You are on page 1of 4

Population Movement and Genetics

*STUDY4 đang trong quá trình biên soạn các bản dịch, mong các bạn thông cảm nếu
có chỗ dịch chưa chính xác. Vui lòng inbox fanpage để báo lỗi dịch.

Phong trào dân số và di truyền học

Study of the origins and distribution sự phân bố of human populations used to be based
on archaeological thuộc khảo cổ học and fossil hóa thạch evidence. A number of techniques
developed since the 1950s, however, have placed the study of these subjects on a
sounder and more objective khách quan footing. The best information on early population
movements is now being obtained from có được the ‘archaeology khảo cổ học of the living
body’, the clues to be found in genetic liên quan đến di truyền material.

Nghiên cứu về nguồn gốc và sự phân bố của quần thể người từng dựa trên bằng chứng
khảo cổ học và hóa thạch. Tuy nhiên, một số kỹ thuật được phát triển từ những năm
1950 đã đặt việc nghiên cứu các chủ đề này trên một nền tảng vững chắc và khách
quan hơn. Thông tin tốt nhất về sự di chuyển sớm của dân số hiện đang được thu thập
từ 'khảo cổ học của cơ thể sống', manh mối được tìm thấy trong vật liệu di truyền.

Recent work on the problem of when people first entered the Americas is an example of
the value of these new techniques. North-east Asia and Siberia have long been
accepted as the launching ground nơi khởi đầu, bước khởi đầu for the first
human colonisers người đi khai hoang/người định cư đất mới of the New World*. But was there
one major wave of migration sự di cư across the Bering Strait into the Americas, or
several? And when did this event, or events, take place? In recent years, new clues
have come from research into genetics, including the distribution of genetic markers in
modern Native Americans.

Nghiên cứu gần đây về vấn đề thời điểm con người lần đầu đặt chân đến châu Mỹ là
một ví dụ về giá trị của những kỹ thuật mới này. Đông Bắc Á và Siberia từ lâu đã được
chấp nhận là nơi xuất phát của những người định cư đầu tiên ở Tân Thế giới*. Nhưng
có một làn sóng di cư lớn qua eo biển Bering vào châu Mỹ hay nhiều làn sóng? Và khi
nào sự kiện này, hoặc các sự kiện, diễn ra? Trong những năm gần đây, các manh mối
mới đã đến từ nghiên cứu về di truyền học, bao gồm cả sự phân bố các dấu hiệu di
truyền ở người Mỹ bản địa hiện đại.

An important project, led by the biological anthropologist nhà nhân chủng học Robert
Williams, focused on the variants biến thể (called Gm allotypes) of one particular protein
– immunoglobin G — found in the fluid chất lỏng portion of human blood. All proteins
‘drift dịch chuyển/trôi dạt ’, or produce variants, over the generations, and members of
an interbreeding lai, phối giống human population will share a set of such variants. Thus,
by comparing the Gm allotypes of two different populations (e.g. two Indian tribes), one
can establish their genetic ‘distance’, which itself can be calibrated định chuẩn, hiệu chỉnh to
give an indication sự biểu thị, dấu hiệu of the length of time since these populations
last interbred phối giống, lai giống .

Một dự án quan trọng do nhà nhân chủng học sinh học Robert Williams đứng đầu, tập
trung vào các biến thể (được gọi là kiểu hình Gm) của một loại protein cụ thể –
immunoglobulin G – được tìm thấy trong phần chất lỏng của máu người. Tất cả các
protein 'trôi dạt', hoặc tạo ra các biến thể, qua nhiều thế hệ và các thành viên của quần
thể người giao phối với nhau sẽ chia sẻ một tập hợp các biến thể như vậy. Do đó, bằng
cách so sánh các kiểu hình Gm của hai quần thể khác nhau (ví dụ như hai bộ lạc da
đỏ), người ta có thể thiết lập 'khoảng cách' di truyền của chúng, bản thân khoảng cách
này có thể được hiệu chỉnh để đưa ra dấu hiệu về khoảng thời gian kể từ lần cuối các
quần thể này giao phối với nhau.

Williams and his colleagues sampled the blood of over 5,000 American Indians in
western North America during a twenty- year period. They found that their Gm allotypes
could be divided into chia thành two groups, one of which also corresponded to tương
ứng the genetic typing of Central and South American Indians. Other tests showed that
the Inuit (or Eskimo) and Aleut formed a third group. From this evidence it
was deduced suy luận ra that there had been three major waves of migration across the
Bering Strait. The first, Paleo-lndian, wave more than 15,000 years ago
was ancestral (thuộc) tổ tiên to all Central and South American Indians. The second wave,
about 14,000-12,000 years ago, brought Na-Dene hunters, ancestors of the Navajo and
Apache (who only migrated south from Canada about 600 or 700 years ago). The third
wave, perhaps 10,000 or 9,000 years ago, saw the migration from North-east Asia of
groups ancestral to the modern Eskimo and Aleut.

Williams và các đồng nghiệp của ông đã lấy mẫu máu của hơn 5.000 thổ dân da đỏ ở
miền tây Bắc Mỹ trong khoảng thời gian 20 năm. Họ phát hiện ra rằng các kiểu gen Gm
của họ có thể được chia thành hai nhóm, một trong số đó cũng tương ứng với kiểu gen
của người da đỏ Trung và Nam Mỹ. Các thử nghiệm khác cho thấy người Inuit (hoặc
Eskimo) và Aleut đã thành lập nhóm thứ ba. Từ bằng chứng này, người ta suy luận
rằng đã có ba làn sóng di cư lớn qua eo biển Bering. Làn sóng đầu tiên, Paleo-lndian,
hơn 15.000 năm trước là tổ tiên của tất cả người da đỏ Trung và Nam Mỹ. Làn sóng thứ
hai, khoảng 14.000-12.000 năm trước, đã mang theo những thợ săn Na-Dene, tổ tiên
của người Navajo và Apache (chỉ di cư xuống phía nam từ Canada khoảng 600 hoặc
700 năm trước). Làn sóng thứ ba, có lẽ 10.000 hoặc 9.000 năm trước, chứng kiến sự di
cư từ Đông Bắc Á của các nhóm tổ tiên đến người Eskimo và Aleut hiện đại.
E

How far does other research support these conclusions? Geneticist Douglas Wallace
has studied mitochondrial liên quan đến ty thể DNA in blood samples from three widely
separated Native American groups: Pima- Papago Indians in Arizona, Maya Indians on
the Yucatdn peninsula bán đảo , Mexico, and Ticuna Indians in the Upper Amazon region
of Brazil. As would have been predicted dự đoán by Robert Williams’s work, all three
groups appear to be descended from có nguồn gốc từ the same ancestral (Paleo-lndian)
population.

Các nghiên cứu khác hỗ trợ những kết luận này đến mức nào? Nhà di truyền học
Douglas Wallace đã nghiên cứu DNA ty thể trong các mẫu máu của ba nhóm người Mỹ
bản địa khác nhau: người da đỏ Pima- Papago ở Arizona, người da đỏ Maya trên bán
đảo Yucatdn, Mexico và người da đỏ Ticuna ở vùng Thượng Amazon của Brazil. Như
đã được dự đoán bởi công trình của Robert Williams, cả ba nhóm dường như đều có
nguồn gốc từ cùng một quần thể tổ tiên (Paleo-lndian).

There are two other kinds of research that have thrown some light on làm sáng tỏ the
origins of the Native American population; they involve the study of teeth and of
languages. The biological anthropologist Christy Turner is an expert in the analysis of
changing physical characteristics in human teeth. He argues that tooth crowns thân
răng and roots have a high genetic component thành phần , minimally tối thiểu, rất
nhỏ affected by environmental and other factors. Studies carried out by Turner of many
thousands of New and Old World specimens mẫu vật , both ancient and modern, suggest
that the majority of prehistoric Americans are linked to Northern Asian populations by
crown and root traits đặc điểm such as incisor răng cửa shoveling hình cái xẻng (a scooping
out on one or both surfaces of the tooth), single-rooted upper first premolars răng tiền
hàm and triple-rooted lower first molars răng hàm . According to Turner, this ties in with
the idea of a single Paleo-lndian migration out of North Asia, which he sets at before
14,000 years ago by calibrating rates of dental micro-evolution. Tooth analyses also
suggest that there were two later migrations of Na-Denes and Eskimo- Aleut.

Có hai loại nghiên cứu khác đã làm sáng tỏ nguồn gốc của dân số người Mỹ bản địa;
chúng liên quan đến việc nghiên cứu về răng và ngôn ngữ. Nhà nhân chủng học sinh
học Christy Turner là chuyên gia phân tích về sự thay đổi đặc điểm vật lý ở răng người.
Ông lập luận rằng thân răng và chân răng có thành phần di truyền cao, ít bị ảnh hưởng
bởi môi trường và các yếu tố khác. Các nghiên cứu do Turner thực hiện về hàng ngàn
mẫu vật của Thế giới Mới và Thế giới Cũ, cả cổ đại và hiện đại, cho thấy rằng phần lớn
người Mỹ thời tiền sử có mối liên hệ với các nhóm dân cư Bắc Á bởi các đặc điểm về
thân răng và chân răng chẳng hạn như răng cửa nhô ra (một cái múc trên một hoặc cả
hai bề mặt của răng), răng cối nhỏ thứ nhất trên một chân và răng cối lớn thứ nhất dưới
ba chân. Theo Turner, điều này liên quan đến ý tưởng về một cuộc di cư Paleo-
lndian duy nhất ra khỏi Bắc Á, mà ông cho rằng trước 14.000 năm trước bằng cách
hiệu chỉnh tốc độ tiến hóa vi mô của răng. Các phân tích răng cũng cho thấy có hai
cuộc di cư sau này của người Na-Denes và người Eskimo- Aleut.

G The linguist nhà ngôn ngữ học Joseph Greenberg has, since the 1950s, argued that all
Native American languages belong to a single ‘Amerind’ family, except for Na-Dene and
Eskimo-Aleut – a view that gives credence lòng tin, sự tin cậy to the idea of three main
migrations. Greenberg is in a minority among fellow linguists, most of whom favour
the notion quan điểm of a great many waves of migration to account for the more than
1,000 languages spoken at one time by American Indians. But there is no doubt that the
new genetic and dental evidence provides strong backing for Greenberg’s view. Dates
given for the migrations should nevertheless be treated with caution, except where
supported by hard archaeological evidence.

G Nhà ngôn ngữ học Joseph Greenberg, từ những năm 1950, đã lập luận rằng tất cả
các ngôn ngữ của người Mỹ bản địa đều thuộc về một họ 'Amerind' duy nhất, ngoại trừ
Na-Dene và Eskimo-Aleut – một quan điểm mang lại sự tin cậy cho ý tưởng về ba cuộc
di cư chính. Greenberg là thiểu số trong số các nhà ngôn ngữ học đồng nghiệp, hầu hết
trong số họ ủng hộ khái niệm về nhiều làn sóng di cư lớn để giải thích cho hơn 1.000
ngôn ngữ được sử dụng cùng một lúc bởi người Mỹ da đỏ. Nhưng không còn nghi ngờ
gì nữa, bằng chứng di truyền và nha khoa mới cung cấp sự ủng hộ mạnh mẽ cho quan
điểm của Greenberg. Tuy nhiên, thời điểm được đưa ra cho các cuộc di cư nên được
xử lý một cách thận trọng, trừ khi được hỗ trợ bởi bằng chứng khảo cổ học chắc chắn.

You might also like