You are on page 1of 32

MÙA XUÂN NHO NHỎ

I. Tác giả:
- Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn (1930- 1980) quê ở Phong Điền, Thừa Thiên
Huế thuộc thế hệ nhà thơ thưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và là một trong
những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam.
- GV mở rộng: Quê của Thanh Hải ở Huế. Mà các bạn biết rằng nói đến Huế là nói đến
miền đất mang vẻ đẹp riêng biệt: “Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình
yêu dịu ngọt. Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được, nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”. Thiên
nhiên đã ban tặng cho Huế một vẻ đẹp rất thơ, rất mộng. Nói đến Huế là nói đến dòng
sông Hương lững lờ uốn lượn ôm ấp vòng quanh thành phố Huế. Không chỉ đẹp về
cảnh thiên nhiên, nói đến Huế là người ta nói đến vẻ đẹp trầm tư, cổ kính bởi vì Huế là
nơi có các triều đại nhà Nguyễn, nơi có cung đình, đền đài, lăng tẩm, chùa chiền nổi
tiếng – Huế được coi là một trong những danh thắng đẹp nhất Việt Nam. Con người
Huế thì dịu dàng, sâu lắng, đằm thắm và kín đáo, sâu thẳm về tâm hồn. Tất cả vẻ đẹp
thiên nhiên và con người Huế in đậm dấu ấn trong thơ Thanh Hải.
- Đặc điểm thơ Thanh Hải: thơ Thanh Hải trong sáng, tha thiết gần với dân ca, có nhiều
hình ảnh đẹp giản dị.
II. Hoàn cảnh ra đời, đề tài, thể thơ, bố cục:
1. Hoàn cảnh ra đời:
- Hoàn cảnh chung: Năm 1980, đất nước ta đi qua cuộc kháng chiến chống Mỹ chưa
được bao lâu. Chiến tranh vẫn còn ở phía Bắc và phía Tây Nam. Năm này cũng là năm
cả đất nước đang xây dựng cuộc đời mới. Đã là công dân Việt Nam ai cũng muốn đóng
góp một phần sức lực nhỏ bé của mình để hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng
Xã hội chủ nghĩa thành công ở cả hai miền Nam Bắc. Cho nên hai nhiệm vụ chiến đấu
và sản xuất là hai nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời gian này.
- Hoàn cảnh riêng: Bài thơ sáng tác tháng 11. 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường
bệnh trước ngày qua đời không bao lâu.
2. Đề tài:
- Viết về mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân đất nước và mùa xuân của mỗi con
người.
3. Thể thơ:
- Thơ 5 chữ (ngũ ngôn)
4. Bố cục: 3 phần
- Khổ 1: Mùa xuân của thiên nhiên đất trời.
- Khổ 2,3: Mùa xuân của đất nước.
- Khổ 4, 5: Tâm niệm của nhà thơ muốn làm một mùa xuân nho nhỏ.
- Khổ cuối: Lời ca ngợi
III. Phân tích:

1
1. Khổ 1: Nhà thơ ca ngợi vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên đất trời.
a. Bức tranh mùa xuân:
+ Mở đầu bài thơ chỉ với sáu dòng thơ năm chữ, âm điệu ngọt ngào, tha thiết, tác giả đã
họa bằng thơ bức tranh xuân rất đẹp, rất Huế:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
+ Bức tranh mùa xuân ở đây không được vẽ rườm rà, nhiều chi tiết, bức tranh mùa xuân
chỉ được phác họa bằng một vài nét chính. Trong nghệ thuật người ta gọi đây là thủ
pháp điểm nhãn (nhìn vào một điểm chính). Sử dụng thủ pháp điểm nhãn với những chi
tiết đơn sơ mà tươi đẹp.
+ Trước hết nét vẽ thứ nhất tác giả tạo nên một không gian cao rộng, khoáng đạt qua hai
nét vẽ: một nét vẽ dòng sông một nét vẽ bầu trời. Ở dưới là con sông Hương uốn lượn
ôm ấp lấy xứ Huế. Phía trên là bầu trời cao rộng.
+ Nét vẽ thứ hai: là nét vẽ bông hoa mọc giữa dòng sông và cánh chin in trên nền trời.
+ Mùa xuân có đầy đủ màu sắc, âm thanh và ánh sáng, đường nét: sắc xanh của dòng
sông, của bầu trời, tím biếc của hoa lục bình (màu đặc trưng của xứ Huế), âm thanh
trong trẻo, tươi vui của tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Màu sắc kết hợp xanh và
tím biếc hài hòa, rực rỡ, tươi tắn, thanh nhã, nhà thơ đã kết hợp sắc màu như một họa sĩ
tài hoa (Giống màu xanh của cỏ non và màu trắng của hoa lê trong hai câu Kiều của
Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời – Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” nhưng
sắc màu trong bài thơ này rực rỡ hơn, tươi thắm hơn là nhờ có màu tím biếc – biếc gợi
lên một độ tím, gợi lên một chiều sâu thăm thẳm). Chỉ một đóa hoa lục bình tím biếc
dân giã, bình dị và rất đỗi quen thuộc nhưng lại gợi được một nét đẹp rất Huế, cổ kính,
thâm trầm và duyên dáng. Màu hoa tím ấy như gợi trong ta nét duyên dáng của những tà
áo tím thướt tha trong ngày xuân của các bà, các chị. Sắc hoa tím biếc rất bình dị, chân
quê nhưng lại mang cả điệu hồn Huế, đóa hoa đồng nội ấy từng sáng bừng lên trong thơ
Lê Anh Xuân khi viết về dòng sông tuổi thơ:
Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông
+ Màu sắc, âm thanh ấy cùng với nghệ thuật đảo ngữ “Mọc giữa dòng sông xanh” khắc
sâu ấn tượng về sức sống của mùa xuân, của loài hoa này. Trong văn học Trung đại một
bông hoa gợi cái gì đó cô đơn, bé nhỏ, lẻ loi, đơn chiếc. Ở đây chỉ có một bông hoa mọc
giữa dòng sông nhưng không hề gợi cảm giác lẻ loi. Trái lại gợi cho người đọc nhìn vào
hình ảnh đó, bông hoa đó để thấy được sức sống của nó.
 Bức tranh xuân hiện lên cao, rộng, khoáng đạt, rực rỡ, tươi thắm và tràn đầy sức
sống.
b. Cảm xúc say sưa, ngây ngất của nhà thơ trước vẻ đẹp của đất trời:

2
+ Đặc sắc nhất là hình ảnh “Ơi con chim chiền chiện – Hót chi mà vang trời – Từng giọt
long lanh rơi – Tôi đưa tay tôi hứng” .
+ Chú ý tiếng gọi “Ơi con chim chiền chiện”, tiếng gọi này cùng câu hỏi cảm thán tu từ
“Hót chi mà vang trời”. Ở đây ta thấy nhà thơ đã nhân hóa đối tượng. Con chim trở
thành người bạn rất thân thiết. Tác giả gọi chim ơi với câu hỏi hót chi mà vang khắp bầu
trời thế. Nhân hóa đối tượng để trò chuyện, để đối thoại, để được chia sẻ những cảm
xúc, cảm xúc đang xôn xao, ngây ngất trong lòng. Đặc biệt tiếng “chi” sao mà ngọt
ngào, tha thiết và đậm đà chất Huế đến thế! Nhà thơ gọi chim, hỏi chim mùa xuân về có
chi mà vui mà hót vang trời hay hỏi chính lòng mình? Tâm hồn nhà thơ như trẻ lại như
muốn cất cánh bay lên cùng cánh chim mùa xuân.
+ Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ được thể hiện rõ rất qua một động tác: Động tác đưa tay
ra hứng là động tác rất tự nhiên nhưng đồng thời nó còn thể hiện sự trân trọng, nâng niu
của tác giả, tác giả như muốn nắm bắt lấy tất cả cái giọt long lanh rơi để chiêm ngưỡng
vẻ đẹp tinh túy của mùa xuân. Cụm từ giọt long lanh có thể hiểu theo nhiều nghĩa. Có
thể hiểu giọt long lanh ở đây là giọt mưa xuân, giọt sương xuân. Còn có thể hiểu hai câu
thơ này gắn với hai câu trước: nhà thơ đưa tay hứng từng giọt âm thanh tiếng chim =>ở
đây có sự chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính
giác) chuyển thành giọt (hình và khối, cảm nhận bằng thị giác) từng giọt ấy lại long lanh
ánh sáng và màu sắc có thể cảm nhận bằng cả xúc giác (đưa tay hứng). Tiếng chim
chiền chiện hót vang trời kết thành từng giọt có sắc màu long lanh, cái vô hình đã biến
thành cái hữu hình. Tác giả đưa tay hứng từng giọt long lanh rơi ấy để ngầm khẳng định
rằng nó không chỉ là giọt của âm thanh mà còn là giọt xuân, giọt của tình yêu đời, yêu
cuộc sống. Tác giả dùng chi tiết tạo hình để thể hiện niềm say sưa ngây ngất của nhà
thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời lúc vào xuân  Thể hiện tình yêu đời, yêu
cuộc sống của tác giả. Vậy là bằng những câu thơ giản dị và những hình ảnh thơ đơn sơ,
Thanh Hải đã vẽ lên một bức tranh mùa xuân rất Việt Nam, rất đằm thắm với những
cảm xúc trìu mến, chân thành.
+ Chưa bao giờ như lúc này, cái lúc nhà thơ đang đứng ở gianh rới mong manh giữa sự
sống và cái chết, ông cảm thấy quê hương đất nước và cuộc sống lại tươi đẹp, đáng yêu
đến thế. Nhà thơ đã đón nhận mùa xuân quê hương, tiếng chim mùa xuân bằng các giác
quan và sự rung động mãnh liệt của tâm hồn.
+ Nếu xét khổ thơ thứ nhất theo chiều dọc ta cũng nhận thấy tác giả cảm nhận mùa xuân
bằng rất nhiều giác quan: Thị giác (thấy bông hoa tím biếc)  Thính giác (Nghe thấy
tiếng chim chiền chiện)  Xúc giác( hứng lấy giọt long lanh).
2. Khổ 2, 3: Mùa xuân đất nước.
Sáu câu thơ đầu như tiếng hát reo vui đón chào mùa xuân đã về. Một bức tranh
xuân thật đẹp. Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời nhà thơ chuyển sang cảm nhận về
mùa xuân của đất nước.
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương lúa
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
a. Khổ 2: Cảm xúc về đất nước trong lao động và trong chiến đấu:

3
+ Phép điệp cú pháp (câu 1 và câu 3, câu 2 và câu 4) tạo nên tính nhạc cho thơ.
+ Phép đối (hai câu đầu – hai câu sau) để nói mùa xuân của đất nước là mùa xuân của
những người cầm súng và người ra đồng. Ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật
hoán dụ (lấy cái bộ phận để chỉ cái toàn thể): người cầm súng là chiến sĩ, còn người ra
đồng là người nông dân. Họ chính là đại diện của nhân dân.
+ Nếu phải vẽ lại lịch sử Việt Nam người ta phải vẽ lại một thanh gươm đầy máu vì
suốt chiều dài lịch sử chúng ta đều phải chống giặc ngoại xâm. Cho nên hình tượng
chiến sĩ trong văn học cách mạng là hình tượng đẹp, hình tượng chính, hình tượng trung
tâm của tác phẩm văn học. Hơn thế nữa đất nước ta là một đất nước nông nghiệp, 90%
làm nghề nông – vậy thì đối tượng để văn học phản ánh nữa đó là người nông dân.
Chính vì thế hai đối tượng này chúng ta thường thấy xuất hiện trong thơ ca, không có gì
lạ lẫm với người đọc. Quay trở lại bài này, bài này với chủ đề nói về mùa xuân nhưng
sao lại nhắc đến người chiến sĩ và người nông dân, như đã nói ở đầu, giai đoạn này
chúng ta vẫn phải cầm súng để chống giặc, giai đoạn đang phải lao động hăng say, đầy
nhiệt huyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở hai miền Nam Bắc. Vì vậy người cầm súng
và người nông dân là những người đang phải thực hiện nhiệm vụ của đất nước đó là
chiến đấu và sản xuất. Chính họ đã đem lại mùa xuân cho đất nước. Vì vậy học xuất
hiện trong bài thơ này với tư cách là hình ảnh trung tâm của khổ 2.
+ Hình ảnh thơ vừa mang tính tả thực vừa mang tính biểu tượng. “Lộc” là chồi non của
cây, mùa xuân cây cối nẩy lộc, đơm hoa; tính biểu tượng (ẩn dụ) lộc chỉ mùa xuân, sức
sống, hi vọng, thắng lợi.
+ Nghĩa đen: Lộc của người chiến sĩ là cành lá ngụy trang giắt đầy trên lưng, họ đi
chiến đấu mang theo trên lưng đến khắp miền Tổ quốc những lộc non, chồi biếc. Nghĩa
bóng: Họ cầm súng bảo vệ quê hương chính là đem lộc, đem hòa bình yên vui về cho
mọi nhà.
+ Nghĩa đen: Lộc của người ra đồng là nương mạ xanh rờn trải dài trên khắp cánh đồng,
hứa hẹn của một mùa xuân bội thu. Nghĩa bóng: Người nông dân lao động vất vả là để
đem lại lộc, đem lại cơm no, áo ấm đến cho mọi người.
 Họ đã đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc và chính họ đã tạo ra mùa xuân cho đất
nước.
+ Ta bắt gặp hai câu thơ “Tất cả như hối hả - Tất cả như xôn xao” – Tác giả vô cùng
xúc động trước sự hối hả, trước nhịp sống của nhân dân, điều này được thể hiện qua
nhịp thơ, qua điệp ngữ và qua việc sử dụng các từ láy “hối hả, xôn xao” cho thấy nhà
thơ đang lắng mình để nghe nhịp đời, nghe tiếng đời, đó là tiếng của cuộc sống mới
hăng say và đầy hứa hẹn.
+ Cặp từ láy “hối hả, xôn xao” cùng với điệp từ “tất cả” làm cho câu thơ vang lên nhịp
điệu tươi vui, mạnh mẽ khác thường. Đó là hành khúc mùa xuân của thời đại Hồ Chí
Minh.
b. Khổ 3: Những suy ngẫm về đất nước:

4
+ Giọng thơ trở nên suy tư, sâu lắng khi tác giả nghĩ về lịch sử của dân tộc. Qua đó tác
giả ngầm bộc lộ cảm xúc thương và tự hào về dân tộc:
+ Thương vì dân tộc ta là một dân tộc với bốn nghìn năm đầy vất vả và gian lao. Đúng
vậy, trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước ông cha ta đã trải qua biết bao bão táp
mưa sa, gian khổ, cực nhọc, phải đương đầu với biết bao khó khăn thử thách mới giữ
được giang sơn này. Nhà thơ Chế lan Viên cũng viết về sự vất vả gian lao của đất nước
như thế này:
Cha ông ta từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa
Cả đất nước đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mua rơi.
+ Nhưng thật kì lạ và tự hào khi đất nước ấy vẫn sáng như vì sao, mỗi độ xuân về như
được tiếp thêm sức sống để băng mình về phía trước. Sau này chúng ta sẽ được học tác
phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, ông đã so sánh các cô gái mở đường
như những ngôi sao trên bầu trời đêm. Ở đây tác giả Thanh Hải đã so sánh đất nước như
vì sao. Đất nước như vì sao là một hình ảnh so sánh đẹp. Thủ pháp so sánh thường thấy
A so sánh với B. A là cái chưa rõ, B là cái đã biết. Mượn B để làm rõ A. Câu thơ này
thể hiện sự suy ngẫm của tác giả về đất nước, suy ngẫm đất nước giống như vì sao cứ đi
lên phía trước. Ta phải tìm hiểu vế B, ý nghĩa của vì sao thì ta mới biết tác giả đang suy
nghĩ gì về đất nước. Trước hết những ngôi sao trên bầu trời là những ngôi sao nhỏ bé,
ánh sáng khiêm nhường nhưng luôn lặng lẽ tỏa sáng gợi liên tưởng đến một đất nước
giản dị, khiêm nhường nhưng cần lao vượt qua mọi gian lao. Đất nước tuy vất vả va
gian lao nhưng cứ đi lên phía trước thật đáng tự hào, đó là một tư thế kiên cường, hiên
ngang của cả một dân tộc không bao giờ chịu lùi bước.
=> Đồng thời ta nhận thấy thái độ lạc quan tin tưởng của nhà thơ đối với sự phát triển
của dân tộc.
=> Qua ý thơ của Thanh Hải ta thấy một Việt Nam đẹp giản dị, trầm tĩnh mà bất khuất.
Những con người Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, hăng say trong lao động, chính
là nguồn sức mạnh của một dân tộc anh hùng. Hai khổ thơ đã giúp ta thêm hiểu, thêm
yêu mến và tự hào về đất nước.
3. Khổ 4, 5: Tâm niệm của nhà thơ:
- Khổ 4:
+ Điệp ngữ “ta làm” nhắc lại hai lần và “ta nhập” thể hiện khát vọng được hòa nhập,
vào cuộc sống của đất nước, của nhân dân một cách chân thành, thiết tha để cống hiến
phần tốt đẹp dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. Tác giả đã lấy
những hình ảnh đẹp đẽ của thiên nhiên, nhành hoa, con chim hót, một nối nhạc trầm - là
những hình ảnh tự nhiên, giản dị, khiêm nhường - để thể hiện mong muốn được sống
có ích. Tất cả những điều tác giả muốn là được hóa thân thành những vật nhỏ bé nhưng
hữu ích để cống hiến cho cuộc đời.

5
=> Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh: Mỗi người không cần phải cống hiến những gì lớn
lao, chỉ cần cống hiến những gì nhỏ bé nhưng đó phải là những gì đẹp đẽ và tinh túy
nhất của họ, giống như cái tinh túy nhất của con chim là tiếng hót, của bông hoa là
hương sắc, của bản nhạc là nốt nhạc trầm xao xuyến.
+ Một khát vọng đẹp phải được biểu tượng bằng những hình ảnh đẹp.
+ Khổ 1 miêu tả mùa xuân của thiên nhiên có con chim và cành hoa, khổ này miêu tả về
mùa xuân trong cuộc đời của con người lại xuất hiện con chim và cành hoa là phù hợp
với khổ 1.
+ Nói đến mùa xuân mà không có chim hót, hoa nở thì không còn là mùa xuân.
+ Giữa khổ đầu và khổ này có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng từ “tôi” sang “ta”. Điều
này hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên mà được nhà thơ sử dụng như một dụng ý nghệ
thuật, phù hợp với chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng trong bài thơ. Từ “tôi” trong
câu thơ “Tôi đưa tay tôi hứng” ở khổ đầu vừa là thể hiện cái tôi cụ thể, rất riêng của nhà
thơ vừa thể hiện sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân, nếu thay
bằng từ “ta” thì hoàn toàn không thích hợp với nội dung cảm xúc ấy. Còn trong khổ
này, khi bày tỏ điều tâm niệm – khát vọng được cống hiến những điều tinh túy của cuộc
đời mình cho cuộc đời chung thì đại từ “ta” lại tạo được một sắc thái trang trọng, thiêng
liêng như một điều ước nguyện. Hơn nữa điều tâm niệm này không phải chỉ của riêng
nhà thơ – cái tôi của tác giả - mà ông đã nói thay cho nhiều cái tôi khác nên nhất thiết
phải dùng từ “ta”. Nhưng “ta” mà không hề chung chung, vô hình mà ở đây ta nhận ra
được cái giọng riêng nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm thắm của cái tôi. Ông muốn được
làm một nốt nhạc trầm không vang xa, không vút cao nhưng làm xao xuyến lòng người.
- Khổ 5:
+ Sáng tạo đặc sắc nhất của tác giả là hình ảnh mùa xuân nho nhỏ. Mùa xuân đi vào văn
học xưa và nay không hiếm, mùa xuân đã tỏa hương sắc trong thơ ca nghệ thuật nhưng
mùa xuân nho nhỏ là cách nói mới mẻ, độc đáo của tác giả. Có mâu thuẫn không khi
người ta nói đến mùa xuân là nói đến cái mênh mang của đất trời, cái xôn xao của vạn
vật, cái bao la của vũ trụ. Vậy mà ở đây Thanh Hải lại nói “mùa xuân nho nhỏ” không
những vậy hình ảnh thơ được nhắc lại hai lần. Mùa xuân nho nhỏ ở đây không phải để
nói đến mùa xuân của đất trời mà để ví cuộc đời của mỗi con người đẹp như một mùa
xuân. Hãy sống những tháng ngày của đời mình bằng tất cả sức sống đẹp đẽ nhất. Mỗi
ngày trong đời đều là một mùa xuân và hãy cống hiến mùa xuân ấy cho đất nước nhưng
chỉ nên xem sự cống hiến ấy là sự đóng góp nho nhỏ chỉ là một nốt trầm trong một bản
hòa ca của dân tộc. Đây là một cách nói khiêm nhường, cũng là một ước nguyện vô
cùng giản dị, không đòi hỏi một sự đền đáp, ghi nhận. Một sự cống hiến vô tư, vô điều
kiện.
- GV bình giảng:
+ Trong bài trường ca “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm, ông có viết là:
Có biết bao nhiêu người con gái, con trai
Trong bốn ngàn năm lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
6
Nhưng họ đã làm ra đất nước.
 Đấy là sự cống hiến vô tư, không cần đền đáp, đấy là những con người vô danh và
chính họ đã làm nên đất nước. Dân tộc Việt Nam bao giờ cũng thế, khi đất nước có giặc
thì con trai ra trận, con gái trở về nuôi cái cùng con. Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng
đánh. Nhiều người đã trở thành anh hùng cả anh và em đều nhớ. Nhưng cũng có những
anh hùng sống giản dị, bình tâm, không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ vẫn âm thầm lặng
lẽ cống hiến.
+ Chúng ta thấy hình tượng những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường
Sơn, họ đã sống và làm việc ở đó, kề cận với cái chết, công việc của họ cực kì nguy
hiểm, đó là đếm bom rơi, phá bom, san đất…luôn luôn giữ cho những chuyến xe lưu
thông. Những cô gái bé nhỏ, giản dị, họ đã lặng lẽ cống hiến cả tuổi thanh xuân và tính
mạng của mình cho đất nước mà chẳng cần vinh danh.
+ Có một bài thơ rất hay của nhà thơ Lê Anh Xuân. Ông đã khái quát hình ảnh những
người lính, họ đã sống và chết rất giản dị và vô danh nhưng cái chết của họ là không vô
ích, sự hi sinh của họ đã làm nên cả dánh đứng Việt Nam mà thế giới phải nghiêng
mình thán phục:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh lại gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết khi anh đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Chợt thấy anh giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp dưới chân anh tránh đạn
Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tấn công.
Không một tấm hình không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ
Ôi anh giải phóng quân
Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
 Đấy chính là hình tượng về người chiến sĩ vô danh đã hi sinh nhưng chính cái tư thế
của anh khi hi sinh đã tạo nên dáng đứng Việt Nam. Lòng yêu tổ quốc đã tạc lên dáng
đứng ấy. Anh là một tượng đài được tổ quốc ghi công.
+ Đây là một sự hiến dâng trọn vẹn, trọn đời cho đất nước không kể thời gian, không kể
tuổi tác, dù là tuổi hai mươi dù là khi tóc bạc và cuộc đời của Thanh Hải là một minh
chứng (Tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đất nước hòa bình thì
làm thơ, cuối đời khi nằm trên giường bệnh vẫn khát khao cống hiến).
Tóm lại:
+ Qua hai khổ thơ tác giả Thanh Hải đã thể hiện một quan niệm sống. Trong “Thép đã
tôi thế đấy” Ba- ven (nhân vật chính) đã phát biểu như thế này: Đời người chỉ sống có
7
một lần, hãy sống làm sao để khi nhắm mắt xuôi tay ta không khỏi hối hận vì đã sống
hoài sống phí. Quan niệm sống của Thanh Hải cũng vậy, sống là phải sống đẹp, sống
nhân văn.
+ Thứ hai chúng ta cũng thấy được một nhận thức đúng đắn của nhà thơ về mối quan hệ
giữa cá nhân và cộng đồng. Cá nhân là một phần nhỏ bé của cộng đồng. Mỗi cá nhân sẽ
góp vào một cuộc đời chung nhưng đó là những đóng góp đầy bản sắc, đầy giá trị và
đáng được trân trọng. Mỗi cá nhân xin làm một mùa xuân nho nhỏ thôi để dâng lên mùa
xuân lớn lao của cuộc đời.
+ Không những vậy chúng ta còn thấy được những đặc sắc trong triết lí của Thanh Hải:
* Thể hiện một vấn đề lớn lao đó là quan niệm sống về mối quan hệ giữa cá nhân và
cộng đồng nhưng lại bằng một hình thức giản dị, không cường điệu, không đại ngôn mà
chỉ như một lời thủ thỉ, tâm tình nhỏ nhẹ thiết tha về lẽ sống và chính điều này mới gây
xúc động cho mọi người và thấm thía với mỗi người.
* Điều thứ hai là sự thay đổi đại từ xưng hô từ “tôi” sang “ta” là đi từ suy ngẫm cá
nhân, đến những suy nghĩ của một thế hệ, của cả một cộng đồng và điều đó đã kêu gọi
được sự đồng tình, đồng cảm của mọi người. (Giữa hai phần của bài thơ có sự chuyển
đổi đại từ nhân xưng của chủ thể trữ tình “tôi” sang “ta”. Điều này hoàn toàn không
phải là ngẫu nhiên mà đã được tác giả sử dụng như một dụng ý nghệ thuật, thích hợp
với sự chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng trong bài thơ. Chữ “tôi” trong câu thơ “tôi
đưa tay tôi hứng” ở khổ đầu vừa thể hiện một cái “tôi” cụ thể rất riêng của nhà thơ vừa
thể hiện sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sự sống của mùa xuân. Nếu thay bằng chữ
“ta” thì hoàn toàn không thích hợp với nội dung cảm xúc ấy mà chỉ vẽ ra một tư thế có
vẻ phô trương. Còn trong phần sau, khi bày tỏ điều tâm niệm tha thiết như một khát
vọng được dâng hiến những giá trị tinh tuý của đời mình cho cuộc đời chung thì đại từ
“ta” lại tạo được sắc thái trang trọng, thiêng liêng của một lời nguyện ước. Hơn nữa,
điều tâm nguyện ấy không chỉ là của riêng nhà thơ, cái “tôi” của tác giả đã nói thay cho
nhiều cái tôi khác, nó nhất thiết phải hoá thân thành cái ta. Nhưng “ta” mà không hề
chung chung vô hình mà nhận ra được một giọng riêng nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm
thắm của cái “tôi” Thanh Hải : muốn được làm một nốt trầm xao xuyến trong bản hoà
ca một cách lặng lẽ chứ không phô trương, ồn ào.)
* Triết lí bằng ẩn dụ trong cả một hệ thống mùa xuân. Trong mùa xuân đất nước, đất
trời nhà thơ xin làm một mùa xuân nho nhỏ . Mỗi người hãy làm một mùa xuân nho nhỏ
góp vào mùa xuân lớn của đất trời của cuộc đời.
* Tác giả sử dụng nhiều chi tiết vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng: chim,
nhành hoa, nốt nhạc.
=> Nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ “Một khúc ca xuân” cũng đã viết:
Nếu là con chim chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.
8
4. Khổ 6: lời ca ngợi:
+ Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua làn điệu dân ca xứ Huế. Tiếng hát cuối bài mang
âm điệu Nam ai, Nam bình thể hiện niềm xúc động và cho thấy sự gắn bó tha thiết với
đất nước, với quê hương xứ Huế. Tiếng hát đó để ngơi ca đất nước và cũng là tiếng hát
hiến dâng cho đời.
5. Giải thích tựa đề tác phẩm:
- Mùa xuân vốn là một đề tài vô tận cho các thi sĩ. Nhưng nhan đề bài thơ là một sáng
tạo độc đáo của nhà thơ Thanh Hải. Đây là một cách nói hình tượng. Mùa xuân là cái
trừu tượng không hình hài cụ thể. Nho nhỏ lại là một tính từ, từ láy gợi hình, là một
thực thể.
- Hơn nữa bài thơ lại có nhiều hình ảnh đặc sắc được xây dựng theo phương thức so
sánh, ẩn dụ nhưng độc đáo nhất vẫn là hình ảnh mùa xuân nho nhỏ. Hình ảnh này vừa
thể hiện được chủ đề của bài thơ vừa gợi những liên tưởng sâu xa. Nhan đề thể hiện
được quan niệm sống của tác giả. Tác giả xin làm một mùa xuân nho nhỏ tức là mùa
xuân khiêm tốn bé nhỏ, hữu hạn của mỗi đời người trước mùa xuân lớn lao hùng vĩ của
thiên nhiên, đất nước. Thanh Hải quan niệm dù già hay trẻ suốt cả cuộc đời đều phải
cống hiến một phần nhỏ bé của mình cho xã hội và đó phải là sự cống hiến tự nguyện,
khiêm nhường.
6. Phát biểu nhận thức suy nghĩ của bản thân:
+ Lối sống đẹp là biết phục vụ, cống hiến, hi sinh vì người khác, vì đồng bào, vì quê
hương thân yêu. Sống có mục đích, lí tưởng, ước mơ cao đẹp. (Liên hệ bài : Những ngôi
sao xa xôi; Lặng lẽ Sa Pa)
+ Luôn trau dồi tri thức, rèn luyện nhân cách, đạo đức để trở thành công dân tốt, có ích
cho quê hương đất nước.
+ Tuổi trẻ cần tránh xa những tệ nạn xã hội, đến với những hoạt động vui chơi lành
mạnh bổ ích.
7. Nghệ thuật:
- Thể thơ: 5 chữ gần với dân ca miền Trung tạo âm hưởng nhẹ nhàng. Cùng cách gieo
vần liền giữa các khổ tạo ra sự liền mạch cho dòng cảm xúc.
- Nhiều hình ảnh thơ cụ thể, tự nhiên, giản dị: Bông hoa tím, chim hót, dòng sông, vì
sao…lại kết hợp với hình ảnh khái quát, giàu ý nghĩa biểu tượng: Mùa xuân nho nhỏ,
đất nước như vì sao cứ đi lên phía trước; Mùa xuân người cầm súng…. Tạo ra một
trường hình ảnh hô ứng, nhịp nhàng khiến các chi tiết nghệ thuật trở nên đa nghĩa và
biểu cảm.
- Tứ thơ xoay quanh hình ảnh mùa xuân rất chặt chẽ. Từ mùa xuân của đất trời đến mùa
xuân của quê hương đất nước và cuối cùng là mùa xuân của mỗi con người. Cấu tứ như
vậy khiến tứ thơ tập trung, cảm xúc trong thơ không bị dàn trải.
- Là một bài thơ giàu tính nhạc, nhạc điệu lại biến đổi phù hợp với nội dung của từng
đoạn. Ở đoạn đầu là sự say mê trìu mến khi nói đến mùa xuân đất trời. Phần hai sôi nổi

9
khi nói đến mùa xuân của đất nước. Phần cuối trầm lắng khi nói đến mùa xuân của
chính mình.
- Đặc sắc trong cách đặt nhan đề giàu ý nghĩa.
* Tổng kết:
- Qua bài thơ Thanh Hải đặt ra một vấn đề lớn của nhân sinh (lẽ sống) đó là mối quan
hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Mỗi cá nhân hãy cống hiến mùa xuân nho nhỏ của mình
cho đất nước và hãy xem sự cống hiến đó là một phần bé nhỏ trong cuộc sống chung.
Triết lí nhân sinh sâu sắc những không khô khan vì được thể hiện qua những hình ảnh
thơ đẹp, giọng thơ tha thiết, nhỏ nhẹ dễ đi vào lòng người.

10
CẢM NHẬN VỀ MÙA XUÂN NHO NHỎ CỦA THANH HẢI
1. Mở bài:
“Mùa xuân, mùa xuân, một mùa xuân nho nhỏ lặng lẽ dâng cho đời”. Giai điệu
ngọt ngào, tha thiết của khúc ca mùa xuân ấy cứ ngân nga trong tâm trí chúng ta làm
lòng ta xao xuyến, bồi hồi đã được phổ nhạc từ bài thơ rất dễ thương của Thanh Hải -
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được nhà thơ sáng tác khi ông nằm trên giường bệnh, bài
thơ ra đời không bao lâu thì tác giả đã vĩnh biệt cuộc sống, đó là món quà quí giá mà
nhà thơ gửi tặng cho đời. Cả bài thơ là tiếng lòng của thi sĩ với quê hương, đất nước và
cũng là tâm niệm muốn hòa nhập, dâng hiến cho đời, cho mùa xuân đất nước những gì
đẹp nhất của nhà thơ.
2. Thân bài:
a. Cảm nhận chung:
“Mùa xuân nho nhỏ” là một khúc ca xuân được viết theo thể thơ năm chữ, giai
điệu ngọt ngào, tha thiết, đặc biệt với hình ảnh ẩn dụ rất đẹp, bài thơ đã thể hiện một
cách chân thành, tha thiết tình yêu quê hương đất nước và ước nguyện dâng hiến cho
quê hương của nhà thơ. Hình tượng mùa xuân là một hình ảnh rất độc đáo xuyên suốt
bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa, nghĩa nào cũng đẹp cũng để lại trong lòng người đọc
những suy tư trăn trở về lẽ sống, về trách nhiệm với cuộc đời.
b. Phân tích khổ 1: Mùa xuân thiên nhiên:
Mở đầu bài thơ chỉ với sáu dòng thơ năm chữ, âm điệu ngọt ngào, tha thiết, tác
giả đã họa bằng thơ bức tranh xuân rất đẹp, rất Huế:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Bằng cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã chọn lọc được những hình ảnh rất tiêu biểu, rất
đẹp, rất mới cho bức tranh mùa xuân: sông xanh, hoa tím biếc, chim chiền chiện. Mùa
xuân về, tiết trời ấm áp, nước sông Hương trong xanh như màu ngọc bích thật mơ
mộng, hữu tình. Trên nền xanh bắt mắt của sông của mây trời, của cây cỏ mùa xuân
sáng bừng một sắc “hoa tím biếc” đang “mọc giữa dòng sông xanh”. Từ “mọc” được
đảo lên đầu câu thơ rất giàu sức gợi tả làm cho bức tranh rất “động”.Ta có cảm giác một
sức sống non tơ đang trỗi dậy, đang vươn lên từ mặt nước để đón mùa xuân về. Thật bất
ngờ và độc đáo, nhà thơ đã đưa vào bức tranh mùa xuân trong thơ ông một đóa hoa lục
bình tím biếc dân giã, bình dị và rất đỗi quen thuộc nhưng lại gợi được một nét đẹp rất
Huế, cổ kính, thâm trầm và duyên dáng. Màu hoa tím ấy như gợi trong ta nét duyên
dáng của những tà áo tím thướt tha trong ngày xuân của các bà, các chị. Sắc hoa tím
biếc rất bình dị, chân quê nhưng lại mang cả điệu hồn Huế, đóa hoa đồng nội ấy từng
sáng bừng lên trong thơ Lê Anh Xuân khi viết về dòng sông tuổi thơ:
Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đôi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông
Ngắm nhìn đất trời sang xuân, nghe tiếng chim chiền chiện hót lảnh lót vang trời,
nhà thơ thấy lòng mình xao xuyến bồi hồi khó tả! Tác giả đã gọi chim “Ôi con chim
chiền chiện”. Tiếng gọi thật tha thiết bằng một câu thơ cảm thán và nhà thơ hỏi chim
11
bằng một câu hỏi tu từ “Hót chi mà vang trời”. Tiếng “chi” sao mà ngọt ngào, tha thiết
và đậm đà chất Huế đến thế! Nhà thơ gọi chim, hỏi chim mùa xuân về có chi mà vui mà
hót vang trời hay hỏi chính lòng mình? Tâm hồn nhà thơ như trẻ lại như muốn cất cánh
bay lên cùng cánh chim mùa xuân.
Nghe tiếng chim chiền chiện trong veo, ngọt ngào đang thả vào không gian
những giọt âm thanh, nhà thơ có cảm giác tiếng chim như đọng lại thành từng giọt long
lanh như giọt mật, giọt sương, giọt mưa để có thể nhìn thấy và đưa tay hứng về. Một
hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật độc đáo, sáng tạo đã diễn tả được cảm xúc ngất
ngây, đó là sự thăng hoa của tâm hồn nhà thơ. Chưa bao giờ như lúc này, cái lúc nhà thơ
đang đứng ở gianh rới mong manh giữa sự sống và cái chết, ông cảm thấy quê hương
đất nước và cuộc sống lại tươi đẹp, đáng yêu đến thế. Nhà thơ đã đón nhận mùa xuân
quê hương, tiếng chim mùa xuân bằng các giác quan và sự rung động mãnh liệt của tâm
hồn.
c. Khổ 2: Mùa xuân của cách mạng:
Giọng thơ bay bổng chất men say cuộc sống bỗng mạnh mẽ, chắc khỏe khi tác
giả viết về mùa xuân cách mạng, sức xuân của dân tộc:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương lúa
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, đất trời được miêu tả thật đẹp, sinh động ở
đoạn thơ một thì ở đoạn thơ thứ hai hình ảnh “mùa xuân” được nâng lên thành một hình
tượng nghệ thuật, một hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa biểu tượng. Chính trong bốn dòng
thơ mà hai hình ảnh ẩn dụ “mùa xuân” và “lộc” được điệp lại hai lần. “Mùa xuân” là
biểu tượng cho sức trẻ, sức thanh xuân của cách mạng nước ta. “Lộc” là biểu tượng cho
sự may mắn, cho những điều tốt đẹp, cho tài lộc đến với đất nước, với mọi nhà. Nhà thơ
đã tin tưởng khẳng định: trên mọi mặt trận: mặt trận chiến đấu, mặt trận “người cầm
súng” cũng như mặt trận lao động sản xuất, mặt trận của “người ra đồng” , cách mạng
nước ta trẻ như mùa xuân, căng tràn sức sống như mùa xuân. “Lộc” mà người lính
mang đến cho đất nước, cho mọi người là cuộc sống yên vui, yên bình. “Lộc” mà người
ra đồng mang đến cho cả dân tộc là những thành quả lao động, những nương mạ trải
dài, những nương ngô xanh mướt, là cuộc sống ấm no, hạnh phúc. “Người cầm súng”
giữ gìn và bảo vệ cho mùa xuân đất nước tươi đẹp, còn “người ra đồng” là những người
dệt nên những mùa xuân tươi đẹp, họ chính là mùa xuân của đất nước, vì lẽ đó tác giả
đã đặt hình ảnh mùa xuân sánh ngang cùng với hình ảnh “người ra đồng”, “người cầm
súng”. Mặc dù năm 1980, đất nước ta còn bao khó khăn, gian khổ nhưng nhà thơ vẫn
sắt son một niềm tin vào sự phát triển, sự đi lên của đất nước, tác giả đã khẳng định:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Cụm từ so sánh “tất cả như” được nhắc lại hai lần kết hợp với hai từ láy “hối hả”,
“xôn xao” làm cho âm điệu câu thơ trở nên dồn dập, mạnh mẽ, nhà thơ đã tự hào, tin
tưởng khẳng định dù còn muôn vàn khó khăn gian khổ nhưng với sức xuân, sức trẻ Phù
Đổng, cách mạng nước ta vẫn phát triển, vẫn đi lên với một tốc độ “hối hả” và khí thế

12
rạo rực “xôn xao” như trẩy hội mùa xuân. Khí thế ấy được nhà thơ Tố Hữu khẳng định
trong một bài thơ xuân của ông được sáng tác từ những năm 60 của thế kỉ 20:
Xuân ơi xuân em mới đến dăm năm
Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội.
d. Khổ 3:
Sau những vần thơ đầy tự hào, kiêu hãnh khi tác giả viết về sức trẻ, sức thanh
xuân của cách mạng là những suy tư sâu lắng của nhà thơ khi nghĩ về quá khứ và tương
lai phát triển của đất nước:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Hai câu thơ đầu trong đoạn thơ, giọng thơ lắng trầm, lời thơ khái quát, cô đọng,
đặc biệt chỉ với một con số biết nói “bốn ngàn năm”, tác giả đã khái quát được chiều dài
và bề dày lịch sử của dân tộc. Chúng ta có quyền tự hào vì dân tộc ta có bốn ngàn năm
dựng nước và giữ nước vẻ vang. Chúng ta có quyền tự hào vì dân tộc ta là dân tộc anh
hùng, một dân tộc đã tuốt gươm không chịu sống quì, đã lấy máu của mình để đổi lấy
độc lập tự do. Có một nhà thơ đã nói rất hình tượng, rất chính xác về dân tộc ta: “Nếu
minh họa lịch sử nước nhà, không trang nào, không dòng nào lại không phải vẽ thanh
gươm và dòng máu đỏ”. Các cuộc kháng chiến chống Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh
và gần đây nhất là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ của dân tộc đã chứng tỏ dân
tộc ta là một dân tộc anh hùng: anh hùng trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, anh
hùng trong lao động…Điều đáng tự hào hơn, dân tộc ta cũng là dân tộc có nền văn hiến
lâu đời. Người Việt Nam chúng ta gan dạ, dũng cảm nhưng cũng rất tài hoa, nghệ sĩ
“lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa”. Thế kỉ 15, trong “Bình ngô đại cáo”, nhà thơ
Nguyễn Trãi đã tự hào ca ngợi:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Nhưng nhìn lại quá khứ của dân tộc, ta thấy nhà thơ khái quát rất chính xác. Đất
nước chúng ta thật vất vả và gian lao. Nỗi vất vả khó nhọc đã hằn trên khuôn mặt, ánh
mắt, màu áo của người Việt Nam ta như nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã khái quát:
Mặt trời vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn
Hai câu thơ cuối trong đoạn thơ, giọng thơ bỗng vút cao đầy tự hào, kiêu hãnh
khi tác giả nghĩ về tương lai của đất nước:
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Nhà thơ đã so sánh đất nước đẹp như “vì sao” - một hình ảnh so sánh thật độc đáo
và sáng tạo. Đất nước ta đẹp như vì sao đang tỏa sáng trong vũ trụ muôn vàn vì sao
bằng ánh hào quang của chính mình. Đó là những thành tựu, là chiến công trên những
mặt trận: quân sự, chính trị, văn hóa - giáo dục khiến bạn bè khắp năm châu phải
ngưỡng mộ. Vì đất nước không chỉ tỏa sáng mà còn vận động “cứ đi lên phía trước”.
Phó từ “cứ” và cụm động từ “đi lên phía trước” đã khẳng định bản lĩnh của dân tộc ta cứ
phát triển, cứ đi lên vì sức trẻ, vì sức xuân. Không kẻ thù nào, không rào cản nào cản
bước được: kì diệu thay điều mà nhà thơ tin tưởng, dự báo từ năm 1980 đến nay đã trở
thành sự thực.
e. Khổ 4, 5: Khát vọng hòa nhập và dâng hiến cho đời:

13
Với tất cả niềm tự hào, tin tưởng về đất nước, về tiền đồ tương lai tươi sáng của
dân tộc, nhà thơ khát khao muốn hòa nhập, muôn dâng hiến cho đời, cho quê hương đất
nước những gì đẹp nhất của cuộc đời mình, khát vọng ấy được nhà thơ gửi gắm trong
hai đoạn thơ:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến

Một mùa xuân nho nhỏ


Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Âm điệu trong hai đoạn thơ thật rạo rực, phơi phới tin yêu nhưng cũng rất đỗi
ngọt ngào, tha thiết. Từ «ta » được điệp lại ba lần trong đoạn thơ mang ý nghĩa khẳng
định và nhấn mạnh. Nhà thơ nói « ta làm » bởi trong cái ta có cái tôi riêng của nhà thơ
và có cả cái ta chung của mọi người. Đây là tâm niệm của nhà thơ và cũng là tâm niệm
chung của tất cả những người Việt nam yêu nước. Nhà thơ muốn hóa thân thành con
chim hót, thành một cành hoa, thành một nốt trầm xao xuyến. Đó là những ẩn dụ đẹp
biểu tượng cho mùa xuân, cho cái đẹp được liệt kê dồn đập, nó sôi nổi, rạo rực, mãnh
liệt như tình cảm của nhà thơ như khát vọng hòa nhập dâng hiến của nhà thơ. Nhà thơ
muốn làm làm con chim hót để dâng cho mùa xuân tiếng hót trong trẻo làm cho mùa
xuân tươi vui rộn rã. Nhà thơ muốn làm một cành hoa bởi hoa là biểu tượng cho cái
đẹp, cho hương sắc của mùa xuân. Tác giả muốn góp vào vườn xuân đất nước sắc thắm
và hương thơm của đời mình để tô điểm thêm cho vườn xuân dân tộc ngạt ngào sắc
hương. Nhà thơ muốn được làm nốt nhạc trầm xao xuyến lòng người. Tuy nốt trầm là
nốt nhạc có thanh âm rất thấp, dễ hòa tan trong muôn triệu thanh âm nhưng lại làm nên
giai điệu ngọt ngào tha thiết đến xao xuyến, đến đắm say lòng người của bản tình ca
mùa xuân. Ta vẫn biết « một cánh én nhỏ chẳng làm nên mùa xuân »nhưng nếu có
nhiều cành hoa, nhiều tiếng chím, nhiều nốt nhạc hợp lại ta sẽ có một mùa xuân vĩ đại,
thắm tươi, huy hoàng. Đoạn thơ đã thể hiện một quan niệm sống đúng đắn, đẹp đẽ :
Sống là phải hòa nhập, phải dâng hiến và cho đi và đoạn thơ cũng thể hiện quan điểm
đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái tôi với cái ta. Khát vọng
dâng hiến của nhà thơ vẫn được thể hiện thật tha thiết, chân thành trong đoạn thơ tiếp
theo :
Một màu xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù la khi tóc bạc
Giọng thơ vẫn ngọt ngào tha thiết như tiếng lòng của tác giả. Nhà thơ khát khao
được làm một mùa xuân nho nhỏ trọn vẹn đầy đủ hơn. Ta lại bắt gặp một hình ảnh ẩn
dụ tuyệt đẹp « mùa xuân nho nhỏ ». Mùa xuân là biểu tượng cho cái đẹp, cho tưởi trẻ
tràn trề sức sống. Ta tự hỏi một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông nhưng tại sao tác
giả lại muốn làm mùa xuân cho dù chỉ là một mùa xuân nho nhỏ ? Phải chăng mùa xuân
hiểu theo nghĩa nào cũng đẹp : Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, mùa khởi đầu của
một năm mới muôn hoa đua nở, vạn vật hồi sinh. Tuổi xuân cũng chính là tuổi đẹp nhất,
14
sung sức nhất của một đời người. Nhà thơ muốn làm một mùa xuân nho nhỏ thôi vì ông
muốn dâng hiến những gì đẹp nhất, tươi thắm nhất của đời mình dù là rất nhỏ nhưng sẽ
góp phần làm nên mùa xuân trọn vẹn, vĩ đại, tươi thắm của dân tộc. Bác Hồ kính yêu
cũng đã khẳng định sức mạnh mãnh liệt của tuổi thanh xuân : « Một năm bắt đầu bằng
mùa xuân. Cuộc đời bắt đầu bằng tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của đất nước ». Điều
đáng trân trọng hơn là khát vọng của nhà thơ vừa đẹp, vừa chân thành nhưng cũng rất
khiêm tốn. Ông muốn làm một mùa xuân nho nhỏ để lặng lẽ dâng cho đời, cho vườn
xuân đất nước. Từ « dâng » thể hiện một thái độ trân trọng, thành tâm, tha thiết của nhà
thơ, ông tự nguyện dâng hiến không lớn tiếng, không ồn ào, không khoa trương, chỉ
lặng lẽ âm thầm. Đó là lẽ sống, là lí tưởng của nhà thơ và cũng là tư tưởng chủ đề của
bài thơ cho nên tác giả đã chọn hình ảnh « mùa xuân nho nhỏ » làm tựa đề cho bài thơ
của ông. Ước nguyện của nhà thơ có lẽ cũng giống như tâm niệm của nhà thơ Tố Hữu :
Nếu làm con chim chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
Nhà thơ tự hứa với lòng mình sẽ dâng hiến cả cuộc đời cho quê hương, cho mùa
xuân đất nước:
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Cụm từ « dù là » được nhắc lại hai lần như một lời hứa sắc son chung thủy kết
hợp với hai hình ảnh hoán dụ đối nhau «  tuổi hai mươi » và « «tóc bạc ». Đó là tâm
niệm toàn tâm toàn ý của nhà thơ với quê hương đất nước. Tác giả tự nguyện dâng hiến
cả đời mình cho quê hương dù ông đang ở độ tuổi hai mươi trẻ đẹp căng tràn nhựa sống
như mùa xuân tươi đẹp hay khi cuộc đời đã xế chiều «  tóc bạc » . Chỉ với dòng thơ trữ
tình dạt dào cảm xúc, với những ẩn dụ đẹp và những điệp ngữ mang ý nghĩa khẳng định
nhấn mạnh, đoạn thơ là tâm niệm, là khát vọng, là lẽ sống cao đẹp của nhà thơ giúp ta
nhận ra một điều : cho đi cũng là một hạnh phúc của đời người.
f. Khổ 6 : Tiếng hát yêu thương :
Bài thơ đã khép lại trong giai điệu ngọt ngào với lời thơ dạt dào cảm xúc, tha
thiết như tiếng hát của trái tim. Ngắm nhìn mùa xuân tươi đẹp về trên quê hương, tin
tưởng hướng về tương lai tươi sáng của dân tộc nhà thơ muốn cất lên tiếng hát say mê
yêu đời, muốn hát những làn điệu dân ca hay nhất của xứ Huế quê mình :
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Điệu Nam ai, Nam bình đó là những làn điệu dân ca hay nhất của xứ Huế man
mác nỗi buồn nhưng lại rất ân tình, thủy chung để ca ngợi quê hương tươi đẹp muôn quí
ngàn yêu.
Ba dòng thơ cuối bài thơ, cụm từ « nước non ngàn dặm » được điệp lại hai lần
như điệp khúc của một bản tình ca, vần « inh » và thanh bằng cuối hai câu thơ làm cho
câu thơ trải dài ngân nga, lắng đọng trong lòng người đọc như khúc tình ca mùa xuân.
Trong tâm tưởng nhà thơ, quê hương đất nước là của mình đâu cũng đẹp, cũng diễm
tình, nên thơ. Đó là tình yêu tha thiết, mãnh liệt, thủy chung của nhà thơ với Tổ quốc
Việt Nam nói chung, với xứ Huế nói riêng. Bài thơ đã khép nhưng ý thơ không đóng lại,
nó cứ ngân nga trong lòng chúng ta như cung đàn mùa xuân. Tác giả đã đi xa hơn ba
mươi năm nhưng ông vẫn truyền lại nguyên vẹn cho ta niềm yêu cuộc sống, tình yêu
15
quê hương đất nước và nhắc nhở ta về một lẽ sống đẹp của bài thơ « Mùa xuân nho
nhỏ » của ông.
3. Kết bài :
Đọc « Mùa xuân nho nhỏ » chúng ta cảm nhận khát vọng sống mãnh liệt toát lên
từ hình ảnh, câu chữ, từ bức tranh xuân thiên nhiên tuyệt đẹp với sự sinh sôi nảy nở của
vạn vật. Nhưng mãnh liệt hơn cả là sức sống thanh xuân từ tấm lòng của người con xứ
Huế - tác giả của bài thơ. Đó là khát vọng được hòa nhập cống hiến cho đời làm nên
mùa xuân vĩnh hằng cho đất nước. Nếu được ước nguyện, em cũng xin được làm một
mùa xuân nho nhỏ lặng lẽ dâng cho đời.

16
MÙA XUÂN NHO NHỎ
(Thanh Hải)
I. Mở bài:
1. Mở bài 1:
Mùa xuân đến, cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa nở muôn màu, chim hót líu lo…Cả
thiên nhiên đất trời như thay áo mới. Mùa xuân đến gieo vào lòng người bao niềm tin và
hi vọng. Vì thế, mùa xuân là nguồn cội cảm hứng bất tận của thơ ca nhạc họa. Cảm
hứng trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, nhà thơ Thanh Hải đã sáng tác bài thơ “Mùa
xuân nho nhỏ”. Đây là một bài thơ hay, thể hiện cái nhìn lạc quan, tin tưởng của tác giả
đối với đất nước và dân tộc. Bài thơ mở đầu với cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên và
mùa xuân cách mạng và cuối cùng là mùa xuân trong cuộc đời mỗi con người.
2. Mở bài 2:
- Mỗi năm chỉ có một mùa xuân, đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi
xót xa, ân hận về những năm tháng sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn về quá khứ
xấu xa, ích kỉ cảu mình. Đó là chủ đề bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” . Bài thơ được Thanh
Hải sáng tác vào tháng 11/1980 lúc ông lâm bệnh nặng và chỉ ít lâu sau ông mất (tháng
12/1980). Từ nguồn cảm xúc dào dạt về mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cảu cách
mạng nhà thơ suy ngẫm về một lối sống đẹp ở trên đời.
II. Thân bài:
a. Khổ 1: Mùa xuân của thiên nhiên:
- Bấy giờ là mùa đông (tháng 11/ 1980), nhà thơ đang nằm trên giường bệnh và chỉ ít
lâu sau ông mất (tháng 12/1980). Có phải chính cái giây phút giáp mặt với cái chết, giây
phút giáp ranh giữa mùa đông giá lạnh và mùa xuân ấm áp đã khiến tâm hồn con người
bừng lên sức sống mới khiến ngòi bút của nhà thơ nở hoa và ông viết những dòng thơ
đẹp nhất:
Mọc giữa dòng sống xanh
Một bông hoa tím biếc
- Bức tranh xuân đơn sơ, giản dị mà đẹp đẽ, gợi cảm vô cfung. Màu xanh cảu dòng sông
Hương nổi tiếng, màu xanh của sự sống hay chính là tín hiệu báo mùa xuân về? Mùa
xuân đang trải êm đềm trên dòng sông xanh dịu mát bỗng mọc lên ở giữa dòng sông ấy
“một bông hoa tím biếc”. Cũng một gam màu lạnh như dòng sông xanh đầy sức sống,
nhưng sắc “tím biếc” của bông hoa nổi trội, đậm đà, nồng ấm cả dòng sông, cả thiên
nhiên. Bông hoa là có thật hay cũng là dáng hình của niềm tin, hi vọng, là sắc màu quen
thuộc cảu quê hương xứ Huế? Chỉ từng ấy nét mà với nghệ thuật dựng hình, đảo cấu
trúc câu, tác giả đã biểu hiện được cả một vẻ đẹp tươi sáng, một sức sống tràn trề của
thiên nhiên khi mùa xuân tới.
- Thiên nhiên rất hào phóng, sẵn sàng ban tặng cho con người bao vẻ đẹp nếu con người
biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải điểm vào bức tranh xuân một vẻ đẹp nữa:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
- Tiếng hót trong vắt của chim làm xao động không gian, đem đến cho mùa xuân niềm
vui rạo rực. Tác gải dùng các từ “ơi” để gọi các chú chim đang bay tít trên bầu trời
xanh. rồi hỏi “hót chi mà”, chất giọng xứ Huế ở đây nghe sao thân thương trìu mến quá!
Như ngỡ ngàng thích thú, như đùa vui níu kéo. Tiếng chim như đang vang xa, thật xa,
bỗng nhiên lại thấy thật gần, gần như những giọt sương long lanh buổi sớm mai trên các
cành lá:
17
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
- Cảm xúc của nhà thơ trước cảnh mùa xuân thiên nhiên được diễn tả tập trung ở hình
ảnh ấy. Tiếng chim như kết tinh thành những giọt sương lóng lánh sắc màu rơi xuống
cõi lòng rộng mở của thi nhân để ông đón nhận bằng tất cả các giác quan cảu mình.
Nghệ thuật ví ngầm, chuyển đổi cảm giác đã đạt đến độ tinh vi: Tiếng chim vốn được
cảm nhận bằng thính giác bây giờ thành “từng giọt” để được cảm nhận bằng thị giác và
có thể được cảm nhận bằng xúc giác “Tôi đưa tay tôi hứng”. Sự chuyển đổi cảm giác
thật cụ thể ấy đã biểu hiện cảm xúc say sưa ngây ngất cảu tác giả trước cảnh đất trời xứ
Huế vào xuân. Nhà thơ đón nhận tất cả bằng tâm hồn mình nên mới có những câu thơ
thân thiết ân tình đến vậy.
b. Khổ 2: Mùa xuân cách mạng.
- Sức sống tràn trề của mùa xuân như thúc giục lòng người. Hình ảnh dân tộc Việt Nam
kết tụ lại ở người cầm súng và người cầm cày. Thanh Hải thấy sức xuân phơi phới ở
mỗi con người:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
- Đoạn thơ có nhiều hình ảnh đẹp: Từ “lộc” vốn là những chồi non của cây cối, nẩy nở
vào mùa xuân; ở đây có ý nghĩa tượng trưng cho mùa xuân, cho niềm tin và hi vọng.
Vòng lá ngụy trang của những người chiến sĩ như đang nẩy như những chồi non, lộc
biếc, như mang cả mùa xuân ra trận với niềm tin chiến thắng. Người ra đồng “lộc trải
dài nương mạ” như neo mùa xuân trên đồng ruộng, hứa hẹn một màu bội thu. Kết cấu
đối xứng của đoạn thơ và những hình ảnh giàu sức gợi đã nêu bật vẻ đẹp của hai nhiệm
vụ cách mạng: sản xuất và chiến đấu với khí thế háo hức, hào hùng.
- Hai câu tiếp là nhịp sống khẩn trương, tự giác của mọi người để thực hiện hai nhiệm
vụ ấy:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
- Tiết tấu trở nên nhanh, gấp, nhịp thơ 2/3 kết hợp với điệp ngữ “tất cả” và từ láy “hối
hả”, “xôn xao” gợi tả hình ảnh, âm thanh tạo thành một bản hòa ca biểu hiện không khí
thi đua khẩn trương cảu nhân dân ta trong mùa xuân mới. sức sống thanh xuân đang trỗi
dậy, trào dâng, giục giã, thôi thúc lòng người. Tình yêu nước, tình yêu cuộc sống của
nhà thơ ở đây thật tha thiết, mặn nồng.
c. Khổ 3: Mùa xuân đất nước.
- Từ mùa xuân cảu thiên nhiên, của con người, nhà thơ nghĩ về đất nước. Đó là sự liên
tưởng tự nhiên theo dòng cảm xúc:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
- Lời thơ lắng xuống suy tư về truyền thống bốn nghìn năm, chứa đựng cả niềm thương
cảm và tự hào. Thương cảm về một đất nước luôn phải đương đầu với chiến tranh, với
thiên tai: tự hào về một dân tộc nghèo tiền, nghèo của cải nhưng không nghèo nhân
nghĩa, không nghèo ý chí vươn lên, không nghèo phẩm chất anh hùng, luôn chứng tỏ
mình trước bao thử thách.
- Vì vậy hai câu thơ tiếp mở ra, bay bổng với hình ảnh hào hùng:
18
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
- Đó là hình ảnh của đất nước hiện tại và tương lai. Mùa xuân hiện tại, sức sống thanh
xuân lớn dần, từ vòng lá ngụy trang mở ra cánh đồng lúa, từ mỗi con người cụ thể
chung đúc thành “đất nước bốn nghìn năm”, hóa thành “những vì sao” đi lên, bay lên,
ngời sáng, lung linh…Và đất nước tương lai như “vì sao, cứ đi lên phía trước”. Hình
ảnh “vì sao” vốn là hình ảnh thưc cảu lá cờ Tổ quốc, nhưng ở đây có ý nghĩa tượng
trưng, là hình ảnh cảu vinh quang, cảu qui luật phát triển “cứ đi lên phía trước”. Rõ
ràng, trong cảm xúc của tác gải vẫn chứ đựng một niềm lạc quan, tin tưởng vào sức
sống của Tổ quốc trong quá trình đi lên để khẳng định tên tuổi cảu mình trên thế giới.
d. Khổ 4:
- “Mùa xuân nho nhỏ” là bài thơ viết trên giuwofng bệnh mà sao vẫn tươi thắm một tinh
thần lạc quan yêu đời, vẫn bừng lên một sức sống mãnh liệt. Từ những cảm nhận của
đất trời xứ Huế vào xuân, vẻ đẹp của những con người đang hối hả xôn xao xây dựng
bảo vệ Tổ quốc, nhà thơ cất lên tiếng hát:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
- Tiết tấu câu thơ sôi nổi với nhịp 2/3 của thể thơ năm chữ kết hợp với những âm “a”
vang mở như một lời ca trong sáng, hào hứng và rất tự nhiên. Điệp ngữ “ta làm” nhấn
mạnh ý thức tự nguyện của nhà thơ. Cách chọn hình ảnh cũng tự nhiên và hợp lí: “con
chim”, “cành hoa” vốn nhỏ bé t5rong ddwoif, nhưng chim vô tư cống hiến tiếng hát vui,
hoa cũng hồn nhiên nở hoa làm đẹp thêm cho đời. Lấy cái đẹp cảu thiên nhiên để thể
hiện cái đẹp cảu lòng người, nhà thơ nói lên ước vọng tha thiết và khiêm tốn muốn góp
phần nhỏ bé làm nên màu xuân đất nước.
- Trong bản hòa ca chung của đất nước đang hối ahr xôn xao “đi lên phía trước” , tác
giả ước nguyện:
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
- Nhịp điệu dồn dập, lôi cuốn như thúc giục mời gọi mọi người “nhập vào hòa ca”, là
nhập vào cuộc sống tươi vui, sinh động để xây dựng và phát triển đất nước. Trong cuộc
sống ấy, tác giả nguyện làm “một nốt trầm xao xuyến”. Không phải là một âm thanh cao
vút, véo von, chỉ đơn sơ là một nốt nhạc trầm trong cái bè trầm làm nền cảu bản hào ca,
nhưng phải là nốt nhạc say đắm làm xao xuyến tâm hồn. Nghĩa là những cống hiến tuy
khiêm tốn, bé nhỏ nhưng có ích cho đời.
e. Khổ 5:
- Tiếng chim, cành hoa, nốt nhạc góp phần làm nên mùa xuân trong tâm hồn tác giả:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
- tâm niệm cảu nhà thơ thật cảm động: muốn sống một cuộc ddwoif đẹp như màu xuân,
giữ cho tâm hồn tràn đầy sức sống như mùa xuân. Nhưng chỉ là “mùa xuân nho nhỏ”, vì
mùa xuân lớn thuộc về đất trời, về xã hội không một cá nhân nào làm nổi. Nhưng mỗi
cá nhân có thể đóng góp màu xuân cảu cuộc đời riêng cho mùa xuân của cuộc đời
chung làm cho nó phong phú, rực rỡ thêm. Đến đây, ta hiểu ý nghĩa nhan đề “Mùa xuân
nho nhỏ”. Thật là đáng quí thay ước nguyện khiêm tốn mà vô cùng chân thành, cảm
động của nhà thơ. Không ồn ào, khoa trương mà chỉ “lặng lẽ dâng cho đời”.

19
- Cảm động hơn nữa, nhà thơ mong ước: dù khi đã qua đi tuổi xuân của mình vẫn được
là mùa xuân nho nhỏ trong cái mùa xuân lớn lao của đất nước:
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
- Vẫn nhịp điệu 2/3 sôi nổi, hào hứng, ở đây điệp ngữ “dù là” trong cái thế cân đối, nhịp
nhàng của hai câu thơ vang lên như một lời khẳng định để tự dặn dò mình: phải kiên trì,
vượt qua tuổi già, bệnh tật để sống đẹp, sống cống hiến cho đời. Hình ảnh hoán dụ “tuổi
hai mươi”, “tóc bạc” với kết cấu đối lập với hai câu trên và hai câu dưới chứng tỏ nhà
thơ ý thức được cái giới hạn của đời mình so với cái vô hạn của đất nước mà đem mùa
xuân nho nhỏ của đời mình mà góp vào mùa xuân lớn lao của cuộc đời chung.
g. Khổ 6:
- Những câu thơ cuối mang đậm dấu ấn của làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế. Nó như
tiếng tâm tình thủ thỉ, như tiếng lòng sâu lắng thiết tha, nồng ấm nghĩa tình:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
- Ta nghe như nhà thơ đang ôm đàn, gõ phách hát lên bài ca mùa xuân, bài ca sựu sống.
Phảng phất đâu đấy câu ca Nam bình trên sông nước Hương Giang: “Nước non ngàn
dặm ra đi, cái tình chi…”. Câu ca đó đi vào bài thơ thật tự nhiên dưới hình thức điệp
ngữ và ba vần bằng liên tiếp “bình – mình - tình” mang âm hưởng trầm trầm, vang vang
ngợi ca đất nước mình đâu đâu cũng đẹp, cũng thấm đượm nghĩa tình. Ngàn dặm vẫn là
“mình”, vẫn là “tình”, đi đâu cũng không ra ngoài hai chữ ấm áp tình ấy. Tình yêu quê
hương, tình yêu sự sống từ những câu thơ đã làm xao xuyến lòng người. Tiếng thơ thơ
của một người bỗng trở thành tiếng hát của muôn người.
5. Phát biểu cảm nghĩ:
- Thơ viết trên giường bệnh xưa nay không hiếm. Nhưng để cho bài thơ thực sựu sống
thay tác gải, ở lại với mọi người; an ủi, động viên mọi người thì không phải nhiều. Ở thế
kỉ XI, có bài thơ “có bệnh bảo mọi người” của thiền sưu Mãn Giác với một hình tượng
tuyệt vời:
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua xuân trước một cành mai.
- Cành mai ấy là biểu tượng của tình yêu, niềm tin cuộc sống đã bất tử đến ngàn năm
nay.
- Với bài “Mùa xuân nho nhỏ”, Thanh Hải cũng sẽ sống mãi với chúng ta. Vì tiếng thơ
của ông đã vượt lên đau khổ, bệnh tật mà ngân nga một niềm tin yêu cuộc sống mãnh
liệt, bất diệt như mùa xuân trường cửu. Chính vì vậy niềm xúc động sâu sắc nhất mà
đoạn thơ đưa đến cho ta là một lẽ sống đẹp: đừung nhỏ nhen, ích kỉ mà phải sống sao để
khi nhắm mắt, xuôi tay có thể nói được rằng: Tất cả cuộc sống của ta đã cống hiến cho
một sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời!
- Đến đây ta chợt thấy văng vẳng bên tai tiếng lòng đồng vọng của bao con người khác:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?
20
(Một khúc ca xuân – Tố Hữu )
III. Kết bài:
1. Kết bài 1:
- Tóm lại, bài thơ thể hiện một dòng cảm xúc dào dạt, mãnh liệt, hình ảnh sáng đẹp, lời
lẽ chân chất, bình dị, không một từ nào cầu kì, hào nhoáng mà có sức truyền cảm đến kì
lạ. Có lẽ bởi nó xuất phát từ một tâm hồn mở rộng, từ niềm say sưa, ngây ngất của tác
giả trước mùa xuân đất nước, từ một tình yêu quê hương lai láng của một con người
suốt đời nguyện hiến dâng cho Tổ quốc. Tuổi trẻ ngày nay dễ bị cuốn vào cuộc sống xô
bồ của nền văn mình cơ giới. Thanh Hải đã đưa tâm hồn ta về lại với vẻ đẹp diệu kì của
thiên nhiên, cảu quê hương bằng chính tâm hồn và lẽ sống cao đẹp cảu mình.
2. Kết bài 2:
- Tóm lại, bài thơ truyền cảm vì giàu nhạc điệu và hình ảnh đẹp, đẹp nhất là tấm lòng
chân thành tha thiết của tác giả với cuộc sống, dân tộc và đất nước…Cảm động hơn cả
là trước khi đi xa, nhà thơ để lại cho đời những vần thơ thật nhân hậu, bao dung nhưng
cũng rất thiết tha của một tâm hồn thanh thản vì đã hoàn thành xong bổn phận, trách
nhiệm ở cuộc đời của mình. Chính vì lẽ đó nên các câu thơ không hề gợn lên một nét
buồn u ám của một cuộc đời sắp tắt. Mỗi chúng ta nguyện làm một tiếng chim, một
cành hoa góp phần tô điểm cho cuộc đời thêm đẹp.

21
MÙA XUÂN NHO NHỎ (Trúc Nguyên)

Đề bài: Hãy phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải (Có khi đề chỉ cho phân tích khổ 4,5 ước nguyện của
nhà thơ).
I. Mở bài:
1. Mở bài cho phân tích cả bài thơ:
Nhà thơ Thanh Hải được sinh ra, lớn lên, hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ suốt hai thời kì
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ ngay trên chính quê hương ruột thịt của mình. Ở hoàn cảnh nào ông cũng
thực hiện được lẽ sống của mình: giản dị, chân thành, yêu cuộc đời và khát khao cống hiến cho đất nước. Chúng ta có thể
xem bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc đi xa. Bài thơ thể hiện
một Thanh Hải yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, một Thanh Hải sống cho thơ và sống cả cho đời.
2. Mở bài cho phân tích khổ 4,5:
“Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là bài thơ ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của đất nước, ca ngợi một
mùa xuân vui tươi, tràn đầy sức sống. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh thật đặc biệt vào tháng 11 năm 1980, khi tác giả đang
nằm trên giường bệnh, không bao lâu trước khi ông qua đời. Bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê
hương đất nước của tác giả mà còn thể hiện tâm niệm cao đẹp: muốn được cống hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ béc của mình,
cho cuộc đời chung, cho đất nước.
II. Thân bài:
1. Mùa xuân của thiên nhiên: (Khổ đầu – 6 câu đầu)
a. Cảnh vật vào xuân:
Người xưa có câu “thi trung hữu họa”, thơ ca đã vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp về cuộc sống. Mở đầu bài thơ,
Thanh Hải đã phác họa một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
“Dòng sông xanh” gợi cho chúng ta hình ảnh những khúc song uốn lượn của dải đất miền trung quanh co. Đây có
thể là dòng song Hương thơ mộng, dòng song có một vẻ lắng đọng của xứ Huế mộng mơ. Trên gam màu xanh của dòng
song nổi bật hình ảnh một bông hoa tím biếc. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa
đào. Mùa xuân của nhà thơ mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của hoa lục bình. Không biết tự bao giờ màu tím đã
trở thành màu đặc trưng của con người và đất trời xứ Huê. Nhà thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ
“mọc” lên đầu câu để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên.
Trong bức tranh xuân của nhà thơ không chỉ có hình ảnh mà còn có âm thanh, tiếng hót của con chim chiền chiện.
Tiếng chim thánh thót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến tâm hồn nhạy cảm của thi nhân. Những từ ngữ
“ơi”, “hót chi” đã thể hiện rõ cảm xúc của tác giả, ngây ngất, say xưa trước mùa xuân của thiên nhiên. Mùa xuân này vẫn
là một mùa xuân bình dị trên quê hương xứ Huế nhưng nhà thơ nhận ra nó đẹp lạ thường, một vẻ đẹp mà bấy lâu ông
không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân trên quê hương nên nhà thơ thấy nó đẹp hơn,
tươi sáng hơn.
b. Hành động của tác giả: (Hai câu)
Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân quê mình, tác giả bồi hồi xúc động:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì đây là
giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự
vật có hình dáng, đây là một sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được ở một tâm hồn nhạy cảm. Nét độc đáo ở đây là nhà thơ
đã sử dụng nghệ thuật: tiếng chim nghe được bằng thính giác rồi đọng lại thành từng giọt rơi rơi mãi, thấy được bằng thị
giác và nhà thơ đã trân trọng, nâng niu đưa tay “hứng” để cảm nhận bằng xúc giác. Rõ ràng chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông
xanh, hoa tím biếc và tiếng chim chiền chiện ngân vang khắp đất trời, Thanh Hải đã phác họa một bức tranh xuân tuyệt đẹp
trên cố đô cổ kính.
2. Mùa xuân của đất nước: (Khổ 2,3)
a. Mùa xuân của con người:
Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên tưởng đến mùa xuân của đất nước, của cách mạng.
Trước hết, ông viết về mùa xuân và con người:
Mùa xuân người cầm sung
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải đầy nương mạ.
Bốn câu thơ có cấu trúc song hành, thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất
xây dựng nước nhà. Hai nhiệm vụ này đặt nặng lên vai người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra
đồng”. Nét đặc sắc của khổ thơ là việc sáng tạo từ đa nghĩa “lộc”. Lộc là chồi non, lá non, lộc còn tượng trưng cho sự may
mắn, niềm an lành, hạnh phúc trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, lộc còn là cành lá ngụy trang trên lưng để che mắt
quân thù, còn đối với người nông dân, lộc còn là mầm mạ non đầy sức sống trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một
mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ tổ quốc sẽ đem lại sự an lành, niềm vui cho dân tộc. Người nông dân gieo

22
trồng lúa trên ruộng đồng sẽ đem về lộc là những hạt lúa vàng ươm, những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt
cho đồng bào cả nước.
b. Khí thế trong chiến đấu và lao động:
Cả dân tộc bước vào xuân mới với khí thế khẩn trương, náo nức
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Bằng cách sử dụng những từ láy gợi tả “hối hả”, “xôn xao” cùng với điệp ngữ “tất cả” tác giả đã đem đến cho khổ
thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vã, khẩn trương; “xôn xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau
tạo nên một sự náo nhiệt. Từ đó chúng ta cảm nhận được khí thế của cả dân tộc trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cũng như
trong lao động xây dựng đất nước.
c. Sự đi lên của đất nước:
Từ sự hối hả của con người, từ những âm thanh xôn xao, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua 4000
năm lịch sử:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Chặng đường phát triển của lịch sử đất nước suốt 4000 năm trường tồn, trải qua biết bao thăng trầm, biết bao vất
vả và gian lao, đầy gian khổ, mất mát, hi sinh. So sánh đất nước như vì sao, nhà thơ đã thể hiện niềm tự hào của mình đối
với đất nước, với dân tộc, là nguồn sáng bất diệt, là vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Ngôi sao sáng ấy – sao
vàng năm cánh – đẹp rực rỡ trên lá cờ Tổ quốc, trở thành vẻ đẹp cho biểu tượng ngời sáng của con người, của đất nước
Việt Nam. Ngôi sao ấy cũng là vì sao mà Bác Hồ đã từng trăn trở: “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”. Chính ngôi sao
vàng ấy đưa đất nước ta không ngừng phát triển – “Cứ đi lên phía trước” để sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Khổ
thơ thể hiện ý chí vươn lên không ngừng của con người cũng như của đất nước Việt Nam ta.
3. Ước nguyện được cống hiến của tác giả:
a. Hóa thân thành con chim, cành hoa, nốt nhạc trầm:
Nếu như trong các khổ thơ trước, Thanh Hải đã ngây ngất, mê say trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước
sau bao nhiêu năm vất vả, đau thương vì chiến tranh thì giờ đây trước cảnh thanh bình, thấy được sự hồi sinh của cảnh sắc,
con người, quê hương trong sức xuân mơn mởn thì làm sao không vui, không hạnh phúc cho được? Trong lòng nhà thơ
đang trào lên một khao khát được hóa thân.
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.”
Khổ thơ làm chúng ta xúc động bởi những lời tha thiết của cái tôi trữ tình tự nhiên. Nếu như ở khổ thơ đầu nét vẽ
của mùa xuân thiên nhiên có hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, “con chim chiền chiện” thì ở đây Thanh Hải muốn hóa
thân thành con chim hót gọi mùa xuân về, làm bông hoa đẹp tỏa hương sắc cho vườn hoa cuộc đời, làm một nốt nhạc trầm
trong bản hòa ca chung của đất nước. Con chim, cành hoa, nốt nhạc trầm là những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cái đẹp,
niềm vui và tài năng của con người. Điệp ngữ “ta làm” đã nhấn mạnh ước nguyện đơn sơ mà cao đẹp của tác giả đó là ước
nguyện được cống hiến, dù đó chỉ là sự cống hiến nhỏ bé nhưng đó phải là những gì đẹp đẽ tinh túy nhất mà mình có.
Giữa khổ đầu và khổ này có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng từ “tôi” sang “ta”. Điều này hoàn toàn không phải là
ngẫu nhiên mà được nhà thơ sử dụng như một dụng ý nghệ thuật, phù hợp với chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng trong
bài thơ. Từ “tôi” trong câu thơ “Tôi đưa tay tôi hứng” ở khổ đầu vừa là thể hiện cái tôi cụ thể, rất riêng của nhà thơ vừa thể
hiện sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân, nếu thay bằng từ “ta” thì hoàn toàn không thích hợp với
nội dung cảm xúc ấy. Còn trong khổ này, khi bày tỏ điều tâm niệm – khát vọng được cống hiến những điều tinh túy của
cuộc đời mình cho cuộc đời chung thì đại từ “ta” lại tạo được một sắc thái trang trọng, thiêng liêng như một điều ước
nguyện. Hơn nữa điều tâm niệm này không phải chỉ của riêng nhà thơ – cái tôi của tác giả - mà ông đã nói thay cho nhiều
cái tôi khác nên nhất thiết phải dùng từ “ta”. Nhưng “ta” mà không hề chung chung, vô hình mà ở đây ta nhận ra được cái
giọng riêng nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm thắm của cái tôi. Ông muốn được làm một nốt nhạc trầm không vang xa, không
vút cao nhưng làm xao xuyến lòng người.
b. Làm một mùa xuân nho nhỏ:
Có lẽ lí tưởng sống là để cống hiến không phải là ước nguyện riêng của nhà thơ mà là nguyện ước chung của mỗi
con người Việt Nam muốn góp phần hữu hạn của mình vào mùa xuân vô hạn của dân tộc. Chỉ nhỏ bé, khiêm nhường
nhưng thật đáng quí, đáng trân trọng làm sao! Và đáng quí hơn là Thanh Hải muốn được dâng hiến “Mùa xuân nho nhỏ”
của mình cho mùa xuân của đất nước.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

Lời tâm tình tha thiết của nhà thơ gieo vào lòng chúng ta những xúc cảm trong trẻo, ngọt ngào. “Mùa xuân nho
nhỏ” là cách nói ẩn dụ đầy sáng tạo của nhà thơ. Mỗi người đều có thể góp một phần công sức nhỏ bé của mình để tô
hương thắm sắc cho đất nước. Đây là hành động cống hiến tự nguyện, cho đi mà không đòi hỏi sự đền đáp. Phép đảo ngữ

23
đưa từ “lặng lẽ” lên đầu câu nhằm nhấn mạnh khát vọng cống hiến chân thành của tác giả - không phô trương, không ồn ào
mà hết sức khiêm tốn, âm thầm nhưng lại toàn tâm, toàn ý như lời nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.
Chúng ta chợt nhớ đến hình ảnh anh thanh niên trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m so với mực nước biển, làm công
tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Anh cũng cống hiến lặng lẽ, khiêm tốn công sức của mình cho đất nước.
Hình ảnh Mùa xuân nho nhỏ đầy bất ngờ, thú vị mà sâu sắc. Những hình ảnh con chim, cành hoa, nốt nhạc trầm
cuối cùng dồn vào hình ảnh sắc nét này. Tất cả những hình ảnh ẩn dụ trên mang vẻ đẹp giản dị, thể hiện thật xúc động điều
tâm niệm chân thành tha thiết của Thanh Hải. Ước nguyện dâng hiến của nhà thơ là một lối sống đẹp. Hai câu thơ cuối
cùng của khổ này, tác giả dùng từ “dù là” được nhắc lại hai lần thể hiện sự tự tin, cống hiến bất chấp của tác giả, bất chấp
tuổi tác “Dù là tuổi hai mươi – Dù là khi tóc bạc”. Nhiệm vụ cống hiến cho đất nước là của mọi người và là mãi mãi trong
suốt cuộc đời dù là khi còn trẻ đến khi đã về già. Đây là lời nhà thơ kêu gọi mọi người phải cống hiến để xây dựng và phát
triển đất nước, làm cho đất nước ngày càng vững vàng “Cứ đi lên phía trước”.
=> Rõ ràng bằng giọng thơ nhỏ nhẹ, sâu lắng, ước nguyện của nhà thơ đã đi vào lòng người đọc với một nhân sinh quan
cao đẹp – mỗi người phải cống hiến phần tinh túy dù là nhỏ bé cho đất nước và phải cống hiến không ngừng nghỉ, cống
hiến suốt cả cuộc đời. Đây mới là ý nghĩa cao đẹp của một đời người.
4. Mùa xuân của cứ Huế và các làn điệu dân ca:
Khổ thơ cuối bài là tiếng hát yêu thương mà nhà thơ dâng tặng cho đất nước, cho dân tộc – dù đang nằm trên
giường bệnh:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, nhà thơ muốn hát lại hai làn điệu dân ca quen thuộc của quê hương xứ
Huế:Nam ai, Nam bình. Có lẽ trong những ngày này ông lại thấy quê hương của mình đẹp hơn, bản sắc của vùng cố đô cổ
kính cũng đáng tự hào hơn. Khổ thơ cho thấy ông rất yêu mến quê hương thơ mộng của mình, mở rộng tình cảm, yêu thêm
đất nước, cống hiến cả cuộc đời cho nước nhà. Chỉ có những người có tình yêu quê hương, xóm làng thì mới có tình yêu
đất nước, yêu dân tộc.
5. Nghệ thuật:
Về nghệ thuật, bài thơ có nhiều nét nghệ thuật đặc sắc.
Thể thơ năm chữ gần với các làn điệu dân ca – đặc biệt là dân ca miền Trung – có âm hưởng nhẹ nhàng, tha thiết,
sâu lắng. Sử dụng cách gieo vần liền giữa những khổ thơ tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc. Ngoài ra , nhà thơ kết hợp hài
hòa giữa những hình ảnh thơ tự nhiên, giản dị với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng, khái quát. Điều đáng chú ý là
những hình ảnh biểu trưng thường được phát triển từ những hình ảnh thực, tạo nên sự lặp lại mà nâng cao, đổi mới của hệ
thống hình ảnh: mùa xuân – cành hoa – con chim.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ rất giản dị, trong sáng, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc với các ẩn dụ, điệp ngữ, xử dụng
từ ngữ xưng hô…cấu tứ của bài thơ chặt chẽ, giọng điệu thơ luôn có sự biến đổi phù hợp với nội dung từng khổ: vui, say
sưa ở khổ đầu, trầm lắng, trang nghiêm và thiết tha ở khổ 4,5, sôi nổi và thiết tha ở khổ cuối.
6. Phát biểu suy nghĩ của em:
Cảm nhận được ước nguyện cống hiến cao cả của nhà thơ, em đã hiểu được lối sống cao đẹp là phải biết phục vụ,
cống hiến, hi sinh quên mình vì người khác, vì đồng bào, vì quê hương đất nước. Sống đẹp là sống có mục đích, ước mơ,
có lí tưởng phục vụ đất nước. Nhận thức rõ điều này em nguyện luôn trau dồi tri thức rèn luyện nhân cách, đạo đức để sau
này trở thành người đủ đức, đủ tài góp phần nhỏ bé xây dựng đất nước. Muốn được như thế ngay từ bây giờ học sinh cần
tránh xa những tệ nạn xã hội, đến với những hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh, bổ ích…
III. Kết bài:
Tác phẩm được viết vào tháng 11/1980, đến tháng 12/1980 thì tác giả đã vĩnh viễn đi xa. Nhưng bài thơ vẫn để lại
trong lòng bao thế hệ người đọc những cảm xúc sâu lắng, khó phai mờ. Bài thơ vẫn tiếp tục trường tồn với những bước đi
của đất nước,gợi nhắc cho thế hệ trẻ - cho cả mọi người một cách sống đẹp: góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa
xuân lớn của đất nước để Tổ quốc ta mãi mãi tươi đẹp trong tiết xuân. Thế mới biết cuộc đời con người có hạn nhưng giá
trị tinh thần mà con người để lại cho đời sau lại có những giá trị vĩnh hằng.

24
Đề 7:
… “Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến

Một mùa xuân nho nhỏ


Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc…”
Hãy phân tích hai khổ thơ trên để làm rõ tâm nguyện cao đẹp của Thanh Hải : muốn được cống hiến phần tốt đẹp – dù
nhỏ bé của cuộc đời mình cho cuộc đời chung – cho đất nước.
Gợi ý:
A- Mở bài :
- Giới thiệu bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, và đoạn trích hai khổ thơ trên.
- Giới thiệu nhận xét về hai khổ thơ trên (như đề bài đã nêu)
B- Thân bài :
* Từ cảm xúc về mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đát nước, nhà thơ có khát vọng thiết tha, làm “mùa xuân nho nhỏ”
dâng cho đời.
1. Ước nguyện được sống đẹp, sống có ích cho đời.
Muốn làm con chim hót, cành hoa, nốt trầm xao xuyến trong bản hoà ca  Phân tích các hình ảnh này để thấy vẻ đẹp
ước nguyện của Thanh Hải.
- “Điệp ngữ Ta làm…”, “Ta nhập vào…” diễn tả một cách tha thiết khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của đất
nước được cống hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của cuộc đời mình cho cuộc đời chung – cho đất nước.
- Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh thơ đẹp một cách tự nhiên giản dị.
+ “Con chim hót”, “một cành hoa”, đó là những hình ảnh đẹp của thiên nhiên. ở khổ thơ đầu, vẻ đẹp của mùa xuân thiên
nhiên đã được miêu tả bằng hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, bằng âm thanh của tiếng chim chiền chiện “hót chi mà
vang trời”. ở khổ thơ này, tác giả lại mượn những hình ảnh ấy để nói lên ước nguyện của mình : đem cuộc đời mình hoà
nhập và cống hiến cho đất nước.
2. Ước nguyện ấy được thể hiện một cách chân thành, giản dị, khiêm nhường
- Nguyện làm những nhân vật bình thường nhưng có ích cho đời
+ Giữa mùa xuân của đất nước, tác giả xin làm một “con chim hót”, làm “Một cành hoa”. Giữa bản “hoà ca” tươi vui,
đầy sức sống của cuộc đời, nhà thơ xin làm “một nốt trầm xao xuyến”. Điệp từ “một” diễn tả sự ít ỏi, nhỏ bé, khiêm
nhường.
- ý thức về sự đóng góp của mình: dù nhỏ bé nhưng là cái tinh tuý, cao đẹp của tâm hồn mình góp cho đất nước.
- Hiểu mối quan hệ riêng chung sâu sắc: chỉ xin làm một nốt trầm khiêm nhường trong bản hoà ca chung.
+ Những hình ảnh con chim, cành hoa, nốt nhạc trầm cuối cùng dồn vào một hình ảnh thật đặc sắc: “Một mùa xuân nho
nhỏ – Lặng lẽ dâng cho đời”. Tất cả là những hình ảnh ẩn dụ mang vẻ đẹp giản dị, khiêm nhường, thể hiện thật xúc động
điều tâm niệm chân thành, tha thiết của nhà thơ.
+ Bằng giọng thơ nhỏ nhẹ, sâu lắng, ước nguyện của Thanh Hải đã đi vào lòng người đọc, và lung linh trong ánh sáng
của một nhân sinh quan cao đẹp: Mỗi người phải mang đến cho cuộc đời chung một nét đẹp riêng, phải cống hiến cái phần
tinh tuý, dù nhỏ bé, cho đất nước, và phải không ngừng cống hiến “Dù là tuổi hai mươi – Dù là khi tóc bạc”. Đó mới là ý
nghĩa cao đẹp của đời người.
- Sự thay đổi trong cách xưng hô “tôi” sang “ta” mang ý nghĩa rộng lớn là ước nguyện chung của nhiều người.
- Hình ảnh “mùa xuân nho nhỏ” đầy bất ngờ thú vị và sâu sắc: đặt cái vô hạn của trời đất bên cạnh cía hữu hạn của đời
người, tìm ra mối quan hệ cá nhân và xã hội.
- Ước nguyện dâng hiến ấy thật lặng lẽ, suốt đời, sống đẹp đẽ.
GV mở rộng:
Giữa hai phần của bài thơ có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng của chủ thể trữ tình “tôi” sang “ta”. Điều này hoàn toàn
không phải là ngẫu nhiên mà đã được tác giả sử dụng như một dụng ý nghệ thuật, thích hợp với sự chuyển biến của cảm
xúc và tư tưởng trong bài thơ. Chữ “tôi” trong câu thơ “tôi đưa tay tôi hứng” ở khổ đầu vừa thể hiện một cái “tôi” cụ thể rất
riêng của nhà thơ vừa thể hiện sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sự sống của mùa xuân. Nếu thay bằng chữ “ta” thì
hoàn toàn không thích hợp với nội dung cảm xúc ấy mà chỉ vẽ ra một tư thế có vẻ phô trương. Còn trong phần sau, khi bày
tỏ điều tâm niệm tha thiết như một khát vọng được dâng hiến những giá trị tinh tuý của đời mình cho cuộc đời chung thì đại
từ “ta” lại tạo được sắc thái trang trọng, thiêng liêng của một lời nguyện ước. Hơn nữa, điều tâm nguyện ấy không chỉ là
của riêng nhà thơ, cái “tôi” của tác giả đã nói thay cho nhiều cái tôi khác, nó nhất thiết phải hoá thân thành cái ta. Nhưng
“ta” mà không hề chung chung vô hình mà nhận ra được một giọng riêng nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm thắm của cái “tôi”
Thanh Hải : muốn được làm một nốt trầm xao xuyến trong bản hoà ca một cách lặng lẽ chứ không phô trương, ồn ào.
* Khổ thơ thể hiện xúc động một vấn đề nhân sinh lớn lao.
Đặt khổ thơ trong mối quan hệ với hoàn cảnh của Thanh Hải lúc ấy, ta càng hiểu hơn vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ.

25
C- Kết bài :
- Tất cả đều thật đáng yêu, đáng trân trọng, đáng khâm phục.
- Chỉ một “mùa xuân nho nhỏ” nhưng ý nghĩa bài thơ lại rất lớn lao, cao đẹp.

MÙA XUÂN NHO NHỎ


- Thanh Hải –
Youtobe
Chào các em, các em thân mến thời xưa vào đời Lý người ta vẫn nhớ có thiền
sư Mãn Giác đến lúc bệnh nặng sắp qua đời vẫn có những vần thơ lạc quan, yêu đời, vui
sống:
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai
Thời nay có Thanh Hải, khi từng giờ từng phút chống trọi với bệnh tật ông cũng
có những vần thơ như thế, đó chính là bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” mà hôm nay cô và
các em sẽ cùng học.
- Gv chiếu máy chiếu tên bài (Có nhạc đệm của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”).
I/ Tìm hiểu chung:
1/ Tác giả:
- Thanh Hải (1930 – 1980), tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì
chống Mĩ cứu nước, Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động và là một trong những cây
bút có công xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam từ những ngày đầu.
- GV: Nói về Thanh Hải thì nhà nghiên cứu và phê bình Trần Hữu Tá có nhận xét:
“Thơ ông chân chất, bình dị, đôn hậu và chân thành…
- Đối với nền thơ chống Mĩ của miền Nam, Thanh Hải là một trong những cây bút có
nhiều đóng góp”.
- GV: Vậy ta thử xem đóng góp của Thanh Hải ở bài “Mùa xuân nho nhỏ” là gì ta
chuyển sang phần thứ 2. Phần tác phẩm.
2/ Tác phẩm:
- Bài thơ này viết vào tháng 11 năm 1980, trước khi nhà thơ mất không bao lâu.
- GV: Bây giờ cô và các em sẽ đọc lại bài thơ này: Chiếu bài thơ lên màn chiếu  Bật
nhạc bài hát  GV đọc lại bài thơ theo nhạc nền.  Chiếu toàn bộ bài thơ.
26
- GV: Như vậy chúng ta thấy bài thơ được viết theo thể thơ chữ, gần với các điệu dân
ca Trung bộ có âm hưởng nhẹ nhàng, tha thiết. Bài thơ đã thể hiện cảm xúc và ước
nguyện của nhà thơ trước mùa xuân. Chúng ta có thể thấy bố cục bài thơ này được chia
làm bốn phần:
+ Khổ 1: Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời.
+ Khổ 2,3: Cảm xúc về mùa xuân đất nước.
+ Khổ 4,5: Suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ trước mùa xuân đất nước.
+ Khổ 6: Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
- GV: Như vậy các em thấy nhìn vào bố cục của bài thơ ta nhận ra xuyên suốt toàn bộ
bài thơ là hình ảnh của mùa xuân: mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước và
cuối cùng là mùa xuân nho nhỏ của mỗi người.
- Bây giờ chúng ta sẽ phân tích từng phần và chúng ta sẽ nắm được mùa xuân của thiên
nhiên đất nước mà tác giả đã miêu tả như thế nào.
II/ Tìm hiểu văn bản:
1/ Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
- Ta thấy từ đầu bài thơ tác giả đã sử dụng phép đảo ngữ để nhấn mạng vào động từ
“mọc”. “Mọc” cũng là động từ có nghĩa là cây cối đâm chồi nảy lộc. Nhưng “mọc”
cũng chính là sức sống của mùa xuân, bắt được sức sống của mùa xuân nhà thơ đã vẽ ra
một bức tranh mùa xuân thật đẹp bức tranh ấy có không gian cao rộng, khoáng đạt được
mở ra với chiều rộng chiều cao, chiều dài, chiều sâu và trong không gian rộng lớn đó thì
nhà thơ đã tô điểm bằng sắc màu tươi thắm hài hòa. Nền chính là dòng sông màu xanh
dịu mát và nổi bật trên đó là sắc tím biếc là một từ gợi tả miêu tả được sắc tím tươi tím
đậm và sắc tím này còn là đặc trưng của sứ Huế. Tác giả còn vẽ ra trong bức tranh của
mình những âm thanh vang vọng vui tươi của tiếng chim hót, chắc chắn đây là một
không gian rất rộng lớn nhưng đặc biệt vô cùng yên tĩnh cho nên chỉ cần một tiếng chim
hót thôi tác giả cũng cảm thấy vang trời và bên cạnh đó là những hình ảnh xinh đẹp gần
gũi đấy là dòng sông xanh là bông hoa, là chim hót tất cả những hình ảnh này đều rất
thân thuộc với mọi làng quê Việt Nam và đặc biệt nó chính là đặc trưng của mùa xuân.
Người ta không thể tưởng tượng được mùa xuân mà lại không có chim hót, không có
hoa nở có lẽ gây ấn tượng nhất ở trong khổ thơ này chính là hình ảnh giọt long lanh,
giọt long lanh có thể gợi nhiều liên tưởng, ta có thể hiểu giọt long lanh là giọt nắng, giọt
mưa, giọt sương của mùa xuân, nhưng đặt nó vào trong khổ thơ này sau câu thơ: “Tiếng
chim chiền chiện hót vang trời” thì ta còn có thể hiểu giọt long lanh chính là giọt tiếng
chim những âm thanh được kết đọng lại thành hình thành khối và rơi trong không gian
nếu hiểu như thế thì ở đây tác giả đã sử dụng phép chuyển đổi cảm giác để giúp chúng
ta hình dung về một bức tranh xuân thật là tươi đẹp trên quê hương xứ Huế.
=> Như vậy bằng những chi tiết thơ chọn lọc tiêu biểu từ ngữ mộc mạc giản dị, phép
đảo ngữ và phép chuyển đổi cảm giác thì bức tranh mùa xuân của Thanh Hải hiện lên
thật sinh động náo nức rộn ràng căng tràn sức sống của thiên nhiên đất trời.

27
- Trước một mùa xuân tươi đẹp như vậy thì Thanh Hải làm sao kìm nổi cảm xúc của
mình, những từ biểu cảm “Ơi”... , “chi mà”... đã giúp nhà thơ bộc lộ những cảm xúc ấy
và đặc biệt ở câu thơ cuối tác giả sử dụng điệp từ “Tôi” để thể hiện sự xuất hiện của
chủ thể trữ tình. Lưu ý ở câu thơ này động từ “hứng”. “hứng” thể hiện tất cả những gì
là nâng liu là chân trọng và bằng từ ngữ biêu cảm, bằng điệp ngữ. Tác giả đã nói với
chúng ta rằng ông đã mở rộng tâm hồn đón nhận sự đổi thay kì diệu của đất trời với một
trái tim nhạy cảm đang xao xuyến trước mùa xuân.
2/Cảm xúc về mùa xuân đất nước:
- Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời nhà thơ liên tưởng đến mùa xuân của đất nước
thực sự đây là một liên tưởng rất thực, rất thơ vô cùng độc đáo và thú vị.
- Nhà thơ viết:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc rắc đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
- Ở khổ thơ này tác giả đã sử dụng phép đối, “Mùa xuân người cầm súng” đối với “Mùa
xuân người ra đồng” và cùng với phép đối là những hình ảnh biểu trưng người cầm
súng, người ra đồng được nhấn mạnh. Người cầm súng để chỉ những người chiến sĩ
đang ngày đêm chiến đấu ở chiến trường, còn người ra đồng là chỉ những người nông
dân vẫn đang cày cấy trông trọt để xây dựng đất nước. Có thể nói vào thời điểm này thì
nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động xây đựng đất nước là hai nhiệm vụ trọng
đại của dân tộc ta thế cho lên tác giả nói tới người cầm súng người ra đồng để nhắc tới
những nhiệm vụ ấy và họ mang theo lộc mùa xuân điệp từ “lộc” đã nhấn mạnh chúng ta
rằng mùa xuân thì cây cối phải đâm chồi nảy lộc nhưng từ “lộc” còn có nghĩa là hạnh
phúc là may mắn vậy thì người cầm súng lộc trên lưng là cành lá ngụy trang, người ra
đồng lộc của họ là những nương mạ nảy mầm tươi tốt và với các điệp từ như thế thì tác
giả đã khẳng định theo bước chân của người chiến sĩ, người lao động lộc mùa xuân sẽ
sinh sôi nảy nở và hạnh phúc may mắn đã đến với mọi nơi trên đất nước ta. Như vậy
dân tộc ta sẽ bước vào một thời đại mới, một thời đại mà có nhiều cơ hội có nhiều hạnh
phúc có nhiều may mắn và chính những người chiến sĩ những người lao động sẽ đem lại
lộc mùa xuân đem lại hạnh phúc cho dân tộc ta.
=> Phép đối, điệp từ, những hình ảnh biểu trưng: Tác giả khẳng định theo bước chân
của những người chiến sĩ và người lao động, lộc mùa xuân sinh sôi nảy nở và hạnh
phúc, may mắn đến với mọi nơi trên đất nước ta .
Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước nhà thơ khái quát:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao...”
- Ở đây hai câu thơ ngắn nhưng bằng điệp ngữ và các từ láy biểu cảm đã làm cho nhịp
thơ nhanh nhà thơ đã khái quát được cả một thời đại dân tộc. “Hối hả” diễn tả cái nhịp
điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, còn “xôn
xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng. Vậy thì ở đây, ta thấy nhịp sống khẩn
trương, sôi động, náo nức của nhân dân ta trong cuộc sống mới đã được Thanh Hải thể
hiên thật là sinh động và độc đáo thú vị.
=> Điệp từ, từ láy biểu cảm, nhịp thơ nhanh: Khái quát về nhịp sống khẩn trương, sôi
động, náo nức, rộn ràng của nhân dân dân ta trong cuộc sống mới.

28
- Nói về hai câu thơ thì nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong cuốn “Văn lớp 9 không khó
như bạn nghĩ “ đã nhận xét: “Cái tầm khái quát của hiện thực trên đã được tác giả viết
rõ hơn qua nhịp điệu “tất cả / tất cả”. Dường như từ bầu trời, từ dòng sông, từ cánh
đồng, từ ngọn cỏ, từ những khuôn mặt trẻ thơ, từ những vòng tay thân yêu đều hối hả
đắm mình trong không khí mùa xuân. “ Tất cả” vì quá hân hoan, vì quá xúc động nên đã
không thể kìm giữ được lòng mình trước mùa xuân.”
- Và tác giả còn viết tiếp :
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
- Cụm từ “Bốn ngàn năm” thật giản dị nhưng đã khái quát được cho chúng ta thấy một
chiều dài lịch sử của dân tộc. Trong chiều dài 4000 năm ấy thì chúng ta đã xây dựng
truyền thống dựng nước và giữ nước xây dựng được một nền văn hóa đậm đà bản sắc
dân tộc. Cho nên chỉ nói đến 4000 năm thôi thì bất cứ ai thôi là người Việt Nam mang
trong mình dòng máu con Lạc cháu Hồng đều cảm thấy rất đỗi tự hào và tất nhiên để
xây dựng được cái truyền thống 4000 năm ấy thì nhân dân ta phải trải qua biết bao vất
vả và gian lao. Những từ “vất vả” và “gian lao” thật giản dị nhưng đã gợi lên cho chúng
ta hiểu biết bao mồ hôi xương máu và nước mắt trong suốt chiều dài lịch sử để dân tộc
ta có thể tạo dưng được những gì đáng tự hào nhất. Khái quát lại quá khứ của dân tộc thì
tác giả so sánh đất nước như vì sao có thể nói đây là một so sánh đẹp và gợi cảm bởi vì
“vì sao” càng trong đêm tối càng lấp lánh cũng như đất nước ta càng trong những khó
khăn thử thách thì càng ngời sáng những phẩm chất tốt đẹp, những tinh hoa của dân tộc,
hơn nữa “vì sao” lại là biểu tượng của cách mạng trên lá cờ đỏ sao vàng của tổ quốc như
vậy ta thấy so sánh đất nước như vì sao nhà thơ đã gợi lên biết bao kiêu hãnh tự hào
trong mỗi người chúng ta và câu cuối nhà thơ đã viết “Cứ đi lên phía trước”, “cứ “là
một phó từ chỉ sự tiếp diễn của thời gian cứ có nghĩa là đã, đang, sẽ và mãi mãi và trong
cái thời gian liên tục như vậy thì dân tộc ta cứ đi lên phía trước, có nghĩa là luôn luôn
phát triển.
=> Ở khổ thơ này bằng nghệ thuật điệp từ, phép so sánh, những từ ngữ giàu sức biểu
cảm nhà thơ đã khái quát cả quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc từ đó Thanh Hải
rút ra quy luật phát triển của đất nước ta mãi mãi đi lên.
- Nếu không có một niềm lạc quan, tin tưởng và tự hào chắc chắn những câu thơ của
Thanh Hải không thể cất lên kiêu hãnh như vậy. Như thế ta thấy bằng những vần thơ có
âm điệu thiết tha và nhà thơ đã nói được tiếng lòng của mình cũng như tiếng lòng của cả
dân tộc cho lên bài thơ đã được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc và trở thành 1 bài hát quen
thuộc mỗi khi tết đến xuân về. Mỗi lần giai điệu “Mùa xuân nho nhỏ” cất lên người ta
lại lặng lẽ nhớ tới Thanh Hải và nhớ tới những mùa xuân nho nhỏ đã từng làm cho đất
nước ngày càng lên xuân.
- GV chuyển ý: Từ mùa xuân của đất nước nhà thơ đã gửi gắm những suy nghĩ và ước
vọng của mình.
3/ Suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ trước mùa xuân đất nước:

Ta làm con chim hót


Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
29
Một nốt trầm sao xuyến.
- GV: Ở đây các em thấy nhà thơ đã đổi đại từ nhân xưng từ “tôi” sang “ta”. Ở khổ
“tôi” chỉ sự xuất hiện của chủ thể trữ tình, còn ở đây “ta” là đại từ vừa chỉ số ít vừa chỉ
số nhiều, vừa là chỉ cái riêng, vừa nói về cái riêng. Như vậy có lẽ bằng cách đổi đại từ
nhân xưng này lại kết hợp với điệp từ “ta làm” thì tác giả đã khiến cho lời thơ mạnh mẽ,
để bộc lộ cái quyết tâm hòa nhập vào cộng đồng của tác giả. Vậy tác giả hòa nhập điều
gì, các em chú ý vào những hình ảnh nhà thơ thể hiện: con chim hót, cành hoa. Các em
đã bắt gặp những hình ảnh này ở khổ 1 khi nhà thơ miêu tả mùa xuân, ở đây tác giả lại
mượn những hình ảnh này để thể hiện cái ước nguyện của mình. Vậy thì cái hình ảnh
đẹp tự nhiên và giản dị ấy đã lặp lại khổ thơ trên tạo nên cái cấu tứ lặp lại mà đối ứng
vô cùng chặt chẽ để từ đó nhà thơ bày tỏ cái ước mong được cống hiến cho cuộc đời.
Bởi vì con chim quí nhất là tiếng hót, bông hoa thì đẹp nhất là hương sắc dâng đời. Có
lẽ ở đây nhà thơ cũng muốn dâng lên cho cuộc đời những gì là tinh túy nhất của mình.
Điều đó là một lẽ tự nhiên các em ạ.
- GV: Nhưng có lẽ gây ấn tượng hơn cả ở khổ thơ này là hình ảnh nốt trầm xao xuyến
trong bản hòa ca của dân tộc. Đây chính là một biện pháp nghệ thuật ẩn dụ. Các em thấy
trong bản hòa ca có muôn vàn nốt nhạc, có nốt nhạc cao vút người ta dễ dàng nhận ra,
nhưng tác giả chỉ xin làm nốt nhạc trầm hòa trong bản bè trầm thôi. Tất nhiên cái nốt
trầm ấy rất nhẹ nhàng không dễ mà nhận ra được nhưng nốt trầm đó phải làm cho người
ta xao xuyến. Từ láy “xao xuyến” cùng với phép ẩn dụ đã giúp cho nhà thơ thể hiện sự
khiêm tốn, nhận thấy đóng góp của mình cho đất nước chỉ là nhỏ bé thôi nhưng phải rất
chân thành. Như vậy toàn khổ thơ này chúng ta hiểu: Mỗi người phải mang đến cho
cuộc đời chung một nét riêng, cái phần tinh túy nhất của mình. Dâng hiến, hòa nhập
nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng. Đó mới chính là điều quan trọng và cần thiết mà nhà
thơ Thanh Hải đã nhấn mạnh.
Khổ 5:
- GV: Từ những ước nguyện chân thành ông khái quát:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
- GV: Ở đây hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ” đã lặp lại tựa đề của bài thơ. Và chắc chắn
phải nêu được chủ đề của toàn bài. Ta bỗng thấy thú vị với cái cách diễn đạt rất độc đáo
của nhà thơ. Mùa xuân là một khái niệm thời gian thế mà nhà thơ lại miêu tả bằng từ láy
“nho nhỏ”. Vậy thì từ láy “nho nhỏ” và hình ảnh mùa xuân đã nhấn mạnh vào cái mùa
xuân của mỗi người. Mỗi người sẽ là mùa xuân nhỏ thì cả dân tộc sẽ là một mùa xuân
lớn. Nếu không có những mùa xuân nho nhỏ của mỗi người thì làm sao có mùa xuân
lớn của dân tộc. Vậy thì ở đây hình ảnh mùa xuân nho nhỏ một lần nữa nhấn mạnh cho
chúng ta sự đóng góp chân thành của từng người.
- GV: Câu thơ thứ hai của khổ thơ nhà thơ đã sử dụng phép đảo ngữ để nhấn mạnh vào
từ láy “lặng lẽ”. Vâng, lặng lẽ là những đóng góp âm thầm không cần phô trương,
không cần được ghi danh cứ khiêm nhường mà đóng góp. Vậy thì ở hai câu thơ này tác
giả đã nói với chúng ta những cống hiến thầm lặng nhưng vô cùng tha thiết. Và tác giả
đã cho ta hiểu đấy chính là lẽ sống đẹp, sống có ích cho đời. Trong “Khát vọng hòa
nhập, dâng hiến cho đời”, Hà Vinh đã cảm nhận: “Trước Thanh Hải quả chưa từng có
hình ảnh thơ vừa lạ, vừa hồn nhiên, thân thương này. Hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ”
30
chứa đựng sự khiêm nhường mà cũng tự tin, tự hào biết mấy của con người ý thức
sâu sắc về giá trị cuộc đời, về hạnh phúc của hiến dâng và đón nhận”.
- GV: Từ mùa xuân nhỏ nhỏ ấy thì Thanh Hải viết “Dù là tuổi hai mươi – Dù là khi tóc
bạc”. Tuổi hai mươi, khi tóc bạc là những hình ảnh hoán dụ: tuổi hai mươi là nói đến
tuổi thanh xuân của đời người; khi tóc bạc nói đến lúc con người đã già. Và các em thấy
từ tuổi hai mươi đến khi tóc bạc là suốt cả cuộc đời. Ở đây tác giả còn sử dụng biện
pháp điệp từ, điệp ngữ “dù là” làm cho giọng thơ mạnh mẽ để tác giả khẳng định sự
cống hiến của mình là suốt cả cuộc đời, bất chấp cả thời gian và tuổi tác, bất chấp cả
bệnh tật, dù trong lúc này nhà thơ đang bị nhưng đau đớn mà bệnh tật hành hạ nhưng
ông vẫn xin được làm mùa xuân nho nhỏ lặng lẽ dâng cho đời. Thế thì ta thấy đằng sau
những vần thơ nhỏ nhẹ ấy là dũng khi của một tâm hồn lạc quan, mạnh mẽ. Trong bài
viết “Khát vọng dâng hiến – Mùa xuân nho nhỏ” giáo sư Trần Đình Sử có viết “Lời thơ
chuyển sang tổng kết cuộc đời: dù ở tuổi hai mươi, khi nhà thơ mới tham gia cách
mạng, bắt đầu công bố những bài thơ đầu. Dù là khi tóc bạc, trong thời điểm hiện tại,
vẫn lặng lẽ hiến dâng cho đời. Bài thơ có thể xem là quà tặng cuối cùng của tác giả”.
- GV: Và thật đáng trân trọng vì quà tặng cuối cùng này là những gì tinh hoa nhất mà
Thanh Hải để lại cho đời.
=> Hoán dụ, điệp ngữ: Khẳng định ước nguyện cống hiến suốt cả cuộc đời, bất chấp
thời gian, tuổi tác...
=> Dũng khí của 1 tâm hồn lạc quan, mạnh mẽ.
Khổ 6:
4/ Lời ngợi ca quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế:
- GV: Cuối cùng nhà thơ đã cất lên những lời ngợi ca quê hương đất nước mang giai
điệu dân ca xứ Huế:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
- GV: Tác giả có nhắc đến những khúc dân ca xứ Huế Nam ai – Nam bình. Đó là những
giai đoạn tha thiết. Qua khúc Nam ai – Nam bình này nhà thơ đã bộc lộ tình yêu tha
thiết của mình đối với quê hương đất nước và thể hiện được tâm hồn đằm thắm dịu dàng
của người dân xứ Huế. Điệp khúc nước non ngàn dặm cất lên làm cho âm điệu của bài
thơ có gì đó trầm lắng, ngâm nga đặc biệt là khi nó được kết hợp với những thanh bằng
“bình – mình - tình” ở cuối bài thơ. Như vậy, các em thấy khúc ca cuối của bài thơ này
đã tạo nên âm hưởng nhẹ nhàng, đằm thắm mà vô cùng tha thiết. Và chính vậy mà nhà
thơ đã bộc lộ được niềm tin yêu vào cuộc đời và đất nước với những giá trị truyền thống
vững bền của dân tộc.
=> Khúc hát dân ca sứ Huế, điệp khúc “nước non ngàn dặm” cùng những thanh
bằng...tạo nên âm hưởng nhẹ nhàng, đằm thắm, tha thiết.
=> Niềm tin yêu vào cuộc đời, vào đất nước với những giá trị truyền thống vững bền.
- GV: Như vậy các em đã được tìm hiểu toàn bộ bài thơ mùa xuân nho nhỏ của Thanh
Hải, còn bây giờ cô xin tổng kết lại những giá trị nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của
bài thơ. Các em chú ý phần ghi nhớ SGK trang 58:
III/ Tổng kết:

31
* Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với
cuộc đời, thể hiện nguyện ước chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước,
góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
* Bài thơ theo thể năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, tha thiết gần gũi với dân ca,
nhiều hình ảnh đẹp, giản dị gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo.
- GV: Như thế các em thấy bằng những vần thơ có âm điệu thiết tha, nhà thơ đã nói
được tiếng lòng của mình và tiếng lòng của toàn dân tộc, cho nên bài thơ đã được nhạc
sĩ Trần Hoàng phổ nhạc thành một bài hát quen thuộc mỗi khi tết đến xuân về. Mỗi lần
giai điệu bài hát mùa xuân nho nhỏ cất lên người ta lại nhớ đến Thanh Hải và nhớ tới
mùa xuân nho nhỏ đã làm cho đất nước ngày càng thêm xuân.
IV: Luyện tập:
- GV: Cuối cùng cô xin gửi đến các em một đề văn để các em luyện tập:
Đề bài:
“Hình ảnh mùa xuân trong bài thơ của Thanh Hải mang nhiều tầng ý nghĩa”
(Hà Vinh – Khát vọng hòa nhập dâng hiến cho đời)
Phân tích “Mùa xuân nho nhỏ” để làm rõ ý kiến trên.
- GV hướng dẫn: Vậy thì ở đề văn này các em chú ý cho cô những ý nghĩa biểu tượng
của hình ảnh mùa xuân và các em tập trung phân tích hình ảnh này trong bài “Mùa xuân
nho nhỏ”, cô chúc các em sẽ làm tốt bài văn này để từ đó hiểu thêm được bài thơ “Mùa
xuân nho nhỏ” - Một sáng tác rất hay của Thanh Hải. Cô mong rằng các em sẽ yêu thích
những đóng góp cuối cùng của nhà thờ Thanh Hải.

32

You might also like