hướng đã xác định…
đều phản ánh việc kế thừa, vận dụng và phát triển những quan điểm lý luận của V.I. Lê-nin về chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn đang đặt ra
hàng loạt vấn đề mới mà Đảng phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội
làm sáng tỏ hơn mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường, phương thức để hiện thực hóa thành chế độ xã hội
tiến bộ, ưu việt, đạt tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Hàng loạt vấn đề,
khía cạnh đòi hỏi Đảng ta phải quán triệt sâu sắc và vận dụng phát triển sáng tạo những quan điểm có giá trị
phương pháp luận của V.I. Lê-nin để tiếp tục làm sáng tỏ hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Việc xác định các mục tiêu (từ mục tiêu chung của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, những mục tiêu của từng chặng
đường, các bước quá độ đến mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm…) đều phải được
xem xét, bổ sung, phát triển cho xác thực và phù hợp (có định tính, định lượng rõ ràng). Những đặc trưng
của chủ nghĩa xã hội, nội hàm từng đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng cũng
phải nghiên cứu tiếp tục làm sáng tỏ hơn. Từ đó, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mới từng bước được
hoàn thiện. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trên cơ sở 8 phương hướng, 8 mối quan hệ
lớn cần quán triệt, thực hiện khi hiện thực hóa phương hướng, cũng chỉ mới dừng lại chủ yếu ở định tính,
còn định lượng chưa được xác định, cụ thể, thiết thực trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Về thời kỳ quá độ
và các bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đã được Đảng ta từng bước đổi mới
nhận thức. Tuy nhiên, hàng loạt vấn đề hiện nay, như dự báo thời gian kết thúc thời kỳ quá độ, phân kỳ thời
kỳ quá độ, chỉ mới nêu được 2 chặng đường (chặng đường đầu tiên và chặng đường đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa). Nhiều câu hỏi đặt ra cần tiếp tục phải giải đáp về các chặng đường tiếp theo, về mục tiêu
(định tính, định lượng của từng chặng), các giải pháp được coi là trọng tâm, đột phá để đạt được mục tiêu…
đều là vấn đề thời sự ở Việt Nam hiện nay. Để công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, việc quán triệt, vận dụng và phát triển những quan điểm của V.I. Lê-
nin luôn luôn là nhu cầu và đòi hỏi bức xúc ở nước ta./.

Câu 3: Nêu bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa? Liên hệ quá trình dân chủ hoá ở nước ta hiện nay?
1/ Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Khái niệm dân chủ: Dân chủ là một phạm trù chính trị, là sản phẩm của mối quan hệ giai cấp, là một
trong những hình thức tổ chức bộ máy nhà nước của xã hội, thực thi quyền lực của giai cấp thống trị.
Có 3 đặc trưng cơ bản của dân chủ : một là thừa nhận nguyên tắc thiểu số phụ tùng đa số, hai là thừa
nhận quyền bình đẳng giữa các công dân, mà chủ yếu là bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giàu
nghèo, dân tộc, tôn giáo, nam hay nữ…nếu vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm minh; ba là thừa nhận cội
nguồn của quyền lực thuộc về nhân dân.
Ngoài ra, bản chất của nền dân chủ XHCN còn thể hiện ở những nội dung mang tính đặc trưng sau:
 Một là dân chủ XHCN là nền dân chủ thực sự, của dân, do dân và vì dân, đó là nền dân chủ
rộng rãi, đầy đủ nhất trong lịch sử. Tuy nhiên nó vẫn mang tính giai cấp, đó là tính giai cấp công nhân trên
cơ sở liên minh với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp lao động khác.
Tính chất dân chủ thực sự được thể hiện ở chỗ là nền dân chủ mà trong đó mọi quyền lực
thuộc về nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, xã hội được quản lý bởi nhân dân và vì nhân dân, thông
qua Nhà nước xã hội chủ nghĩa do chính nhân dân lập ra; mọi người đều được bảo đảm trên thực tế quyền tự
do, bình đẳng và các quyền cơ bản khác. Nhân dân lao động làm chủ trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội,
làm chủ về kinh tế chính trị, văn hoá và xã hội. Quyền làm chủ của nhân dân được biểu hiện và bảo đảm
bằng pháp luật, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trên cơ sở luật pháp. dân chủ xã hội chủ nghĩa
ngày càng được hoàn thiện cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, thực thi đường lối dân chủ
của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời lại mang tính nhân dân sâu sắc và rộng lớn. Tính giai cấp và tính
nhân dân trong dân chủ xã hội chủ nghĩa là thống nhất vì xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là xoá bóc lột, giải phóng con người; lợi ích cơ bản và lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động là thống nhất với nhau, do quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu các tư liệu sản
xuất chủ yếu
 Hai là : cơ sở kinh tế - xã hội của dân chủ XHCN là lợi ích chân chính của người lao động
không đối lập mà ngược lai phù hợp, gắn bó chặt chẽ với lợi ích toàn xã hội. Để dân chủ XHCN ra đời và
phát triển đầy đủ, ngoài việc giai cấp công nhân giành được chính quyền và thiết lập quyền lực chính trị của
mình thì cần có sự hình thành và phát triển của nền kinh tế mới - kinh tế XHCN. Mặc khác, dân chủ XHCN
có đủ cơ sở và điều kiện xác định vai trò làm chủ của người lao động trong nền SX XH. Điều đó có ý nghĩa
rất quan trọng vì thực hiện dân chủ trong kinh tế là điều kiện cơ bản chắc chắn cho việc thực hiện dân chủ
trên các lĩnh vực khác.
 Ba là dân chủ XHCN là dân chủ có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, có kỷ luật, kỷ cương
trong khuôn khổ pháp luật XHCN. Sự lãnh đạo của Đảng vừa thể hiện bản chất giai cấp công nhân của dân
chủ, vừa đảm bảo quyền lực và lợi ích chính đáng của nhân dân. Dân chủ XHCN cũng đi liền với chuyên
chính : dân chủ đối với nhân dân lao động và chuyên chính với mọi hành vi vi phạm lợi ích của nhân dân,
của Tổ quốc và của chế độ. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là biểu hiện một cách rõ ràng nhất, sâu sắc nhất
bản chất giai cấp của dân chủ xã hội chủ nghĩa.
 Bốn là dân chủ XHCN thực sự phản ánh và bảo đảm mối quan hệ bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ giữa mọi công dân trước pháp luật, không có sự phân biệt đối xử. Sự bảo đảm ấy không chỉ trên
văn bản luật pháp mà còn được thực thi đầy đủ trong cuộc sống. Dân chủ xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho
công dân tham gia ngày càng đông đảo vào công việc quản lý Nhà nước
2/ Liên hệ quá trình dân chủ hóa nước ta hiện nay:
 Thứ nhất là : Thực hiện dân chủ hoá trong xã hội, dân chủ hóa ngay trong hệ thống chính
trị để tạo ra mối quan hệ biện chứng giữa dân chủ hoá với việc xây dựng và kiện toàn hệ thống chính trị.
Đảng là hạt nhân, lãnh đạo của hệ thống chính trị nhưng điều đó không có nghĩa là Đảng đứng trên, đứng
ngoài pháp luật cũng như Đảng cương quyết không bao biện, làm thay công việc của các tổ chức khác trong
hệ thống chính trị, nhà nước. Do đó, Đảng phải tự đổi mới chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, phải
được xây dựng vững mạnh về cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong những năm tới, toàn Đảng tập
trung làm tốt những công tác quan trọng sau đây : Một là tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng,
rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Hai là tiếp tục đổi mới công tác cán bộ. Ba là xây
dựng củng cố các tổ chức cơ sở Đảng. Bốn là kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
 Thứ hai là : xây dựng nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật, nhằm từng bước
tạo ra xã hội công dân XHCN và người công dân XHCN, coi đó là nhiệm vụ quan trọng có tính cấp bách
hiện nay. Việc quản lý XH bằng pháp luật đòi hỏi phải xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, làm rõ
và tách bạch giữa quản lý Nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh. Nhà nước được nhân dân giao cho
quyền lực và trách nhiệm quản lý mọi mặt đời sống xã hội, nên mọi chủ trương chính sách, kế hoạch của
Nhà nước là thể hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Nhà nước vừa phải phát huy vai trò chủ
động sáng tạo của mình vừa phải bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của
mình trước hết thông quan các cơ quan nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra. Trong cương lĩnh của Đảng
có nêu : Nhà nước có mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Hiện nay, nạn tham nhũng, quan liêu, hối lộ đang là những nhức
nhối của XH. Vì vậy, nhà nước phải có trách nhiệm, có biện pháp ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, quan liêu,
xâm phạm đến quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân.
 Thứ ba là : về phía các tổ chức xã hội chính trị của quần chúng nhân dân, phải được tổ chức
trên cơ sở pháp luật và phù hợp với trình độ của các thành viên, thực hiện dân chủ hóa trong hoạt động, lấy
việc bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên làm nhiệm vụ.
Qua phân tích bản chất của dân chủ XHCN và những hạn chế trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện
nay cho thấy đổi mới hệ thống chính trị của nước ta là một yêu cầu tất yếu và hết sức quan trọng, nó vừa là
mục tiêu của cuộc cách mạng nhưng đồng thời với những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện sự đổi
mới đó cũng là động lực để thúc đẩy cuộc cách mạng xây dựng XHCN ở nước ta. Quá trình đó đòi hỏi mỗi
cán bộ, đảng viên và nhân dân phải có ý thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa, phải thực hiện tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ nhằm làm cho nhà nước thật sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, phải tích cực thanm
gia đóng góp chống những biểu hiện tham nhũng, quan liêu, hách dịch đồng thời luôn luôn nêu cao cảnh
giác chống mọi âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch nhằm xoá bỏ chế độ XHCN, nền dân
chủ XHCN, thực hiện thắng lợi CNH-HĐH và tiến tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Câu 4: Vì sao giai cấp công nhân phải xây dựng khối liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức? Ý
nghĩa của khối liên minh công, nông, trí thức đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam?
1/ Vì sao giai cấp công nhân phải xây dựng khối liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức:
Vấn đề liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động xã hội khác
trong cuộc cách mạng của giai cấp công nhân đấu tranh chống giai cấp tư sản, do Mác, Ăng - ghen phát hiện,
xây dựng, được Lê - nin vận dụng phát triển trong quá trình cách mạng XHCN và bước đầu xây dựng
CNXH ở nước Nga, là một nguyên lý căn bản trong lý luận CNXHKH.
TB và xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân phải coi việc xây
dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH
và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH.
Qua phân tích cơ cấu xã hội TBCN và kinh nghiệm lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân, từ những
tổn thất, thất bại trong cuộc đấu tranh đó, các nhà kinh điển đã chỉ ra rằng, vì đã không tổ chức liên minh với
“người bạn tự nhiên” của mình đó là nông dân Lê - nin đã vận dụng và phát triển lý luận về liên minh công
nông và các tằng lớp lao động khác của Mác trong giai đoạn CNTB phát triển cao - giai đoạn ĐQCN, đã tổ
chức liên minh và nhờ đó giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Mười vĩ đại. Trong hoàn cảnh lịch sử mới,
giai cấp công nhân đã xoá bỏ được chế độ xã hội cũ, bước đầu xây dựng xã hội mới, Lê nin lãnh đạo Đảng
cộng sản tiếp tục mở rộng liên minh, không chỉ chủ yếu công - nông trước đây mà các tầng lớp lao động, đặc
biệt nhấn mạnh hơn vai trò của tầng lớp trí thức.
Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
và lãnh đạo, đã vận dụng một cách sáng tạo nguyên lý đó, từng bước xây dựng được khối liên minh công -
nông - trí thức ngày càng vững chắc và góp phần to lớn vào thắng lợi trong trong suốt quá trình cách mạng
Việt Nam từ khi có Đảng. Từ Đại hội lần thứ II năm 1951, Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò của “liên
minh công nhân với nông dân và lao động trí thức”.
Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH, không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà kinh điển hay của
các ĐCS mà nó đặt trên cơ sở chín muồi của những yếu tố, điều kiện khách quan.
Khi phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp trong CNTB, C.Mác chỉ ra, ngoài giai cấp công nhân là giai cấp
đang phát triển mạnh mẽ cùng với nền công nghiệp hiện đại thì còn các giai cấp và tầng lớp lao động xã hội
khác thống nhất với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và cùng đối lập với lợi ích cơ bản với giai cấp tư
sản. Từ những cuộc đấu tranh mang tính đối đầu đầu tiên của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản bị thất
bại, theo Mác là do công nhân chiến đấu đơn độc, chưa liên hệ được với nông dân nên trở thành “bài ca ai
điếu”. Trong Cách mạng tháng Mười và sau khi giai cấp công nhân đập tan chính quyền của giai cấp thống
trị bóc lột, Lênin khẳng định “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai
cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô
sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)”
Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn toàn mới, đầy khó
khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng
không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại
nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát
triển. Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau. Để thực hiện
được vai trò lãnh đạo tiên phong của mình, giai cấp công nhân mà đứng đầu là ĐCS phải tổ chức tập hợp
được mọi lực lượng xã hội, trong đó chủ yếu là nông dân, trí thức. Muốn thế phải nắm bắt được đặc điểm,
vai trò, nhu cầu của các giai cấp tầng lớp.
Đối với giai cấp công nhân: do vị trí lịch sử quy định, là giai cấp ngày càng đông đảo theo sự phát triển
của nền kinh tế công nghiệp trong nước cũng như trên thế giới. Họ có những đặc điểm riêng có, ưu việt mà
không có giai cấp nào có được. Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi
thế giới, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi đầu trong
việc giải phóng con người, giải phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực lượng cách mạng, vì sự
nghiệp cách mạng nào cũng là sự nghiệp của quần chúng. Việc tìm đến với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức là một nhu cầu tự thân.
Giai cấp nông dân là một tập đoàn xã hội đông đảo sinh sống trên địa bàn nông thôn, sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu với tư liệu sản xuất đất rừng, sông biển, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu
của thị trường về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. Nông dân có tính hai
mặt, vừa là người lao động, đồng thời là người tư hữu nhỏ. Trong mọi chế độ xã hội nông dân không có hệ
tư tưởng độc lập, luôn luôn phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị đương thời. Luôn có nguyện
vọng được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng tự giải
phóng của mình. Tuy nhiên, nông dân luôn có vai trò to lớn trong mỗi chế độ xã hội, là lực lượng cách mạng
của giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ của các giai đoạn lịch sử. Trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, về cơ bản nông dân được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhưng đa số nông dân vẫn có đời
sống còn thấp kém hơn các giai tầng xã hội khác. Mặt khác nông dân lại có vai trò to lớn trong cuộc cách
mạng xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Họ là lực lượng sản xuất đông đảo đầy tiềm năng, là nguồn cung
cấp nhân lực cho công nghiệp hóa, là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm chủ yếu cho xã hội, thị trường đầy
tiềm năng trong nền kinh tế thị trường của thời kỳ quá độ. Giai cấp nông dân đã được giai cấp công nhân
giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu cầu tìm đến với giai cấp công nhân cũng là nhu cầu tự thân của
họ, nên là người bạn tự nhiên, gần gũi nhất của giai cấp công nhân. Đây chính là mối quan hệ đồng hành,
gắn bó khách quan tạo ra sự cố kết chặt chẽ công–nông.
Tầng lớp trí thức, ta thường gọi là đội ngũ trí thức, là một tập đoàn những người lao động xã hội đặc
biệt bằng trí óc, phương thức lao động chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân, tạo ra những sản phẩm khoa học,
trí tuệ, tinh thần. Nói chung họ là những người có trình độ học vấn và chuyên môn cao, am hiểu sâu rộng
lĩnh vực chuyên môn của mình. Họ không phải là giai cấp mặc dù số lượng ngày càng đông, mà chỉ là một
tầng lớp vì họ không trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất, họ chỉ sở hữu trí tuệ, lại xuất thân từ nhiều giai tầng
khác nhau trong xã hội, không có hệ tư tưởng độc lập. Dưới các chế độ thống trị trước đây, trí thức bao giờ
cũng bị các giai cấp thống trị nắm lấy, làm công cụ trong tay mình. Họ cũng là người bị bóc lột về cơ bản, và
cũng luôn có nguyện vọng được giải phóng. Cũng như giai cấp nông dân, họ chưa bao giờ tự làm nổi cuộc
cách mạng giải phóng mình thành công. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trí thức cũng đã được giải phống,
càng có điều kiện để phát huy vai trò của mình. Ở mọi quốc gia, trí thức là bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ, văn
hoá của đất nước. Họ có vai trò nghiên cứu khoa học, phát minh sang chế, vận dụng, ứng dụng, chuyển giao
các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến phù hợp để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Họ có nhiều ý kiến đóng góp vào việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, của Nhà nước
để phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trí thức nói chung rất nhạy cảm về mặt chính trị xã hội, nên khi đã thấy được
vị trí vai trò tiên phong, lãnh đạo của giai cấp công nhân thì họ sẵn sàng tự giác đứng về phía công nhân và
dân tộc để thực hiện sự nghiệp giải phóng xã hội chung, trong đó có bản thân mình.

Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng lao động
sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò xác định. Họ là những giai cấp, tầng lớp
đông đảo nhât trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc biệt đối với các nước tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu
quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh
đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố khách quan từ các
giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc, khi đó không chỉ giành được sự thắng lợi mà cũng
“không có thế lực nào phá vỡ nổi”.
2/ Ý nghĩa của khối liên minh công, nông, trí thức đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam:
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin về liên minh giai cấp. Hiê ̣n nay, vấn đề liên minh công nông đã được mở rộng thành liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và trở thành nòng cốt của khối đại đoàn
kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phải “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên
nền tảng liên minh giai cấ p công nhân với giai cấ p nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”(6), để lực
lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc
 Khẳ ng đinh ̣ vai trò quan tro ̣ng của các bô ̣ phâ ̣n trong sự nghiê ̣p cách ma ̣ng dưới sự lañ h đa ̣o
của Đảng: Đảng ta luôn coi trọng, đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đấu tranh cách
mạng cũng như trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước. Sức mạnh của khối liên minh giai cấp trong giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức không thể tách rời vai trò của đội ngũ
trí thức. Quá trình phát triển và hội nhập sâu rộng với thế giới trong khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ
lần thứ tư đã lan rộng đang đòi hỏi trách nhiệm ngày càng cao của đội ngũ trí thức: “Đô ̣i ngũ trí thức nước ta
có tinh thầ n yêu nước, có lòng tự hào dân tô ̣c, tự tôn dân tô ̣c sâu sắ c, luôn gắ n bó với sự nghiê ̣p cách ma ̣ng
do Đảng lañ h đa ̣o vì mu ̣c tiêu dân giàu, nước ma ̣nh, xã hô ̣i công bằ ng, dân chủ, văn minh. Bằ ng hoa ̣t đô ̣ng
sáng ta ̣o, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tấ t cả các liñ h vực xây dựng, bảo vê ̣ Tổ quố c”(9). Mọi
nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo trong nhân dân, trong đó có công nhân, nông dân và trí thức, cần được
khai thác và phát huy để xây dựng và bảo vệ đất nước.
 Từng bước nâng cao đời số ng vâ ̣t chấ t, tinh thầ n của các bô ̣ phâ ̣n trong liên minh: Viê ̣c thực
hiê ̣n các chủ trương, chính sách phát triể n nông nghiê ̣p, khuyến khích và trợ giúp nông dân trong tiế n trình
thực hiê ̣n nghi ̣quyế t các đa ̣i hô ̣i đảng đã phát huy tác dụng, bộ mặt nông thôn có nhiề u thay đổi: “Kế t cấ u ha ̣
tầ ng kinh tế - xã hô ̣i đươc̣ tăng cường; bô ̣ mă ̣t nhiề u vùng nông thôn thay đổ i. Đời số ng vâ ̣t chấ t và tinh thầ n
của dân cư ở hầ u hế t các vùng nông thôn ngày càng đươ ̣c cải thiê ̣n. Xóa đói, giảm nghèo đa ̣t kế t quả to lớn.
Hê ̣ thố ng chính tri ơ ̣ ̉ nông thôn đươ ̣c củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở đươ ̣c phát huy. An ninh chiń h
tri,̣ trâ ̣t tự an toàn xã hô ̣i đươ ̣c giữ vững. Vi ̣thế chính tri ̣của giai cấ p nông dân ngày càng đươ ̣c nâng
cao”(10). Tuy nhiên, nông dân chưa được hưởng lợi tương xứng với đóng góp cho sự phát triển đất nước.
Các biện pháp kinh tế - kỹ thuật dù đã phát huy tác dụng, nhưng sự chuyển biến tư duy của người nông dân
vẫn chưa được như kỳ vọng. Tâm lý tiểu nông còn khá nặng nề trong nông dân và trong cả những giai cấp,
tầng lớp khác...
 Trong tiế n triǹ h đổi mới “Đảng đã ban hành nhiề u nghi quyế ̣ t, chỉ thi...̣ để ta ̣o đô ̣ng lực thúc
đẩ y sự sáng ta ̣o, cố ng hiế n của đô ̣i ngũ trí thức. Nhà nước đã thực hiê ̣n các chính sách... sử du ̣ng và ta ̣o môi
trường phát huy vai trò của trí thức;... đaĩ ngô ̣, tôn vinh trí thức... ta ̣o điề u kiê ̣n thuâ ̣n lơ ̣i để đô ̣i ngũ trí thức
và các hô ̣i của trí thức hoa ̣t đô ̣ng, phát triể n”. Tuy nhiên “đô ̣i ngũ trí thức nước ta còn bô ̣c lô ̣ nhiề u ha ̣n chế
và yế u kém... Nhiǹ chung, hoa ̣t đô ̣ng nghiên cứu khoa ho ̣c chưa xuấ t phát và gắ n bó mâ ̣t thiế t với thực tiễn
sản xuấ t, kinh doanh và đời số ng.

Xây dư ̣ng liên minh công nông ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin về liên minh giai cấp. Hiê ̣n nay, vấn đề liên minh công nông đã được mở rộng thành liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và trở thành nòng cốt của khối đại đoàn kết dân
tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phải “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấ p công nhân với giai cấ p nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”(6), để lực lượng
này thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
Khẳ ng đi ̣nh vai trò quan trọng của các bộ phận trong sự nghiê ̣p cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của GCCN đối với cách mạng Việt
Nam. Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã khẳng định “Giai cấp công nhân nước ta có sứ mê ̣nh lich ̣ sử to lớn:
Là giai cấ p lañ h đa ̣o cách ma ̣ng thông qua đô ̣i tiề n phong là Đảng Cô ̣ng sản Viê ̣t Nam;...; lực lươ ̣ng nòng cố t
trong liên minh giai cấ p công nhân với giai cấ p nông dân và đô ̣i ngũ trí thức dưới sự lañ h đa ̣o của Đảng”(7).
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ không trở thành hiện thực, nếu không có nền nông
nghiệp phát triển ổn định, vững chắc làm cơ sở, và điều đó không thể tách rời vai trò của GCND. Giải quyết
vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là một thách thức đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết chuyên đề về vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn, tiêu biểu là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X đã chỉ rõ: “Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ
sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”(8).
Cùng với liên minh công nông là nòng cốt của cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng, đánh giá cao vai trò của
đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng cũng như trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước.
Sức mạnh của khối liên minh giai cấp trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức không thể tách rời vai trò của đội ngũ trí thức. Quá trình phát triển và hội nhập sâu rộng với thế
giới trong khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư đã lan rộng đang đòi hỏi trách nhiệm ngày
càng cao của đội ngũ trí thức: “Đô ̣i ngũ trí thức nước ta có tinh thầ n yêu nước, có lòng tự hào dân tô ̣c, tự tôn
dân tô ̣c sâu sắ c, luôn gắ n bó với sự nghiê ̣p cách ma ̣ng do Đảng lañ h đa ̣o vì mu ̣c tiêu dân giàu, nước ma ̣nh,
xã hô ̣i công bằ ng, dân chủ, văn minh. Bằ ng hoa ̣t đô ̣ng sáng ta ̣o, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên
tấ t cả các liñ h vực xây dựng, bảo vê ̣ Tổ quố c”(9). Mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo trong nhân dân,
trong đó có công nhân, nông dân và trí thức, cần được khai thác và phát huy để xây dựng và bảo vệ đất
nước.
Từng bước nâng cao đời số ng vật chấ t, tinh thầ n của các bộ phận trong liên minh
Viê ̣c thực hiê ̣n các chủ trương, chính sách phát triể n nông nghiê ̣p, khuyến khích và trợ giúp nông dân trong
tiế n trình thực hiê ̣n nghi ̣ quyế t các đa ̣i hô ̣i đảng đã phát huy tác dụng, bộ mặt nông thôn có nhiề u thay đổi:
“Kế t cấ u ha ̣ tầ ng kinh tế - xã hô ̣i đươ ̣c tăng cường; bô ̣ mă ̣t nhiề u vùng nông thôn thay đổ i. Đời số ng vâ ̣t chấ t
và tinh thầ n của dân cư ở hầ u hế t các vùng nông thôn ngày càng đươc̣ cải thiê ̣n. Xóa đói, giảm nghèo đa ̣t kế t
quả to lớn. Hê ̣ thố ng chiń h tri ̣ ở nông thôn đươ ̣c củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở đươ ̣c phát huy. An
ninh chính tri,̣ trâ ̣t tự an toàn xã hô ̣i đươ ̣c giữ vững. Vi ̣ thế chính tri ̣ của giai cấ p nông dân ngày càng đươc̣
nâng cao”(10). Tuy nhiên, nông dân chưa được hưởng lợi tương xứng với đóng góp cho sự phát triển đất
nước. Các biện pháp kinh tế - kỹ thuật dù đã phát huy tác dụng, nhưng sự chuyển biến tư duy của người
nông dân vẫn chưa được như kỳ vọng. Tâm lý tiểu nông còn khá nặng nề trong nông dân và trong cả những
giai cấp, tầng lớp khác...
Cùng với quá trình đổ i mới, quá triǹ h công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đa ̣i hóa đấ t nước, “giai cấ p công nhân nước ta
đã có những chuyể n biế n quan tro ̣ng, tăng nhanh về số lươ ̣ng, đa da ̣ng về cơ cấ u, chấ t lươ ̣ng đươ ̣c nâng lên,
đã hình thành ngày càng đông đảo bô ̣ phâ ̣n công nhân trí thức; đang tiế p tu ̣c phát huy vai trò là giai cấ p lañ h
đa ̣o cách ma ̣ng thông qua đô ̣i tiề n phong là Đảng Cô ̣ng sản Viê ̣t Nam... Trong quá triǹ h phát triể n kinh tế -
xã hô ̣i của đấ t nước, viê ̣c làm và đời số ng của giai cấ p công nhân ngày càng đươ ̣c cải thiê ̣n”(11). Tuy nhiên,
vấn đề phát triển GCCN ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập. Trình độ học vấn có xu hướng
tăng, nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thì vẫn chưa
theo kịp. Đặc biệt, chúng ta đang thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, chuyên gia kỹ thuật, nhà quản lý giỏi.
Đời sống vật chất và tinh thần của công nhân nhiều nơi chưa được bảo đảm, kỷ luật lao động chưa nghiêm,
tác phong tự do tùy tiện. Quyền lợi hợp pháp của công nhân ở nhiều đơn vị bị vi phạm, như trả lương không
đúng hợp đồng, nợ bảo hiểm, bảo hộ lao động không bảo đảm... Tình hình đó kéo theo sự giác ngộ giai cấp,
ý thức chính trị cũng phai nhạt, nhất là đối với bộ phận công nhân trong khu vực doanh nghiê ̣p có vố n đầ u tư
trực tiế p nước ngoài (FDI).
Trong tiế n trình đổi mới “Đảng đã ban hành nhiề u nghi ̣quyế t, chỉ thi...̣ để ta ̣o đô ̣ng lực thúc đẩ y sự sáng ta ̣o,
cố ng hiế n của đô ̣i ngũ trí thức. Nhà nước đã thực hiê ̣n các chiń h sách... sử du ̣ng và ta ̣o môi trường phát huy
vai trò của trí thức;... đaĩ ngô ̣, tôn vinh trí thức... ta ̣o điề u kiê ̣n thuâ ̣n lơ ̣i để đô ̣i ngũ trí thức và các hô ̣i của trí
thức hoa ̣t đô ̣ng, phát triể n”. Tuy nhiên “đô ̣i ngũ trí thức nước ta còn bô ̣c lô ̣ nhiề u ha ̣n chế và yế u kém... Nhiǹ
chung, hoa ̣t đô ̣ng nghiên cứu khoa ho ̣c chưa xuấ t phát và gắ n bó mâ ̣t thiế t với thực tiễn sản xuấ t, kinh doanh
và đời số ng”(12).
Một số giải pháp phát huy sức mạnh của liên minh công nông - trí thức trong khối đại đoàn kết dân
tộc
Một là, tiế p tục nâng cao đời số ng vật chấ t và tinh thầ n của các bộ phận trong khố i liên minh công - nông -
trí thức.
Với giai cấ p công nhân, đào tạo đội ngũ công nhân vững về tri thức nghề nghiệp, thành thạo kỹ năng và thái
độ lao động chuyên nghiệp, tích cực. Đây vừa là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, vừa là đòi hỏi của quá trình hợp tác, phân công lao động và các hiệp định thương mại khu vực, quốc tế.
Gắn đào tạo nghề với việc mở rộng và phát triển các ngành, nghề, lĩnh vực phù hợp với yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập khu vực, quốc tế, giáo dục văn hóa lao động, kỷ luật lao động, trách nhiệm
nghề nghiệp và tác phong công nghiệp.
Quan tâm cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân lao động. Có quy định bảo đảm
công bằng về tiền lương trong các thành phần kinh tế, bảo đảm giá trị tiền lương thực tế để đủ cho cuộc sống
của người lao động cùng con cái họ. Cải thiện môi trường lao động, bảo hộ lao động, chăm lo sức khỏe thể
chất và tinh thần của người công nhân, nhất là xây dựng các thiết chế văn hóa, điều kiện nhà ở... tại các khu
công nghiệp, khu chế xuất. Tăng cường quản lý, giám sát việc thực thi pháp luật, nhất là Luật Lao động,
Luật Bảo hiểm, Luật Thuế thu nhập cá nhân,... bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân lao động;
giải quyết các tranh chấp lao động trên cơ sở luật pháp quốc gia và quốc tế... để “bảo vệ quyền lợi, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của công nhân’’(13).
Đối với giai cấp nông dân, khẩn trương hoàn thiện cơ chế liên kết kinh tế trong việc sản xuất, bảo quản, chế
biến, tiêu thụ hàng nông sản. Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam đồng thời với việc bảo vệ
thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ. Các chính sách hợp tác, hỗ trợ, cung ứng dịch vụ cho sản xuất, kinh
doanh liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được thực hiện đồng bộ, tích cực... bên cạnh các
dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục cộng đồng. Nhà nước thống nhất quản lý và điều hành hệ thống
dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông dân, nông thôn thông qua hệ thống liên kết “Bốn nhà”. Có cơ chế, chính
sách và cả cơ chế giám sát để hệ thống vận hành một cách hiệu quả, bền vững, tạo cơ sở gắn kết các chủ thể
lợi ích và các chủ thể trong liên kế t, như Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Hỗ trợ, khuyến khích nông
dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều
kiện thuâ ̣n lơ ̣i để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao năng suất lao động trong
nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo
dục, thông tin,... cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công
cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp”(14).
Với tầ ng lớp trí thức, thực hiện chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ phù hợp, nhất là đội ngũ
nghiên cứu, chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp, hình thành đội ngũ chuyên gia chiến lược của đất nước đáp
ứng yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ tư. Quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức trẻ,
đáp ứng yêu cầu tiếp cận tri thức khoa học, công nghệ tiên tiến của thời đại. Tạo cơ chế phù hợp để các
nghiên cứu, ứng dụng nhanh chóng được phổ biến rộng rãi, thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu, đồng
thời bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm đó. Quan tro ̣ng hơn, “Tôn trọng và phát huy tự do tư
tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng
lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của
trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước”(15).
Hai là, phát huy vai trò của mỗi giai cấ p, tầ ng lớp trong sự nghiê ̣p xây dựng và bảo vê ̣ Tổ quố c
Đối với giai cấp công nhân, chú trọng bồi dưỡng, nâng cao ý thức chính trị, giác ngộ giai cấp, ý chí tự lực, tự
cường, tinh thần dân tộc. Trước mắt cần nâng cao sự hiểu biết về chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến lao động, việc làm, chính sách xã hội,
những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường, thị trường lao động, quan hệ lao động, hợp tác và cạnh tranh, hội
nhập quốc tế theo cam kết của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, những vấn đề về sở hữu trí tuệ,
phá sản, bảo hiểm. Bồi dưỡng tinh thần và ý chí lao động, thái độ đối với sức ép cạnh tranh trong thị trường
lao động, các kỹ năng giải quyết quan hệ lao động, đặc biệt là lao động gắn với yếu tố nước ngoài, trong khu
vực FDI.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức nghề nghiệp trong các loa ̣i hiǹ h
doanh nghiê ̣p. Đổi mới hoạt động của tổ chức công đoàn, hướng về cơ sở, nắm bắt kịp thời, thường xuyên
nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân và đấu tranh, bảo vệ lợi ích của họ. Đội
ngũ cán bộ trong các tổ chức chính trị - xã hội của công nhân phải thường xuyên nâng cao về trình độ, khoa
học, công nghệ, pháp luật, ngoại ngữ, tin học… đủ sức tham gia có hiệu quả vào quá trình tập hợp, thu hút
quần chúng công nhân, tổ chức hoạt động cũng như bảo vệ lợi ích người lao động, cả trong phạm vi quốc
gia, khu vực và quốc tế; phương pháp, kỹ năng tổ chức hoạt động phải đa dạng, linh hoạt, theo kịp với
những thay đổi về lao động, việc làm của giai cấp công nhân trong tình hình mới.
Đối với giai cấp nông dân, phải đặt vấn đề giáo dục, nâng cao trình độ dân trí cho nông dân lên hàng đầu.
Nội dung giáo dục không chỉ giới hạn ở vấn đề chuyển giao khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới, mà sâu xa
hơn là nền tảng tri thức, văn hóa, tư duy, nếp nghĩ, thói quen của nông dân. Khắc phục tính manh mún, nhỏ
lẻ trong tư duy của nông dân, thúc đẩy nông dân tiếp cận với cái mới, khoa học, giúp họ thay đổi theo hướng
chuyên nghiệp, văn minh trong sản xuất, kinh doanh và tổ chức đời sống.
Ổn định và từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân và cư dân nông thôn, khắc
phục tình trạng “ly hương”, giảm sức ép về lao động mùa vụ ở các khu đô thị lớn cũng như các vấn đề xã hội
khác ở nông thôn và thành thị, xây dựng nhà nông chuyên nghiệp với các mô hình hợp tác, liên kết phong
phú, đa dạng. Điề u này vừa góp phầ n phát triể n nông nghiê ̣p, nông thôn, xây dựng nông thôn mới; vừa góp
phầ n ha ̣n chế những vấ n đề xã hô ̣i có thể nảy sinh do sức ép về dân cư và các sinh hoa ̣t khác.
Đối với đội ngũ trí thức, cần tạo điều kiện, môi trường dân chủ hơn nữa cho lao động sáng tạo của trí thức.
Tạo điều kiện tối đa cho sự khai mở sáng tạo về tri thức, học thuật, văn hóa lắng nghe; cũng như tôn trọng sự
khác biệt trong đối thoại, phản biện của trí thức. Đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật phù hợp với nhu cầu nghiên
cứu, khảo nghiệm, thực nghiệm, trao đổi học thuật và phát triển tri thức, để thực sự “Coi trọng vai trò tư vấn,
phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”(16).
Ba là, ki ̣p thời giải quyế t những vấ n đề nảy sinh có thể ảnh hưởng tới khố i liên minh.
Liên minh giai cấp bền vững phải dựa trên việc tôn trọng nhu cầu, lợi ích của chính bản thân các chủ thể
tham gia liên minh. Vì vậy, vấn đề cơ bản và xuyên suốt, vừa là nội dung, vừa là nguyên tắc mang tính quy
luật trong việc xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức là phải xác định đúng các nhu cầu, phát hiện
kịp thời các nhu cầu mới nảy sinh của công nhân, nông dân, trí thức trong từng giai đoạn cụ thể; trên cơ sở
những tiềm năng và thực trạng kinh tế - xã hội từ đó có giải pháp để thỏa mãn các nhu cầu; xử lý đúng đắn,
kịp thời những mâu thuẫn nảy sinh giữa các giai cấp. Làm tốt điều này, sẽ củng cố, tạo nền tảng vững chắc
cho việc xây dựng và phát triển xã hội, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

You might also like