You are on page 1of 7

VĂN HÓA TÌNH DỤC CỦA TRUNG

QUỐC XƯA

Thuật nối dõi của đế vương

Ở triều đại nhà Hán, vào đầu thời kỳ phong kiến của Trung Quốc, các quy phạm xã hội đều
tương đối lỏng lẻo, và trong lĩnh vực tình dục còn sót lại một số phong tục thời nguyên thủy,
như ở một vài vùng còn lưu giữ những phong tục "tân khách tương ngộ, dĩ phụ đãi túc" (có
khách tới gặp, đem vợ bồi khách ngủ lại đêm) hoặc "cộng thê, cộng phụ" (chung vợ, chung
chồng). Chồng chết tái giá tại triều đại nhà Hán chuyện này cũng thường tình.

Bên cạnh đó, cũng đáng nêu ra đây rằng vào đời nhà Hán, Trung Quốc có phát triển ra một
khoa học tình dục rất hoàn toàn đầy đủ, gọi là "Phòng trung thuật" hay "nghệ thuật trong
phòng ngủ".

Như tên gọi Phòng trung thuật có nghĩa là kỹ thuật trong phòng the. Theo nghĩa hẹp nó có ý
nói đến những kỹ xảo về tình dục; theo nghĩa rộng nó là quan niệm về tình dục của Trung
Quốc cổ đại.

Những công trình sớm nhất có liên quan tới Phòng trung thuật là những cuốn sách nói về vấn
đề này viết từ đời Tây Hán trên lụa và trên thanh tre (trúc giản thư), như những sách có liên
quan tới thuật trong phòng: "Thập vấn" (Hỏi mười điều), "Hợp âm dương", "Thiên hạ chí đạo
đàm"... (Hội hợp âm và dương), (Bàn về nghệ thuật lớn nhất trong thiên hạ), v.v... Những
sách này sau khi khai quật được vào năm 1973, đã cổ động một phong trào sôi nổi đi nghiên
cứu Phòng trung thuật.

Vào quãng thời kỳ Đông Hán, kỹ thuật trong phòng của Trung Quốc đã thịnh hành một cách
khác thường. Giáo sư Lý Phong Mậu ở Hệ Trung văn trường đại học chính trị phát biểu: Sự
hưng thịnh của phòng trung thuật có quan hệ tới đế vương, nó là một thứ thuật kế vị của đế
vương. Ông chỉ rõ, đời nhà Hán các đế vương đa số đều đoản mệnh, tạo nên gây nguy cơ
cho sự nối nghiệp của các vua. Chính vì thế tăng cường quá nhiều hậu cung, từ đó những
phương sĩ (ngự y) đề xuất các loại phương pháp dùng trong phòng nhằm giúp nhà vua sinh
được con cái khỏe mạnh và tăng cường sức lực của họ.

Nội dung của Phòng trung thuật bao gồm những mục tuổi nào thích hợp với hôn nhân và
quan hệ giữa tuổi tác với số lượng động phòng, kỹ xảo tình dục, tư thế, phản ứng tình dục
của người phụ nữ, thụ thai, kiêng kî, phép chữa trị những trở ngại chức năng tình dục, thảo
dược, v.v... có thể nói đây là một môn khoa học về tình dục của Trung Quốc đời xưa.

Phòng trung thuật còn có tên "Ngự nữ thuật" (thuật dùng người nữ), lý luận chủ yếu của nó
là "thái âm bổ dương" (dùng âm để tăng cường cho dương), dạy người nam cố sức làm cho
người nữ đạt tới điểm cực khoái khi giao hợp, sao cho hấp thụ được âm khí của người nữ
phóng ra vào điểm cực khoái, do đó đạt được công hiệu dưỡng sinh và trường thọ. Nhà Hán
học Hà Lan Van Gulik mô tả cái thuật thái bổ không đồng đều này, gọi đó là "tính trá thủ" (sự
lừa lấy trong tình dục)

Lý Phong Mậu vạch rõ cho ta thấy Phòng trung thuật nguyên là một phương pháp dưỡng
sinh "nam nữ song tụ" (mà cả nam cũng như nữ cần phải thi hành), do đó cũng như có "thái
âm để bổ dương" thì cũng có những trường hợp "thái dương để bổ âm" nhưng không thể
phủ nhận quyền truyền bá thời cổ đại nằm trong tay nam giới, tất nhiên cái ý "thái âm bổ
dương" đã trở thành lấn lướt.

Phòng trung thuật nhấn mạnh rằng việc giao hợp với người phụ nữ càng nhiều càng tốt,
nhưng điều quan trọng là không nên phóng tinh. Truyền thuyết "vua Hoàng Đế nằm với 1000
người nữ mà trở thành tiên" ông Bành Tổ cũng nhân vì thái bổ dưỡng sinh mà sống tới 800
tuổi.

Nhằm mục đích làm cho nữ giới đạt tới điểm cực khoái lúc giao hợp, do đó sách phòng trung
phân tích thật cặn kẽ phản ứng tình dục của nữ giới . Tác giả Tăng Dương Tinh, người từng
nghiên cứu Phòng trung thuật nhiều năm, bảo thí dụ thuật này phân chia một lần động
phòng ra mười giai đoạn, lợi dụng vị giác, khứu giác, xúc giác để quan sát phản ứng của
người nữ với độ chính xác cao.

Sau đời Tống, nền lý học hưng thịnh lên, Phòng trung thuật bị áp chế. Có một bộ phận
truyền tới Nhật, người Nhật gọi nó là "Y tâm phương" (Phương pháp điều trị tim).

Triều đại nhà Đường tự do và phóng túng

Có câu nói "Tảng Đường lạn Hán" (đời Đường bẩn thỉu, đời Hán hủ bại). Lưu Đạt Lâm tin
rằng câu nói đó phản ánh mức độ tự do tình dục của hai thời đó được thịnh hành biết mấy.

Triều Đường(618-907 sau Công nguyên) là triều mà quan niệm tình dục trong lịch sử Trung
Quốc tự do bậc nhất và hợp với tính người nhất. Lưu Đạt Lâm chỉ rõ triều Đường thịnh hành
việc phụ nữ mặc những quần áo phô một phần ngực và việc ly hôn cải giá cũng tương đối tự
do. Chẳng hạn 23 công chúa đời Đường ly hôn rồi tái giá, một vài người cải giá tới ba lần. Cả
con gái nhà nho Hàn Dũ cũng ly hôn và tái giá.

Trong lịch sử Trung Quốc triều đại nhà Đường cũng là triều đại mà địa vị người phụ nữ tương
đối cao. Người phụ nữ không chỉ không bị đặt dưới cái giới luật "đại môn bất xuất, nhị môn
bất mại" (Cửa lớn không ra, cửa thứ hai không vượt) mà còn có thể cưỡi ngựa ra ngoài dạo
chơi !

Nghiên cứu nguyên nhân mở rộng quan niệm tình dục của triều đại nhà Đường cuốn "Văn
hóa tình dục Trung Quốc thời xưa" của Lưu Đạt Lâm nhận dạng một vài nhân tố chủ yếu.
Thoạt đầu đó là thời kỳ cực thịnh của xã hội phong kiến, và là thời phồn vinh lớn mạnh; kẻ
thống trị nó có lòng tin và lực lượng dư dật và do đó hoàn toàn phóng khoáng và không
thành kiến. Thứ hai, kẻ nào "no ấm nghĩ tới dâm dục", có một thời kỳ dài triều Đường hưởng
cảnh thiên hạ thái bình thịnh trị, mọi người có thừa sức đi tìm khoái lạc và hưởng thụ. Ngoài
ra, triều Đường là một thời đại dung hợp dân tộc với Hán tộc Hồ Bắc. Những giao tiếp với các
nước "man di" chắc chắn đã ít nhiều dẫn tới một vài thay đổi trong lễ giáo, quan niệm tình
dục và những môn thuộc loại đó.

Đứng về góc độ văn học mà nhận xét, đời Đường có những bài thơ diễm tình mô tả tình yêu
trai gái, tình phòng khuê; những "tiểu thuyết truyền kỳ" ca tụng tình yêu, bộc lộ những điều
vớ vẩn về tình dục, như: "Truyện Hoắc tiểu Ngọc", "Truyện uyên ương", "Truyện Lý Oa", v.v.
đều phản ánh đầy đủ bộ mặt của xã hội đương thời.

Những ràng buộc về thân thể và tinh thần

Triều Tống là thời kỳ chế độ phong kiến từ thịnh chuyển thành suy, cũng là thời kỳ chuyển từ
sự phóng túng sang sự áp chế tình dục. Từ đó trở đi Trung Quốc bắt đầu tám, chín trăm năm
kềm chế tình dục.

Triều Tống suy nhược và vô tích sự, nhiều phen bị ngoại tộc xâm chiếm quấy nhiễu, ngoài ra
còn chịu nỗi sỉ nhục lớn là hai vua Huy, Khâm bị nước Kim bắt làm tù binh; để tăng cường lực
lượng thống trị, tại các mặt quân, chính, tư pháp, những kẻ thống trị tập trung quyền thực
thi cao độ.

Trong thời kỳ này môn lý học của Trình - Chu hưng thịnh (lý học, còn được gọi là môn học về
nguyên lý). Cái mớ học thuyết bảo thủ đó phù hợp với bọn thống trị của thời kỳ suy bại, bọn
chúng muốn khống chế thái độ và tâm tư của người dân một cách nghiêm ngặt, và như vậy
mớ học thuyết này bị bọn thống trị nắm lấy và vận dụng, và có một ảnh hưởng tới xã hội từ
ngày đó trở đi.

Lý học chủ trương "tồn thiên lý, diệt nhân dục" (duy trì mặt trật tự của thiên nhiên và tiêu
diệt những ham muốn của con người). Môn đồ của học thuyết này tin rằng "một khi con
người làm điều bất thiện là do bị sự ham muốn dụ dỗ" ("nhân vi bất thiện, dục dụ chi dã").
Do đó, chỉ có cấm tuyệt đối con người nghĩ tới lòng dục thì mới có thể đẩy mạnh được trật tự
của thiên nhiên.
Quan niệm về sự trinh tiết của phụ nữ bắt đầu bị cường điệu hóa. Thời trước đó chồng chết
cải giá là chuyện rất bình thường. Từ triều Tống trở về sau, cải giá bị coi như "thất tiết",
không được xã hội đương thời dung thứ. Những truyện như "Quả phụ đoạn tý" (gái góa chặt
cánh tay sau khi tình cờ bị một người đàn ông chạm phải), "Nhũ thương bất y" (Ngực bị
thương bỏ mặc không chữa, vì phụ nữ để phô ngực ra cho thầy thuốc nhìn còn tệ hơn là
chết) được dùng làm gương mẫu và tuyên dương rộng rãi. Câu nói "Nga tử sự tiểu, thất tiết
sự đại" (Chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết mới là chuyện lớn) được coi là danh ngôn chí lý.

Ngoài những ràng buộc về mặt tinh thần, phụ nữ đời Tống còn bị một ràng buộc lên thân
thể, đó là tục bó chân.

Tục bó chân của người phụ nữ Trung Quốc xét cho cùng bắt đầu từ đời Ngũ đại, cuối đời
Đường hay đời Bắc Tống? Mọi người còn phân vân. Điều có thể xác minh được là, đến đời
Tống thì "tam thốn kim liên dĩ thành mỹ nữ" (ba tấc sen vàng đã thành người đẹp) đã thành
cần thiết để trở thành tiêu chuẩn cho cái đẹp của người phụ nữ. Bàn chân xinh của phụ nữ
đã trở thành một bộ phận thân thiết nhất, có sức hấp dẫn nhất trong cơ thể họ. Trong cuốn
"Sinh hoạt tình dục tại Trung Quốc đời xưa" của ông, Robert Van Gulik kể lại trong những
bức tranh xuân cung (cung mùa xuân = dâm ô) từ đời Tống trở đi, phụ nữ được phô bày
hoàn toàn khỏa thân, nhưng ông đã không hề thấy một bức tranh nào trong đó chân họ lại
không bó vải. Do đó ta có thể thấy những đôi chân bó là một cái gì thần bí và cấm kî, chúng
khiến cho người ta tưởng tượng xa vời.

Có người bảo: bó chân sẽ làm cho thịt ở âm bộ người nữ béo và đầy, bắp thịt ở lưng thêm
tính đàn hồi hơn. Cái ý đó đã bị chứng minh là chuyện vô căn cứ. Chẳng qua bó chân chỉ chìa
ra ngón cái để làm cho cân bằng, đung đưa hông không kém phần khêu gợi như những chiếc
giày cao gót ngày nay.

Một đôi chân nhỏ, một vò nước mắt

Tục ngữ có câu "Một đôi chân nhỏ, một vò nước mắt". Cái cách để mô tả sự đau đớn gây ra
do bó chân quả không ngoa chút nào. Bó chân là phải trừ ngón cái ra còn bốn ngón kia vặn
vào phía trong bàn chân rồi buộc nó bằng vải. Qua một quá trình kèm theo chảy máu, nung
mủ, viêm sưng phồng lên, toàn bộ bàn chân cuối cùng thu nhỏ lại ở một chiều dài khoảng
10cm, được gọi thông thường là "tam thốn kim liên" (ba tấc sen vàng).

Thời xưa con gái bắt đầu chịu đau đớn để bó chân từ năm lên hai hoặc ba tuổi. Sự đau đớn
dần dà tăng theo ngày tháng, và quá trình bó kéo dài ba năm thì xong.

Vì việc bó chân hạn chế năng lực hoạt động và phạm vi hoạt động của nữ giới, họ không đi
được xa nhà, thậm chí không có cách nào làm việc nhà, nên về sau chỉ có những nhà trung
lưu và thượng lưu mới có khả năng cung dưỡng những cô khuê nữ mà lại không làm việc
sản xuất. Như vậy nếu một gia đình có khả năng nuôi một cô gái bó chân trở thành một trong
những tiêu chuẩn qua đó có thể so sánh được gia thế, sự bó chân không còn chỉ là nguyên
nhân khêu gợi tình dục nữa.

Có người nhận xét là sự bó chân phản lại tự nhiên không chỉ hạn chế hoạt động của người
nữ mà còn bó chặt tâm trí của họ nữa. Nhưng Van Gulik cũng nêu bật rằng việc bó chân
chấm dứt nghệ thuật vũ đạo của Trung Quốc vĩ đại và cổ kính.

Sau khi bọn Mãn Thanh vào quan ải, bắt đầu hạ lệnh cấm bó chân, nhưng không có hiệu lực
lắm. Mãi tới khoảng đầu những năm ba mươi của thế kỷ 20, nghĩa là hai mươi năm sau khi
Trung Quốc trở thành một dân quốc thì cái tục lệ dã man làm đau đớn phụ nữ Trung Quốc
hàng ngàn năm sau cùng mới bị thủ tiêu.

Một dòng xuân chảy về hướng nào?

Từ đời Tống trở đi, 800 năm đã qua, tuy qua thời đại Nguyên Thanh không phải do người
Hán thống trị, những quy phạm đạo đức về tình dục do triều Tống đặt ra, tựa hồ ít có dao
động. Trên thực tế, triều Tống đối với sự định nghĩa lại của văn hóa tình dục Trung Quốc, kỳ
thực chẳng qua chỉ là từ trên mặt đất chuyển xuống dưới mặt đất mà thôi.

Triều Minh vào giai đoạn hậu kỳ phong kiến là thời kỳ có nhiều trinh tiết liệt nữ nhất trong lịch
sử. Năm 1368, năm đầu của vua Hồng Vũ nhà Minh hạ chiếu lệnh cho thiên hạ: những phụ
nữ thường dân góa chồng trước tuổi ba mươi thủ chế và ngoài tuổi năm mươi vẫn không cải
giá sẽ được tôn "tộc biểu môn lư" (biểu dương trong làng trong xóm) và gia đình họ sẽ được
miễn các sai dịch. Trong cái không khí xã hội biểu dương sự tiết liệt to tát như vậy, những
trinh tiết liệt nữ ngày càng tăng. Căn cứ vào ghi chú của pho "cổ kim đồ thư tập thành" (một
công trình tham khảo bách khoa biên soạn vào đời Thanh) thì số 200 liệt nữ tiết phụ từ triều
Tống đến triều Minh tăng vọt lên tới ba vạn sáu nghìn người.

Lưu Đạt Lâm đem ví tình dục như "một dòng sông xuân": "Nếu dòng nó chảy bị tắc ở đây thì
nó sẽ chảy sang một hướng khác! Do đó thời đại nào mà nhiều trinh tiết liệt nữ nhất thì thời
đại đó tiểu thuyết tình dục, tranh xuân cung sẽ lan tràn nhất".

"Nhục bồ đoàn" (Đêm tụng kinh bằng thịt) là một bộ sách khiêu dâm tiêu biểu của đời Thanh.
Hồi thứ nhất trong sách đã nêu rõ ý nghĩa chủ yếu bằng câu: "Thế gian chân lạc địa, toán lai
toán khứ, hoàn sổ phòng trung" (Nơi cực lạc trên đời này, suy đi xét lại cho cùng phải kể tới
trong phòng ngủ). Toàn bộ thế giới là "nhất bức đại xuân cung" (Một bức tranh xuân cung to
lớn).

"Dĩ dâm chỉ dâm" (lấy cái dâm để chặn cái dâm) là cái mà nhiều cuốn sách khiêu dâm dùng
làm mộc chắn mũi tên phê phán. "Nhục bồ đoàn" cũng không tránh khỏi ngoại lệ và mở đầu
cuốn sách bằng câu "để chặn ngọn gió dâm, mượn chuyện dâm mà nói, bàn chuyện xác thịt,
mở đầu bằng những ham muốn xác thịt" (chỉ dâm phong tá dâm sự thuyết pháp, đàm sắc sự
tựu sắc dục khai đoan). Ngoài ra "Kim Bình Mai" cũng là pho tình dục nổi tiếng ở triều Minh.
Trần Khánh Hạo nhận xét rằng Kim Bình Mai phản ánh một điểm rất thú vị: nếu một người
nam có ý định chinh phục một người nữ thì hắn ta phải thông qua tình dục để làm cho đối
phương có được khoái lạc. Trần Khánh Hạo bảo rằng nhân vật nam chính trong truyện, Tây
Môn Khánh, tuy là một tên đại dâm đãng nhưng mối quan tâm lớn nhất của hắn là làm thế
nào để nhân vật nữ chính Phàn Kim Liên được khoái lạc. Điểm này trong các tác phẩm văn
tình dục của phương Tây ít thấy có.

Nữ nhi xuân (tranh xuân con gái)

"Tranh xuân cung" thoạt đầu là những tranh vẽ tại các cung thất đế vương triều Hán, về sau
bị coi là công cụ để dạy về tình dục: vào lúc gả chồng cho con gái, bố mẹ cô không quên bỏ
vào đáy hòm cô vài tờ tranh xuân cung, nhằm để tham khảo cho đêm tân hôn, trong tranh mô
tả nam nữ sinh hoạt tình dục cùng mọi tư thế giao hợp, tranh được cuộn tròn hoặc kết thành
từng tập. Do đó mà tranh xuân cung còn có tên gọi là "tranh đáy hòm".

Trần Khánh Hạo nhận xét rằng, căn cứ vào những miêu tả trong những tác phẩm văn học
của hai triều Minh, Thanh, tranh xuân cung được bán rất "quang minh chính đại". Ở ngoài
các cửa miếu của thành Tô Châu chúng được bán giữa ban ngày ban mặt cùng với các tranh
Tết nguyên đán.

Nhà dân tộc học Ân Đăng Quốc trong cuốn "Cửa sổ sau của phong tục dân gian" cũng nói
tới: Làng Dương Liễu Thanh gần Thiên Tân nổi tiếng về sản xuất với những bức tranh dâm ô
mà những bức tranh này đều ra đời dưới ngọn bút của những phụ nữ và những cô con gái
con nhà khuê các. Do đó mà chúng có tên gọi đẹp đẽ là "nữ nhi xuân" (tranh xuân của con
gái).

Những lời mà cổ nhân dùng để hợp lý hóa tranh xuân cung rất là thú vị. Tương truyền rằng
những bức tranh dâm dục ô uế có pháp lực hàng phục tà ma và xua đuổi hung thần sát quỷ,
lại có khả năng kî tà, kî lửa. Khi thần lửa vốn e thẹn trông thấy một nơi có sinh hoạt tình dục
thì ông ta lập tức xấu hổ mà tránh đi, cho nên nơi nào treo tranh dâm ô thì thần lửa tự
nhiên"kính nhi viễn chi" (kính trọng mà lánh xa). Từ đó trở đi các thư sinh có thể công khai
mạnh dạn treo trong phòng học của họ những bức "bí hí đồ" (tranh trò chơi bí mật), còn được
gọi là "tî hỏa đồ" (tranh kî lửa).

Miếu thờ trinh tiết

Để biểu dương trinh nữ, tiết phụ, triều Thanh lại còn tiến thêm một bước là cho dựng những
miếu thờ, đồng thời tại các địa phương lập những "toàn tiết đường", "sùng tiết đường",
"thanh tiết đường" v.v... tiếp nhận, thu nạp những trinh nữ, tiết phụ.

Vào đời Thanh việc kiểm duyệt các sách cấm cũng đặc biệt nghiệt ngã. Giáo sư Vương Thu
Quế ở Hệ sử trường đại học quốc gia Thanh Hoa nhận xét rằng cứ mỗi khi một vị vua nhà
Thanh lên ngôi, đều cho công bố một danh mục những sách cấm, phàm những sách nói về
tình yêu, về sự quan hệ giữa trai gái thảy đều bị cấm. Do đó, dưới triều Thanh xuất hiện cái
hiện tượng thú vị là nhiều loại sách như vậy đã được xuất bản đi xuất bản lại nhiều lần, mỗi
lần dưới một cái tên khác trước.

Những bài học lịch sử

Từ khi có cuộc sống là đã có tình dục. Cha ông chúng ta từng thời kỳ sùng bái tình dục và
sinh sản mà hoàn toàn không hay biết, qua những thời kỳ của lịch sử như tạp giao, quần
hôn..., phát triển tới tận nay đến chế độ một vợ một chồng. Qua quá trình đó, quan niệm tình
dục của nhân loại chao đảo, đu đưa giữa những áp lực thuộc tính sinh vật và tính xã hội.

Lấy xưa xét nay, có thể thấy rõ được là, xã hội mà khống chế đối với cá nhân càng chặt chẽ
bao nhiêu thì những cấm kî tình dục càng nhiều bấy nhiêu và những cấm đoán tình dục càng
nghiệt ngã bấy nhiêu. Nhưng thời kỳ mà sự áp chế tình dục gay gắt, thì sự phản ứng lại cũng
gay gắt.

Quan niệm tình dục không ngừng diễn biến, nhân loại không ngừng đi tìm kiếm một điểm cân
bằng. Điều quan trọng là cái điểm cân bằng đó do quan hệ cung cầu tự nhiên mà tìm ra,
không thể một người hay một số người có thể quy định được.

Những nhân sĩ bảo vệ nền đạo đức hiểu rằng đời này không giống đời khác, nhưng mà nhìn
chung văn hóa tình dục của Trung Quốc đời xưa, họ thình lình phát hiện ra là cái "thái bình
thịnh thế" trong sự tưởng tượng của mọi người kỳ thực không hề tồn tại. Nhưng không ít học
giả nhận ra rằng, đem cái nhãn quan lịch sử ra mà xét thì xã hội luôn luôn tiến lên phía trước,
nó càng ngày càng mang tính người. Chúng ta cần phải có lòng tin vào xã hội

Bạc Bích

You might also like