Professional Documents
Culture Documents
A. MỞ BÀI:
1. Không biết tự bao giờ mùa xuân đã bén duyên – một mối duyên sâu sắc,
với văn thơ nghệ thuật. Nếu như họa sĩ dùng đường nét và màu sắc, nhạc sĩ dùng giai
điệu và âm thanh, thì thi sĩ dùng chất liệu ngôn từ để diễn tả những rung cảm đẹp trước
mùa xuân của thiên nhiên đầy quyến luyến, đắm say. Ta đã từng bắt gặp một sắc cỏ
xuân non tơ trong thơ Nguyễn Du, một “mùa xuân chín” rạo rực trong thơ Hàn Mặc Tử,
một “mùa xuân xanh” tươi tắn, nhẹ nhàng trong thơ Nguyễn Bính…Và xúc động biết
bao, khi ta được hòa mình vào “Mùa xuân nho nhỏ” khiêm nhường mà lắng đọng của
Thanh Hải để rồi thêm quý, thêm yêu cuộc đời. Đọc bài thơ, có lẽ không ai không có ấn
tượng với khổ thơ ...( trích thơ)
2. Muôn thuở một năm có bốn mùa xuân- hạ- thu- đông nhưng mùa xuân là
mùa hội tụ những bàn tay nghệ sĩ tài hoa nhất. Vì thế mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng
bất tận cho thơ ca, nhạc họa tự cổ chí kim. Ta đã từng bắt gặp……(như trên)
B. THÂN BÀI:
I. TỔNG:
1. Tác giả: - Thanh Hải (1930-1980) tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê: Thừa
Thiên – Huế, là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở
miền Nam từ những ngày đầu.
- Là nhà thơ có sở trường về thể thơ năm chữ với ngôn ngữ trong sáng, giản dị;
giọng điệu thiết tha, trìu mến; cảm xúc chân thành, sâu lắng và đầy lạc quan, tin tưởng.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được sáng tác vào tháng 11 năm 1980 khi tác
giả đang nằm trên giường bệnh, khoảng một tháng trước khi ông mất. Tác phẩm được
xem là món quà cuối cùng, là bản di chúc thiêng liêng mà Thanh Hải để lại cho đời.
b. Nội dung: Bài thơ là tiếng lòng thiết tha yêu mến cuộc đời, đất nước mong
muốn cống hiến góp mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân của đất nước, dân tộ
c. Bố cục, mạch cảm xúc:
- Bố cục: 4 phần
II. PHÂN:
1. Khổ 1: Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời:
- “Thơ không chỉ là thơ mà còn là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách
riêng” ý kiến của Sóng Hồng quả là không sai với sáu câu đầu của bài thơ. Bức tranh
xuân được mở ra với không gian cao vời vợi của bầu trời, với chiều dài của dòng sông
xanh…mùa xuân thiên nhiên được đặc tả với cả màu sắc và âm thanh:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
+ Nhắc đến thiên nhiên mùa xuân, thơ ca bao đời thường dùng những thi liệu
quen thuộc mưa xuân, cỏ non, hay hoa đào, chim én…với Thanh Hải một người con xứ
Huế, mùa xuân lại mở ra với chiều dài của dòng sông xanh mát. Màu xanh ấy phải
chăng là màu nước Hương giang hay là một tín hiệu báo xuân đang về?. Trên cái nền
xanh bình lặng ấy, nổi bật màu “tím biếc” đậm đà, tươi thắm của bông hoa. Xanh, tím -
những gam màu dịu nhẹ được phối sắc tài tình gợi vẻ đặc trưng của xứ Huế mộng mơ.
Nếu hoa đào hồng thắm gắn với mùa xuân xứ Bắc, hoa mai vàng rực rỡ gắn với mùa
xuân phương Nam, thì mùa xuân miền Trung lại gắn với sắc tím giản dị, mộc mạc có
thể của loài hoa lục bình dân dã đã từng đi vào thơ Lê Anh Xuân:
Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước cẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông
(Trở về quê nội)
+ Phép đảo ngữ đưa động từ “mọc” lên đầu câu thơ là một dụng ý nghệ thuật
nhằm khắc sâu ấn tượng về sức sống mạnh mẽ đang vươn lên, đang trỗi dậy của bông
hoa nhỏ bé giữa bốn bề sông nước. Cũng vì vậy, dù chỉ “một” nhưng bông hoa không
hề lẻ loi đơn chiếc, mà sắc tím ấy nổi trội, đậm đà, nồng ấm cả dòng sông xanh. Như
vậy, bức tranh xuân có sông xanh làm nền, có hoa tím làm điểm nhấn, là bút pháp chấm
phá điểm xuyết của thơ ca hội họa phương Đông mà ta bắt gặp trong thơ cổ. Có thể
thấy, ở hai câu đầu nghệ thuật dựng hình, pha màu kết hợp đảo cấu trúc tạo cho nên bức
tranh tràn đầy sức xuân và sắc xuân rộn rã.
+ “Thi trung” không chỉ “hữu họa” mà còn “hữu nhạc”. Hòa điệu với sắc xuân
không thể thiếu nhạc xuân: âm thanh của tiếng chim chiền chiện, loài chim báo hiệu
xuân về. Âm thanh lảnh lót, vang vọng của tiếng chim làm cho bức tranh xuân rộn rã,
náo nức lòng người. Trước âm thanh vui tươi ấy, tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ trở nên
xao xuyến. Thán từ “Ơi” trìu mến, thân thương kết hợp với hai từ “hót chi” là phương
ngữ dịu ngọt đặc trưng của người dân xứ Huế đã diễn tả trọn vẹn cảm giác thích thú và
niềm vui xốn xang trong lòng nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân.
+ Tiếng chim lảnh lót, ngân vang, tràn ngập đầy ắp cả không gian, khiến nhà thơ
nghe bằng giác quan thôi chưa đủ mà phải nghe bằng cả trái tim xúc động, bằng tâm
hồn nhạy cảm và cả trí tưởng tượng độc đáo. Tiếng chim trong trẻo như kết đọng lại
thành từng chuỗi ngọc long lanh rơi vào không gian trong suốt của mùa xuân. Âm thanh
tiếng chim là cái vô hình vốn chỉ lắng nghe bằng thính giác, qua phép ẩn dụ tài tình của
thi sĩ đã trở nên có hình khối, có thể cảm nhận bằng thị giác, để rồi nhà thơ có thể trân
trọng nâng niu, trân quý, giữ gìn “đưa tay hứng”. Như vậy, nhà thơ đón nhận vẻ đẹp
thiên nhiên bằng tất cả giác quan, từ thính giác đến thị giác rồi xúc giác bằng cả tâm
hồn đang rạo rực, say sưa, ngây ngất tình xuân.
Sáu câu thơ đầu là một bức tranh xuân tuyệt đẹp có sức xuân, sắc xuân, nhạc
xuân, tình xuân tất cả hòa vào nhau mà thi nhân với sự căng nhọn các giác quan và tâm
hồn yêu cuộc sống để cảm nhận. Nếu không thì làm sao giữa những ngày đông tháng
giá, khi đang đấu tranh với căn bệnh hiểm nghèo, thi nhân lại có thể cảm nhận được
những nét tinh túy của thiên nhiên đến vậy. Chất men say đơm lên từ tình yêu cuộc
sống, từ nghị lực phi thường đã tạo nên những câu thơ với cảm xúc thăng hoa tuyệt đẹp.
2. Cảm xúc trước mùa xuân đất nước (Khổ 2,3)
Từ cảm xúc say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ
đã bộc lộ những cảm xúc về mùa xuân đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…