Professional Documents
Culture Documents
+ Tác giả có nhắc đến những khúc dân ca xứ Huế Nam ai, Nam bình, có giai điệu buồn thương nhưng vô
cùng tha thiết.
+ Và những khúc Nam ai, Nam Bình này thì nhà thơ đã bộc lộ tình yêu tha thiết của mình đối với quê
hương, đất nước thể hiện niềm tin yêu vào cuộc đời, vào đất nước với những giá trị truyền thống vững
bền.
C. Kết bài
- Cấu tứ thơ độc đáo, cảm hứng xuân phơi phới, hình ảnh sáng tạo, nhạc điệu vui tươi tha thiết.
- Bài thơ đem đến những cảm xúc đẹp về mùa xuân, gợi suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp của một tâm hồn
trong sáng.
- Càng tin yêu mùa xuân của đất nước và “mùa xuân nho nhỏ” của lòng mình. Muốn góp phần công sức
nhỏ bé để tô điểm cho mùa xuân của cuộc đời thêm tươi đẹp.
BÀI LÀM 2
Lắng tai nghe…
Khúc nhạc mùa xuân đang mời gọi
Dõi mắt nhìn…
Sắc xuân lung linh tràn ngập cả đất trời.
Vâng! Xuân về đánh thức ngàn cây cỏ nội đâm chồi nảy lộc. Xuân đến còn đánh thức nguồn cảm xúc vô
tận của thi nhân. Lắng lòng lại, ta nghe đâu đây sắc xuân, tình xuân đang hòa quyện trong vũ điệu giao
mùa, đang rạo rực trong tâm hồn Thanh Hải để “Mùa xuân nho nhỏ” ra đời. Bài thơ với lời giản dị, tứ thơ
sâu lắng nhưng ôm trọn tâm hồn đôn hậu, bình dị, thiết tha yêu cuộc sống của nhà thơ.
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải viết vào tháng 11 năm 1980, ngay trên giường bệnh và chỉ
ít lâu sau tháng 12 năm 1980, nhà thơ mãi mãi ra đi. Ở giữa mùa đông giá rét của xứ Huế, đối mặt với
biên giới giữa sự sống và cái chết nhưng không làm trái tim nhà thơ nguội lạnh. Ngược lại, tâm hồn thi
nhân càng nảy nở, bừng sức sống để cảm nhận sâu sắc về một mùa xuân nồng ấm tình người, khiến ngòi
bút nở hoa để một “Mùa xuân nho nhỏ” ấm áp tâm tình của thi nhân trước thiên nhiên, con người, cuộc
sống.
Mùa xuân là mùa khởi đầu cho một năm mới, là mùa muôn hoa đua nở đem đến hương sắc, vị ngọt của
sức sống, tình yêu, hạnh phúc. Trước vẻ đẹp diệu kỳ của mùa xuân, các thi nhân đều cảm nhận bằng con
mắt trìu mến, thân thương. Mùa xuân hiện ra với muôn vàn sắc màu rực rỡ:
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời.”
(Nguyễn Trãi)
Vũ điệu của mùa xuân đã rót vào tâm hồn Thanh Hải niềm cảm xúc dâng trào. Thật đơn sơ, lặng lẽ mà
mùa xuân vẫn hiện về tràn đầy sức sống trào dâng:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.”
Giản dị mà đầm ấm xiết bao! Thanh Hải đã khéo chọn cho mình một bức tranh xuân với gam màu ấm áp,
mà dịu dàng, trang nhã. Một màu xanh của dòng Hương Giang mênh mông, êm đềm, một màu tím biếc
của bông hoa nhỏ bé. Sự sắp xếp hết sức cân đối hài hòa của bức tranh thơ, cái to lớn bao la không lấn át
cái nhỏ nhoi, bé bỏng. Màu xanh của dòng sông làm nền cho sắc tím của hoa càng nổi bật. Chỉ vài nét
phác thảo, Thanh Hải đã vẽ nên bức tranh xuân thơ mộng hài hòa. Bằng biện pháp đảo ngữ “mọc giữa
dòng sông xanh”, tác giả đã tô đậm hình ảnh một bông hoa tím bé nhỏ mà tràn đầy sức sống mãnh liệt,
vươn lên sự sống trong điều kiện có phần khắc nghiệt để hòa cùng vạn vật giữa vũ trụ bao la vô tận. Hình
ảnh thơ thật nhẹ nhàng, thanh thoát, màu hoa tím biếc nhè nhẹ xuôi dòng Hương Giang xanh thẳm thật
thơ mộng lãng mạn, quyến rũ đến lạ thường! Một màu tím thủy chung đặc trưng của con người xứ Huế
mộng mơ, trầm tư, cổ kính.
Trong không gian tĩnh lặng của mùa xuân bị khuấy động bởi âm thanh ngân vang đầy trìu mến chất chứa
niềm vui rộn rã:
“Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.”
Mùa xuân không chỉ với sắc màu hài hòa mà bức tranh xuân ấy bỗng nhộn nhịp hẳn lên với tiếng chim
hót vang trời chào đón ngày mới. Không gian tươi vui ấy làm xao động đến tâm hồn nhạy cảm của thi
nhân. Thanh Hải đang lắng tai nghe tiếng chim chiền chiện cao vút trong không trung. Tác giả đặt từ “Ơi”
vào câu thơ như một lời thốt lên ngạc nhiên thích thú, như một nốt nhạc ngân vang trong bản trường ca
mùa xuân vô tận. Tiếng chim hót như rót vào tâm hồn nhà thơ một niềm trìu cảm. Tâm hồn nhà thơ đang
tràn ngập niềm vui để ngôn từ thốt lên “hót chi mà” như một lời trách yêu đầy thân thương. Tiếng chim
chiền chiện hát vang lừng trong trẻo cao vút như nốt thăng rộn rã của mùa xuân. Tiếng hát ấy cứ kéo dài,
ngân nga rồi lan tỏa hòa quyện vào bầu trời xuân kèm không gian bừng sáng, rộn ràng. Trong dòng cảm
xúc tuôn trào trước mùa xuân, Thanh Hải như cảm nhận được hơi thở nồng ấm của mùa xuân, hương vị
ngọt ngào của mùa xuân, sắc xuân tình xuân chan chứa:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Nhà thơ đón nhận mùa xuân bằng thị giác, thính giác và cả xúc giác. Nhà thơ đưa tay hứng lấy từng giọt
gì đang long lanh rơi? Giọt sương chăng? Hay giọt nắng? Hay những giọt âm thanh của tiếng chim? Mà
đó chính là những giọt mùa xuân, giọt hạnh phúc của tình đời như đượm thắm cả đất trời, hòa nguyện vào
tâm hồn thi sĩ. Thanh Hải xòe bàn tay mình ra để cảm nhận những hương vị ngọt ngào của mùa xuân
bằng thái độ trân trọng, nâng niu áp vào trái tim mình. Tác giả đã cụ thể hóa từng giọt mùa xuân như chan
hòa vào lòng đất mẹ để muôn hoa khoe sắc thắm để sức sống dâng trào, để tâm hồn con người tràn ngập
niềm vui.
Trong vũ điệu của mùa xuân, ta không chỉ thấy được vẻ đẹp quyến rũ của mùa xuân thiên nhiên mà con
người bắt gặp mùa xuân trẻ trung, sôi nổi của con người Thanh Hải đưa ra hai hình ảnh cụ thể, tiêu biểu
của đất nước đó là người lính và người nông dân:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.”
Hình ảnh lộc non là biểu tượng cho sức sống mới vươn lên. Lộc của lính là cành lá ngụy trang. Những
cành lá ngụy trang biến thành lộc đầu mùa được mang đến theo từng bước chân người lính. Lộc mà người
chiến sĩ mang đến cho chúng ta là xương máu mà các anh đổ xuống, là công sức bảo vệ mùa xuân thanh
bình của dân tộc, gieo niềm hạnh phúc đến mọi nhà. Người lính biểu trưng cho những con người bảo vệ
Tổ quốc và người nông dân là những con người tiêu biểu trong công cuộc xây dựng đất nước. Bằng hình
thức sóng đôi hài hòa, âm hưởng câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối. Từ bàn tay người nông dân “lộc trải
dài nương mạ”. Bàn tay của “người ra đồng” tô điểm cho mùa xuân đất nước. Đôi bàn tay kì diệu của
những người họa sĩ ấy đã vẽ nên những mảng xanh của niềm tin, hi vọng lên đất nước. Cũng như người
cầm súng, lộc của người ra đồng mang đến cũng đáng trân trọng biết bao. Lộc mà người nông dân tặng là
mồ hôi, là bát cơm gạo, là cơm no áo ấm. Người cầm súng, người ra đồng là hình ảnh rất tiêu biểu cho
những con người đóng góp, cống hiến cả thân mình để làm nên mùa xuân Tổ quốc.
Giai điệu rộn rã của mùa xuân, nhịp sống con người chừng như hối hả hơn, xôn xao hơn:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.”
Tâm hồn con người hòa quyện vào thiên nhiên, hòa quyện vào giai điệu mùa xuân. Điệp từ “tất cả” như
nhấn mạnh nhịp điệu cuộc sống, mùa xuân. Lời thơ thể hiện niềm hân hoan, rung động trong tâm hồn tác
giả. Các cặp từ láy “hối hả”, “xôn xao” vừa gợi cảm vừa gợi hình, nhịp điệu khẩn trương, phấn khởi, rộn
rịp, tưng bừng khơi gợi niềm vui náo động trong lòng người.
Âm hưởng của mùa xuân tràn ngập cả thiên nhiên, hòa vào tâm hồn con người những niềm rung động.
Bất giác Thanh Hải chạnh lòng nghĩ đến quê hương đất nước, âm hưởng câu thơ bỗng trầm buồn, sâu
lắng:
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
Trong giai điệu trầm lắng suy tư, câu thơ như đưa ta trở về với quá khứ bốn ngàn năm lịch sử. Trải dài
suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước, Tổ quốc ta đã trải qua bao biến động, thăng trầm. Ngày từ
buổi đầu dựng nước, dựng nước đã đứng trước nguy cơ xâm lược của kẻ thù. Câu chuyện mang màu sắc
huyền sử về Thánh Gióng, cậu bé ba tuổi làng Phù Đổng cất tiếng nói đầu tiên là tiếng nói yêu nước. Một
ngàn năm nô lệ cho phong kiến phương Bắc đầy đau thương, tủi nhục, những hình ảnh của những người
phụ nữ kiên trinh “chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại
giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”. Năm 938,
với chiến thắng oanh liệt của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng đã mở ra một kỉ nguyên mới của độc lập
tự chủ. Những vần thơ bỗng trầm lắng suy tư như gợi nhớ về một thời kỳ đau thương mà anh dũng. Trong
thời kỳ ấy sản sinh ra những người con trưởng thành từ đất mẹ đầy gian nan, vất vả nhưng luôn giành
chiến thắng:
“Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên.”
(Nguyễn Đình Thi)
Đã qua bao cuộc biến động của lịch sử, đất nước, con người Việt Nam vẫn kiên cường anh dũng, hiên
ngang vượt qua những thử thách đầy cam go, quyết liệt. Từ “cứ” vang lên như một lời khẳng khái hùng
hồn, một niềm tin bất diệt của Thanh Hải về tương lai đất nước đẹp lung linh, lấp lánh như những vì sao
trên bầu trời Tổ quốc. Đó là cách so sánh thật độc đáo và mới lạ, là sức liên tưởng vừa hiện thực vừa lãng
mạn như khơi gợi trong lòng người đọc một hình ảnh đẹp về tình yêu quê hương đất nước.
Trong cảm xúc về mùa xuân đang dâng trào nhà thơ bỗng muốn hóa thân:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.”
Cái giai điệu nhè nhẹ, du dương, êm ái, ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp, những luyến láy, điệp
ngữ “ta làm…, ta làm…, ta nhập” cứ xôn xao, réo rắt mãi trong lòng người đọc, chừng như ta được bay
bổng theo ước mơ của tác giả. Các động từ “làm”, “nhập” thể hiện một sự hóa thân kì diệu. Cái “ta” bây
giờ không còn riêng là cái ta của tác giả mà nó đã hòa nhập, đồng điệu với cái ta của tất cả mọi người.
Các hình ảnh “con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm xao xuyến” mang ý nghĩa biểu lộ một lẽ
sống, niềm tâm niệm của Thanh Hải đối với Tổ quốc, Nhân dân. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh –
Hoài Chân đã từng nhận xét: “Mỗi bài thơ hay là một cánh cửa mở cho tôi đi vào tâm hồn” (Thi nhân
Việt Nam). Vâng! Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã mở cửa cho tất cả chúng ta cảm nhận
một trái tim khiêm tốn bình dị, đôn hậu, chân thành của nhà thơ. Không ước mơ cao xa, Thanh Hải chỉ
nhỏ nhẹ xin làm một tiếng chim hót góp tiếng ca tươi vui vào giai điệu rộn rã của mùa xuân, một cánh
hoa nhỏ bé giữa rừng hoa muôn ngàn sắc thắm của dân tộc. Thanh Hải đã khéo mượn vẻ đẹp thanh khiết
của thiên nhiên, cuộc đời để thể hiện niềm mong ước thiết tha được sống có ích, đem lại hương sắc, niềm
vui tô điểm cho mùa xuân đất nước. Khát vọng sống là trọn đời hiến dâng của Thanh Hải cũng gặp được
nét đồng điệu trong tâm hồn các nhà thơ khác:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là đâu chỉ nhận riêng mình.”
(Tố Hữu)
Nhà thơ cũng có ước mơ nguyện sống là phải cho, phải cống hiến. Đó là quan niệm sống đẹp đúng đắn.
Say trong vũ khúc mùa xuân, khúc nhạc lòng Thanh Hải cứ ngân lên như cây đàn muôn điệu. Đọc khổ
thơ ta mới cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và khát vọng cháy bỏng cống hiến cho đời.
Trong bản hòa ca trầm bổng của mùa xuân, Thanh Hải chỉ mong được làm một và chỉ một “nốt trầm xao
xuyến”. Một nốt trầm ấy lặng lẽ, đơn sơ, nhỏ nhẹ nhưng lại không thể thiếu trong bản giao hưởng mùa
xuân. Cái âm thanh trầm lắng của nốt trầm trong bản hòa ca càng làm tăng thêm sức gợi cảm trong giai
điệu gọi mùa “Em ơi! Mùa xuân đến rồi đó!”. Cảm hứng ấy càng thêm mãnh liệt khi ta ngâm khẽ những
vần thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Âm hưởng của nốt trầm ấy cứ mãi du dương để lại dư âm
ngọt ngào trong lòng người sau những nốt thăng cao vút, rộn rã của cuộc đời. Thật khiêm nhường nhà thơ
nguyện được hóa thân thành “nốt trầm xao xuyến” để nhập vào khúc ca tiếng hát của cuộc đời một cách
âm thầm, lặng lẽ, muốn đem tài năng, sức lực nho nhỏ của mình để góp phần cho sự nghiệp xây dựng hòa
bình, đổi mới của đất nước.
Tất cả khát vọng như lắng lại trong tâm hồn nhà thơ như một niềm cảm xúc:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời.”
Mùa xuân là khái niệm trừu tượng chỉ thời gian. Thanh Hải đã cụ thể hình ảnh “nho nhỏ” thể hiện một
tâm hồn bình dị, lặng lẽ cống hiến. Lặng lẽ thôi mà sao đẹp biết bao, dạt dào như sóng triều dâng. Trong
lời tự tình của tác giả làm chúng ta liên tưởng đến những con người trong “Lặng lẽ SaPa” của Nguyễn
Thành Long, người chiến sĩ của Lê Anh Xuân trong “Dáng đứng Việt Nam”:
“Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.”
(Lê Anh Xuân)
Lật tiếp những dòng thơ của Thanh Hải, ta lại liên tưởng đến những chiến sĩ, những cô gái thanh niên
xung phong đã miệt mài, âm thầm cống hiến cả tuổi xuân phơi phới tươi đẹp cho Tổ quốc:
“Em đã lấy tình yêu Tổ quốc thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom.”
(Lâm Thị Mỹ Dạ)
Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại bảo vệ Tổ quốc, cống hiến luôn là khát vọng cháy bỏng ngày đêm
thường trực trong tâm hồn Thanh Hải. Trở về với dòng chảy lịch sử cách đây sáu trăm năm, Nguyễn Trãi
đã khẳng định tấm lòng trung hiếu sắt son với đất nước:
“Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.”
(Thuật hứng XXIV)
Thanh Hải ngay trên giường bệnh trong điều kiện khắc nghiệt vẫn khẳng định khát vọng cống hiến trọn cả
cuộc đời cho Tổ quốc:
“Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
Điệp ngữ “dù là” thể hiện một chân lý, một giá trị sống, cống hiến trọn đời mình. Câu thơ mang âm
hưởng mạnh mẽ, khẳng khái như lời nguyện cầu thành tâm nhất của Thanh Hải trước lúc ra đi. Lời tâm
nguyện ấy thật thủy chung, son sắt vững bền. Ngay trong tuổi xanh tràn đầy sức sống hay khi đã về già,
ngọn lửa nhiệt tình vẫn không bao giờ lịm tắt. Thanh Hải chỉ xin làm một mùa xuân nho nhỏ trong hàng
triệu mùa xuân nho nhỏ khác để được suốt đời góp phần cho “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” (Lê
Anh Xuân)
Khổ thơ cuối đã kết thúc bài thơ trong âm điệu nhẹ nhàng êm ả như giọng hò xứ Huế:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
Vẫn trái tim dào dạt yêu quê hương, Thanh Hải chọn khúc hát giữa mùa xuân. Giai điệu êm ái Nam ai,
Nam bình, thiết tha hiền hòa như con người Việt Nam. Dù ở trên mảnh đất “nước non nghìn dặm” hay ở
bất đâu cũng đẹp, cũng gắn liền với tình cảm con người:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”
(Chế Lan Viên)
Thanh Hải với niềm tin yêu trìu mến quê hương, nhà thơ hết sức khéo léo khi chọn dòng sông, sắc màu,
âm thanh, điệu hát đều gắn chặt với quê hương và dường như nhà thơ muốn ôm trọn tất cả hình ảnh ấy
trước khi về cõi vĩnh hằng. Bằng điệp ngữ “nước non ngàn dặm” kết hợp gieo vần bằng “bình, mình,
tình” đã tạo âm hưởng bài thơ nhẹ nhàng như câu hò xứ Huế cứ ngân dài mãi ra rồi lắng đọng lại trong
lòng chúng ta những cảm xúc chân thành, ru hồn người đọc trên con đò xứ Huế êm ả trôi nhẹ trên sông
Hương rồi khép lại trong ân hưởng rộn ràng, xao động của “nhịp phách tiền” đầy xao xuyến.
Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng mãi như khơi gợi trong lòng chúng ta về một
tình cảm cao đẹp của con người. Chính tình yêu thiên nhiên, khát vọng dâng hiến của Thanh Hải làm xao
xuyến rung động biết bao trái tim người đọc. Bài thơ cứ nhẹ nhàng, thấm thía tự nhiên đi vào lòng người
như một bài học sâu sắc về lẽ sống đẹp, cách ứng xử đầy nhân văn, tấm gương cao thượng trong sáng của
Thanh Hải làm ta trân trọng, khâm phục và tự ngẫm phải sống sao cho xứng đáng với Tổ quốc, Nhân dân.
BÀI LÀM 3:
I – Mở bài:
Mùa xuân từ lâu đã là đề tài vô tận cho các thi sĩ. Nhưng hiếm có bài thơ nào viết về mùa xuân lại
hay và trong hoàn cảnh đặc biệt như “mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, nhà thơ của xứ Huế mộng mơ.
Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác năm 1980, khi tác giả đang nằm trên giường bệnh và chỉ mấy
tuần lễ sau khi hoàn thành bài thơ thì nhà thơ đã qua đời. Đây là một bài thơ hay tiêu biểu cho hồn thơ
Thanh Hải đã thể hiện được “tâm nguyện thật thiết tha, cảm động của nhà thơ Thanh Hải với đất nước,
với cuộc đời.
II – Thân bài:
1. Mùa xuân của thiên nhiên.
a. Cảm hứng xuân phơi phới của Thanh Hải đã dệt nên một bức tranh mùa xuân thiên nhiên
tươi đẹp, hiền hoà, đầy sức sống của xứ Huế mộng mơ.
Mọc giữa dòng sông xanh
…………
Tôi đưa tay tôi hứng
- Xứ Huế đã đi vào trong thi ca của không ít các thi nhân như Hàn Mạc Tử, Tố Hữu… nhưng ở
đây với bài thơ này ta vẫn cảm nhận được phong vị rất riêng của Thanh Hải. Bức tranh xuân ấy hiện lên
rất ít chi tiết nhưng vẫn đẹp, một vẻ đẹp hoàn thiện với đầy đủ sắc màu, âm thanh và đường nét. Có một
dòng sông xanh hiền hoà, mênh mang làm nền cho sắc tím của bông hoa, màu tím của xứ Huế thơ mộng,
của nhớ nhung đã tạo nên cảm giác mát dịu làm sao! Nghệ thuật đảo ngữ càng làm nổi bật vẻ đẹp của
bông hoa. Bông hoa ấy mọc từ giữa dòng sông như tâm điểm của một bức tranh đầy ấn tượng. Bông hoa
ấy như phát sinh, khởi nguồn từ cái sức sống dồi dào, bất tận của dòng sông xanh để không ngừng vươn
lên bất tử. Bức tranh ấy càng sống động hơn bởi âm thanh của tiếng chim chiền chiện quen thuộc của quê
hương miền trung. Tiếng chim ấy hót vang bên trời cao, tiếng hót trong trẻo, ngân nga, rộn ràng có độ lan
tỏa không dứt, làm cho không khí của mùa xuân trở nên náo nức lạ thường.
- Hãy đọc lại khổ thơ đầu và lắng nghe trong đó: có phải là nhạc và thơ đã hoà quyện vào từng chữ, từng
dòng trong cả khổ thơ, đem đến môt giai điệu mùa xuân vui tươi, rạo rực? Nhà thơ lặng ngắm, lắng nghe
với vẻ say mê và tấm lòng tràn đầy một cảm xúc thanh cao trong sáng. Bằng sự cảm nhận tinh tế của một
tâm hồn nghệ sĩ, nhà thơ đã tạo dựng được một hình ảnh tuyệt đẹp, gợi ra sự liên tưởng phong phú cho
người đọc về âm thanh của tiếng chim. Âm thanh mượt mà, trong vắt của tiếng chim thánh thót như
chuỗi ngọc long lanh, đọng lại làm thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm
vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân. Như vậy từ một hình tượng, một sự vật được cảm nhận bằng âm
thanh (thính giác), tác giả đã chuyển đổi biến nó thành một sự vật có thể nhìn được bằng mắt (thị giác)
bởi nó có hình khối, màu sắc rồi lại được như cảm nhận nó bằng da thịt, bằng sự tiếp xúc (xúc giác). Sự
chuyển đổi cảm giác ấy là một sáng tạo nghệ thuật gợi cảm từ con mắt nhìn rất thơ của thi sĩ. Hình ảnh
đưa tay “hứng” xiết bao yêu quý, nâng niu đã thể hiện được sự đồng cảm của tâm hồn nhà thơ trước thiên
nhiên và cuộc đời.
Sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí
tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
+ Cụm từ “giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp
lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể là giọt
mưa xuân đang rơi,… Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân
vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo
rực tình xuân.
+ Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tài hoa, tinh tế qua trí tưởng tượng của nhà
thơ. Thanh Hỉa cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác.
+ Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên
nhiên, đất trời lúc mới vào xuân với cảm xúc say sưa, xốn xang, rạo rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào
lòng tất cả sức sống của mùa xuân, của cuộc đời.
Khổ thơ mở đầu đã mở ra một bức tranh xứ Huế thật đẹp: có hình ảnh, có màu sắc, âm thanh
được họa lên từ những vần thơ có nhạc.
Bài thơ được viết vào tháng 11/1980, khi ấy đang là mua đông giá rét. Như vậy, hình ảnh mùa
xuân được miêu tả ở đây là mùa xuân trong tâm tưởng của nhà thơ. Đối mặt với bệnh tật, thậm
chí phải đối mặt với cả cái chết, vậy mà nhà thơ vẫn hướng đến mùa xuân tươi trẻ, tràn đầy sức
sống, thể hiện một tâm hồn lạc quan yêu đời, một niềm khát khao cuộc sống vô bờ. Đọc những
vần thơ của ông, người đọc trân trọng hơn, yêu hơn một tâm hồn nghệ sĩ, một tình yêu quê
hương, đất nước đến vô ngần.
2. Trong mùa xuân lớn ấy, đất nước và con người cũng mang vẻ đẹp của sức sống vô tận, rộn ràng
bước vào một mùa xuân mới:
Mùa xuân người cầm súng
……
Lộc trải dài nương mạ
- Lộc xuân theo người cầm súng, lộc xuân trải dài nương mạ. Hình ảnh dân tộc Việt Nam kết tụ
lại ở “người cầm súng” và “người ra đồng”. Đây là mùa xuân của con người đang lao động và chiến
đấu, của đất nước vất vả gian lao đang đi lên phía trước. Câu thơ vừa tả thực vừa tượng trưng hàm chứa
nhiều ý nghĩa trong hình ảnh người lính và người nông dân với từ “lộc” nhiều nghĩa. “Lộc” là chồi non,
lá non, nhưng “lộc” còn có nghĩa là mùa xuân, là sức sống, là thành quả hạnh phúc. Người cầm súng
giắt lộc để nguỵ trang như mang theo sức xuân vào trận địa, người ra đồng như gieo mùa xuân trên từng
nương mạ. Những con người lao động chiến đấu ấy đã mang cả mùa xuân ra trận địa của mình để gặt hái
mùa xuân về cho đất nước. Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ láy lại ở đầu
câu cùng với các tính từ “hối hả”, “xôn xao” làm tăng thêm sức xuân phơi phới, mãnh liệt trong mỗi con
người và trong cả cộng đồng rộng lớn là dân tộc. Điều đó làm cho tác giả nhớ đến niềm tự hào lớn lao
của đất nước:
Đất nước bốn nghìn năm
……
Cứ đi lên phía trước”
- Đất nước đang bước vào mùa xuân, từ thiên nhiên đến con người đều hối hả và xôn xao. Mang
tình sông núi, nhà thơ Thanh Hải đã có một cái nhìn sâu sắc và tự hào về chiều dài lịch sử bốn nghìn năm
của đất nước.Đó là truyền thống anh hùng trong đánh giặc, cần cù trong dựng xây, là truyền thống nhân
ái, là khát vọng hòa bình. Mỗi truyền thống ấy đều được xây đắp nên từ mồ hôi, công sức, nước mắt và
thậm chí cả xương máu của biết bao thế hệ con người. Trong quá trình xây dựng và giữ nước, đất nước ta
còn đầy vất vả và gian lao nhưng đất nước Việt Nam vẫn ngời sáng cứ tiến lên phía trước như một vì sao
sáng. Vần thơ so sánh và nhân hoá thể hiện một niềm tin sáng ngời, ngợi ca đất nước tráng lệ, trường tồn.
Ba tiếng “cứ đi lên” đã thể hiện ý chí quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng đất nước giàu
và mạnh.
- Đặt bài thơ vào những năm 80 khi nước ta còn đang phải đương đầu với bao khó khăn, nền kinh tế còn
rất thấp kém thì ta càng trân trọng lòng yêu đời, yêu cuộc sống và niềm tin của nhà thơ Thanh Hải vào
quê hương, đất nước.
3. Xúc cảm trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước, nhà thơ muốn góp một mùa xuân nho
nhỏ của mình để làm nên một mùa xuân lớn, mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước,
mùa xuân của cách mạng:
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Đó là khát vọng sống hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp, dù nhỏ bé, của
mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong
những hình ảnh tự nhiên giầu sức gợi tả, gây xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Ước nguyện được
làm một tiếng chim, một cành hoa để góp vào vườn hoa muôn hương muôn sắc, rộn rã tiếng chim, để
đem lại hương sắc, tô điểm cho mùa xuân thêm tươi đẹp. Nhà thơ nguyện cầu được làm một “nốt trầm
xao xuyến” không ồn ào, không cao điệu mà chỉ âm thầm, lặng lẽ để “nhập”vào khúc ca, tiếng hát của
nhân dân vui mừng đón xuân về. Được tô điểm cho mùa xuân, được góp phần tạo dựng mùa xuân là tác
giả đã nguyện hi sinh, nguyện cống hiến cho sự phồn vinh của đất nước. Một ước mơ nho nhỏ, chân
tình, không cao siêu vĩ đại mà gần gũi quá, khiêm tốn và đáng yêu quá ! Hình ảnh nhuần nhị, tự nhiên,
chân thành, giọng thơ nhè nhẹ, êm ái , ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp kết hợp với cách cấu tứ
lặp lại như vậy đã mang một ý nghĩa mới nhấn mạnh thêm mong ước được sống có ích cho đời, cống
hiến cho đất nước như một lẽ tự nhiên. Điệp từ “ta” như một lời khẳng định, vừa như một tiếng lòng,
như một lời tâm sự nhỏ nhẹ, chân tình. Ước nguyện đó đã được đẩy lên cao thành một lẽ sống cao đẹp,
không chỉ cho riêng nhà thơ mà cho tất cả mọi người, cho thời đại của chúng ta. Đó là lẽ sống cống hiến
cho đời lặng lẽ, khiếm tốn, không kể gì đến tuổi tác:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Thái độ ‘lặng lẽ dâng cho đời” nói lên ý nguyện thật khiêm nhường nhưng hết sức bền bỉ và vô
cùng đáng quý vì đó là những gì tốt đẹp nhất trong cuộc đời. Thật cảm động làm sao trước ao wowcs của
nhà thơ dẫu đã qua tuổi xuân của cuộc đời, vẫn được làm một mùa xuân nhỏ trong cái mùa xuân lớn lao
ấy. Điệp ngữ “dù là” ở đây như một lời tự khẳng định để nhủ với lương tâm sẽ phải kiên trì, thử thách với
thời gian tuổi già, bệnh tật để mãi mãi làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn của quê
hương đất nước. Giọng thơ vẫn nhỏ nhẹ, chân tình nhưng mang sức khái quát lớn. Chính vì vậy, hình ảnh
“mùa xuân nho nhỏ” ở cuối bài như ánh lên, toả sức xuân tâm hồn trong toàn bài thơ.
Những câu thơ cuối cùng mang đậm dấu ấn của những làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế. Nó như
tiếng tâm tình, thủ thỉ, như tiếng lòng sâu lắng thiết tha, nồng đậm nghĩa tình:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam Ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm
Nhịp phách tiền đất Huế
Cùng với ý nguyện ấy, khúc Nam Ai, Nam Bình ở khổ thơ kết nói lên niềm tin yêu tha thiết với quê
hương, đất nước và cuộc đời. Đặt trong hoàn cảnh sáng tác bài thơ, tình cảm đó càng đáng trân trọng,
càng cảm động biết bao !
III. Kết bài:
“Mùa xuân nho nhỏ” là một bài thơ có tứ thơ độc đáo, cảm hứng xuân phơi phới, hình ảnh sáng tạo,
nhạc điệu vui tươi tha thiết. Đọc “mùa xuân nho nhỏ”, trái tim ta dường như xao xuyến, một cảm xúc
thanh cao, trong sáng từ từ dâng ngập hồn ta. Bài thơ đem đến cho chúng ta bao cảm xúc đẹp về mùa
xuân, gợi cho ta suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp của một tâm hồn trong sáng khiến ta cảm phục và tin
yêu. Còn gì đẹp hơn mùa xuân ? Có tình yêu nào rộng lớn hơn tình yêu quê hương đất nước ? Thấm
nhuần tâm tư, ước nguyện của của nhà thơ, chúng ta càng thêm tin yêu vào mùa xuân của đất nước và
“mùa xuân nho nhỏ” trong lòng mình. Chúng ta muốn cùng con chim chiền chiện hót lên khúc ca ngọt
ngào gọi xuân về, muốn học thành tài để hiến dâng cho đất nước, góp phần công sức nhỏ bé để tô điểm
cho mùa xuân cuộc đời thêm đẹp.
ĐỀ 2: Nhà thơ Pháp Andre Chanien cho rằng: "Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái tim mới
làm nên thi sĩ". Em hiểu quan niệm trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ quan niệm đó qua bài thơ
"Mùa xuân nho nhỏ" của nhà thơ Thanh Hải (Ngữ Văn 9, tập hai, NXB Giào dục).
BÀI LÀM:
Thơ ca từ lâu đã được xem là một món quà quý báu dành cho đời sống tinh thần của mỗi người. Dù dưới
hình thức nào thì nó vẫn là một tấm gương phản ánh một thế giới khách quan. Tác phẩm nghệ thuật, văn
học chân chính là nơi để các tác giả gửi gắm tâm sự, tình cảm hay khát vọng sâu xa của mình thông qua
những vần thơ, con chữ. Và nhà thơ người pháp Andre Chenien đã nhấn mạnh vai trò của nghệ thuật và
tình cảm cảm xúc trong sáng tạo văn chương: “Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái tim mới làm
nên thi sĩ”. Nghệ thuật trong thơ ca chính là sự sáng tạo, nó bắt nguồn từ chất liệu trong cuộc sống cũng
như cảm xúc của các nhà thơ. Điều đó ta nhận thấy rõ qua tác phẩm “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
Chúng ta đều biết, văn học không phải chỉ là bức tranh về đời sống mà còn là tiếng nói của tình cảm con
người. Văn học nâng đỡ, bồi đắp cái thiện của con người trong cuộc sống, chứ không chống lại con
người. Giàu có mà lòng người không vui thì đây đó vẫn còn lắm rối ren cần được cởi nút. Và ở đó, tư duy
cho sự phát triển con người mới là cứu cánh để văn học thực sự có ý nghĩa trong cuộc sống. Cuộc sống là
muôn hình vạn trạng, có những hạnh phúc, sung sướng, nhưng rồi đôi lúc cũng có đầy sóng gió, nhọc
nhằn thì thơ ca cũng thế, thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống mà cuộc sống bao giờ cũng là cảm hứng mênh
mông bất tận của những tâm hồn thi sĩ. Một trái tim yêu thương, gần gũi bao giờ cũng là một tâm hồn
đẹp, một lí tưởng cao cả làm nên cái hồn cho thơ. Nếu chỉ là những câu chữ khô khan cằn cỗi thì đó chỉ
mãi là những ngôn ngữ. Còn nghệ thuật ngôn ngữ nó phải xuất phát từ trái tim đó mới là yếu tạo nên
dựng nên sự thành công của một tác phẩm. “Nghệ thuật” và “Trái tim” như lời khẳng định của Andre
Chenien với tất cả nhân loại rằng đối với thơ ca nếu thiếu một trong hai yếu tố này thì những tác phẩm sẽ
không bao giờ có cái hồn trong thơ, vì giá trị của nghệ thuật và trái tim của người nghệ sĩ chính là cốt lõi
làm nên một tác phẩm nghệ thuật. Một người nghệ sĩ thực thụ phải là người có cảm xúc, biết thấu hiểu lẽ
đời, yêu thương trân quý những con người và những gì xung quanh trong cuộc sống.
Với nhà thơ Thanh Hải giữa giây phút giao thoa của đất trời đón mùa xuân, và trong thời khắc giữa cái
sống và cái chết cận kề, tiếng thơ của ông vang lên như lời tự bạch chân thành với những tâm niệm đầy
tính nhân văn về lẽ sống và đời thơ và thông điệp: hãy hiến dâng cho Tổ quốc. Thanh Hải đã vĩnh viễn ra
đi ngay sau đó nhưng ông đã kịp dâng đời “Một mùa xuân nho nhỏ”.
Bài thơ nhanh chóng chinh phục người đọc trước hết bởi âm hưởng, ngân nga mà sâu lắng, bởi năng
lượng cảm xúc dồi dào truyền tải và lan tỏa. Chính cái giọng điệu dịu ngọt, chan chứa tình yêu đời, yêu
cuộc sống đã tạo nên giá trị nghệ thuật đặc sắc và góp phần làm nổi bật lên cấu tứ, hình ảnh, hình tượng
và ngôn từ của bài thơ.
Ta dễ dàng nhận thấy bài thơ có cấu tứ “lộ thiên” theo chiều không gian mở. Mạch thơ đi theo trình tự:
Xuân thiên nhiên – Xuân con người – Xuân đất nước – Xuân thi sĩ và cuối cùng là Xuân đất Huế quê
hương. Đây là dạng cấu tứ thông thường. Nếu không có những thành công ở những yếu tố nghệ thuật
khác loại cấu tứ này, dễ sa vào đơn giản, dễ dãi. Nhưng nhờ những hình ảnh độc đáo, bất ngờ, nhạc điệu,
trạng thái xuất thần của cảm xúc đã khiến bài thơ trôi chảy một cách tự nhiên như một dòng sông đầy ắp
hiền hoà, ào ạt reo ca.
Mùa xuân được miêu tả bằng những hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím biếc cùng với tiếng hót trong
trẻo của chim chiền chiện. Cảnh mùa xuân ấy gợi ra một không gian tươi mát, dịu dàng và đằm thắm.
Cảnh vật mùa xuân đã làm tác giả dâng lên một niềm cảm xúc. Tiếng ơi trong câu thơ là hô ngữ, là từ gợi
cảm biểu lộ sự thân thiết, yêu thương. Hai tiếng hót chi là cách, nói dịu ngọt của người dân xứ Huế đã
làm tăng tính biểu cảm của vần thơ. Tác giả đã mượn tiếng chim hót để biểu lộ cảm xúc của mình về bức
tranh mùa xuân. Tác giả không chỉ biểu lộ sự trân trọng, nâng niu những cái đẹp trong mùa xuân ấy.
Tiếng chim hồn nhiên, trong trẻo mà da diết phía bầu trời cao vút lại như kết đọng thành những giọt âm
thanh rơi xuống hồn người, chạm vào cõi sâu lặng, khuấy lên bao nỗi niềm, dìu nhà thơ vào cõi mộng:
“Tôi đưa tay tôi hứng”. Nhà thơ hứng lấy tiếng chim , (có thể hình dung) với một sự đón nhận, nâng niu,
trân quí và cất giữ, như sợ rằng, nếu không làm như vậy cái âm thanh ngọt lành kia sẽ tắt vào thinh vắng.
Đây là một chi tiết có sức tỏa sáng trong bài thơ. Và nó chỉ có thể được phát ra từ cảm xúc đặc biệt, hoàn
cảnh đặc biệt của một con người nhiều trải nghiệm, hiểu rõ đời mình chỉ còn là những khoảnh khắc ngắn
ngủi.
Mùa xuân thiên nhiên cũng là nguyên cớ tạo nên mùa xuân con người.
Hình ảnh lộc non là biểu tượng cho sức sống mới vươn lên. Lộc của lính là cành lá ngụy trang. Những
cành lá ngụy trang biến thành lộc đầu mùa được mang đến theo từng bước chân người lính. Lộc mà người
chiến sĩ mang đến cho chúng ta là xương máu mà các anh đổ xuống, là công sức bảo vệ mùa xuân thanh
bình của dân tộc, gieo niềm hạnh phúc đến mọi nhà. Người lính biểu trưng cho những con người bảo vệ
Tổ quốc và người nông dân là những con người tiêu biểu trong công cuộc xây dựng đất nước. Bằng hình
thức sóng đôi hài hòa, âm hưởng câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối. Từ bàn tay người nông dân “lộc trải
dài nương mạ”. Bàn tay của “người ra đồng” tô điểm cho mùa xuân đất nước. Đôi bàn tay kì diệu của
những người họa sĩ ấy đã vẽ nên những mảng xanh của niềm tin, hi vọng lên đất nước. Cũng như người
cầm súng, lộc của người ra đồng mang đến cũng đáng trân trọng biết bao. Lộc mà người nông dân tặng là
mồ hôi, là bát cơm gạo, là cơm no áo ấm. Người cầm súng, người ra đồng là hình ảnh rất tiêu biểu cho
những con người đóng góp, cống hiến cả thân mình để làm nên mùa xuân Tổ quốc.
Theo chiều không gian mở, cảm xúc của nhà thơ được nâng lên ở sự suy ngẫm về mùa xuân đất nước:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Khái quát về đất nước Việt Nam vất vả, gian lao, đau thương, ngời sáng là điểm gặp gỡ của rất nhiều nhà
thơ: Nguyễn Đình Thi từng viết: “Anh yêu em như yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô
ngần”… Vậy mà cách nói giản dị hình ảnh quen thuộc trong thơ Thanh Hải vẫn “chạm” vào cái phần
thiêng liêng trong sâu thẳm tâm hồn con người – tình yêu Tổ quốc. Ở đây số phận của đất nước, dân tộc
đã hàm chứa số phận của công dân. Mỗi người là một phần thân thể của đất nước. Và đất nước dù trong
bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn “như vì sao đi lên phía trước”, vẫn kiên cường vượt lên tăm tối, nô lệ, bần cùng
mà toả sáng. Cảm hứng ngợi ca và khí thế hào sảng của câu thơ đã xác định vị trí của nhà thơ trong cuộc
hành quân vĩ đại của dân tộc. Vị trí một công dân đất nước, một người lính trong đội ngũ. Niềm vinh dự
tự hào như chất men say thôi thúc thơ ông cất lên tiếng hát:
Người đọc bất ngờ bắt gặp một mùa xuân thi sĩ. Bằng điệp khúc “Ta làm”, “Ta nhập”… bài thơ đã tấu
nên khúc ca chan chứa nhiệt huyết tình yêu cuộc sống và khát vọng dâng hiến mùa xuân cho cuộc đời và
cho thi ca.
Nhà thơ – người nghệ sĩ ngôn từ đã nhận lấy trách nhiệm của mình với nhân dân đất nước: Làm một con
chim hót trong muôn loài chim, làm một cành hoa trong rừng hoa muôn sắc. Làm “một nốt trầm” trong
bản hoà ca muôn điệu. Làm “một mùa xuân nho nhỏ” trong mùa xuân rực rỡ và bất tận của đất trời.
Lời lẽ bình dị, nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng có sức khái quát cao về một lẽ sống chân chính, một quan
điểm nhân văn về thơ ca và người nghệ sĩ.
Trở về với đất mẹ quê hương là quy luật tình cảm. Bởi sau những buồn vui, thành bại, quê hương vẫn là
nơi đón nhận, neo giữ những gì còn lại của đời người. Nhà thơ Thanh Hải đã từng viết nhiều về đất Huế
quê hương, và khúc ca cuối cùng của ông cũng là khúc ca dành cho Huế:
Vẫn trái tim dào dạt yêu quê hương, Thanh Hải chọn khúc hát giữa mùa xuân. Giai điệu êm ái Nam ai,
Nam bình, thiết tha hiền hòa như con người Việt Nam. Dù ở trên mảnh đất “nước non ngàn dặm” hay ở
bất đâu cũng đẹp, cũng gắn liền với tình cảm con người:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”
Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng mãi như khơi gợi trong lòng chúng ta về một
tình cảm cao đẹp của con người. Chính tình yêu thiên nhiên, khát vọng dâng hiến của Thanh Hải làm xao
xuyến rung động biết bao trái tim người đọc. Bài thơ cứ nhẹ nhàng, thấm thía tự nhiên đi vào lòng người
như một bài học sâu sắc về lẽ sống đẹp, cách ứng xử đầy nhân văn, tấm gương cao thượng trong sáng của
Thanh Hải làm ta trân trọng, khâm phục và tự ngẫm phải sống sao cho xứng đáng với Tổ quốc, Nhân dân.
Có thể nói những ý kiến của nhà thơ người pháp Andre Chenien đến nay vẫn có giá trị không chỉ về mặt
lí luận mà cả về sáng tác. Đó là những ý kiến sâu sắc đóng góp cho nền thi ca Việt Nam. Nó có giá trị như
kim chỉ nam giúp các nhà thơ của nhiều thế hệ không đi lệch hướng như con tàu không đi chệch đường
ray của mình. Khi ta đọc mỗi tác phẩm văn học nào thì cũng phải mở lòng để cảm nhận, để thấu hiểu cho
những giá trị thực thụ của chúng. Nếu cứ mãi thờ ơ, vô cảm mà không dùng trái tim để hiểu từng từ, từng
câu thì ta sẽ không bao giờ nhận ra những thông điệp, tình cảm, tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong mỗi
tác phẩm. Nhờ có nghệ thuật mà các tác giả mới nói lên được tiếng lòng, lời giãi bày hay tâm tư của mình
một cách hoàn mĩ và lâu bền nhất.
Sê-khốp từng nói “Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp, và cái nhân đạo
của lòng người”. Thơ ca là như thế, nó giúp người thi sĩ thỏa mãn cái đam mê và đem lại cho đời những ý
nghĩa, lẽ đời tinh tế. Chính điều đó thơ ca như một thước đó chuẩn mực về những cái đẹp những lí tưởng
sống cũng như giá trị nhân đạo. Thơ ca chính là nơi nuôi dưỡng tâm hồn, là nơi chữa lành những vết
thương trong cuộc sống, là nơi mà ở đó luôn có tình người và tình cảm nỗi niềm của mỗi tác phẩm.
Chúng ta có một trái tim nhưng nó không chỉ để duy trì sự sống mà hãy học cách “tôi hãy tôn trọng một
trái tim một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ” (Dostoevski). Đó mới chính là một trái
tim yêu thương và đầy lòng trắc ẩn.