Professional Documents
Culture Documents
- Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống
với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là một mùa xuân nho
nhỏ góp vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước
+ Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người
nông dân – “người ra đồng – những con người là trung tâm của bức tranh đất nước
vào xuân, được ca ngợi, tôn vinh với sự cống hiến, thầm lặng.
- “Lộc”
+ Những con người ấy đã mang tới niềm hi vọng mới cho đất nước đang trên đà đổi
thay, phát triển, mang đến những “lộc” non tươi mới, căng tràn sức sống.
+ “Lộc” trước hết là hình ảnh tả thực, là nhành non chồi biếc; là cành lá ngụy trang
che mắt quân thù trên lưng những người lính; là những mầm mạ non, phủ xanh những
mảnh đất còn găm đầy bom đạn.
+ “Lộc” còn mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng.
+/ Người lính chiến đấu mang về “lộc” là cuộc sống bình yên, không tiếng
súng; người nông dân lao động một nắng hai sương mang về “lộc” là cuộc sống ấm
no, là vụ mùa bội thu.
+/ Đặc biệt hơn cả, “lộc” là ẩn dụ cho sức sống, cho tuổi trẻ đầy những hoài
bão và khát vọng cống hiến của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi;
của người nông dân cần cù, hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm
nay và niềm tin, hi vọng ngày mai.
- Không khí đất nước:
+ Từ cảm hứng về hình ảnh con người vào xuân, nhà thơ đã khái quát được không khí
của cả một thời đại dân tộc:
Tất cả như hồi hả
Tất cả như xôn xao
+ Điệp ngữ “tất cả” kết hợp các từ láy biểu cảm “hối hả”, “xôn xao” cùng nhịp thơ
nhanh đã bộc lộ được tâm trạng náo nức, rộn ràng, đã diễn tả được nhịp điệu khẩn
trương, tất bật của con người Việt Nam trong giai đoạn mới.
+ Không chỉ 1 cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đều đang hối hả, khẩn trương sản
xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên
nhiên, của đất nước.
-> Hẳn Thanh Hải đã rất lạc quan, say mê và tin yêu khi viết nên những vần thơ này.
* Liên hệ hoàn cảnh đất nước (Giống khổ 3) – Nếu phân tích riêng khổ 2)
b. Lịch sử đất nước (Khổ 3)
* Chuyển ý: Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân,
nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốn nghìn năm dân
tộc: đất nước trong quá khứ, hiện tại và tương lai
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
* Phân tích:
- Đất nước trong quá khứ
+ 4000 năm: Cụm từ 4000 năm giản dị mà khái quát đc chiều dài lịch sử của
cả dân tộc, đã trải qua biết bao thăng trầm.
+ Nghệ thuật nhân hóa:Nghệ thuật nhân hóa: đất nước “vất vả” và “gian
lao”, đã làm nổi bật sự trường tồn của giang sơn gấm vóc, được đánh đổi bằng bao mồ
hôi nước mắt và cả xương máu của các thế hệ - “vất vả” trong lao động sản xuất để
dựng nước; “gian lao” trong kháng chiến để giữ nước.
- Đất nước trong tương lai:
+ So sánh:
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 5
+/ Tự hào về quá khứ vẻ vang của dân tộc, Thanh Hải càng thêm tin
tưởng vào tương lai của đất nước qua phép tu từ so sánh vô cùng đặc sắc:
“Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”.
+/ Sao là nguồn sáng vĩnh hằng, lấp lánh, bất diệt trong không gian, thời
gian. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đất nước trường tồn, tráng lệ, đang
hướng về một tương lai tươi sáng.
+/ Càng trong đêm tối, vì sao càng tỏa sáng; cũng giống như đất nước,
càng trong gian lao, vất vả, lại càng ngời lên những phẩm chất tốt đẹp.
+ Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần kết hợp với phụ từ “cứ” thể hiện
được khí phách của dân tộc: không bao giờ lùi bước trước khó khăn, thử thách; luôn
vững vàng tiến về phía trước, không gì có thể ngăn cản được.
+ Dấu chấm lửng khép lại khổ thơ tạo vang âm; thể hiện khí thế của con người
mùa xuân; niềm náo nức, phấn chấn của cả đất nước như dâng tràn.
* Liên hệ hoàn cảnh sáng tác: Đặt vào hoàn cảnh sáng tác của bài thơ là khi đất nước
còn nhiều khó khăn thì những vần thơ của Thanh Hải chính là niềm tin bất diệt vào
tương lai rạng ngời của dân tộc Việt Nam.
3. Lời ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ. (khổ 4, 5)
a. Những hóa thân của nhà thơ (khổ 4)
* Nêu ý: Từ những cảm xúc về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự
nhiên sang bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của mình về lẽ sống, về ý nghĩa giá trị
của cuộc đời mỗi con người:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
* Phân tích
- Điệp từ:
+ Điệp từ “ta” được lặp lại ba lần đứng đầu mỗi câu thơ, kết hợp với động từ
“làm”-“nhập”:
+/ đã nhấn mạnh được những ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ;
+/ đã thể hiện được tâm thế chủ động, tự nguyện được hoá thân để sống đẹp,
sống có ích.
- Hình ảnh: con chim, cành hoa, nốt trầm:
+ Ước muốn của nhà thơ thật giản dị, chân thành, xúc động qua những hình ảnh tự
nhiên: con chim, một cành hoa, một nốt trầm.
+/ Còn gì đẹp hơn khi làm một cành hoa đem sắc hương tô điểm cho mùa
xuân đất mẹ!
+/ Còn gì vui hơn khi được làm con chim nhỏ cất tiếng hót rộn rã làm vui cho
đời!
+/ Không ồn ào, cao giọng, nhà thơ chỉ muốn làm “một nốt trầm” nhưng phải
là “một nốt trầm xao xuyến” để góp vào bản hoà ca chung.
Nghĩa là nhà thơ muốn đem phần nhỏ bé của riêng mình để góp vào công
cuộc đổi mới và đi lên của đất nước.
+ Các hình ảnh bông hoa, tiếng chim đã xuất hiện trong cảm xúc của thi nhân về mùa
xuân thiên nhiên tươi đẹp, giờ được lặp lại:
+/ như một lời khẳng định: mong muốn được sống có ích, sống làm đẹp cho
đời là 1 lẽ tự nhiên.
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 6
+/ Con chim, cành hoa làm nên mùa xuân của thiên nhiên và nhà thơ hóa thân
thành con chim, cành hoa là để làm nên mùa xuân của cuộc đời, để dâng hiến cho
mùa xuân đất nước.
+/ Và cũng chính nhờ những hình ảnh thiên nhiên giản dị, tươi đẹp này, ước
nguyện của TH không bị rơi vào triết lí khô khan, mà trở nên đằm thắm, thiết tha và
vô cùng sâu sắc.
- Chuyển từ “tôi” sang “ta”
+ Cái “tôi” của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyển hoá thành cái “ta”. Cái
“tôi” là kín đáo, cá nhân với những cảm xúc riêng; còn cái “ta” lại mang tính cộng
đồng, khái quát, mang sắc thái thiêng liêng, trang trọng của một lời nguyện ước.
Trong “ta” đã có “tôi”. ƯỚc mơ cống hiến của nhà thơ cũng là của chung tất cả mọi
người.
-> Giai điệu ngọt ngào êm ái; những hình ảnh thơ giản dị, tự nhiên đã thể hiện một
cách xúc động những tâm niệm về lẽ sống, về ý nghĩa và giá trị cuộc đời của Thanh
Hải.
* Liên hệ hoàn cảnh sáng tác (Giống khổ 5)
b. Khát vọng cống hiến của nhà thơ (khổ 5)
* Chuyển ý: Lẽ sống của Thanh Hải còn được thể hiện trong những vần thơ sâu lắng:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
* Phân tích:
- “Mùa xuân nho nhỏ
+ “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, thể hiện một khát vọng sống cao
đẹp.
+ Nhà thơ mong muốn mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy đem tất cả những gì tốt
đẹp, tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước.
- Đảo ngữ:
+ Phép đảo ngữ, đưa từ “lặng lẽ” lên đầu câu, nhằm nhấn mạnh khát vọng cống
hiến chân thành của nhà thơ.
+ Nhà thơ muốn góp công sức của mình trong công cuộc xây dựng đất nước nhưng
chỉ với một thái độ hết sức khiêm tốn, không khoa trương mà chỉ “lặng lẽ”, âm
thầm nhưng lại là toàn tâm toàn ý, thiết tha, trân trọng.
-Điệp ngữ, hoán dụ:
(Mở rộng: Biết lặng lẽ dâng đời, biết sống vì mọi người cũng là cách sống mà nhà
thơ Tố Hữu đãv iết:
“Nếu là con chim chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh,
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”.
Nhớ khi xưa, Ức Trai tiên sinh đã từng tâm niệm:
“Bui một tấc lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.
Còn bây giờ, Thanh Hải – nhà thơ xứ Huế trước khi về với thế giới “người hiền”
cũng đã ước nguyện: “Lặng lẽ dâng cho đời/Dù là tuổi hai mươi/Dù là khi tóc bạc”.
Lời ước nguyện thật thuỷ chung, son sắt.)
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 7
+ Sử dụng điệp ngữ “dù là” nhắc lại hai lần với các hình ảnh hoán dụ “tuổi 20”,
“khi tóc bạc”, câu thơ tựa như một lời thề, một lời tâm niệm thiêng liêng. Nhà thơ tự
dặn mình đinh ninh: dẫu có ở giai đoạn nào của cuộc đời, dù là tuổi hai mươi tràn đầy
sức trẻ, hay khi đã già yếu, bệnh tật thì vẫn phải sống có ích cho đời, vẫn bền bỉ hiến
dâng, sống làm đẹp cho đất nước.
-> Đây là một vấn đề nhân sinh quan nhưng đã được chuyển tải bằng những hình ảnh
thơ sáng đẹp, bằng giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ, thiết tha. Vì vậy, mà sức lan tỏa của
nó thật lớn.
* Liên hệ hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết vào thời gian cuối đời, trước khi nhà
thơ đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng trong từng câu chữ không hề gợi chút băn khoăn về
bệnh tật, về những suy nghĩ riêng tư cho bản thân. Chỉ “lặng lẽ” mà cháy bỏng một
nỗi khát khao được dâng hiến những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình cho đất nước.
Đây không phải là câu khẩu hiệu của một thanh niên vào đời mà là lời tâm niệm của
một con người đã từng trải qua hai cuộc chiến tranh, đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời
và sự nghiệp của mình cho cách mạng. Điều đó càng làm tăng thêm giá trị tư tưởng
của bài thơ.
4. Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
* Nêu ý: Khổ 6 MXNN là tiếng hát yêu thương của TH dành cho quê hương xứ Huế.
* Phân tích:
- Mùa xuân:
+ Nếu những khổ thơ trên là cảm xúc say sưa của nhà thơ về mùa xuân thiên nhiên, là
suy ngẫm cảm động về mùa xuân đất nước và sự hiến dâng của cuộc đời mỗi người thì
kết đọng lại là mùa xuân xứ Huế thân thương.
+ Như vậy, mùa xuân tươi đẹp của đất nước, của cuộc đời mỗi người đã là tiền đề
khơi dậy và đánh thức cảm xúc của thi nhân.
- Ta xin hát:
+ Dấu gạch ngang trong câu thơ mở đầu như một nốt lặng của dòng cảm xúc với
cụm từ “ta xin hát” đã diễn tả niềm khát khao, bồi hồi của thi nhân với quê hương,
xứ sở.
- Nam ai, Nam bình:
+ Đó là mong muốn được cất lên tiếng hát thiết tha của làn điệu Nam ai, Nam bình –
những giai điệu quen thuộc của xứ Huế.
+ Điệu Nam ai buồn thương cùng với điệu Nam bình dịu dàng, trìu mến hòa quyện,
nâng đỡ nhau, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của con người Huê mộng mơ, tinh tế, sâu sắc,
nhạy cảm.
- Nhịp phách tiền: Tiếng hát đằm thắm, hiền hòa của làn điệu dân ca ấy xen với tiếng
phách giòn giã tươi vui tạo nên âm hưởng sâu lắng cho khúc ca xuân.
- Nước non…tình:
+ Lời ca vang vọng, gợi mở ra cái “tình” nhỏ bé trong cái “ngàn dặm” rộng lớn, mênh
mông.
+ Điệp ngữ “nước non ngàn dặm” không chỉ tạo nhạc tính cho lời thơ mà còn khơi
gợi hình ảnh quê hương đất nước trải dài, chứa chan tình yêu thương; là ngàn dặm
tình, ngàn dặm mình, mênh mông nhưng vẫn gần gũi, ấm áp.
+ Cách gieo vần “bình – mình – tình” với 3 thanh bằng khiến câu thơ nhẹ nhàng,
ngân nga, làm cho khúc ca du dương, lan tỏa. Chữ tình và chữ mình hài hòa, nồng
thắm; hòa quyện giữa cá nhân và cộng đồng, giữa Huế và cả nước.
+ Đến đây, người đọc như có thể hình dung hình ảnh Thanh Hải đang say sưa cầm đàn
gõ phách hát vang bài ca mùa xuân, bài ca cuộc sống.
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 8
- Huế:
+ Bài thơ khơi lên là dòng sông, là tiếng chim hót vang trời xứ Huê; kết thúc lại là
nước non và tiếng hát vui tươi, hòa quyện, vang xa khắp ngàn dặm quê hương. Tiếng
hát ấy cũng tựa như một lời giã biệt của người con quê hương trước khi về với cát bụi.
+ Chữ Huế khép lại bài thơ là cảm xúc về cội của Thanh Hải. Cả bài thơ chỉ có 1 chữ
Huế nhưng chất Huế như thấm đượm, lan tỏa. Đó là bởi tình yêu sâu nặng, tha thiết
của người con xứ sở đã gửi gắm vào đây.
5. Khái quát mở rộng, nâng cao
- Mùa xuân vốn làn nguồn cảm hứng bất tận của thi ca muôn đời. Chúng ta đã từng
ngây ngất trước một “mùa xuân xanh” của thi sĩ chân quê nguyễn Bính; đắm say trước
khúc ca “mùa xuân chín” dạt dào hương sắc của Hàn Mặc Tử, hay “xuân hồng” của
hoàng tử thơ tình “Xuân Diệu...Mùa xuân trong thơ của các thi nhân đó đều là hiện
diện của thiên nhiên tràn đầy sức sống, và của lòng người rạo rực tình yêu. Đối với
“mùa xuân nho nhỏ” của TH, người đọc như được lắng lòng mình lại trong những xúc
cảm mới mẻ - mùa xuân là mùa của nguyện ước hiến dâng, của khát vọng, 1 lẽ sống
cao đẹp, 1 ý thức khiêm nhường.
- Với ca từ giản dị, nhịp thơ mang âm hưởng da diết, tha thiết, MXNN là tiếng lòng
của TH, cũng là của cả dân tộc. Khát vọng cháy bỏng được hiến dâng của nhà thơ thể
hiện một tình yêu quê hương tha thiết. Khát vọng đó càng đáng quí, đáng trân trọng
hơn bởi đó là của con người sắp từ giã cõi đời. Ta hiểu rằng, sự cống hiến không có
giới hạn cho tuổi tác, thời gian, chỉ cần một trái tim luôn ấm nóng và biết sống vì
người khác.
=> MXNN của Thanh Hải đã hòa vào mùa xuân vĩnh cửu, trường tồn của dân tộc,
sống mãi trong trái tim của mọi người Việt Nam. Nó chính là “tiếng hót con thiên
nga trước lúc từ giã cuộc đời” của thi nhân.
Bài 15
VIẾNG LĂNG BÁC
(Viễn Phương)
I. Khái quát
1. Tác giả
- Phan Thanh Viễn (1928 – 2005)
- Cuộc đời: ông trải qua 2 cuộc kháng hiến với bao thăng trầm vât vả và cũng không
ngừng vươn lên để bừng sáng trên văn đàn ngay từ những năm tháng chiến tranh bi
hùng.
- Sự nghiệp:
+ Đề tài Chủ yếu viết về quê hương, đất nước.
+ Phong cách: Thơ Viễn Phương nền nãn, giọng thơ giàu tình cảm, nhỏ nhẹ.
-> Là nhà thơ của một thời hoa lửa và thơ ông tựa như hương quỳnh vẫn mãi lay
động trái tim người yêu thơ Việt.
- “Sống: giữa đất trời giông bão
Chết: long lanh 1 ánh sao buồn”.
2. Tác phẩm
a/ Hoàn cảnh ra đời:
- Tháng 4/1976
- Hoàn cảnh đất nước:
+ Khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, Bắc – Nam đã thống
nhất.
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 9
+ Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh được hoàn thành và khánh thành đón khách
thập phương về thăm viếng Bác.
- Hoàn cảnh tác giả:
+ Vào dịp ấy, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào viếng lăng Bác.
+ Những cảm xúc mãnh liệt từ cuộc viếng lăng đó đã thăng hoa thành cảm
hứng nghệ thuật, kết tụ thành thi phẩm xuất sắc của Viễn Phương.
- Xuất xứ: Bài thơ rút từ tập “Như mây mùa xuân” xuất bản năm 1978.
b. Mạch cảm xúc của bài thơ
* Cảm hứng bao trùm:
- Bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha
lẫn nỗi xót thương của nhà thơ khi từ miền Nam ra viếng lăng Bác.
- Cảm hứng ấy đã chi phối giọng điệu của bài thơ: thành kính, nghiêm trang phù hợp
với không khí thiêng liêng ở lăng, nơi vị lãnh tụ yên giấc ngàn thu. Giọng điệu ấy pha
lẫn giọng suy tư, trầm lắng, đau xót, tự hào
* Mạch vận động cảm xúc của bài đi theo trình tự không gian, thời gian của hành
trình vào lăng viếng Bác.
- Khổ 1: Cảm xúc khi đứng trước lăng
- Khổ 2: Cảm xúc khi hòa cùng dòng người vào lăng viếng Bác
- Khổ 3: Cảm xúc vào lăng, đứng trước di hài Bác.
- Khổ 4: cảm xúc khi rời lăng trở về miền Nam trong niềm thương nhớ thiết tha
c. Thể thơ: Tự do
d. Chủ đề: Cảm xúc thành kính, lòng tự hào, biết ơn sâu sắc của nhà thơ và của mọi
người đối với bác. Đồng thời thể hiện được tình yêu, lòng thủy chung với quê hương,
đất nước.
e. Đề tài: Lãnh tụ
II. Phân tích
1. Khổ 1: Cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng.
* Khái quát: Những dòng cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi được lần đầu đến thăm
lăng Bác: một chút tự hào, xen lẫn vui sướng, xúc động khi sắp đc kề cận bên Người
cha thân yêu của dân tộc
a. Câu đầu: Lời thông báo: “Con ở Miền Nam ra thăm lăng Bác”
- Câu thơ đầu tiên thật ngắn gọn, giản dị, như một lời thông báo nhưng lại gợi ra tâm
trạng xúc động của một người con miền Nam sau bao năm xa cách, mong mỏi, giờ
mới ra viếng Bác.
- “Con” - Cách xưng hô chứa chan cảm xúc
+ Nhà thơ xưng “con” và gọi “Bác” - một cách gọi chan chứa cảm xúc thể hiện
tình cảm vừa thành kính, vừa gần gũi, thân thương.
+ Đối với mọi con dân đất Việt, B gần gũi, thân thiết như một vị Cha già muôn
vàn kính yêu: “Người là Cha, là Bác, là Anh” (Tố Hữu). Sau bao nhiêu năm mong
mỏi xa cách, nỗi nhớ niềm thương ấp ủ bấy lâu giờ dâng trào thổn thức, đầy xúc động.
- “Miền Nam”: Viễn Phương nhắc đến địa danh “miền Nam”– MN của nỗi đau chia
cắt, MN đi trước về sau, gian khổ mà rất đỗi kiên cường. Miền Nam luôn ấp ủ trong
trái tim Bác một nỗi niềm đau đáu: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”.
-> Vì vậy, Tiếng “con” vang lên mở đầu bài thơ “Viếng lăng Bác” thật xúc động, gần
gũi xiết bao. Đó chính là sự trở về thăm người cha vĩ đại của một người con đất
phương Nam thân yêu sau bao lâu xa cách ngàn trùng.
- “Thăm”: Tác giả sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”
+ ko chỉ là cách nói giảm nói tránh để vợi bớt cảm giác đau thương, xót xa
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 10
+ mà cũng là sự khẳng định sức sống bất diệt của BH – Ng sống mãi trong
lòng MN, trái tim VN, để mọi ng tới thăm Ng – như thăm 1 ng Cha, chứ không phải
viếng B – 1 ng đã mất. Tuy nhiên, nỗi đau giấu kín mà vẫn có gì thật ngậm ngùi xót
xa.
b. 3 câu sau: Hình ảnh hàng tre
- Ấn tượng đậm nét đầu tiên của tác giả về cảnh quan nơi Bác nghỉ là hình ảnh hàng
tre.
- Trước hết, đó là hình ảnh tả thực: "Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát". Nhà
thơ từng kể lại: “Sáng hôm ấy mưa phùn, Hà Nội lây phây trong gió rét, tôi được nối
vào dòng người vào lăng Bác. Sương toả mênh mông, những hàng tre xanh sẫm… Tất
cả đều thiêng liêng.”. Viễn Phương đã khắc họa hình ảnh những hàng tre mờ ảo, bát
ngát trong làn sương buổi sớm, gợi không gian rộng, thoáng, êm đềm, mang nét
thân thuộc của làng quê.
- Từ hình ảnh tả thực, Viễn Phương đã đưa đến một hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa đẹp:
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
+ Cụm từ “đứng thẳng hàng” gợi dáng tre đứng thẳng, đẹp, đầy kiêu hãnh.
Cây tre gầy guộc, bình dị, mộc mạc, chân quê ấy lại tiềm tàng một sức sống dai dẳng
bên trong, vượt lên trên mọi “bão táp, mưa sa”.
+ Thành ngữ "bão táp mưa sa" cho ta cảm nhận sâu sắc những khó khăn, thử
thách mà dân tộc ta đã trải qua suốt chiều dài lịch sử.
+ Bao đời nay, cây tre gắn bó với con người Việt Nam và đã trở thành biểu
tượng cho dân tộc Việt Nam với sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất, sẵn sàng đối
mặt và vượt qua mọi gian khổ, hiểm nguy.
+ Và Bác chính là sự hội tụ những gì cao đẹp nhất của phẩm cách Việt Nam: là sự
sống bát ngát luôn xanh màu, là tâm thế kiên cường “đứng thẳng hàng” chống chọi lại
với “bão táp mưa sa”.
Bác
- Câu cảm thán “Ôi!” nhấn mạnh niềm xúc động, tự hào khi ngắm nhìn những
hàng tre xanh bên lăng - như người lính kiên trung canh giữ giấc ngủ bình yên cho
Người, như dân tộc Việt Nam đời đời bên vị Cha già của mình.
=> Khái quát: Tấm lòng của Viễn Phương cũng là tấm lòng của mọi người con
miền Nam, rộng ra là toàn thể người dân Việt Nam khi hướng về Bác
2. Khổ 2: Cảm xúc trước cảnh đoàn người xếp hàng vào lăng.
a. Những suy ngẫm về Bác (2 câu đầu)
* Khái quát: Sau giây phút lắng sâu với với dòng cảm xúc nghẹn ngào vỡ oà khi tới
lăng, hòa vào dòng người đến thăm Bác, dòng suy tưởng của nhà thơ dâng trào những
cung bậc mới. Lời thơ bỗng dạt dào một cảm xúc tự hào, thành kính, thương nhớ Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
* Phân tích:
- Hai câu đầu đã xây dựng thành công cặp hình ảnh sóng đôi giàu ý nghĩa, tạo sự
đăng đối, cân xứng, nhịp nhàng: “mặt trời trên lăng” và “mặt trời trong lăng”:
+ Mặt trời trên lăng là hình ảnh thực - mặt trời thiên nhiên, được nhân hóa, cũng
phải ngày ngày nghiêng mình soi ngắm “mặt trời trong lăng”
+ “Mặt trời trong lăng” là ẩn dụ cho Bác. Bác đã mang mặt trời đến cho dân tộc,
dẫn lối, chỉ đường đưa đất nước đi qua bao thăng trầm của lịch sử. Tình yêu bao la từ
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 11
trái tim ấm áp của Người có sức nóng, lan tỏa như tia nắng mặt trời. Với dân tộc Việt
Nam, Bác là bất tử, trường tồn, cũng như mặt trời trên cao kia là vĩnh hằng.
+ Sáng tạo của Viễn Phương là hình ảnh “mặt trời rất đỏ”. Mặt trời của vũ trụ sẽ có lúc
bị đêm đen bao phủ nhưng mặt trời Bác Hồ thì vĩnh cửu, mãi là nguồn sống, là ánh
sáng soi rọi cho dân tộc Việt Nam, mãi mãi đỏ thắm trong trái tim, tâm hồn mỗi người
con đất Việt.
=> Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời” đã ngợi ca sự cao cả, vĩ đại của Bác, đồng thời thể
hiện sự trân trọng, kính yêu, lòng biết ơn của mọi người dân với Bác.
b. 2 câu sau: Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác
- Như mặt trời thiên nhiên, ngày ngày dòng người cũng đi qua trên lăng, trong niềm
thương nỗi nhớ sâu đậm.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng 79 mùa xuân”
- Điệp từ “ngày ngày” tạo cảm giác thời gian vô tận, vĩnh viễn, không bao giờ
ngừng nghỉ như tấm lòng nhân dân ta vẫn luôn nhớ Bác.
- Giọng thơ trầm, nhịp thơ chậm, như bước chân đoàn người vào lăng viếng Bác, bị
dòng cảm xúc đè nén, níu chân.
- Cách nói “dòng người đi trong thương nhớ” thật đặc biệt, không chỉ gợi hình ảnh
mà còn gợi cảm xúc khiến nỗi nhớ thương tràn ngập không gian. Chỉ một chữ
“thương” thôi mà chất chứa nỗi xúc động, bồi hồi, lòng tiếc thương kính cẩn; mà gửi
gắm cả tấm lòng của dân tộc Việt Nam đối với Bác.
- “Dòng người đi trong thương nhớ” ấy kết thành những “tràng hoa” tươi thắm dâng
người.
+ Đó không chỉ là hình ảnh thực mà còn là hình ảnh ẩn dụ đẹp, đầy sáng tạo
của Viễn Phương.
+ “Tràng hoa” gắn với vinh quang tốt đẹp, được kết lên từ lòng thành kính,
ngưỡng mộ của biết bao người con với vị Cha già dân tộc.
+ Mỗi người như một bông hoa để “Dòng người vây quanh Bác trở thành hoa”
(Viễn Phương). Đó là tràng hoa đẹp nhất, là những thành quả trong lao động và dựng
xây mà nhân dân dâng lên Người.
- Khổ thơ khép lại với hình ảnh hoán dụ, ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trưng “79 mùa
xuân”
+ để chỉ cuộc đời bảy mươi chín tuổi của Bác.
+ Con người vĩ đại ấy đã sống trọn vẹn một cuộc đời, đẹp như những mùa xuân thắm
tươi và làm nên những mùa xuân bát ngát cho đất nước, cho con người Việt Nam.
- Dấu chấm lửng ở cuối khổ thơ:
+ như ngân dài, không thể nói hết nỗi đau xót, tiếc thương, lòng biết ơn,
thành kính khi nhà thơ xếp hàng vào lăng viếng Bác.
+ kéo dài những mùa xuân, khẳng định Bác còn sống mãi với dân tộc Việt
Nam.
-> Qua đây, người đọc có thể nhận thấy sự thành kính, trân trọng của một người con
đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Tấm lòng của Viễn Phương cũng là tấm lòng
của mọi người con miền Nam, rộng ra là toàn thể người dân Việt Nam khi hướng về
Bác.
3. Khổ 3: Niềm xúc động nghẹn ngào trào dâng mãnh liệt của nhà thơ khi đứng trước
di hài Bác.
a. Hình ảnh Bác nằm trong lăng.
- Hình ảnh Bác nằm trong lăng được diễn tả xúc động qua hai câu thơ:
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 12
=> Khái quát: Tấm lòng của Viễn Phương cũng là tấm lòng của mọi người con
miền Nam, rộng ra là toàn thể người dân Việt Nam khi hướng về Bác.
4. Khổ 4: Nỗi đau lắng lại nhường chỗ cho những cảm xúc lúc ra về.
a. Lời giã biệt: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
- Gặp được Bác, thỏa nguyện mong mỏi bấy lâu, nhưng niềm hạnh phúc, nỗi bồi hồi,
sự xúc động chưa kịp nguôi thì giờ chia xa Người đã lại đến: “Mai về miền Nam
thương trào nước mắt”.
- Câu thơ giản dị như một lời thông báo, một lời giã biệt, là tiếng lòng của muôn
triệu con tim khi phải xa Bác.
- Cụm từ - "Mai về miền Nam" gợi lên thời điểm chia tay, xa cách của không gian
khi mà Bắc - Nam cách biệt.
- Từng con chữ như thấm đẫm cảm xúc. Tiếng “thương” nhẹ nhàng mà chất chứa
bao tình cảm đậm sâu cùng với chữ “trào” đủ để diễn tả nỗi niềm bịn rịn, lưu luyến
mãnh liệt chẳng thể kìm nén.
b. Ước nguyện: ba câu cuối.
- Người con miền Nam chỉ có thể gửi gắm tấm lòng, tình cảm qua những hình ảnh ẩn
dụ: “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre”.
+ Những tạo vật rất đỗi khiêm nhường, nhỏ bé nhưng lại thể hiện sâu sắc,
chân thành ước ao được ở mãi bên Bác.
+ Nhà thơ muốn hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật bên lăng Bác: làm bông
hoa tỏa hương thơm, con chim cất tiếng hót, cây tre trung hiếu để được gần Bác mãi
mãi, làm vui, làm đẹp cho lăng Bác.
- Các từ ngữ “quanh”, “đâu đây”, “chốn này”
+ gợi không gian gần gũi,
+ cho thấy tâm trạng bịn rịn, lưu luyến, không muốn rời xa Bác của người
con miền Nam.
- Điệp từ “muốn làm” mở đầu ba dòng thơ, như ba lớp sóng dâng lên
+ tạo nên nhịp điệu dồn dập,
+ diễn tả tình cảm thiết tha, khát vọng trào dâng mãnh liệt,
+ như một lời hứa đinh ninh son sắt của nhân dân với Bác.
- Chủ thể trữ tình từ chỗ xưng hô “Con” giờ được ẩn đi
+ tạo sự hàm súc
+ đồng thời thể hiện tình cảm dành cho Bác không chỉ của riêng ai. Tiếng lòng
của Viễn Phương cũng là tiếng lòng của chung tất cả những người con đất Việt. Tình
cảm của nhà thơ vì thế mà mang ý nghĩa khái quát rộng lớn.
- Hình ảnh “cây tre” được điệp lại,
+ làm nên kết cấu đầu cuối tương ứng cho bài thơ.
+ Nó tạo nên 1 khúc ngân, nhằm nhấn mạnh ấn tượng đậm sâu của nhà thơ,
cho dòng cảm xúc được trọn vẹn.
+ “Cây tre trung hiếu” là một ẩn dụ đẹp thể hiện
+/ tấm lòng kính yêu, niềm thủy chung gắn bó, không muốn rời xa như
một người lính canh gác, bảo vệ cho lăng Bác.
+/ Không gian xa cách nhưng tình cảm, ý chí lại vô cùng gần gũi.
+/ Tác giả đã bày tỏ nguyện ước mãi mãi trung thành đi theo con
đường, lí tưởng của Bác, cả đời sắt son, trung với nước, hiếu với dân.
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 14
=> Khái quát: Tấm lòng của Viễn Phương cũng là tấm lòng của mọi người con miền
Nam, rộng ra là toàn thể người dân Việt Nam khi hướng về Bác.
Bài 16
SANG THU
-Hữu Thỉnh-
I. Khái quát
1. Tác giả
- Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành từ trong quân đội.
- Là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn, về mùa thu.
Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong
trẻo, đang biến chuyển nhẹ nhàng.
- Thơ Hữu Thỉnh mang đậm hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế và giàu
rung cảm.
- Hữu Thỉnh là một một thế hệ nhà thơ đi ra từ chiến tranh “làm thơ ghi lấy cuộc
đời mình”, ghi lấy cả một thời hào hùng, bi tráng.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Mùa thu năm 1977,
- 2 năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhà thơ tham gia
trại sáng tác do Quân đội tổ chức tại Thanh Xuân – Hà Nội.
- Xuất xứ: Bài thơ in lần đầu trên báo Văn nghệ. Sau đó được in trong tập thơ
“Từ chiến hào đến thành phố”, xuất bản năm 1991.
b. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật
* Nội dung: là sự cảm nhận tinh tế về vẻ đẹp thiên nhiên của bước chuyển mùa từ hạ
sang thu. Đồng thời nói lên sự xúc động của lòng người trong khoảnh khắc giao mùa.
* Nghệ thuật: thơ giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm, cảm xúc tinh tế, sâu lắng, kết hợp
tấm lòng chân thành của nhà thơ tạo nên sức cuốn hút cho tác phẩm.
c. Mạch cảm xúc và bố cục:
- Mạch cảm xúc: “Sang thu” là 1 bức thông điệp lúc giao mùa. Mạch vận động cảm
xúc đi theo dấu hiệu của sự chuyển mùa từ hạ sang thu, từ hình ảnh thiên nhiên
đến những suy ngẫm về đời người :
+ Bài thơ bắt đầu bằng những cảm xúc bất ngờ khi tác giả chợt nhận ra dấu
hiệu còn rất mơ hồ của mùa thu ở không gian hẹp và thấp.
+ Tiếp đến nhà thơ cảm nhận dấu hiệu sang thu dần rõ rệt hơn ở không gian
rộng và cao.
+ Bài thơ khép lại bằng những hình ảnh thiên nhiên gắn với đến những suy
ngẫm về đời người.
d. Ý nghĩa nhan đề :
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 15
- Phó từ “bỗng” đặt ở đầu bài thơ cho thấy sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng và cả sự thú
vị, xao xuyến, bâng khuâng trong cảm xúc của nhà thơ. Thu về với đất trời quê
hương, với lòng người mà dường như không hẹn trước.
- Bằng khứu giác, tác giả cảm nhận mùa thu bắt đầu với hương ổi chín.
+ Dường như suốt mùa hè, cây đã chắt chiu nhựa sống, gom góp nắng hạ để đến
bây giờ, trái chín mang hương vị của làng quê.
+ Đó là mùi hương của vườn tược, của trái cây, của mùa màng - hương vị mộc
mạc, đặc trưng cho mùa thu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ - quen trong đời
nhưng lại hiếm gặp trong thơ.
+ Động từ “phả” gợi hương thơm nồng đậm, như sánh lại, hòa vào trong gió se,
quấn quýt, vương vấn cả không gian. Nó vừa cho ta hình dung cụ thể hương ổi chín
lại vừa như thấy được sự vận động nhẹ nhàng của gió đưa hương.
- Hữu Thỉnh đã thực sự nắm bắt được cái hồn của thu Bắc Bộ khi cảm nhận cái “gió
se” đầu thu chớm lạnh, hơi khô.
- Cùng với hương ổi tràn ngập trong gió thu lành lạnh, mùa thu còn được nhận ra bởi
làn sương:
Sương chùng chình qua ngõ
+ Từ láy “chùng chình” diễn tả sự giăng mắc bồng bềnh, của làn sương mùa
thu đang nhẹ nhàng chuyển động nơi đường thôn ngõ xóm. Làn sương mỏng, nhẹ
đang chầm chậm lan tỏa, gợi khung cảnh êm đềm, thơ mộng của làng quê.
+ Tác giả đã nhân hóa làn sương như cố ý đi chậm lại, như mang cái hồn
người bâng khuâng, lưu luyến, bịn rịn trong phút giây giao mùa.
+ “Ngõ” ở đây vừa là ngõ thực của làng quê, vừa gợi cửa ngõ của thời gian
thông giữa hai mùa hạ - thu.
b. Cảm xúc của tác giả
- Tác giả như đã “thức nhọn các giác quan” để mở lòng đón nhận thu về: từ khứu giác
đến xúc giác rồi vị giác, và bằng cả tâm hồn của một nghệ sĩ để ngỡ ngàng nhận ra:
Hình như thu đã về.
- “Hình như” là cảm giác mong manh, mơ hồ, chưa rõ nét. Câu thơ như lời thầm
hỏi, bối rối, ngỡ ngàng, chưa thể tin là thu đã về.
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 16
=> Đánh giá: Như vậy, khổ thơ đầu tiên là khoảnh khắc giao mùa mong manh, đến
từ những sứ giả đầu tiên của mùa thu: hương ổi, gió se, sương - những sứ giả vô
hình, mờ ảo, được nhìn trong một không gian gần và hẹp, bởi một tâm hồn nghệ sĩ
nhạy cảm, tinh tế, yêu thiên nhiên, yêu mùa thu tha thiết.
2. Khổ 2: Quang cảnh đất trời ngả dần sang thu.
Nếu ở khổ thơ mở đầu, thi sĩ còn ngỡ ngàng, bâng khuâng trước những biến
chuyển của đất trời lúc sang thu thì đến khổ thứ 2 ông say sưa cảm nhận vẻ đẹp của
khoảnh khoắc tuyệt diệu này.
a. Dòng sông, cánh chim
- Bức tranh sang thu được miêu tả ở tầm xa hơn, cao hơn với những nét hữu hình, cụ
thể, từ mặt đất hướng lên bầu trời tạo nên không gian có độ rộng và chiều cao.
- Bằng phép nhân hóa đặc sắc, nhà thơ đã rất tài hoa ghi lại linh hồn của cảnh vật, của
dòng sông quê hương nơi vùng đồng bằng Bắc Bộ những ngày giao mùa.
+ Từ láy “dềnh dàng” có nghĩa là chậm chạp, thong thả. Vào mùa thu, nước
sông êm đềm, nhẹ nhàng, trôi lững lờ chứ không chảy xiết như sau những cơn mưa
mùa hạ.
+ Cái “dềnh dàng” của dòng sông không chỉ gợi ra vẻ êm dịu của bức tranh
thiên nhiên mùa thu mà còn mang đầy tâm trạng của con người như chậm lại, như trễ
nải, như ngẫm ngợi, nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời.
- Đối lập với sự bình thản, khoan thai của dòng sông là hình ảnh cánh chim "bắt đầu
vội vã".
+ Mùa thu sang báo hiệu những ngày đông giá lạnh sắp đến, chúng phải bay về
phương Nam tránh rét.
+ Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được
cái động.
+ Tác giả như thấy được bước đi của thời gian trong từng cánh chim bay.
- Hai câu thơ đối nhau rất nhịp nhàng, dựng lên hai hình ảnh đối lập, ngược chiều
nhau: sông dưới mặt đất, chim trên bầu trời, sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội
vã” lo lắng. Sự vật đều được cảm nhận ở thời điểm mới chớm "được lúc", “bắt đầu”,
nghĩa là chưa định hình, chưa thu hẳn.
b. Đám mây
- Bức tranh giao mùa còn được khắc họa tinh tế qua hình ảnh “đám mây mùa hạ”:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
- Nghệ thuật nhân hóa, gợi một làn mây mỏng, nhẹ, kéo dài như một tấm khăn voan
trắng vắt trên bầu trời, một nửa vẫn lưu luyến mùa hạ, nhưng nửa kia đã vắt sang thu.
- Tác giả đã làm hiện hình cả khoảnh khắc sang thu vô hình, khiến đám mây trở
thành nhịp cầu thời gian duyên dáng, yểu điệu nối giữa hai mùa.
- Cụm từ “vắt nửa mình” làm cho hình ảnh thiên nhiên trở nên gợi cảm, mang đậm
hồn người. Phải chăng đám mây ấy cũng như con người cứ e ấp cứ ngập ngừng, lưu
luyến, nửa muốn sang mùa thu, nửa vẫn muốn ở lại mùa hạ làm cho bầu trời mới chỉ
nhuộm một nửa sắc thu? Đám mây cho người đọc thấy không gian, thời gian chuyển
mùa thật đẹp, đầy chất thơ.
=> Đánh giá: Vẻ đẹp của thời khắc giao mùa ấy chỉ có thể được sáng tạo từ một hồn
thơ tinh tế, nhạy cảm, say sưa với vẻ đẹp của thiên nhiên. Đúng như có người từ
nói: “thơ không chỉ là thơ, thơ còn là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách
riêng”.
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 17
3. Khổ 3: Những chuyển biến của thời tiết và suy ngẫm của tác giả về cuộc đời
người lúc chớm thu.
Từ say sưa cảm nhận bằng những giác quan tinh tế, bức tranh sang thu đã được hoàn
tất và có thêm hồn, đậm chất suy tư.
a. Sự biến chuyển của thiên nhiên:
- Nhà thơ cảm nhận khoảnh khắc đất trời sang thu qua sự chuyển biến của nắng,
mưa, sấm trong lúc giao mùa, với cái nhìn tinh tế:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đẵ vơi dần cơn mưa
- Tác giả đã dùng những từ chỉ mức độ “vẫn còn”, “vơi dần”, “bớt” để thể hiện
những chuyển biến của các hiện tượng tự nhiên khi mùa hạ đã nhạt dần và thu đậm
nét hơn. Dấu ấn, dư âm của mùa hạ vẫn còn đó nhưng tất cả đã vào thế ổn định, mang
nét đặc trưng của mưa nắng khúc giao mùa:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa”.
- Không gian và cảnh vật hiện lên qua cảm nhận tinh tế và chính xác của nhà thơ.
Nắng vẫn còn sáng nhưng đã dịu và trong, không chói chang, gay gắt như những ngày
hè rực rỡ. Những ngày giao mùa cũng ít đi những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ.
b. Chiêm nghiệm của nhà thơ
- Bài thơ khép lại với hai câu thơ không chỉ mang nghĩa tả thực, mà còn hàm chứa
nhiều ý nghĩa sâu xa:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
- Trước hết, hai câu thơ đã gợi lên hình ảnh thực của thiên nhiên vào thời điểm giao
mùa hạ - thu với hình ảnh “sấm" và "hàng cây”.
+ Cơn mưa giông mùa hạ ít đi thì cũng thưa dần tiếng sấm đến bất ngờ, dữ
dội. Sấm thưa và nhỏ dần nên không đủ sức lay động những hàng cây đứng tuổi đã
bao mùa thay lá.
+ Thiên nhiên đã được nhân hóa tài tình qua ngòi bút của Hữu Thỉnh. Cảnh
vật, thời tiết thay đổi, lặng lẽ vào thu hiện lên qua con mắt quan sát và cảm nhận tinh
tế của tác giả.
- Hình ảnh thơ còn mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc.
+ “Sấm” là những vang động bất thường của ngoại cảnh, những trắc trở,
giông bão của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” ẩn dụ cho những con người đã từng
trải, đi qua bao thăng trầm.
+ Con người khi đã từng trải thì cũng vững vàng, bản lĩnh hơn trước những
tác động bất thường của cuộc đời. Thiên nhiên, đất trời sang thu khiến lòng người
bâng khuâng, suy ngẫm về sự “sang thu” của đời người.
+ Hữu Thỉnh còn muốn nói đến sự “sang thu” của đất nước: đất nước qua hai
cuộc chiến tranh đang vững vàng phát triển đi lên. Hai câu thơ mang một chiều sâu
triết lí.
=> Đánh giá: “Sang thu” là bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa được nhà thơ cảm
nhận thật tinh tế và đẫm chất suy tư. Phải là người khát khao cuộc sống bình yên và
yêu thiên nhiên tha thiết mới tạo nên bức tranh thu đẹp mê hồn đến vậy.
Bài 17
NÓI VỚI CON
I. Khái quát
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 18
+ Những câu hát then, hát lượn tươi vui vang lên như làm kín những chỗ hở
của vách nhà. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã làm cho âm thanh tiếng hát
vốn được cảm nhận bằng thính giác trở nên cụ thể, được cảm nhận bằng xúc giác.
+ Các động từ “đan”, “cài”, “ken” vừa miêu tả cụ thể động tác khéo léo
trong lao động, vừa nói lên sự gắn bó, quấn quýt. Người đồng mình lao động để tạo ra
vẻ đẹp, để cuộc sống hòa với niềm vui.
=> Y Phương đã cho thấy cuộc sống lao động của người đồng mình thật cần cù và
tươi vui và đó là cội nguồn nuôi dưỡng con.
- Hai câu thơ thể hiện tính cách đặc trưng của người Tày: tình yêu lao động, sự tài hoa,
lòng yêu ca hát và làm sống dậy cả một không gian văn hóa riêng miền cao. (Chính vì
vậy, đã có ý kiến cho rằng: "Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt những
màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo,
một âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo".)
* Mảnh đất quê hương
- Người con còn được lớn lên trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê
hương. - Tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa, điệp từ "cho" trong câu thơ:
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”
+ Quê hương của người đồng mình gắn liền với hình ảnh “rừng” – cảnh quan
đặc trưng của người miền núi. Rừng núi, thiên nhiên quê hương đã chở che và nuôi
dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống.
+ “Rừng cho hoa” nghĩa là rừng núi hào phóng ban tặng cho con người những
gì đẹp đẽ, tinh túy, lãng mạn, đem đến thiên nhiên thơ mộng.
+ “Con đường cho những tấm lòng” gợi lên vẻ đẹp của tình nghĩa, sự đoàn
kết, gắn bó. Con đường chính là tấm lòng sâu nặng của quê hương luôn mở lòng đón
nhận và nâng niu những bước chân của con người xứ sở. Nó là sợi dây nối liền tình
cảm, để chia sẻ, trao gửi yêu thương, buồn vui, cũng là sợi dây tơ duyên để kết nối
tâm hồn, trong đó có cả cha và mẹ.
* Dấu ấn quê hương
- Người cha nhắc đến kỉ niệm về “ngày cưới” – “ngày đầu tiên đẹp nhất trên
đời”. Đó là ngày tình yêu đơm hoa, hạnh phúc kết trái, mái ấm gia đình hình thành.
Bởi từ đây, mang theo kết tinh của vẻ đẹp quê hương, cha mẹ sẽ tạo dựng một gia đình
nhỏ tràn dầy niềm hạnh phúc cho con.
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời"
* Khái quát:
- Với giọng điệu tha thiết, lời thơ như lời thủ thỉ, tâm tình của cha với con, nhắc nhớ
con về cội nguồn sinh dưỡng của mình: Con đc sinh ra trong thế giới của những con ng
tài hoa, của thiên nhiên thơ mộng, hào phóng, và gần hơn nữa, con được sinh ra từ tình
yêu tha thiết giữa cha và mẹ. 1 thế giới như thế đủ sức bao bọc con trong êm đềm yêu
thương, đủ sức nuôi lớn tâm hồn con.
- Đánh giá tác giả: Ta trân trọng nhận ra ở Y Phương tình yêu thương con, sự gắn
bó, niềm tự hào về truyền thống quê hương, dân tộc.
2. Cha nói với con về những đức tính cao đẹp của người đồng mình và gửi gắm lời
dặn dò với con.
2.1 Đoạn 2a
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 21
- Hình ảnh so sánh độc đáo “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn của những
con người sống hồn nhiên, trong sáng, khoáng đạt như thiên nhiên nhưng cũng đầy
mạnh mẽ, luôn vượt lên trên mọi khó khăn, nghịch cảnh; lạc quan, bình thản đối mặt
với gian khổ: Không lo cực nhọc.
c. Dặn dò con
- Ca ngợi vẻ đẹp của người đồng mình, cha cũng đồng thời gửi gắm những mong mỏi
nơi con:
Dẫu làm sao thì cha vấn muốn
- Lời thơ đầy day dứt bởi chất chứa phía sau nó là những vẻ đẹp mà cha trân trọng nhất,
là mong ước tha thiết nhất mà cha muốn truyền gửi nơi con: sống có nghĩa có tình,
chung thủy với quê hương; biết chấp nhận, vượt qua gian nan, thử thách bằng ý
chí, bằng niềm tin của mình.
=> Đánh giá tác giả: Ta trân trọng nhận ra ở Y Phương tình yêu thương con, sự gắn
bó, niềm tự hào về truyền thống quê hương, dân tộc.
Đoạn 2.2
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”
a. Hình ảnh người đồng mình
- Cách gọi "người đồng mình" thân thương, trìu mến chỉ người vùng mình, người
miền mình, những người trong cùng một quê hương, dân tộc:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
- Đó là những con người mộc mạc, giản dị ở vẻ bề ngoài nhưng giàu chí khí, niềm
tin. Họ có thể “thô sơ” về “da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí và
mong ước xây dựng quê hương.
b. Vẻ đẹp của người đồng mình: tinh thần tự lập, tự cường xây dựng quê hương
- Chính những con người như thế, bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng ngày, đã
làm nên quê hương với truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
- Câu thơ tả thực công việc lao động đục đá vất vả, truyền thống làm nhà kê đá cho
cao của người đồng mình.
- Nó còn mang ý nghĩa ẩn dụ, thể hiện ý thức tự lực tự cường, lòng tự tôn, bảo tồn
cội nguồn của người đồng mình. Quê hương là khái niệm trừu tượng, chỉ nơi chốn
sinh thành. Tác giả đã có cách nói đầy độc đáo: “kê cao quê hương”, mở ra một thế
đứng, một tầm vóc cao vời vợi của con người giữa cuộc đời, khi đã vượt lên những
gập ghềnh của đá. Người đồng mình yêu quê hương, quyết tâm xây dựng để quê
hương mình ngày một phát triển, tươi đẹp hơn.
- Hai câu thơ là niềm tự hào của con người quê hương, cũng là khát vọng giữ gìn,
bảo vệ những phong tục, di sản văn hóa dân tộc được hun đúc từ bao đời.
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 23
=> Người đồng mình sống trên đá, mang vóc hình của đá và mang cả ý chí mạnh mẽ
kiên cường của đá núi. Vẻ đẹp của người đồng mình chính nền tảng văn hóa vững
bền, là hành trang quý giá để con bước vào đời.
b. Dặn dò con
- Từ đó, cha mong con biết tự hào về truyền thống quê hương, dặn dò con cần sống
cho cao đẹp, tự tin mà vững bước:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.
- Tiếng gọi “con ơi” và lời nhắn nhủ “nghe con” tạo nên giọng thơ tâm tình, trìu
mến, thiết tha như một lời động viên, khích lệ. Câu thơ cho thấy tình yêu thương, niềm
tin tưởng, ước mong mà người cha dành cho con.
+ Cụm từ “Tuy thô sơ da thịt” một lần nữa được nhắc lại nhưng mang ý nghĩa khác:
Tượng trưng cho hoàn cảnh sống khó khăn, gian khổ, nghèo nàn.
+ “Lên đường” vừa là hình ảnh thực, vừa là chặng hành trình dài rộng của cuộc đời mà
con sẽ đi, là quá trình khôn lớn, trưởng thành của con
+ Trên hành trình ấy, con “Không bao giờ nhỏ bé được” tức là không hèn kém mà
phải kiêu hãnh ngẩng cao đầu, tự tin và đường hoàng mà sống. Sống sao cho xứng
đáng với quê hương, với gia đình. Sống có bản lĩnh, khí phách như con người quê
hương.
- Ý nghĩa sâu sắc:
+ Lời thơ là lời dặn dò tha thiết của cha với con cũng là niềm yêu thương, tin
tưởng nơi con, mong muốn con trưởng thành.
+ Nó còn là tình tình yêu quê hương và niềm tự hào dân tộc; là lời chuyển giao
thế hệ.
+ cũng là lời nhà thơ tự dặn lòng phải vững chí, bền gan giữa lúc “dường như
không biết lấy gì để vịn”.
=> Đánh giá tác giả: Ta trân trọng nhận ra ở Y Phương tình yêu thương con tha thiết,
sự gắn bó, niềm tự hào sâu sắc về truyền thống quê hương, dân tộc.
Bài 18
NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI
LÊ MINH KHUÊ
A. Khái quát
1. Tác giả:
a. Con người, cuộc đời
- Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnhThanh Hóa.
- Trong kháng chiến chống Mĩ, gia nhập thanh niên xung phongvà bắt đầu viết văn
vào đầu những năm 70.
b. Sự nghiệp sáng tác
- Lê Minh Khuê là cây bút nữ chuyên về truyện ngắn.
- Trong những năm chiến tranh, truyện của Lê Minh Khuê viết về cuộc sống chiến đầu
của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn.
- Sau năm 1975, tác phẩm của nhà văn bám sát những chuyển biến của đời sống xã
hội và con người trên tinh thần đổi mới.
2. Văn bản:
a. Hoàn cảnh sáng tác
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 24
- Năm 1971
- Cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt.
- Lê Minh Khuê đang hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn.
b. Chủ đề, ý nghĩa của truyện
Truyện kể về ba cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn với:
+ tinh thần dũng cảm trong cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ hy sinh.
+ tâm hồn trong sáng, mơ mộng, hồn nhiên, lạc quan.
=> Đó chính là những hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ
cứu nước.
c. Ngôi kể: Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, người kể chuyện xưng "tôi" là
Phương Định.
Tác dụng:
- Tạo thuận lợi cho tác giả miêu tả thế giới nội tâm nhân vật với những ý
nghĩ, cảm xúc, hồi tưởng hiện lên một cách trực tiếp. Truyện viết về chiến tranh
nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội tâm, làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của con
người trong chiến tranh.
- Tạo ra một điểm nhìn phù hợp để miêu tả hiện thực cuộc chiến đấu ở một
trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn.
- Câu chuyện trở nên chân thực, sinh động, gần gũi với người đọc. Người kể
chuyện chủ động dẫn dắt câu chuyện, dễ dàng điều chỉnh nhịp kể.
- Tạo cho tác phẩm giọng điệu và ngôn ngữ tự nhiên, linh hoạt, trẻ trung, gần
với khẩu ngữ và có chất nữ tính.
d. Nhan đề “Những ngôi sao xa xôi”:
- “Những ngôi sao xa xôi” là cụm danh từ, gợi hình ảnh ngôi sao có thật:
+ ngôi sao trên mũ những người lính;
+ ngôi sao trên bầu trời thành phố, là ánh đèn điện như những vì sao lung linh
trong xứ sở thần tiên của những câu chuyện cổ tích hiện lên trong nỗi nhớ của
Phương Định.
- “Những ngôi sao xa xôi” còn là hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng sâu sắc:
+ Đó là ẩn dụ cho những cô gái thanh niên xung phong.
+/ Các cô giống như những vì sao tỏa ra ánh sáng đẹp đẽ của phẩm
chất dũng cảm, tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm vụ, tình đồng đội gắn bó; vẻ đẹp
tâm hồn mơ mộng, trong sáng, hồn nhiên, lạc quan, yêu đời.
+/ Họ khiêm nhường, lặng lẽ, âm thầm sống và chiến đấu chỉ như
những vì sao xa xôi, nhỏ bé, bền bỉ, bất diệt.
+ “Những ngôi sao xa xôi” còn là ẩn dụ cho quê hương, cho quá khứ đầy ắp kỉ
niệm; ẩn dụ cho ước mơ, khát vọng của Phương Định về một thế giới yên bình, như
niềm khao khát làm dịu mát tâm hồn cô giữa chiến trường ác liệt.
- “Những ngôi sao xa xôi” thể hiện cảm hứng lãng mạn, làm rõ chủ đề tác phẩm,
như một biểu tượng đẹp cho thể hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước.
B. Phân tích
I. Ba nữ thanh niên xung phong trong tổ trinh sát mặt đường
1. Nét chung
a. Hoàn cảnh sống và công việc:
* Hoàn cảnh sống
- Nho, Thao, Phương Định sống trong một cái hang, dưới chân cao điểm, giữa một
vùng trọng điểm của tuyến đường Trường Sơn, nơi tập trung nhất bom đạn và sự
đánh phá của kẻ thù.
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 25
=> Đó là một nơi vô cùng gian khổ và ác liệt, không có màu xanh của sự
sống, chỉ thấy thần chết luôn rình rập.
* Công việc
- Họ làm thành một tổ trinh sát mặt đường.
- Công việc hàng ngày của 3 cô gái là chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình ra
giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch để quan sát địch ném bom, đo khối
lượng đất đá lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom.
- Nhiệm vụ của họ thật quan trọng nhưng đặc biệt nguy hiểm, đầy gian khổ, hi
sinh, phải mạo hiểm với cái chết, luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng cảm và
bình tĩnh hết sức.
b. Vẻ đẹp
* Vẻ đẹp phẩm chất của người chiến sĩ thanh niên xung phong
- Hoàn cảnh sống và công việc: Ba cô gái làm thành tổ trinh sát mặt đường, có
nhiệm vụ phá bom trên một cao điểm, giữa một vùng trọng điểm của tuyến đường
Trường Sơn, nơi gian khổ, ác liệt, nguy hiểm, tập trung nhất bom đạn và sự đánh phá
của kẻ thù.
- Phẩm chất 1: Họ là những người trẻ tuổi có lí tưởng sống cao đẹp. Đều là
những cô gái tuổi đời mười tám đôi mươi, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc, Nho, Thao, Phương Định sẵn sàng rời xa gia đình, hi sinh tuổi thanh xuân, tình
nguyện vào cái nơi mà sự mất còn chỉ cách nhau gang tấc.
- Phẩm chất 2: Qua thực tế chiến đấu, cả ba cô gái đều có lòng dũng cảm, tinh
thần trách nhiệm cao với công việc.
+ Họ nói về công việc đầy nguy hiểm của mình rất thản nhiên: “Quen rồi.
Một ngày chúng tôi phải phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”.
+ Những chiến sĩ trẻ phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ, có thể hi sinh bất cứ lúc
nào nhưng để con đường thông suốt, các cô luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ “có lệnh là
lên đường”. Họ làm việc một cách tự nguyện, không cần sự trợ giúp của đơn vị.
+ Khi cận kề hiểm nguy, ba cô gái luôn thể hiện một tinh thần thép. Bất chấp
tiếng phản lực gầm gào, chị Thao vẫn “móc bánh bích quy trong túi, thong thả nhai”,
Nho bị thương, máu túa ra, thấm cả vào đất vẫn không kêu ca, không cho gọi điện về
đơn vị. Còn Phương Định, đối mặt với thần chết, cô không hề run sợ mà bình tĩnh,
không đi khom mà đường hoàng bước tới cạnh quả bom, cẩn thận, khéo léo đào
đất, đặt dây, châm lửa, tính toán sao cho chính xác.
+ Không chỉ vậy, Nho, Thao, Phương Định còn có tinh thần trách nhiệm cao
với nhiệm vụ, luôn đặt nhiệm vụ lên trên cả tính mạng, sẵn sàng chấp nhận mọi hi
sinh. Đôi lúc, họ nghĩ đến cái chết nhưng chỉ là thoáng qua rất mờ nhạt, nhường chỗ
cho ý nghĩ: “liệu mìn có nổ, bom có nổ không?”, "Không thì làm cách nào để châm
mìn lần thứ hai?".
+ Nơi chiến trường khói lửa, các cô vẫn giữ một thái độ lạc quan, coi thường
gian khổ: cười đùa, gọi nhau là “những con quỷ mắt đen”, giễu cợt với sự nguy hiểm
“thần chết là một tay không thích đùa”. Thái độ ấy chỉ có thể có ở những cô gái thanh
niên xung phong đầy bản lĩnh, mạnh mẽ và kiên cường.
- Phẩm chất 3: Ở họ còn có tình đồng đội gắn bó, thân thiết.
+ Sống trong ngôi nhà chung dưới chân cao điểm ác liệt, các cô rất thân thiết,
hòa thuận. Họ hiểu được tính tình, sở thích của nhau, quan tâm đến nhau như chị em
trong gia đình. Phương Định yêu mến, gắn bó, hiểu rõ thói quen của từng người
đồng đội, hiểu cả nỗi lo lắng của chị Thao dù chị cố che giấu. Cô đặc biệt dành tình
yêu và niềm cảm phục cho những người chiến sĩ trên tuyến đường Trường Sơn:
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 26
“Trong suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng
nhất là những người mặc quân phục và có ngôi sao trên mũ”.
+ Khi thực hiện nhiệm vụ, họ sẵn sàng nhận công việc khó khăn, nguy hiểm
về phần mình, nhường sự an toàn cho đồng đội.
+ Lúc Thao và Nho lên trên cao điểm trinh sát, Phương Định ở hang trực
điện đài, cô bồn chồn, căng thẳng, đứng ngồi không yên, lo lắng cho đồng đội ở
trên cao điểm. Phương Định căng thẳng, lo lắng đến nỗi gắt với đại đội trưởng và chỉ
mong chờ nghe một tiếng súng trường. Đối với Phương Định, mọi thứ đều "không
đáng kể nữa", không có gì lí thú nữa "nếu các bạn tôi không quay về".
+ Khi Nho bị thương, Phương Định và Thao đã chăm sóc rất chu đáo:
nhanh chóng tìm và bế Nho ra khỏi hầm bị lấp, băng bó vết thương, tiêm rồi cho Nho
uống sữa. Trước sự đau đớn của Nho, hai người đồng đội đã rất lo lắng, xót xa, đau
lòng: “người ngoài cảm thấy đau hơn người bị thương” nhưng lại cố tỏ ra cứng cỏi,
bản lĩnh.
+ Tình đồng chí, đồng đội chính là điểm tựa, niềm tin, sức mạnh để các cô
vượt qua khó khăn, gian khổ.
* Vẻ đẹp tâm hồn của những cô gái trẻ
- Hoàn cảnh sống và công việc: Ba cô gái làm thành tổ trinh sát mặt đường, làm
nhiệm vụ phá bom trên một cao điểm, giữa một vùng trọng điểm của tuyến đường
Trường Sơn, nơi gian khổ, ác liệt, nguy hiểm, tập trung nhất bom đạn và sự đánh phá
của kẻ thù.
- Chiến tranh là đau thương, mất mát song chiến tranh không thể hủy diệt được vẻ đẹp
tâm hồn rất tươi xanh của tuổi trẻ ở những cô gái tuổi đôi mươi.
- Với họ, tiếng hát là giai điệu của tâm hồn, là thứ sức mạnh tinh thần để “át tiếng
bom”. Phương Định có thể hát ở mọi nơi, thích hát hành khúc bộ đội, dân ca quan họ
mềm mại, rồi Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô, dân ca Ý trữ tình, thậm chí có lúc
cô “bịa ra lời mà hát” rồi “bò ra mà cười một mình”. CÒn chị Thao dù hát không hay
nhưng có tới ba quyển sổ dày để chép lời bài hát, thậm chí say mê chép cả những lời
do Phương Định bịa ra.
- Các cô đều rất nữ tính, điệu đà, thích làm đẹp cho cuộc sống của mình ngay cả
trong hoàn cảnh chiến trường khốc liệt.
+ Nho thích thêu thùa,
+ chị Thao thích làm dáng: lông mày tỉa nhỏ như cái tăm, áo lót cái nào cũng
thêu chỉ màu.
+ Phương Định là một cô gái Hà Nội, rất nhạy cảm, biết quan tâm đến hình
thức của mình, thích được nói chuyện với các anh bộ đội, hay ngồi bó gối mơ mộng,
thích ngắm mắt mình trong gương.
- Họ rất hồn nhiên, lạc quan, yêu đời, thích cười đùa, luôn coi nhẹ gian khổ, hiểm
nguy. Các cô:
+ gọi nhau vui đùa là “những con quỷ mắt đen”
+ giễu cợt với sự hiểm nguy “thần chết là một tay không thích đùa”
+ tìm thấy sự thú vị trong cuộc sống, kể cả trong công việc đầy nguy hiểm:
“việc nào cũng có cái thú của nó”.
- Cuộc sống của ba cô gái bên cạnh sự ác liệt, nguy hiểm vẫn có những giây phút yên
bình, êm đềm:
+ Đó là những giây phút mơ mộng “nằm dài trên nền ẩm, lười biếng nheo mắt
nghe ca nhạc”.
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 27
+ Là khi cơn mưa đá đến bất ngờ trên cao điểm đầy bom đạn, đã khơi dậy
bao xúc cảm trong tâm hồn các cô gái trẻ.
+/ Phương Định vui thích cuống cuồng, như một đứa trẻ trong sáng,
vô tư, chạy đi chạy lại hứng những giọt mưa đá, xòe cho Nho xem. Chị Thao cũng lúi
húi hốt đá mưa.
+/ Cơn mưa qua đi khiến Phương Định thẫn thờ tiếc nuối bởi nó mang
tới trong cô nỗi niềm xao xuyến, nhớ về một thời yên bình sống bên cạnh mẹ giữa
thành phố. Những hồi ức về gia đình và thời thiếu nữ vô tư sống lại trong Phương
Định giữa chiến trường dữ dội, giống như một niềm khao khát làm dịu mát tâm
hồn.
2. Nét riêng:
Dù trong một tập thể nhỏ gắn bó với nhau nhưng ba cô gái, mỗi người vẫn có một nét
cá tính riêng.
1. Chị Thao là tổ trưởng, giống như một người chị cả trong gia đình,
tính tình chín chắn, bình tĩnh, ít nhiều có sự từng trải, không dễ hồn nhiên mơ ước.
Trong công việc, chị rất quyết đoán, dũng cảm, táo bạo nhưng lại sợ máu và vắt. Chị
Thao thích chép bài hát, thích làm dáng, luôn quan tâm đến đồng đội, tự nhận phần
nguy hiểm về phía mình.
2. Phương Định là con gái Hà Nội mới rời ghế nhà trường nên rất nhạy
cảm, mơ mộng, hay sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô tư.
3. Nho giống như một người em út trong gia đình, rất hồn nhiên, dễ
thương, tính nết trẻ con, thích ăn kẹo, dáng vẻ bé nhỏ, nhẹ nhàng. Nhưng trong chiến
đấu, Nho lại rất bản lĩnh, rắn rỏi.
=> Đánh giá nâng cao: Nho, Thao, Phương Định là hình ảnh tiêu biểu cho những cô
gái thanh niên xung phong, hình ảnh đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ
cứu nước. Họ đã từ cuộc đời bước vào trang sách, trở thành những anh hùng – những
ngôi sao trên bầu trời Trường Sơn với vẻ đẹp lung linh tỏa sáng.
=> Đánh giá nghệ thuật: Về mặt nghệ thuật, Lê Minh Khuê đã
* lựa chọn ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện là Phương Định
* nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, sâu sắc
* giọng điệu và ngôn ngữ linh hoạt, tự nhiên, gần với khẩu ngữ, trẻ trung, có
chất nữ tính
* sử dụng linh hoạt các câu trần thuật ngắn.
=> Đánh giá tác giả: Lê Minh Khuê:
+ gắn bó, am hiểu hiện thực chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn;
+ dành sự trân trọng, ngợi ca cho những cô gái thanh niên xung phong.
II. Nhân vật Phương Định
1. Vẻ đẹp ngoại hình
- PĐ là một nữ sinh Hà Nội đi vào chiến trường. Ở cô hội tụ những nét đẹp duyên
dáng, thanh lịch của người con gái đất kinh kì ngàn năm.
- Dù không nói nhiều về mình nhưng qua mấy lời kể, người đọc có thể hiểu vì sao
cánh pháo thủ, lái xe hay trêu đùa, thăm hỏi, gửi thư cho PĐ mặc dù ngày nào cũng
nhìn thấy nhau.
- Khiêm tốn, PĐ tự nhận xét: “Tôi là một cô gái khá” .
- Cô tự hào về dáng vẻ của mình với “hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ
cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh bảo: cô có cái nhìn
sao mà xa xăm”. Cô thích ngắm mắt mình trong gương, “nó dài dài, màu nâu, hay
nheo lại khi chói nắng”.
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 28
Đó là một vẻ đẹp đầy nữ tính, ẩn chứa sự mơ mộng và chiều sâu tâm hồn - một cái
đẹp kiêu hãnh vượt lên bom đạn tàn khốc của chiến tranh.
2. Vẻ đẹp phẩm chất của người thanh niên xung phong
* Hoàn cảnh sống và chiến đấu: Phương Định cùng với Nho và Thao làm thành tổ
trinh sát mặt đường, làm nhiệm vụ phá bom trên một cao điểm, giữa một vùng
trọng điểm của tuyến đường Trường Sơn, nơi gian khổ, ác liệt, nguy hiểm, tập trung
nhất bom đạn và sự đánh phá của kẻ thù.
* Phẩm chất 1: Phương Định có lòng dũng cảm, tinh thần trách nhiệm cao với
nhiệm vụ.
- Cô đã hi sinh tuổi thanh xuân và không tiếc máu xương, với lí tưởng
cao đẹp: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. (Tố
Hữu)
- Cô chiến sĩ trẻ ấy nói về công việc đầy nguy hiểm của mình rất thản
nhiên: “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phải phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba
lần”.
- Luôn phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ, có thể hi sinh bất cứ lúc nào
nhưng để con đường thông suốt, Phương Định luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ “có lệnh
là lên đường”. Cô làm việc một cách tự nguyện, không cần sự trợ giúp của đơn vị.
- Khi phá bom, đối mặt với thần chết, cô không hề run sợ mà can
đảm, bình tĩnh. Hình dung ra cảnh các anh cao xạ ở trên đang dõi theo mình, lòng
dũng cảm của một người chiến sĩ như được kích thích bởi sự tự trọng. Cô không đi
khom mà đường hoàng bước tới cạnh quả bom, cẩn thận, khéo léo đào đất, đặt dây,
châm lửa, tính toán sao cho chính xác. Chiến tranh ác liệt đã rèn luyện để cô thiếu nữ
Hà thành ngày càng trở nên rắn rỏi, có một tinh thần thép để vượt lên mọi hoàn
cảnh.
- Không chỉ vậy, Phương Định còn có tinh thần trách nhiệm cao với
nhiệm vụ. Cô đã đặt nhiệm vụ lên trên cả tính mạng, sẵn sàng chấp nhận mọi hi sinh.
Đôi lúc, cô nghĩ đến cái chết khi nguy hiểm kề bên nhưng điều ấy chỉ thoáng qua rất
mờ nhạt, nhường chỗ cho ý nghĩ: “liệu mìn có nổ, bom có nổ không?”, "Không thì làm
cách nào để châm mìn lần thứ hai?".
- Nơi chiến trường khói lửa đạn bom, Phương Định vẫn giữ một thái độ
lạc quan, coi thường gian khổ. Cô thích cười đùa với đồng đội, gọi nhau là “những
con quỷ mắt đen”, giễu cợt với sự nguy hiểm “thần chết là một tay không thích đùa”.
Thái độ ấy chỉ có thể có ở một cô gái thanh niên xung phong đầy bản lĩnh, mạnh mẽ
và kiên cường.
* Phẩm chất 2: Phương Định có tình đồng đội gắn bó.
- Sống trong ngôi nhà chung dưới chân cao điểm ác liệt, Phương Định
rất thân thiết, hòa thuận với đồng đội. Cô yêu mến, gắn bó, hiểu rõ tính tình, sở
thích, thói quen của từng người, hiểu cả nỗi lo lắng của chị Thao dù chị cố che giấu.
Cô đặc biệt dành tình yêu và niềm cảm phục cho những người chiến sĩ trên tuyến
đường Trường Sơn: “Trong suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh, can
đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục và có ngôi sao trên mũ”.
- Lúc Thao và Nho lên trên cao điểm trinh sát, Phương Định ở hang
trực điện đài, cô bồn chồn, căng thẳng, đứng ngồi không yên, lo lắng cho đồng đội,
đến nỗi gắt với đại đội trưởng và chỉ mong chờ nghe một tiếng súng trường. Với
Phương Định, mọi thứ đều "không đáng kể nữa", không có gì lí thú nữa "nếu các bạn
tôi không quay về".
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 29
- Nho bị thương, Phương Định đã chăm sóc rất chu đáo: nhanh chóng
tìm và bế Nho ra khỏi hầm bị lấp, băng bó vết thương, tiêm rồi cho Nho uống sữa.
Trước sự đau đớn của Nho, cô đã rất xót xa, đau lòng: “người ngoài cảm thấy đau
hơn người bị thương” nhưng lại cố tỏ ra cứng cỏi, bản lĩnh.
- Tình đồng chí, đồng đội chính là điểm tựa, niềm tin, sức mạnh để cô
vượt qua khó khăn, gian khổ.
3. Vẻ đẹp tâm hồn của một cô gái trẻ
* Hoàn cảnh sống và công việc: Phương Định cùng với hai người đồng đội làm thành
một tổ trinh sát mặt đường, có nhiệm vụ phá bom trên một cao điểm, giữa một
vùng trọng điểm của tuyến đường Trường Sơn, nơi gian khổ, ác liệt, nguy hiểm, tập
trung nhất bom đạn và sự đánh phá của kẻ thù.
* Hoàn cảnh chiến tranh là đau thương, mất mát ấy đã không thể hủy diệt được vẻ đẹp
tâm hồn rất tươi xanh của tuổi trẻ ở cô gái tuổi đôi mươi.
- Biểu hiện 1: Phương Định rất thích hát.
+ Phương Định là một cô gái Hà Nội, từng có một thời học sinh hồn
nhiên, vô tư sống cùng mẹ ở một đường phố yên tĩnh, thanh bình. Vào chiến trường đã
ba năm, đã quen với những thử thách và hiểm nguy, giáp mặt hàng ngày với cái chết
nhưng tâm hồn cô không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng và những mơ ước về tương
lai.
+ Với cô, tiếng hát là giai điệu của tâm hồn, là thứ sức mạnh tinh thần để
“át tiếng bom”.
+ Phương Định có thể hát ở mọi nơi, thích hát hành khúc bộ đội, dân ca
quan họ mềm mại, rồi Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô, dân ca Ý trữ tình, thậm chí
có lúc cô “bịa ra lời mà hát” rồi “bò ra mà cười một mình”.
- Biểu hiện 2: Cô hay mơ mộng, rất nữ tính, thích làm đẹp cho cuộc sống
của mình ngay cả trong hoàn cảnh chiến trường khốc liệt. Phương Định đã mang vào
cuộc chiến tất cả những nét tươi trẻ, đầy sức sống của tuổi thanh xuân.
+ Cô rất nhạy cảm, quan tâm đến hình thức của mình, thích ngắm
mắt mình trong gương, hay ngồi bó gối mơ mộng.
+ Phương Định thấy vui và tự hào khi được nhiều anh lính để ý và có
thiện cảm nhưng luôn tỏ ra kín đáo giữa đám đông, tưởng như là kiêu kì. Đó là cái vẻ
kiêu kì đáng yêu của các cô gái Hà Nội như chính cô đã thú nhận: “chẳng qua là tôi
điệu đấy thôi”. Nét điệu đà, hồn nhiên, duyên dáng càng tôn thêm vẻ đáng yêu của
cô thanh niên xung phong gan dạ, dũng cảm.
- Biểu hiện 3: Phương Định rất hồn nhiên, lạc quan, yêu đời, thích cười
đùa, luôn coi nhẹ gian khổ, hiểm nguy. Cô:
+ gọi những người đồng đội một cách vui đùa là “những con quỷ mắt
đen”
+ giễu cợt với sự hiểm nguy “thần chết là một tay không thích đùa”
+ tìm thấy sự thú vị trong cuộc sống, kể cả trong công việc đầy nguy
hiểm: “việc nào cũng có cái thú của nó”.
- Biểu hiện 4: Cuộc sống của Phương Định bên cạnh sự ác liệt, nguy hiểm vẫn
có những giây phút yên bình, êm đềm.
+ Đó là những giây phút thảnh thơi “nằm dài trên nền ẩm, lười biếng nheo mắt
nghe ca nhạc”.
+ Là khi cơn mưa đá đến bất ngờ trên cao điểm đầy bom đạn, đã khơi dậy
bao xúc cảm trong tâm hồn cô gái trẻ.
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 30
+/ Cô vui thích cuống cuồng, như một đứa trẻ trong sáng, vô tư, chạy
đi chạy lại hứng những giọt mưa đá, xòe cho Nho xem.
+/ Cơn mưa qua đi khiến Phương Định thẫn thờ tiếc nuối bởi nó mang
tới trong cô nỗi niềm xao xuyến, nhớ về một thời yên bình sống bên cạnh mẹ giữa
thành phố. Những hồi ức về gia đình và thời thiếu nữ vô tư sống lại trong Phương
Định giữa chiến trường dữ dội, giống như một niềm khao khát làm dịu mát tâm
hồn.
=> Đánh giá nâng cao: Phương Định là hình ảnh tiêu biểu cho những cô gái thanh
niên xung phong, hình ảnh đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ cứu nước.
=> Đánh giá nghệ thuật: Về mặt nghệ thuật, Lê Minh Khuê đã
* lựa chọn ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện là Phương Định
* nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, sâu sắc
* giọng điệu và ngôn ngữ linh hoạt, tự nhiên, gần với khẩu ngữ, trẻ trung, có
chất nữ tính
* sử dụng linh hoạt các câu trần thuật.
=> Đánh giá tác giả: Lê Minh Khuê có sự:
+ gắn bó, am hiểu hiện thực chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn;
+ trân trọng, ngợi ca dành cho những cô gái thanh niên xung phong.
4. Tâm lí của Phương Định
a. Tâm lí của một cô gái mới lớn
- Cũng như các cô gái mới lớn, Phương Định nhạy cảm và quan tâm đến hình
thức của mình. Cô tự đánh giá với niềm kiêu hãnh, tự hào: “Tôi là con gái Hà Nội.
Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá”.
- Cô biết mình được nhiều người, nhất là những anh lính để ý và có thiện cảm.
Điều đó làm cô thấy vui và tự hào nhưng chưa dành riêng tình cảm cho một ai, thường
tỏ ra kín đáo giữa đám đông, tưởng như là kiêu kì.
b. Tâm lí trong một lần phá bom
- Phương Định đã rất quen với công việc phá bom nhưng mỗi lần phá bom vẫn
là một thử thách, căng thẳng tột cùng: “Vắng lặng đến phát sợ. Cây còn lại xơ xác.
Đất nóng”.
- Hình dung ra cảnh các anh cao xạ ở trên đang dõi theo mình, lòng dũng cảm
của Phương Định như được kích thích bởi sự tự trọng. Cô không đi khom mà
đường hoàng bước tới cạnh quả bom.
- Ở bên quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, giác quan của con
người như sắc nhọn hơn: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom, một tiếng
động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi”. Phương Định tự hối thúc mình chạy đua
với thời gian, vượt qua cái chết để hoàn thành nhiệm vụ. Hành động của cô rất khẩn
trương, cẩn thận, cho thấy những kinh nghiệm khi phá bom.
- Đặt xong thuốc nổ, Phương Định lại tiếp tục hồi hộp, căng thẳng chờ đợi
tiếng nổ của quả bom: "Không có gió. Tim tôi cũng đập không rõ". Cô có nghĩ đến cái
chết khi nguy hiểm kề bên nhưng điều ấy chỉ thoáng qua rất mờ nhạt. Lúc này, một
loạt những câu hỏi xuất hiện: “liệu mìn có nổ, bom có nổ không?”, "Không thì làm
cách nào để châm mìn lần thứ hai?". Nó cho thấy những lo lắng, tinh thần trách
nhiệm với công việc còn cao hơn mạng sống.
- Sau đó, Phương Định cảm nhận rõ tiếng nổ của quả bom vang lên: “Một thứ
tiếng kì quái, đến váng óc” khiến ngực cô nhói lên, mắt cay mãi mới mở ra được.
Tài liệu ôn thi Ngữ văn 9 – THCS Chu Văn An (Long Biên) 31
- Có thể thấy, tâm lí Phương Định trong một lần phá bom được miêu tả rất cụ
thể, tinh tế đến từng cảm giác dù chỉ thoáng qua trong giây lát. Lê Minh Khuê đã cho
thấy:
+ những căng thẳng, nguy hiểm trong công việc hàng ngày của những
cô gái thanh niên xung phong.
+ Tác giả cũng cho thấy vẻ đẹp của lòng tự trọng, dũng cảm, tinh thần
trách nhiệm cao với nhiệm vụ của Phương Định.
=> Đánh giá nâng cao: Nhân vật Phương Định trong tác phẩm là hình ảnh tiêu biểu
cho những cô gái thanh niên xung phong, hình ảnh đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam
thời chống Mỹ cứu nước.
=> Đánh giá nghệ thuật: Về mặt nghệ thuật, Lê Minh Khuê đã
* lựa chọn ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện là Phương Định
* nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, sâu sắc
* giọng điệu và ngôn ngữ linh hoạt, tự nhiên, gần với khẩu ngữ, trẻ trung, có
chất nữ tính
* sử dụng linh hoạt các câu trần thuật.
=> Đánh giá tác giả: Lê Minh Khuê có sự:
+ gắn bó, am hiểu hiện thực chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn;
+ trân trọng, ngợi ca dành cho những cô gái thanh niên xung phong.