You are on page 1of 6

Reading

Mammoth kill
A mammoth is any species of the extinct genus Mammuthus, proboscideans commonly
equipped with long, curved tusks and, in northern species, a covering of long hair.
Mammoth là loài đã bị tuyệt chủng, Mammuthus, pro boscideans thường sở hữu bộ ngà dài,
cong và với các loài sống ở phía Bắc được phủ bởi một bộ lông dài.

They lived from the Pliocene epoch (from around 5 million years ago) into the Holocene at
about 4,500 years ago, and were members of the family Elephantidae, which contains, along
with mammoths, the two genera of modern elephants and their ancestors.
Chúng sống từ kỷ nguyên Pilocene (khoảng 5 triệu năm trước) đến thế Holocene vào khoảng
4500 năm trước và là những thành viên của họ Elephantidae, loài này bao gồm, cùng với voi ma
mút, hai chi của voi hiện đại và tổ tiên của chúng.

Like their modern relatives, mammoths were quite large.


Giống như những họ hàng hiện đại, voi ma mút khá là lớn.

The largest known species reached heights in the region of 4 m at the shoulder and weights of
up to 8 tonnes, while exceptionally large males may have exceeded 12 tonnes.
Loài lớn nhất đạt được chiều cao trong phạm vi 4m ở vai và cân nặng đến 8 tấn, trong khi con
đực có thể vượt qua 12 tấn.

However, most species of mammoth were only about as large as a modern Asian elephant.
Tuy nhiên, hầu hết các loài voi ma mút chỉ lớn bằng một con voi châu Á hiện nay.

Both sexes bore tusks.


Cả con đực và con cái đều có ngà.

A first, small set appeared at about the age of six months, and these were replaced at about 18
months by the permanent set.
Một cặp ngà nhỏ xuất hiện đầu tiên vào lúc 6 tháng tuổi, và chúng được thay thế bởi cặp ngà
vĩnh viễn vào khoảng lúc 18 tháng tuổi.

Growth of the permanent set was at a rate of about 2,5 to 15,2 cm per year.
Tốc độ phát triển của bộ ngà vĩnh viễn vào khoảng 2,5 đến 15,2 cm một năm.

Based on studies of their close relatives, the modern elephants, mammoths probably had a
gestation period of 22 months, resulting in a single calf being born.
Dựa trên việc nghiên cứu những họ hàng gần của chúng, những con voi hiện nay, voi ma mút có
thể có thời gian mang thai 22 tháng, kết quả là là sự ra đời của một con con.

1
Reading

Their social structure was probably the same as that of African and Asian elephants, with
females living in herds headed by a matriarch, whilst bulls lived solitary lives or formed loose
groups after sexual maturity.
Cấu trúc bầy đàn của chúng có thể giống với loài voi châu Phi và châu Á, với những con cái sống
trong đàn do một con cái đứng đầu, trong khi con đực sống độc lập hoặc thành lập các nhóm
mới sau khi trưởng thành.

MEXICO CITY – Although it’s hard to imagine in this age of urban sprawl and automobiles, North
America once belonged to mammoths, camels, ground sloths as large as cows, bear-size
beavers and other formidable beasts.
Thành phố Mexico- mặc dù có thể khó để tưởng tượng được trong thời đại của phát triển đô
thị và tự động hóa, nhưng Bắc Mĩ đã từng thuộc về những con voi ma mút, lạc đà, những con
lười lớn như những con bò, những con hải ly to như con gấu và những con thú đáng sợ khác.

Some 11,000 years ago, however, these large-bodied mammals and others – about 70 species
in all – disappeared.
Tuy nhiên, khoảng 11000 năm trước, những động vật có vú to lớn này cũng như những loài
khác-khoảng 70 loài- đã biến mất.

Their demise coincided roughly with the arrival of humans in the New World
and dramatic climatic change – factors that have inspired several theories about the die-off.
Sự diệt vong của chúng trùng hợp với sự xuất hiện của con người trên thế giới mới và những
thay đổi khí hậu đáng kể- những yếu tố đã tạo ra nhiều học thuyết về sự tàn lụi.

Yet despite decades of scientific investigation, the exact cause remains a mystery.
Bất kể hàng thập kỷ đầu tư nghiên cứu khoa học, nguyên nhân chính xác của chúng vẫn là một
bí ẩn.

Now new findings offer support to one of these controversial hypotheses: that human hunting
drove this megafaunal menagerie to extinction.
Bây giờ các phát hiện mới đã ủng hộ một trong các giả thuyết gây tranh cãi: rằng sự săn bắn của
con người đã khiến bầy thú khổng lồ thần thoại này tuyệt chủng.

The overkill model emerged in the 1960s, when it was put forth by Paul S Martin of the
University of Arizona.
Mô hình săn bắt quá mức đã xuất hiện trong những năm 1960, được đưa ra bởi Paul S Martin
của Đại học Arizona đưa ra.

Since then, critics have charged that no evidence exists to support the idea that the first
Americans hunted to the extent necessary to cause these extinctions.
Kể từ đó, các nhà phê bình đã buộc tội rằng không có bằng chứng nào tồn tại để ủng hộ cho ý
2
Reading

tưởng rằng việc săn bắn quá mức cần thiết của những thổ dân Mĩ đầu tiên đã gây ra sự tuyệt
chủng này.

But at the annual meeting of the Society of Vertebrate Paleontology in Mexico City last
October, paleoecologist John Alroy of the University of California at Santa Barbara argued that,
in fact, hunting-driven extinction is not only plausible, it was unavoidable.
Tuy nhiên, tại cuộc họp thường niên của cộng đồng khảo cổ sinh vật có xương sống tại thành
phố Mexico vào tháng 10 năm ngoái, nhà cổ sinh thái học John Alroy thuộc trường đại học
California ở Santa Barbara lập luận rằng, trên thực tế sự tuyệt chủng do săn bắn gây ra không
những có vẻ hợp lý mà còn không thể tránh khỏi.

He has determined, using a computer simulation, that even a very modest amount of hunting
would have wiped these animals out.
Ông ta đã sử dụng một mô phỏng máy tính để xác định rằng ngay cả một lượng rất nhỏ việc săn
bắn cũng có thể quét sạch các loài động vật này.

Assuming an initial human population of 100 people that grew no more than 2 percent
annually, Alroy determined that if each band of, say, 50 people killed 15 to 20 large mammals a
year, humans could have eliminated the animal populations within 1,000 years.
Giả sử một dân số ban đầu là 100 người, tăng trưởng mỗi năm không quá 2%, Alroy xác định
rằng nếu mỗi nhóm có 50 người giết từ 15 đến 20 con thú lớn mỗi năm, con người có thể loại
bỏ các quần thể động vật trong vòng 1000 năm.

Large mammals in particular would have been vulnerable to the pressure because they have
longer gestation periods than smaller mammals and their young require extended care.
Động vật có vú lớn đặc biệt có thể dễ bị áp lực ảnh hưởng bởi vì chúng có thời gian mang thai
dài hơn những động vật nhỏ hơn và con non cần được chăm sóc nhiều.

Not everyone agrees with Alroy’s assessment.


Không phải ai cũng đồng ý với đánh giá của Alroy.

For one, the results depend in part on population-size estimates for the extinct animals –
figures that are not necessarily reliable.
Đầu tiên, kết quả phụ thuộc một phần số lượng- kích cỡ ước lượng của quần thể các loài động
vật đã tuyệt chủng- những con số không đáng tin cậy.

But a more specific criticism comes from mammalogist Ross D.


Nhưng một lời chỉ trích cụ thể hơn đến từ nhà động vật học Ross D.

MacPhee of the American Museum of Natural History in New York City, who points out that the
relevant archaeological record contains barely a dozen examples of stone points embedded in
3
Reading

mammoth bones (and none, it should be noted, are known from other megafaunal remains) –
hardly what one might expect if hunting drove these animals to extinction.
MacPhee của bảo tàng lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ ở thành phố New York, người đã chỉ ra rằng hồ
sơ khảo cổ học liên quan chỉ chứa ít nhất 12 mẫu của vũ khí bằng đá chìm trong xương voi ma
mút (và không có một dấu vết nào được ghi nhận ở các loài khổng lồ khác)- thật khó để ai đó có
thể mong rằng săn bắn chính là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài thú này.

Furthermore, some of these species had huge ranges – the giant Jefferson’s ground sloth, for
example, lived as far north as the Yukon and as far south as Mexico – whichwould have made
slaughtering them in numbers sufficient to cause their extinction rather implausible, he says.
Hơn nữa, một số trong các loài này có phạm vi rộng lớn- ví dụ con lười ươi của người khổng lồ
Jefferson, sống ở phía Bắc như Yukon và phía Nam như Mexico-có thể đã tạo ra sự giết hàng
loạt với số lượng đủ lớn để tạo ra sự tuyệt chủng của chúng khá là hợp lý, ông nói.

MacPhee agrees that humans most likely brought about these extinctions (as well as others
around the world that coincided with human arrival), but not directly.
MacPhee đồng ý rằng loài người chắc chắn dẫn đến những sự tuyệt chủng này (cũng như
những sự tuyệt chủng khác trên thế giới trùng khớp với sự xuất hiện của loài người) nhưng
không trực tiếp.

Rather he suggests that people may have introduced hyperlethal disease, perhaps through their
dogs or hitchhiking vermin, which then spread wildly among the immunologically naive species
of the New World.
Thay vào đó, ông cho rằng con người có thể đã mắc bệnh gây chết người, có lẽ thông qua
những con chó của họ hoặc những con bọ truyền nhiễm, loài mà lan truyền rộng khắp trong số
các loài tự miễn dịch của thế giới mới.

As in the overkill model, populations of large mammals would have a harder time recovering.
Như một mô hình lớn, quần thể động vật có vú lớn sẽ có thời gian hồi phục khó khăn hơn.

Repeated outbreaks of a hyperdisease could thus quickly drive them to the point of no return.
Các đợt bùng phát lặp lại của các bệnh chết người có thể nhanh chóng đẩy họ đến mức không
thể hồi phục.

So far MacPhee does not have empirical evidence for the hyperdisease hypothesis, and it won’t
be easy to come by: hyperlethal disease would kill far too quickly to leave its signature on the
bones themselves.
Cho đến khi MacPhee vẫn không có bằng chức thực nghiệm cho giả thuyết về bệnh chết người,
và nó không dễ dàng xảy ra bởi: bệnh dịch chết người sẽ giết chết qua nhanh để để lại dấu hiệu
trên xương của chúng.

4
Reading

But he hopes that analyses of tissue and DNA from the last mammoths to perish will eventually
reveal murderous microbes.
Nhưng ông hi vọng rằng các phân tích mô và DNA từ các con voi ma mút cuối cùng bị tiêu diệt
sẽ tiết lộ các vi khuẩn giết người.

The third explanation for what brought on this North American extinction does not involve
human beings.
Giải thích thứ 3 cho những gì đã tạo ra sự tuyệt chủng ở Bắc Mỹ này không liên quan đến con
người.

Instead its proponents blame the loss on the weather.


Thay vào đó, những người ủng hộ đổ lỗi cho biến mất là do thời tiết.

The Pleistocene epoch witnessed considerable climatic instability, explains paleontologist


Russell W.
Kỷ nguyên Pleistocene đã chứng kiến sự bất ổn về khí hậu đáng kể, Russell W.

Graham of the Denver Museum of Nature and Science.


Graham thuộc Bảo tàng Khoa học Tự nhiên Denver đã giải thích.

As a result, certain habitats disappeared, and species that had once formed communities split
apart.
Do đó, những môi trường sống nhất định đã biến mất, và các loài đã từng hình thành các riêng
biệt cộng đồng.

For some animals, this change brought opportunity.


Đối với một số động vật, sự thay đổi này mang lại cơ hội.

For much of the megafauna, however, the increasingly homogeneous environment left them
with shrinking geographical ranges – a death sentence for large animals, whichneed large
ranges.
Tuy nhiên, đối với phần lớn các loài khổng lồ thần thoại, môi trường ngày càng trở nên đồng
nhất đã để lại cho chúng những phạm vi địa lý bị thu hẹp - một án tử hình đối với các động vật
lớn, những loài này cần phạm vi lớn.

Although these creatures managed to maintain viable populations through most of the
Pleistocene, the final major fluctuation – the so-called Younger Dryas event – pushed them over
the edge, Graham says.
Mặc dù những sinh vật này có thể duy trì các quần thể sống sót qua hầu hết Pleistocene, sự
biến động chính cuối cùng - cái gọi là sự kiện Younger Dryas - đã đẩy chúng vượt qua giới hạn
chịu đựng, Graham nói.
5
Reading

For his part, Alroy is convinced that human hunters demolished the titans of the Ice Age.
Về phần mình, Alroy bị thuyết phục rằng thợ săn người đã phá hủy những tên khổng lồ của thời
kỳ băng hà.

The overkill model explains everything the disease and climate scenarios explain, he asserts,
and makes accurate predictions about which species would eventually go extinct.
Mô hình quá mức cần thiết giải thích tất cả những gì bệnh tật và khí hậu giải thích, ông khẳng
định và đưa ra dự đoán chính xác về những loài nào cuối cùng sẽ bị tuyệt chủng.

“Personally, I’m a vegetarian,” he remarks, “and I find all of this kind of gross – but believable.
"Cá nhân tôi, tôi là người ăn chay," ông nhận xét, "và tôi thấy chúng khá dị - nhưng đáng tin cậy.

You might also like