You are on page 1of 10

Tài liệu nghị luận văn học

Phân tích bài thơ: Mùa Xuân Nho Nhỏ


Mở bài*: Mùa xuân- nàng thơ của không biết bao nhà thi nhân, đồng
thời mùa xuân còn là sự chuyển giao của năm mới; là giọt nắng ban mai,
là hạt mưa vội vã, là cơn gió dịu mát. Đã có không ít thi nhân đã vài lần
hóa thân thành lãng tử lang thang đến mọi nơi chốn của thế gian để góp
nhặt những hồn, những sắc của cuộc sống và rót vào đoá hoa thi ca, để
bông hoa vươn mình dâng lên cho đời mật ngọt quý giá, hương nhụy
trong lành. Chắc hẳn rằng, đã là người nghệ sĩ, có ai cất đi những rung
động của trái tim vào chiếc rương khóa chặt, có ai giã từ bốn chữ "tận
tâm tận tụy" mà mặc nhiên để "tâm nhãn" ngủ đông khi đứng trước
những biến thiên của thế gian. Hiểu được một điều ấy, Thanh Hải đã chắp
bút viết nên hồn thơ "Mùa xuân nho nhỏ". Thả hồn vào thi phẩm, độc giả
sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy bóng hình chiếc giường trắng toát nào của
bệnh viện, chút nỗi khốn khổ, khóc than nào của một thi nhân đang dần
lìa xa nhân thế, tiến gần đến bờ tử. "Mùa xuân nho nhỏ" là tiếng lòng của
người thi nhân đang hấp hối nhưng chớ lầm tưởng rằng tiếng lòng ấy sẽ
bi quan, u uất. Thi phẩm là viên ngọc được kết tinh từ niềm ái mộ tha
thiết của nhà thơ trước thiên nhiên, đất nước và cũng là nơi Thanh Hải
gửi gắm niềm ước nguyện của mình.
Dẫn thơ (1 câu đầu và 1 câu cuối)
Giới thiệu tác giả, tác phẩm*
 Thanh Hải, một trong những thi nhân được nuôi dưỡng trong tiết trời
của xứ Huế, gắn bó cả đời người bên người mẹ thứ hai mang tên
"Huế". Ông là một nhà thơ luôn hướng ngòi bút của mình vào lý
tưởng sống và tình yêu để từ ấy góp sức vào sự nghiệp dựng xây nền
văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. Bài thơ "Mùa
xuân nho nhỏ" được sáng tác lúc ông đang ở trên giường bệnh vào
những ngày cuối đời. Khi thước phim đời người sắp kết thúc, Thanh
Hải đã đặt tay lên những phím đàn của niềm ước nguyện được cống
hiến cho cuộc sống cùng với giọng thơ hồ hởi, thiết tha đan xen
những hình ảnh hồn xuân, sắc xuân, Thanh Hải đã dẫn bạn đọc đến
với một mùa xuân tràn đầy tin yêu của mảnh đất Huế kinh kì hoa
mộng, của đất nước Việt Nam.
 Phân tích
 Mùa xuân thiên nhiên (khổ 1)
Mở đầu bài thơ, một vũ điệu của mùa xuân tươi tắn đã rót vào tâm
hồn Thanh Hải niềm cảm xúc dâng trào. Thật đơn sơ, lặng lẽ mà mùa
xuân vẫn hiện về tràn đầy sức sống trào dâng:
“ Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Giản dị mà đầm ấm xiết bao! Thanh Hải đã khéo chọn cho mình một bức
tranh xuân với gam màu ấm áp, mà dịu dàng, trang nhã. Đó là khúc sông
uốn lượn tựa như tấm lụa đào thướt tha của dải đất miền Trung quanh co.
Phải chăng đó chính là dòng Hương Giang êm đềm, hiền từ ? Dòng sông
đó đã hoà nhập với bầu trời xanh thẳm bên trên để biến thân thành một
"dòng sông xanh". Chấm phá trên phông nền xanh xanh ấy là hình ảnh
"một bông hoa tím biếc". Sự sắp xếp hết sức cân đối hài hòa của bức
tranh thơ, cái to lớn bao la không lấn át cái nhỏ nhoi, bé bỏng. Màu xanh
của dòng sông làm nền cho sắc tím của hoa càng nổi bật. Chỉ vài nét phác
thảo, Thanh Hải đã vẽ nên bức tranh xuân thơ mộng hài hòa. Bằng biện
pháp đảo ngữ “mọc giữa dòng sông xanh”, tác giả đã tô đậm hình ảnh
một bông hoa tím bé nhỏ mà tràn đầy sức sống mãnh liệt, vươn lên sự
sống trong điều kiện có phần khắc nghiệt để hòa cùng vạn vật giữa vũ trụ
bao la vô tận. Hình ảnh thơ thật nhẹ nhàng, thanh thoát, màu hoa tím biếc
nhè nhẹ xuôi dòng Hương Giang xanh thẳm thật thơ mộng lãng mạn,
quyến rũ đến lạ thường! Một màu tím thủy chung đặc trưng của con
người xứ Huế mộng mơ, trầm tư, cổ kính.
Cổ nhân từng nói:"Thi trung hữu nhạc" tức trong thơ trữ tình có nhịp điệu
hòa quyện với nhạc, chứa đựng những thanh âm của nhà hát cuộc đời. Có
lẽ vì vậy, Thanh Hải đã thả trọn những vang vọng của thiên nhiên đang
độ xuân về vào vần thơ của mình:
"Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời."
Có thứ âm hưởng thật ngọt ngào, dịu dàng trong "ngôn ngữ Huế". Thanh
Hải là một người gắn bó với xứ Huế bằng tình yêu tha thiết, chân thành
nên trong giọng thơ trìu mến, thân thương của ông tồn tại hình bóng của
từ "Ơi" mộc mạc, gần gũi và lời trách yêu "hót chi mà". Trong bản trường
ca mùa xuân, chàng nghệ sĩ chiền chiện đã cất cao tiếng hát trong veo,
thánh thót và ngân nga. Hàng ngày ngồi bên cửa sổ phòng bệnh, màu tím
biếc của hoa, sắc xanh của dòng nước và điệp khúc của tiếng chim cứ gợn
trong mắt, âm vang bên tai nhà thơ. Đó đều là những hình ảnh, tín hiệu
đặc trưng của mùa xuân cố đô.
Ông đã nâng lên chén rượu kính đời và "say” trong niềm thổn thức trước
thiên nhiên. Tâm trí của nhà thơ như con thuyền nhỏ đi từ bến cõi thực
sang bến cõi mộng. Sóng xanh, hoa tím, tiếng chim...đều kết tinh thành
giọt:
"Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
"Giọt long lanh" - hình ảnh giàu sức gợi và ẩn chứa muôn trùng sắc thái.
Đó phải chăng là dư âm của trận mưa đọng lại trên phiến lá ? Hay mùa
gió xuân đã thổi những hạt phấn của nắng sớm phủ lên giọt sương mai
nơi kẽ lá, như những viên pha lê xinh đẹp? Có lẽ là tất cả và còn nhiều
hơn nữa. Đó cũng là giọt hạnh phúc của tình đời đượm thắm cả đất trời,
hòa quyện vào tâm hồn thi sĩ. Trong mối liên kết với câu thơ trước, tiếng
chim hồn nhiên, trong trẻo mà da diết dưới vòm trời cao rộng đã kết đọng
lại thành từng "giọt âm thanh" rơi xuống hồn người, chạm vào cõi sâu
lặng, khuấy lên bao nỗi niềm của nhà thơ. Bằng tâm hồn tinh tế và điểm
nhìn nghệ thuật độc đáo, ông đã hình tượng hóa tiếng chim như suối
nguồn âm thanh tuôn chảy trong ánh sáng rạng rỡ. Tiếng chim từ chỗ
được lắng nghe bằng thính giác chuyển sang thị giác rồi xúc giác. Đó
chính là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được Thanh Hải sử dụng
một cách tài tình. Thi nhân vội vàng đưa đôi bàn tay để "hứng" lấy thứ
quà tặng của thiên nhiên xứ Huế với một sự đón nhận, nâng niu, trân quý
như sợ rằng, nếu không làm như vậy thứ âm thanh ngọt lành kia sẽ chìm
vào thinh vắng. Đại từ "tôi" được điệp hai lần đã gợi nên khát khao được
ôm trọn vào lòng tất cả tinh hoa của cuộc sống, được tận hưởng, chiếm
lĩnh và giao hòa với bản hoà tấu mùa xuân. Như vậy, chỉ với vài nét hoạ,
đan xen một chút chất nhạc, Thanh Hải đã phác họa được một kiệt tác
tuyệt sắc mang điệu hồn thơ mộng, trữ tình của mùa xuân đất Huế căng
tràn sức sống. Từ đó, bộc lộ niềm say xưa, ngây ngất của tác giả trước
thiên nhiên đất trời mùa xuân.
 Mùa xuân đất nước (khổ 2+khổ 3)
Trong vũ điệu của mùa xuân, ta không chỉ thấy được vẻ đẹp quyến
rũ của mùa xuân thiên nhiên mà con người bắt gặp mùa xuân trẻ trung,
sôi nổi của đất nước, con người, Thanh Hải đưa ra hai hình ảnh cụ thể,
tiêu biểu của đất nước đó là người lính và người nông dân:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao"
Không phải ngẫu nhiên mà Thanh Hải sử dụng hình thức sóng đôi nhịp
nhàng với hai hình ảnh “người cầm súng" và "người ra đồng”. Bởi lẽ họ
là những người đại diện cho sức mạnh dân tộc. Đồng thời, biểu trưng cho
hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta là chiến đấu ở tiền
tuyến và lao động xây dựng hậu phương vững chắc. Nét đặc sắc của đoạn
thơ là việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “lộc”. Lộc biếc rũ bỏ quá khứ điêu
tàn, cũ kĩ để vươn lên sau những cơn mưa xuân rét mướt, những ngày
đông giá lạnh trong kén lá đang ngỡ ngàng nhìn vạn vật. Lộc giắt đầy trên
lưng "người cầm súng", phơi phới bước chân ra trận gợi liên tưởng đến
cành lá ngụy trang của người chiến sĩ. Lộc mà người chiến sĩ mang đến
cho chúng ta là mồ hôi, là giọt lệ, là xương máu mà các anh đổ xuống vì
toàn dân, là thành quả của những năm tháng dốc toàn sức toàn lực bảo vệ
mùa xuân thanh bình của tổ quốc, là phong bì đỏ của niềm hạnh phúc, an
lành gửi đến mọi nhà phong. Lộc trải dài vô tận trên nương mạ do những
đôi tay chai sạn của "người ra đồng" gieo trồng. Những người nghệ nhân
ấy đã tô điểm thêm cánh diều xanh của niềm tin, hi vọng đang tung bay
trong mùa gió xuân. Lộc mà người nông dân dành tặng cho người, cho
đời là rãy bắp, bãi dâu, là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon
ngọt. Người cầm súng mang theo sức xuân vào trận đánh, người ra đồng
gieo mùa xuân trên từng thửa ruộng. Họ đã mang cả hương vị mùa xuân
ra trận địa của mình để gặt hái mùa xuân về cho đất nước. Tất cả "như hối
hả", "như xôn xao" mà hoà quyện trong sự phồn thực của mùa xuân. Điệp
từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả, xôn xao” làm cho nhịp thơ trở
nên sôi động, lời thơ chan chứa niềm hân hoan, rung động. Tác giả đã
mang đến âm hưởng của nét sống rộn ràng, nhộn nhịp, khẩn trương trong
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.
Cung bậc cảm xúc của thi nhân bất giác gói gọn trong nỗi chạnh lòng khi
thước phim bốn ngàn năm lịch sử của quê hương, đất nước chợt sống dậy
trong nhịp thơ trầm tư, sâu lắng:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên "Lịch sử", móc thời gian "bốn
ngàn năm" đã đi vào tâm thức của biết bao thế hệ. Một lời tổng kết về
lịch sử đất nước “bốn ngàn năm” với bao “vất vả”, “gian lao", với muôn
vàn những thăng trầm, gian truân,biến động. Cái nghèo cái đói chẳng
buông tha, bão giông, nắng lửa chẳng nương tay, những cơn thủy triều
của sự đau thương, mất mát cứ xé nát tâm can. Song, Thanh Hải đã sử
dụng hình ảnh so sánh "Đất nước như vì sao" để khẳng định sức mạnh
lớn lao, ý chí bất khuất và bản lĩnh can trường của tổ quốc Việt Nam. Vì
sao ấy luôn luôn tỏa ra vầng hào quang rạng ngời, sáng tỏa, vững vàng
bay lên từng nấc thang của bầu trời rộng lớn để ngày càng văn minh,
hạnh phúc. Điệp từ “đất nước” cộng với cấu trúc song hành “đất nước
bốn ngàn năm, đất nước như vì sao” diễn tả nhịp vận động đi lên của lịch
sử và khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước. Dằng dặc bốn
ngàn năm, ta vẫn là ta, là một quốc gia nhỏ bé trên bản đồ thế giới nhưng
lại khiến toàn nhân loại thán phục với những chiến công hiển hách. Đó là
ba lần thắng lợi trước đoàn quân Mông - Nguyên hung hãn. Là Bạch
Đằng, Chương Dương, Hàm Tử - mồ chôn của bao đế chế ngông cuồng.
Là những năm tháng đấu tranh ngoan cường khiến Mĩ và Pháp phải thua
cuộc. Hình ảnh một quốc gia dẫu trải qua bao nhiêu khó khăn, dẫu phải
đứng trước những kẻ thù to lớn vẫn không bao giờ cam tâm quỳ xuống đã
đi vào hồn thơ của Hạ Văn Thịnh:
"Định mệnh nhắc ta rằng Đất Việt gian truân
Nhưng chữ S chẳng thể nào gục gãy
Người trước ngã, người sau đứng dậy"
Từ "cứ" vang lên như một nốt thăng với khí thế hào sảng. Tiếng thơ là
một lời khẳng định hùng hồ và chan chứa niềm tin, niềm tự hào bất diệt
của Thanh Hải vào sức sống của dân tộc, vào sự phát triển không ngừng
trong tương lai của đất nước.

 Ước nguyện và quan điểm sống của nhà thơ (4+5)


Khổ 4:
Khi đến với thế giới của thơ ca, ta đến với thế giới của những tiếng
nói trái tim, của muôn vàn luống trạng cảm xúc. Rẽ thơ mà đi vào chiều
sâu tâm hồn, bạn đọc như vỡ lẽ biết bao chiêm nghiệm mà người cầm bút
đã gạn lọc từ cuộc đời. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” - một thi phẩm được
thai nghén bởi trái tim yêu tha thiết mùa xuân xứ Huế của nhà thơ Thanh
Hải. Đến với thơ ông, ta như đồng điệu với hồn thơ, đồng điệu cái với
triết lí sống cống hiến của một con người giản dị, khiêm nhường.
Vốn là một con người giản dị, nhẹ nhàng, ngay nhan đề bài thơ cũng đã
chuyên chở biết bao những tình cảm của người nghệ sĩ. Theo lẽ thường,
mùa xuân được biết đến với nguồn sức sống mạnh mẽ, căng tràn của
những chồi non cùng những đóa hoa khoe sắc thắm. Mùa xuân đi vào
trong thơ ca của Thanh Hải lại liền với ngôn từ “nho nhỏ”. Ấy là cái “nho
nhỏ” của lối sống giản dị, khiêm nhường, của một mùa xuân từ chính
cuộc đời của tác giả. Đối với ông, sống là cống hiến, là góp sức mình cho
đời dù là một cái gì đó “nho nhỏ”.
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập cùng hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Thanh Hải đã đặt bàn tay xám ngắt của mình lên chiếc vĩ cầm "thơ ca" để
tấu lên giai điệu ngọt ngào, du dương, êm ái rót vào tâm hồn, nhẹ nhàng
xoa dịu trái tim. Giai điệu ấy hiện lên trong những thanh bằng liên tiếp,
những luyến láy, điệp ngữ “ta làm…ta làm...ta nhập”. Tiếng thơ như một
lời thủ thỉ tâm tình về niềm ước nguyện của nhà thơ. Thi nhân muốn hoá
thân đến tốt độ, hóa thân đến trọn vẹn hồn cốt - một sự hoá thân diệu kì.
Đó hẳn là nguyên do mà ông sử dụng các động từ "làm" , "nhập". Cái "ta"
ở đây không phải là của riêng tác giả hay một cá thể đơn thân nào
khác."Ta" giờ đây là là một quần thể, một dân tộc. "Ta" đã đồng thanh,
đồng điệu với mọi người, chân trời riêng đã hoà quyện với chân trời
chung. Những hình ảnh "con chim hót", "một cành hoa", "một nốt trầm"
dẫu nhỏ bé, đơn sơ nhưng lạ phúng dụ lẽ sống cao đẹp của Thanh Hải.
Ông muốn làm một "con chim" trong muôn vàn loài chim, góp vào đời
tiếng hót tươi vui, tha thiết làm đắm say lòng người. Ông chỉ xin được
làm "một cành hoa" trong xứ sở hoa với đủ đầy những gam màu từ rạng
rỡ đến âm trầm. Và người thi sĩ ấy chỉ ước mong được làm "một nốt
trầm" lặng lẽ, âm thầm cứ mãi du dương để lại dư âm bồi hồi, xao xuyến
trong lòng người. Bản giao hưởng cuộc đời không thể thiếu những nốt
trầm ấy. Thanh Hải - "nốt trầm" trong bản hoà ca muôn điệu của đất nước
đã để lại trong lòng người đọc hình ảnh một thi sĩ sống với điều tâm niệm
thật chân thành, giản dị và tha thiết. Đây cũng chính là sự gặp gỡ với khát
vọng cống hiến của nhà thơ Tố Hữu:
“Nếu là con chim, chiếc lá,
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”
Phàm trên đời, đã là chim phải biết hót, đã là lá phải xanh, đã là bông hoa
thì phải tỏa hương thơm mát cho cuộc sống. Không bất kể bạn là ai,
nhưng hãy sống đúng là bạn với một cuộc đời ý nghĩa. Với Thanh Hải,
sống cũng chính là vậy. Nhà thơ đã ước nguyện thành chim hót, nhành
hoa hay là nốt trầm xao xuyến trong bản hoà ca đều hướng đến những
điều ý nghĩa trong cuộc sống. Đó là âm thanh, là hương sắc là cái lắng
đọng, đơn sơ. Sống đơn giản là được cống hiến từ giá trị của chính bản
thân mình.
Khổ 5
Thanh Hải không chỉ vẽ nên bức tranh xuân căng tràn nhựa sống
mà chính nhà thơ lại mong muốn trở thành một phần sức sống của bức
tranh xuân. Quả thật, phải rẽ vào từng lời thơ, sống cùng những cảm xúc
của tác giả ta mới thấu, mới chiêm nghiệm biết bao những sâu sắc được
gửi gắm sau lớp ngôn từ. Ấy là quan niệm sống hòa vào thiên nhiên, sống
cống hiến cuộc đời cho mùa xuân đất nước:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Mùa xuân là thước đo của thời gian, hạn định của không gian. Song,
Thanh Hải đã sử dụng từ láy "nho nhỏ" đã định hình cho khái niệm trừu
tượng,thể hiện ước vọng khiêm tốn, dung dị. Tính từ “lặng lẽ” cho thấy
vẻ đẹp của một tâm hồn, lối sống và nhân cách không ồn ào, khoa trương.
Ông tự nguyện cả cuộc đời cho đi một cách lặng lẽ mà không hề đòi hỏi
người ta sẽ nhớ đến danh xưng, ghi tạc vào sử sách. Ví như người lao
công lặng lẽ giữ sạch đường phố, người bác sĩ lặng lẽ cứu lấy những sinh
mệnh đang hấp hối. Lặng lẽ thôi mà sao ý nghĩa, đẹp đẽ biết bao! Lặng lẽ
thôi mà sao như dòng suối mát lành, như ngọn lửa ấm áp! Ngâm khẽ
những vần thơ "Mùa xuân nho nhỏ", bức thư tự tình của tác giả khiến ta
nhớ đến một Sapa lặng lẽ nhưng không tầm thường, những con người cứ
lặng lẽ mà miệt mài cống hiến thanh xuân và sức trẻ cho đất nước. Điệp
ngữ "dù là" cùng hình ảnh đánh dấu hai móc son quan trọng của đời
người “tuổi hai mươi” và “ khi tóc bạc” khiến cho lời thơ khẳng khái như
một lời hứa, lời tự nhủ rằng sẽ trọn đời cống hiến của nhà thơ. Trên lưng
đồi từ tuổi trẻ đến những ngày vãn niên, khát vọng hiến dâng, lí tưởng
sống thầm lặng và cao đẹp đã trở thành một lời tuyên thề vững bền, một
tâm nguyện thủy chung in sâu vào trái tim người thi sĩ ấy. Tuổi hai mươi
với nguồn năng lượng dạt dào, căng tràn sức sống, ông đầy kiên nghị và
sôi nổi, hết mình sống vì sự nghiệp xây dựng đất nước. Khi thời gian lưu
lại dấu vết trên mái tóc bạc màu, ngọn lửa nhiệt huyết vẫn không bao giờ
tắt lịm.
 Ngợi ca quê hương đất nước (khổ 6)
Sau những buồn vui, thành bại, quê hương vẫn là nơi đón nhận, là
"phòng triển lãm" lưu giữ những gì còn lại của đời người. Khúc ca cuối
cùng của Thanh Hải vẫn hướng về vẻ đẹp quê hương, vẫn là khúc ca
giành cho Huế:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”
Khúc Nam ai là khúc nhạc buồn thương, da diết gợi nên thước phim quá
khứ đầy hy sinh, khổ đau mà đất nước đã trải qua. Và trong tiết xuân hiền
hoà, ấm áp của hiện tại ta thấy ngân vang khúc Nam Bình - khúc nhạc êm
ái, trìu mến. Những âm điệu đặc trưng của Huế đã hoà vào dòng máu của
nhà thơ, đã trở thành một phần của linh hồn và luôn thường trực trong "ốc
đảo" trái tim. Bằng điệp ngữ "nước non ngàn dặm" kết hợp gieo vần bằng
"bình, mình, tình" làm cho âm hưởng bài thơ ngọt ngào, dịu nhẹ như làn
điệu dân ca trữ tình xứ Huế. Bài thơ khép lại với "nhịp phách tiền" rộn
ràng, xao động. Đó là điệu nhạc của cuộc sống mới, sức sống mới của
dân tộc. Con đò xứ Huế trên dòng sông Hương chở theo những câu hò
xao xuyến, bay bổng, điệu hò chậm rãi, miên man, tiếng hò bâng khuâng,
da diết rót vào hồn người. Để mỗi khi nghe hò là người ta nhớ đến Huế:
“Tiếng hát đâu mà nghe nhớ
Mái nhì man mác nước sông Hương”.
(Tố Hữu)
 Nhận định (Suy nghĩ của bản thân)*
Xuân Diệu quan niệm:"Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác , hay cả bài". Thơ
hay là hay từ vẻ đẹp bên ngoài đến cốt cách bên trong. "Mùa xuân nho
nhỏ" chính là một thi phẩm không chỉ thành công về mặt nội dung mà
còn mang những nghệ thuật đặc sắc.Ta dễ dàng nhận thấy bài thơ có cấu
tứ “lộ thiên” theo chiều không gian mở. Mạch thơ đi theo trình tự: Xuân
thiên nhiên – Xuân con người – Xuân đất nước – Xuân thi sĩ và cuối cùng
là Xuân đất Huế quê hương. Nhờ có những biện pháp ẩn dụ, so sánh, điệp
ngữ... đã góp phần làm nổi bật cấu tứ, hình ảnh, hình tượng và ngôn từ
của tác phẩm. Mỗi câu thơ đều giàu sức gợi tình, gợi cảm. Đây quả là một
bài thơ kết hợp hài hòa bốn yếu tố : ý - tình - hình - nhạc. "Bài thơ không
chỉ hay về ý tứ mà còn hay về nhạc điệu.
Thơ ca bắt rễ từ lòng người và nở hoa nơi từ ngữ. Những vẫn điệu lời ca
của nhà thơ Thanh Hải đều phát khởi từ một tâm hồn luôn ước mơ và
mong muốn được cống hiến cuộc đời mình cho mùa xuân đất nước. Hình
ảnh “chim hót” hay là “nhành hoa”,... đều khoác lên mình cái giản dị như
chính phong cách của ông. Cùng với đó là biện pháp hoán dụ, ẩn dụ và
điệp từ đã góp phần nhấn mạnh triết lí sống cống hiến vông cùng ý nghĩa
và đúng đắn.
Kết bài*
Suốt chặng đường dài hoạt động văn nghệ nhà thơ Chế Lan Viên đã đúc
kết: “Sẽ chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Làm sao Thanh Hải có
thể cất ngòi bút viết nên những vần thơ thấm đợm sắc xuân, tình xuân,
với một tâm hồn vô cảm, hờ hợt? Làm sao người con của xứ Huế mộng
mơ ấy có thể khao khát, hiến dâng cho đời những điều mãnh liệt, cháy
bỏng đến thế? Bởi lẽ phải có một trái tim ấm nóng, đôn hậu, nhiệt thành
với tình yêu quê hương, đất nước sâu đậm thì người chiến sĩ kiên trung ấy
mới hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình trước khi tạm biệt thế gian. Tác
phẩm là một minh chứng cho "nghệ thuật vị nhân sinh” bởi lẽ nó đã tác
động và khơi gợi được "những ngọn lửa" tư tưởng tích cực, tiến bộ neo
đậu trong trái tim độc giả trẻ rằng ta phải sống ý nghĩa, cống hiến hết
mình vì dân tộc. Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc trở thành ca
khúc vượt thời gian để người đời hiểu thêm nhân cách một thi sĩ, một
chiến sĩ.
Viếng Lăng Bác
Phân tích khổ thơ 2 + 3
Có một vần dương thao thức cả cuộc đời vẫn canh cánh, trăn trở bên
mình hai chữ “Đất nước”, có cái chết đã hóa thành bất tử trong sâu thẳm
mỗi con tim đồng bào. Dù Bác đã đi vào cỏi vĩnh hằng trong niềm tiếc
thương của dân tộc, trong cơn mưa sùn sụt, dầm dề chảy, trong dòng
nước mắt nối đuôi nhau lăn tròn, nhưng trong tâm khảm của toàn thể dân
tộc Việt Nam nói chung và nhân dân Miền Nam nói riêng vẫn một lòng
hướng về Bác, hướng về trái tim của Tổ Quốc như lá rụng về cội, sông
chảy về nguồn. Để rồi với tất cả lòng thành kính vô bờ, niềm thương nhớ
lay láng khôn nguôi cùng nét bút tài hoa của người con của vùng đất
Nam Bộ, Viễn Phương đã sáng tác ra bài thơ “ Viếng Lăng Bác” như
kính cẩn dâng lên bác một “trái tim Miền Nam” đong đầy nổi thổn thức,
nhớ mong dạt dào.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
….…………………………………
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm trong lực
lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ.
"Viếng lăng Bác" được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày
thống nhất đất nước, lăng Bác được khánh thành. Bài thơ như một thước
phim ghi lại chuyến hành trình về cội của vị thi nhân này. Thơ ca của
Viễn Phương rất đỗi êm đềm, nhẹ nhàng, nhưng chứa đựng nhiều cảm
xúc, từng câu từng chữ dẫu đọc rất giản dị, mộc mạc, nhưng đó lại chính
là những cảm xúc chân thực nhất mà tác giả muốn gửi gắm. Đặc biệt là
khổ 2 và 3, khi ông hòa mình cùng dòng người vào lăng và khi ông vào
trong lăng thăm Bác. "Viếng lăng Bác" ngỡ như một câu chuyện bởi lời
thơ thật dịu dàng êm ái, như thì thầm, tâm sự:
"Ngày ngày mặt trời đi quan trên lăng
Thấy một mặt trời trong lắng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân."

Thạch Lam đã từng đối thoại rằng: “Đối với tôi, văn chương không phải
là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn
chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa
tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng
người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Văn chương nói chung,
thơ ca nói riêng đều hướng đến cái lí tưởng, tốt đẹp, chân - thiện - mĩ cho
mỗi con người. Người đọc đến với tác phẩm là tìm cái lí tưởng để suy tư,
sống cùng tác giả và đến với thi phẩm “Viếng lăng Bác” là đến với cái lí
tưởng của một tình yêu thương da diết dành cho vị cha già của dân tộc.

You might also like