Professional Documents
Culture Documents
Công Tác Ngo I Giao
Công Tác Ngo I Giao
Thành viên:
1. Phan Hoàng Hà.
2. Trương Thu Trang.
3. Đặng Thị Thu Trang.
4. Nguyễn Cẩm Tú.
5. Hồ Thu Thủy.
6. Bùi Trần Anh Vy.
IV. XU HƯỚNG/ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
NƯỚC MỸ THẾ KỈ 21:
1. Bối cảnh
Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu. Tình hình thế giới có nhiều biến động và thay đổi lớn. Đứng
trước tình hình đó, các quốc gia trên thế giới đều phải có những sự thay đổi và
điều chỉnh chiến lược cho phù hợp với tình hình quốc tế và khu vực. Để phù
hợp với sự thay đổi của tình hình nói trên, Mỹ cũng đã có sự điều chỉnh chính
sách đối ngoại.
Đây là giai đoạn trật tự thế giới hai cực không còn nữa, Liên Xô và các nước
XHCN tan rã, lợi thế nghiêng về phía Mỹ.
2. Các xu hướng/ yếu tố tác động đến chính sách đối ngoại nước mỹ trong
thế kỉ 21
a. Nhân quyền
“Ngoại giao nhân quyền” là từ dùng để chỉ chính sách ngoại giao của Mỹ, lấy
vấn đề nhân quyền là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ đối ngoại. Nhân quyền
đã là một yếu tố tiên quyết trong chính sách đối ngoại, qua rất nhiều đời tổng
thống như Kennedy, Catơ,... và vẫn tiếp tục là kim chỉ nam trong ngoại giao Mỹ
trong thế kỉ 21. Một vài đặc điểm của chính sách nhân quyền dưới thời tổng
thống Bill Clinton như sau:
Thứ nhất, gắn nhân quyền với vấn đề dân chủ và thị trường tự do kiểu tư
bản chủ nghĩa. Điều này có nghĩa là một chế độ xã hội được coi là bảo
đảm nhân quyền chỉ khi chế độ xã hội ấy phát triển theo chế độ kinh tế thị
trường tự do và tuân thủ những nguyên tắc của thể chế chính trị theo học
thuyết tam quyền phân lập, đa nguyên, đa đảng.
Thứ hai, nhân quyền được chính trị hoá cao độ, được tuyên bố công khai
là điều kiện quan hệ ngoại giao, điều kiện để cung cấp viện trợ, ủng hộ,
hợp tác hoặc gây sức ép, thậm trí phủ nhận chủ quyền, tấn công nước
khác.
Thứ ba, nhân quyền được gắn trực tiếp với tất cả các mối quan hệ quốc
tế, từ quan hệ song phương, đa phương đến các quan hệ liên quan đến các
tổ chức và thể chế chính trị, tài chính quốc tế. Điều này thể hiện ở việc
Hoa Kỳ coi vấn đề nhân quyền là điều kiện cơ bản để thiết lập, duy trì
quan hệ quốc tế, cung cấp tài chính cho hoạt động của các thể chế chính
trị, tài chính quốc tế, kể cả Liên Hợp Quốc.
Thứ tư, mở rộng, tăng cường phạm vi hoạt động của các tổ chức chuyên
trách trên lĩnh vực này, đặc biệt chú ý đến các tổ chức phi chính phủ.
Thứ năm, Quốc hội trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của nước
khác nhân danh nhân quyền; chẳng hạn: phê chuẩn các khoản tài chính
cho hoạt động này của chính phủ và giúp đỡ các lực lượng chống đối ở
các quốc gia khác, thông qua các lệnh trừng phạt quốc gia nào bị coi là
“có vấn đề nghiêm trọng” về quyền con người.
b. Chiến tranh chống khủng bố
(Global War on Terrorism) được sử dụng lần đầu tiên bởi Tổng thống Hoa Kỳ
George W. Bush và những nhân viên cao cấp Hoa Kỳ để chỉ đến xung đột toàn
cầu quân sự, chính trị, luật pháp, và tư tưởng chống các tổ chức được coi là
khủng bố, cũng như những chính quyền và cá nhân hỗ trợ hay có liên quan đến
họ. Thuật ngữ này chủ yếu chỉ đến khủng bố Hồi giáo chống Hoa Kỳ, nhất là tổ
chức khủng bố Al-Qaeda, với mục đích "kết thúc chủ nghĩa khủng bố quốc tế"
đáp trả lại vụ tấn công vào Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001 do al-Qaeda tiến
hành.
Sau sự kiện ngày 11/9, chủ nghĩa khủng bố chính thức dấy lên mối lo
ngại Tổng thống George W. Bush thông báo bắt đầu “cuộc chiến tranh
đầu tiên của thế kỷ XXI” – cuộc chiến chống khủng bố. “Chủ nghĩa
khủng bố” trở thành mục tiêu chính trong chính sách đối ngoại và các
chiến lược an ninh suốt 2 nhiệm kỳ của tổng thống George W. Bush thể
hiện rất rõ qua học thuyết Bush (Bush Doctrine). Tóm lại, các thay đổi
chính trong chính sách của Mỹ sau sự kiện 11/9 bao gồm:
Chống khủng bố trở thành ưu tiên hàng đầu
Củng cố sức mạnh đồng minh, ngăn chặn kẻ thù không đe dọa đến Mỹ và
đồng minh, đặc biệt là bằng vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD);
Chuyển đổi các cơ quan an ninh quốc gia Mỹ nhằm đáp ứng các thách
thức an ninh của thế kỷ 21.
Dưới thời tổng thống B. Obama, cụm từ ‘chiến tranh chống khủng bố’
không còn được sử dụng, tuy vậy ưu tiên hàng đầu của Mỹ vẫn là là
Truy bắt và xét xử các phần tử khủng bố, tập trung nhất là mối đe dọa từ
al-Qaeda
Tăng cường hậu thuẫn các đơn vị chiến đấu mặt đất chống lại bè lũ khủng
bố
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa tình báo và các lực lượng đặc nhiệm, trao cho
lực lượng đặc nhiệm vai trò trung tâm cả trong tác chiến lẫn giải quyết
các điểm nóng trên thế giới để giảm thiểu tối đa thiệt hại về người Tổng
thống Obama khẳng định rằng mối đe dọa từ chủ nghĩa khủng bố là hiện
hữu, song cho rằng “chúng ta sẽ đánh bại được hiểm họa này”.
Tổng thống Mỹ đương nhiệm hiện nay- Donald Trump cũng đã đưa ra 1
bản chiến lược chống khủng bố gồm 6 phương thức tiếp cận gồm:
Truy đuổi tới tận ngọn nguồn của chủ nghĩa khủng bố; cô lập khủng bố
khỏi các nguồn hỗ trợ; hiện đại hóa và hợp nhất các phương tiện chống
khủng bố của Mỹ; bảo vệ và tăng cường các cơ sở hạ tầng của Mỹ; đối
phó với các hành vi tuyển dụng và biểu hiện quá khích của chủ nghĩa
khủng bố; tăng cường năng lực chống chủ nghĩa khủng bố của các đối tác
quốc tế.
Có thể thấy, Mỹ giữ quan điểm coi chiến tranh chống lực lượng khủng bố Hồi
giáo là mối quan tâm hàng đầu, chống khủng bố là một trong những nội dung
cốt lõi trong chính sách đối ngoại của Washington
c. Toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa được xác định từ thế kỷ XVI, sau những đợt khám phá hàng hải
nối liền Đông - Tây, Âu - Á. Toàn cầu hóa có thể nhìn thấy dưới nhiều lăng
kính : kinh tế; chính trị, văn hóa, xã hội, nhưng tổng quát lại là các quốc gia,
châu lục xích lại gần nhau hơn. Chính nước Mỹ thịnh thượng như ngày nay
cũng được sản sinh trong xu thế toàn cầu hóa. (liên hệ cuốn ‘thế giới phẳng của
Thomas Friedman’)
‘Những lãnh đạo khôn ngoan luôn luôn đặt lợi ích của người dân và đất nước
mình lên trên hết. Tương lai không thuộc về những người toàn cầu hóa. Tương
lai thuộc về những người yêu nước.”
Việc duy trì các mối quan hệ đa phương - kết quả của quá trình toàn cầu hóa
vẫn được xem là sự ưu tiên trong CSDN mỹ nửa đầu thế kỉ 21 nhưng dần trở
nên kém quan trọng trong các chính sách đối ngoại mỹ hiện nay.
d. Chủ nghĩa yêu nước - “Nước Mỹ trên hết”
Có thể nói Donald Trump là một bước ngoặt ngoạn mục khi mà vị tổng thống
này có những quan điểm và chính sách hoàn toàn khác so với những người tiền
nhiệm trước của ông. Không ai biết chính sách đối ngoại của Chính quyền
Donald Trump sẽ được định hình như thế nào, hay những ưu tiên của ông sẽ ra
sao khi phải đối mặt với những diễn biến và khủng hoảng trong thời gian tới.
Điều duy nhất trong chính sách của ông Trump mà chúng ta thấy được rõ kể từ
đầu nhiệm kì đó là quan điểm “America First - Nước Mỹ trên hết” của ông.
Thể hiện quan điểm đối ngoại của Washington, Tổng thống Mỹ nhấn mạnh:
"Mỹ sẽ luôn chọn sự độc lập và hợp tác hơn là việc kiểm soát, điều hành và
thống trị toàn cầu’'. Giương cao quan điểm ‘Nước Mỹ trên hết’, ngài Trump
đang phá bỏ vai trò truyền thống của nước Mỹ bằng việc:
Rút lui khỏi các tổ chức và hiệp ước quốc tế vd: không ngần ngại rút
khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương hồi tháng 1/2017. , bỏ rơi
các thoả thuận thương mại đa phương, đe doạ những "đối tác xấu chơi",
yêu cầu các quốc gia đồng minh phải tự lo, từ chối bảo vệ quyền tự do và
nhân quyền, và kết giao với những nhà độc tài. Gần như mỗi chuyến công
du của vị tổng thống này đều đem về các hợp đồng hàng trăm tỷ USD,
điều mà ông cho là các nước nên làm để giảm thâm hụt thương mại.
Trump đặt lợi ích của nước Mỹ là tiêu chí hàng đầu trong bất cứ thỏa thuận
song phương và đa phương nào. Với những tuyên bố và hành động quyết liệt,
Washington sẵn sàng loại bỏ thậm chí là áp đặt trừng phạt với bất cứ mối quan
hệ nào nếu nó không thực sự mang lại lợi ích rõ ràng cho nước Mỹ
"Chúng tôi sẽ không bao giờ hy sinh chủ quyền của Mỹ cho một bộ máy quan
liêu toàn cầu. Nước Mỹ chỉ chịu sự quản lý của người Mỹ. Chúng tôi bác bỏ tư
tưởng toàn cầu hóa. Chúng tôi tin theo học thuyết về chủ nghĩa yêu nước"
V. DỰ ĐOÁN CHUNG VỀ XU HƯỚNG NGOẠI GIAO TOÀN CẦU TK
21:
1. Toàn cầu hóa, khu vực hóa
Với xu thế hội nhập, liên kết, mở cửa ngày càng sâu rộng, khiến cho ngoại giao
đa phương trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có vai trò ngày càng tăng trong
nền chính trị thế giới. Vì thế mỗi quốc gia đều phải xử lý một mạng lưới các
mối quan hệ chằng chịt, phức tạp, đa chiều:
Mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau
Giữa các quốc gia với các cơ chế/tổ chức đa phương, liên chính phủ
Giữa các quốc gia với các chủ thể phi nhà nước, ví dụ như các tổ chức
phi chính phủ (NGO), các công ty xuyên quốc gia (MNC), cộng đồng
doanh nghiệp, các tổ chức/viện nghiên cứu, giáo dục đào tạo,…).
Thêm vào đó, các chủ thể QHQT tăng nhanh về số lượng và trở nên hết sức đa
dạng, trong đó nhà nước vẫn là chủ thể chính song vai trò của chủ thể phi nhà
nước ngày càng tăng trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu mà thế giới cũng
đang phải đối mặt như khủng bố, biến đổi khí hậu, đói nghèo, an ninh năng
lượng, an ninh lương thực, môi trường.
Thực tế cho thấy bản thân từng quốc gia, dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, đều
không thể tự mình giải quyết hiệu quả các thách thức này mà cần có sự hợp tác
với nhau cũng như sự ủng hộ và hợp tác của công chúng, giới truyền thông, các
NGO, cộng đồng doanh nghiệp, giới trí thức, giới học giả…
2. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật
Thế giới đang thay đổi rất nhanh chóng dưới tác động của tiến trình toàn cầu
hóa và cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực công
nghệ thông tin và internet. Thời gian và không gian địa lý ngày càng bị thu hẹp
do sự phát triển của các phương tiện vận tải, các phương tiện truyền thông, và
đặc biệt là sự nổi lên của một “thế giới ảo”, “cộng đồng ảo” với phạm vi kết nối
rộng rãi các trang web, các mạng xã hội, các blog, diễn đàn,… Điều này đồng
nghĩa với việc những người dân cũng ngày càng được tiếp cận nhiều nguồn
thông tin hơn, nhanh chóng hơn. Vì thế ngoại giao cũng trở nên cởi mở hơn, ít
khép kín hơn và các nhà ngoại giao sẵn sàng tiếp xúc với báo chí, công chúng.
Nhờ đó ngoại giao công chúng ngày càng trở nên phổ biến và gần gũi trong
những năm gần đây.
Một số chương trình bàn luận về tình hình chính trị, thế giới trong đó các vị
khách mời đến chương trình là các nhà báo, nhà phân tích chính trị,... như The
situation room with Wolf Blitzer (CNN), Toàn cảnh thế giới (VTV), ...
3. Ngoại giao kinh tế*
Sự phát triển mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hoá và khoa học công nghệ cũng
như sự phân công lao động quốc tế đã làm cho kinh tế trở thành nhân tố đóng
vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế. Kinh tế đồng thời trở thành yếu tố
quyết định sức mạnh tổng hợp của một quốc gia. Chính vì vậy, quan hệ kinh tế
trở thành “chất keo” trong quan hệ chính trị giữa các nước. Và vì thế trong
tương lai, ngoại giao kinh tế vẫn sẽ là trọng tâm hoạt động ngoại giao của nhiều
nước, minh chứng là các tổ chức kinh tế thế giới, các thỏa thuận thương mại tự
do song phương/ đa phương,... đang hoạt động rất hiệu quả, mang lại nhiều lợi
ích kinh tế cho các nước tham gia.
(*)Theo định nghĩa của G. R. Berridge và Aliab James, ngoại giao kinh tế là
hoạt động ngoại giao liên quan đến các vấn đề kinh tế bao gồm công tác của các
đoàn ngoại giao cho đến các hội nghị quốc tế (do các tổ chức quốc tế đảm nhận,
chẳng hạn như WTO). Đồng thời, hoạt động ngoại giao kinh tế cũng bao hàm
việc theo dõi và báo cáo cho chính phủ về tình hình, chính sách kinh tế của
nước nhận đại diện nhằm có những biện pháp thích hợp tạo nên sự ảnh hưởng
đến kinh tế nước đó. Bên cạnh đó, ngoại giao kinh tế cũng liên quan tới việc sử
dụng các nguồn tài nguyên kinh tế, các biện pháp như trừng phạt kinh tế nhằm
theo đuổi những mục tiêu cụ thể của chính sách đối ngoại.