You are on page 1of 6

LÝ LUẬN THẦN SÁT

Thần sát trong phong thủy có nhiều loại, các phương


vị vượng, suy phụ thuộc vào hai yếu tố chính là Thái
Tuế và Cửu Tinh. Thái tuế dịch chuyển theo hình tròn,
trong khi Cửu tinh theo quỹ đạo Lường thiên xích.
Để đón cát tránh hung ta cần
nắm rõ quy luật, đặc điểm của
hai yếu tố này
.
1/Tuế Phá:là phương đối xung của Thái Tuế. Phương
có Tuế Phá chỉ cần không làm xung động nó, không
sửa sang gì thì tất yên, không đáng lo. Chính vì thế
nên nó không tính là nặng nhất dù không có cách hóa
giải.

2/ Thái Tuế:
là phương sở trị năm đó, năm Tý tại Tý, năm Sửu tại
Sửu... Người xưa nói:
"Thái Tuế khả tọa, bất khả hướng". "Không gì cát
bằng tọa Thái Tuế; không gì hung bằng phạm Thái Tuế
" . Cho nên có khi TỌA mà cát, có khi TỌA mà hung.
Hơn nhau hay không là ở chỗ dùng đúng phép. Thái
Tuế khi TỌA ở Sơn thì ta nên bổ cứu cho nó, không
nên khắc chế, xung, hình nó. Nơi phương Thái Tuế ở
mà nhiều sao cát thì cát, nhiều sao hung thì hung. Nếu
được thêm Tử Bạch, Thái Dương, Tam Kỳ Môn, Quý
Nhân, Lộc, Mã 2-3 cái cùng đến thì quý hiển không gì
bằng mà lại phát rất mau. Cho nên, nếu Thái Tuế tọa
Sơn, khi cần làm phải tính toán thật kỹ tìm các đại cát
tinh hợp chiếu. Nếu không biết cách chọn đại cát tinh
thì xin chớ làm bừa, vì khi "động thổ trên đầu Thái
Tuế" không phải là chuyện đùa.

3/ Tam Sát:
bản chật của nó là do Thái Tuế hợp cục, tạo ra sự
vượng, suy theo các phương tứ chính.
Ví dụ: các năm Dần, Ngọ, Tuất (hỏa Cục) thì Vượng tại
Ngọ, đối xung với Ngọ là Tam Sát (tại Tý).
Các năm khác cứ thế mà suy ra.
Khi nó đến Sơn hay tạo, táng đều kỵ. Nếu Tam Sát chỉ
đến phương thì có thể chế nó mà tu tạo vậy.
Tam Hợp dụng thần có hai câu có thể gọi là “Thiên
Kinh Địa Nghĩa” là “Thái Tuế khả tọa bất khả hướng”;
“Tam Sát khả hướng bất khả Tọa”. Trong việc chọn
Dụng Thần chọn ngày, giờ, có thể tính toán để tìm ra
chân Thái Dương, Thái Âm đến hướng, đến phương
để hóa giải.
Lực của Tam hợp rất lớn nên cố gắng tận dụng triệt
để nó.
Lưu ý: Nếu phương đó gặp Ngũ Hoàng hội Lực sĩ thì
không theo đó mà dùng được.

4/ Ngũ Hoàng:
mang hành Thổ, có tên là sao Liêm chinh (trong tử vi
là một sao chính diệu, vì vậy còn gọi là sao Chính
quan).
Khi Ngũ Hoàng nắm lệnh, tức là nó nhập trung thì nó
là Cát Tinh quyền uy tám phương, không sao cát nào
vào giửa mà có uy lực tạo phúc như nó cả, vì đó là
chính ngôi của nó vậy. Người ta chỉ xem nó là sát khi
nó rời khỏi cung vị phi đến các phương. Vì vậy nó còn
có tên là sao Ngũ hoàng sát, Chính quan sát, hay Mậu
kỷ sát. Khi sao Ngũ hoàng bay thuận đến 8 hướng
xung quanh trung tâm của bản đồ cửu cung thì nó sẽ
đóng tại cung đối diện với cung có sao bay vào trung
tâm, và hình thành ở đó hai khí xung khắc nhau. Thí
dụ: Khi sao Nhất bạch Thuỷ bay thuận từ cung
Khảm (Bắc) bay vào Trung tâm thì sao ngũ hoàng Thổ
sẽ mang theo Thuỷ khí của Khảm bay vào cung Ly
(Nam), đối diện với Khảm. Hoả khí của cung Ly khi đó
xung khắc với Thuỷ khí do Ngũ hoàng mang đến tạo
thành sát.

Cách hóa giải Ngũ Hoàng chỉ đơn giản là dùng KIM để
tiết khí THỔ

Cửu tinh tác động theo các Phương là chính, trong khi
Thái tuế ngoài sự tác động theo Phương vị nó còn ảnh
hưởng mạnh tới Nhân vận. Tạo, Táng căn bản không
ngoài sự tương tác Hợp (lục hợp, tam hợp), Xung,
Hình.

-Tạo: do thời gian kéo dài nên cần chú trọng Mệnh
Chủ. Lấy năm sinh của chủ nhà để luận, sinh năm Giáp
Tý không dùng ngày Ngọ, giờ Ngọ, cũng kỵ Canh Ngọ,
cùng Giáp Ngọ bởi đều là chính xung thường gọi là
Thiên Xung Địa Khắc, lực xung rất mạnh. Giáp Tý với
Giáp Ngọ là Thiên Can tương đồng, Địa Chi tương
xung, gọi là Thiên Tỷ Địa Xung cũng là đại
hung.

- Táng:cần chú trọng Mộ Vận (Mộ long biếnvận)


Một cách đơn giản dễ hình dung là đặt vòng Tràng
Sinh của Thái Tuế trên đồ hình cửu cung của niên tinh.
Ví dụ: như năm 2014 (Giáp Ngọ), Tứ lục nhập trung,
ta có đồ hình sau:

-Phương Bắc là Tam Sát hội cùng Tuế Phá là phương


đại hung rất kỵ động thổ, tu tạo.
-Phương Tây Bắc (cung Càn) có Ngũ hoàng phi đến,
do Càn thuộc Kim, Ngũ hoàng thuộc Thổ; ta có Thổ
sinh Kim nên lực của Ngũ hoàng giảm bớt nên
phương này cũng không đáng ngại lắm. Ngũ hoàng chỉ
đặc biệt nguy hiểm khi hội cùng Lực sỹ.
-Phương Nam có Đế vượng, vượng tinh Bát bạch (chỉ
2 cái này cũng đủ dùng rồi), nếu tính toán cho một vài
sao như
Thái dương, Thái âm, Quý nhân, Lộc, Mã
rơi vào thì phương này cực tốt, động thổ phát rất
nhanh và mạnh.
Cần nắm vững đặc tính Cửu tinh, Thái Tuế và mối
quan hệ Hợp, Xung, Hình… tiến hành cân nhắc, gia
giảm để đón cát tránh hung.

NB, ngày 18/12/2014

Vũ Hữu Khôi

You might also like