You are on page 1of 21

Đề bài: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải

I.Mở bài:
Thơ ca từ lâu đã được xem là một món quà quý báu dành cho đời sống tinh thần của mỗi người. Dù dưới
hình thức nào thì nó vẫn là một tấm gương phản ánh một thế giới khách quan. Tác phẩm nghệ thuật, văn học
chân chính là nơi để tác giả gửi gắm tâm tư, khát vọng sâu xa của mình. Và nhà thơ người Pháp Andre
Chenien đã nhấn mạnh rằng: “Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ”. Nghệ
thuật trong thơ ca chính là sự sáng tạo, nó bắt nguồn từ chất liệu trong cuộc sống cũng như cảm xúc của nhà
thơ. Điều đó ta nhận thấy rõ qua tác phẩm “Mùa Xuân nho nhỏ” của Thanh Hải
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung:
Thanh Hải – một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, ông là người tài hoa, giàu sức sống
nghệ thuật và lắng nghe được nhiều thanh âm của cuộc sống. Dùng ngòi bút của mình, ông đã góp phần xây
dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. Thanh Hải sáng tác không nhiều nhưng đã để
lại ấn tượng đẹp bởi những bài thơ xúc động gợi nhiều suy nghĩ sâu xa trong tâm hồn người đọc bao thế hệ.
“Mùa xuân nho nhỏ” là một trong những bài thơ như thế. <Vị trí của đoạn thơ> đã để lại ấn tượng sâu sắc
cho người đọc về <Nội dung đoạn thơ><Trích dẫn thơ>
2. Khái quát về bài thơ/ đoạn thơ:
Hoàn cảnh sáng tác:
Bài thơ được ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt (11/1980), khi Thanh Hải đang giành giật với tử thần từng
phút sống và chỉ ít lâu sau tháng 12/1980 thì nhà thơ đã ra đi mãi mãi. Ở giữa mùa đông giá rét của xứ Huế,
đối mặt với biên giới giữa sự sống và cái chết nhưng cũng không làm trái tim nhà thơ nguội lạnh. Với nhà
thơ giữa giây phút giao thoa của đất trời đón mùa xuân và trong thời khắc giữa sự sống và cái chết cận kề,
tiếng thơ của ông vang lên như lời tự bạch chân thành với những tâm niệm đầy tính nhân văn về lẽ sống và
đời thơ. Thanh Hải cũng đã vĩnh viễn ra đi nhưng cuối cùng thì ông cũng kịp hiến dâng cho đời “Một mùa
xuân nho nhỏ”
Đề tài:
Mùa xuân là mùa khởi đầu cho một năm mới, là mùa muôn hoa đua nở đem đến hương sắc, vị ngọt của sức
sống, tình yêu, hạnh phúc. Trước vẻ đẹp diệu kỳ của mùa xuân, mỗi một thi phẩm về mùa xuân đều có ít
nhiều những nét đặc sắc riêng. Thanh Hải với “Mùa xuân nho nhỏ” cũng đã góp thêm với lời giản dị, tứ thơ
sâu lắng nhưng ôm trọn tâm hồn đôn hậu, bình dị, thiết tha yêu cuộc sống của ông.
Mạch cảm xúc:
Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ cảm nhận mùa xuân của thiên nhiên đất trời đến vẻ đẹp của mùa xuân đất
nước, cách mạng và đến cuối cùng là ước nguyện hiến dâng cuộc đời tươi đẹp của mình cho đất nước của
nhà thơ
Vị trí: <Vị trí của đoạn thơ> của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” thể hiện cảm xúc của Thanh Hải trước <Nội
dung đoạn thơ>
3. Phân tích đoạn thơ:
3.1: Khổ thơ đầu: Mùa xuân thiên nhiên, đất trời:
Vũ điệu của mùa xuân đã rót vào tâm hồn Thanh Hải niềm cảm xúc dâng trào. Mở đầu bài thơ, tác giả đã
dẫn lối chúng ta đến với bức tranh thiên nhiên mùa xuân mang sắc màu và âm thanh quen thuộc của đồng
quê. Thật đơn sơ, lặng lẽ, ấy vẫn mà hình ảnh mùa xuân vẫn hiện về:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Giản dị mà đầm ấm xiết bao! Thanh Hải đã khéo chọn cho mình một bức tranh xuân với gam màu ấm áp mà
dịu dàng, trang nhã. Một màu xanh của dòng sông xứ Huế mênh mông, êm đềm, một màu tím biếc của bông
hoa nhỏ bé. Một màu tím dịu nhẹ tựa như những tà áo dài của nàng thơ xứ Huế. Cả hai sắc màu này đều rất
hài hòa như đang vẩy gọi mùa xuân. Qua đó, chỉ vài nét chấm phá, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh xuân thơ
mộng, tươi tắn. Nghệ thuật đảo ngữ đưa động từ “mọc” lên đầu càng tô đậm hình ảnh một bông hoa bé nhỏ
mà tràn đầy sức sống mãnh liệt, cố vươn lên trong điều kiện có phần khắc nghiệt để hòa cùng vạn vật giữa
vũ trụ bao la vô tận. Chỉ một bông hoa thôi đã cho ta thấy được cái lớn lao trong bức tranh thiên nhiên ấy
chẳng hề lấn át cái bé nhỏ. Hình ảnh thơ thật nhẹ nhàng, thanh thoát, màu hoa tím biếc nhè nhẹ xuôi dòng
sông xanh thẳm thật lãng mạn, quyến rũ đến lạ thường! Một màu tím thủy chung đặc trưng cho con người
xứ Huế mộng mơ, trầm tư, cổ kính.
Trong không gian tĩnh lặng của mùa xuân lại có những thanh âm ngân vang đầy trìu mến, chất chứa niềm
vui rộn rã
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Mùa xuân đâu chỉ hài hòa với những gam màu, mà bức tranh xuân ấy bỗng nhộn nhịp hẳn lên với tiếng chim
hót vang trời đón chào ngày mới. Không gian tươi vui ấy làm xao động đến tâm hồn nhạy cảm của thi nhân.
Từ “ơi” ở đầu câu như là một lời thốt lên ngạc nhiên thích thú, như một nốt nhạc ngân vang trong bản
trường ca mùa xuân vô tận. Tiếng chim hót thánh thót như đã rót vào tâm hồn nhà thơ một niềm trìu cảm.
Tâm hồn nhà thơ đang tràn ngập niềm vui để ngôn từ “hót chi mà” được thốt lên như một lời trách than đầy
thân thương. Tiếng chim chiền chiện hát vang lừng trong trẻo cao vút như nốt thăng rộn rã của sắc xuân. Đi
theo dòng cảm xúc cứ thế tuôn trào trước mùa xuân, người con của xứ Huế ấy còn cảm nhận được hơi thở
nồng ấm của mùa xuân, hương vị ngọt ngào và cả sắc xuân tình xuân chan chứa:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Ông đưa tay hứng từng giọt gì đang long lanh rơi? Liệu có phải giọt sương hay giọt nắng? Hay là những giọt
âm thanh của tiếng chim? Thực chất là những giọt mùa xuân, giọt hạnh phúc của tình đời như đượm thắm cả
đất trời, hòa quyện vào tâm hồn thi sĩ. Sự chuyển đổi cảm giác này thể hiện sự say sưa, ngây ngất, nâng niu
của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời. Thanh Hải xòe bàn tay mình để cảm nhận hương vị ngọt
ngào của mùa xuân bằng một thái độ trân trọng, nâng niu bằng cả trái tim mình. Qua đó, tác giả cũng cụ thể
hóa từng giọt mùa xuân như chan hòa vào lòng đất mẹ để muôn hoa khoe sắc thắm, để sức sống dâng trào,
để tâm hồn con người tràn ngập niềm vui và hạnh phúc. Niềm vui đó, niềm hạnh phúc đó hoàn toàn khác với
tâm trạng buồn chán trước cảnh xuân đất nước đang đắm chìm trong đêm trường nô lệ:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Đêm chi xuân đến gợi thêm sầu
Với tôi, tất cả đều vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
(Xuân – Chế Lan Viên)
3.2: Khổ thơ hai và ba: Mùa xuân của đất nước, cách mạng
Mùa xuân thiên nhiên dần cũng là nguyên cớ tạo nên mùa xuân của đất nước, của cách mạng:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Hình ảnh dân tộc Việt Nam đã kết tụ lại ở hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”. Tự hỏi rằng tại
sao nhà thơ Thanh Hải lại chọn các chi tiết đó thay vì các hình ảnh khác? Bởi lẽ đây là lực lượng quan trọng
với hai nhiệm vụ chiến lược: chiến đấu và sản xuất. Mùa xuân của đất nước hòa cùng niềm vui trong chiến
đấu và niềm vui trong lao động sản xuất. Hình ảnh lộc non là biểu tượng cho sức sống mới vươn lên. Lộc
của lính là cành lá ngụy trang. Những cành lá ngụy trang ấy bỗng dưng biến thành lộc đầu mùa mang theo
từng bước chân của người lính. Lộc mà các chiến sĩ mang đến cho ta là xương máu mà các anh đổ xuống, là
công sức bảo vệ mùa xuân thanh bình của dân tộc, gieo niềm hạnh phúc đến mọi nhà. Người lính biểu trưng
cho những con người bảo vệ tổ quốc và người nông dân là những con người tiêu biểu trong công cuộc xây
dựng đất nước. Bằng hình ảnh sóng đôi hài hòa, âm hưởng câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối. “Lộc trải dài
nương mạ” là hình ảnh của sự lao động cần cù đã làm nên một màu xanh bát ngát ruộng đồng. Người nông
dân đã góp phần tô điểm cho mùa xuân đất nước thêm xanh tươi, tốt đẹp. Qua đó, ta thấy được hậu phương
và tiền tuyến luôn song hành. Người cầm súng và người ra đồng đều là các hình ảnh rất tiêu biểu cho những
con người đã đóng góp, cống hiến cả thân mình để làm nên mùa xuân Tổ quốc. Cả dân tộc ta đang bước vào
mùa xuân với tâm thế khẩn trương và hào hứng:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Hối hả, xôn xao là những từ láy diễn tả sự gấp gáp, khẩn trương, náo nhiệt. Cặp từ láy ấy cùng với điệp ngữ
“tất cả” như làm cho câu thơ vang lên với nhịp điệu vui tươi, mạnh mẽ. Đó là hình ảnh đất nước và dân tộc
đang bước vào mùa xuân của thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh. Trong mùa xuân tươi đẹp ấy, bất giác
Thanh Hải chạnh lòng nghĩ đến quê hương đất nước trong quá khứ, âm hưởng câu thơ bỗng trầm buồn, sâu
lắng:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Dường như cách nói của Thanh Hải tuy giản dị nhưng vẫn chạm được vào phần thiêng liêng trong sâu thẳm
tâm hồn con người – tình yêu Tổ quốc. “Vất vả”, “gian lao” là các tính từ mà tác giả đã sử dụng để đúc kết
ngắn gọn chặng đường 4000 năm trong lịch sử với bao khăn khó, thăng trầm và thử thách. Trải dài suốt
chiều dài lịch sử Việt, tổ quốc ta đã trải qua biết bao biến động, thăng trầm. Ngay từ buổi đầu dựng nước,
nước ta đã đứng trước nguy cơ xâm lược kẻ thù. Câu chuyện mang máu sắc huyền sử về Thánh Gióng – cậu
bé ba tuổi làng Phù Đổng, cất tiếng nói đầu tiên là tiếng nói yêu nước. Một ngàn năm nô lệ cho phong kiến
phương Bắc đầy đau thương, tủi nhục, những hình ảnh người phụ nữ kiên trinh “chỉ muốn cưỡi cơn gió
mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ
không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người.” Năm 938, với chiến thắng oanh liệt của Ngô Quyền trên
sông Bạch Đằng đã mở ra một kỉ nguyên mới của độc lập tự chủ. Những vần thơ bỗng trầm lắng suy tư như
gợi nhớ về một thời kỳ đau thương mà anh dũng. Trong thời kỳ ấy sản sinh ra những người con trưởng thành
từ đất mẹ đầy gian nan, vất vả nhưng luôn giành chiến thắng:
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên
(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)
Cũng bởi thế mà tác giả đã so sánh “đất nước” ta như “vì sao”, bởi tác giả muốn gợi nhắc rằng nhân dân ta
từ trong bóng tối của ách nô lệ, đô hộ từ thực dân và đế quốc đã mạnh mẽ, kiên cường đứng lên thế nào, đã
phá tan xiềng xích, thoát khỏi phong kiến thực dân ra sao để tự mình tỏa sáng như những vì sao lấp lánh từ
vũ trụ, tồn tại vĩnh hằng cùng thời gian. Một thời biến động, thử thách rồi cũng qua, con người Việt Nam
vẫn kiên cường, anh dũng, hiên ngang vượt qua những thách thức đầy cam go như thế. Từ “cứ” như một lời
khẳng khái hùng hồn, một niềm tin bất diệt của thi sĩ về tương lai đất nước đẹp lung linh. Hành trình đi tới
tương lai của đất nước vẫn không ngừng, “cứ đi lên” là sự thể hiện chí khí, quyết tâm của dân tộc Việt. Ta
thấy được rằng tác giả đã gói trọn niềm yêu mến tự hào, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước,
nhân dân.
3.3: Khổ thơ bốn và năm: Tâm nguyện của tác giả trước mùa xuân thiên nhiên:
Sau những dòng thơ dâng tràn tình yêu thiên nhiên, lòng tự hào, lạc quan, tin yêu đối với đất nước, dân tộc,
Thanh Hải đã chuyển sang giọng thơ giàu sức suy tưởng mà làm say đắm lòng người. Nếu ở những khổ thơ
đầu tiên, tác giả chỉ vẽ mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân đất nước, con người thì qua khổ thơ sau đây, tác
giả đã thể hiện khát khao được hòa nhập vào cuộc đời chung của dân tộc. Ngay cả những giây phút đang lâm
bệnh nặng, ông vẫn hoài niệm về cuộc đời, một cuộc đời được gắn trọn với quê hương, đất nước. Theo liền
mạch cảm xúc đang trào dâng, ông đã bộc bạch những tâm niệm cũng như khát vọng và lí tưởng sống cao
đẹp của mình:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Cái giai điệu cứ nhè nhẹ, du dương, êm ái, ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp, những luyến láy, điệp
ngữ “ta làm.., ta làm.., ta nhập..” cứ xôn xao, réo rắt mãi trong lòng người đọc, chừng như ta được bay bổng
theo ước mơ của tác giả. Nếu như ở khổ thơ đầu, tác giả xưng “tôi” hết sức khiêm nhường thì đến khổ thứ
tư, tác giả lại chuyển sang xưng “ta” một cách thật tự hào, giọng thơ vẫn như thế và dường như muốn nói
thay cho nhiều cái “tôi” khác. Đó chính là sự cộng hưởng, sự sẻ chia, đóng góp những gì tinh túy nhất của
mỗi cái “tôi” lại. Các hình ảnh “con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm xao xuyến” mang ý nghĩa
biểu lộ một lẽ sống, niềm tâm niệm của Thanh Hải đối với Tổ quốc, nhân dân. Nhà phê bình văn học Hoài
Thanh – Hoài Chân đã từng nhận xét “Mỗi bài thơ hay là một cánh cửa mở cho tôi đi vào tâm hồn” (Thi
nhân Việt Nam). Vâng! Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã mở cửa cho tất cả chúng ta cảm nhận
một trái tim khiêm tốn, bình dị, đôn hậu, chân thành của nhà thơ. Không ước mơ cao xa, Thanh Hải chỉ nhỏ
nhẹ xin làm một tiếng chim góp tiếng ca tươi vui vào giai điệu rộn rã của mùa xuân, một cánh hoa nhỏ bé
giữa rừng hoa muôn ngàn sắc thắm. Thanh Hải đã khéo mượn vẻ đẹp thanh khiết của thiên nhiên để thể hiện
niềm mong ước thiết tha được sống có ích. Dẫu chỉ là một chú chim trong muôn loài, dẫu chỉ là một cành
hoa trên cánh đồng bát ngát hay chỉ là một nốt trầm trong cả bản đàn bất tận kia, nhà thơ vẫn nguyện được
hóa thân vào, để góp phần tô lên những gam màu sặc sỡ cho bức tranh xuân này. Khát vọng sống là trọn đời
hiến dâng của Thanh Hải cũng gặp được nét đồng điệu trong tâm hồn các nhà thơ khác:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình
(Một khúc ca xuân - Tố Hữu)
Nhà thơ cũng có ước mơ nguyện sống là phải cho, phải cống hiến. Đó là quan niệm sống đẹp đúng đắn. Say
trong vũ khúc mùa xuân, khúc nhạc lòng Thanh Hải cứ ngân lên như cây đàn muôn điệu. Đọc khổ thơ ta
mới cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và khát vọng cháy bỏng cống hiến cho đời. Trong bản
hòa ca trầm bổng của mùa xuân, Thanh Hải chỉ mong được làm một và chỉ một “nốt trầm xao xuyến”. Một
nốt trầm lặng lẽ, đơn sơ, nhỏ nhẹ nhưng lại không thể thiếu trong bản giao hưởng mùa xuân. Cái âm thanh
trầm lắng của nốt trầm trong bản hòa ca càng làm tăng thêm sức gợi cảm trong giai điệu gọi mùa “Em ơi!
Mùa xuân đến rồi đó!”. Cảm hứng ấy càng thêm mãnh liệt khi ta ngâm khẽ những vần thơ “Mùa xuân nho
nhỏ” của Thanh Hải. Âm hưởng nốt trầm ấy cứ mãi du dương để lại dư âm ngọt ngào trong lòng người sau
những nốt thăng cao vút, rộn rã của cuộc đời.
Tất cả khát vọng như lắng lại trong tâm hồn nhà thơ như một niềm cảm xúc:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Mùa xuân là khái niệm trừu tượng chỉ thời gian. Thanh Hải đã cụ thể hình ảnh “nho nhỏ” thể hiện một tâm
hồn bình dị, lặng lẽ cống hiến. Cái “nho nhỏ” mà tác giả nói đến đã cho thấy nhận thức của tác giả về vai trò
của bản thân mình trong cộng đồng. Khi càng biết nhiều, càng mở rộng tầm hiểu biết thì tác giả lại càng cảm
thấy bản thân mình nhỏ bé. Với tình yêu quê hương, đất nước nồng nàn, mong muốn của tác giả chỉ đơn
thuần là góp “một mùa xuân nho nhỏ” của bản thân vào mùa xuân lớn của cả dân tộc. Lặng lẽ thôi mà sao
đẹp biết bao, dạt dào như sóng triều dâng. Mùa xuân của tác giả không có sự ồn ào, khoa trương, nhộp nhịp
mà chỉ âm thầm hiến dâng. Mong muốn dâng hiến mùa xuân cho đời được thực hiện một cách tự nguyện mà
không đòi hỏi bất kì sự đền đáp nào. Trong lời tự tình của Thanh Hải lại làm chúng ta liên tưởng đến những
người chiến sĩ của Lê Anh Xuân:
Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân
(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Lật tiếp những dòng thơ của Thanh Hải, ta lại liên tưởng đến những chiến sĩ, những cô gái thanh niên xung
phong đã miệt mài, âm thầm cống hiến cả thanh xuân phơi phới tươi đẹp cho tổ quốc:
Em đã lấy tình yêu tổ quốc thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom
(Lâm Thị Mỹ Dạ)
Thanh Hải ngay trên giường bệnh trong điều kiện hết sức khắc nghiệt vẫn khẳng định khát vọng cống hiến
trọn cả cuộc đời cho tổ quốc:
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Điệp ngữ “dù là” cùng phép hoán dụ “tuổi hai mươi”, “khi tóc bạc” như một lời hứa, lời nhắc nhở với bản
thân về sự tồn tại bền vững của những khát vọng sống, lí tưởng, sống là cống hiến và hi sinh. Tuổi hai mươi
là tuổi trẻ, hội tụ tài năng, sức lực, là tuổi của sự nhiệt huyết, hừng hực sức lửa để cống hiến. Vì vậy mà tuổi
trẻ xông pha trên mọi mặt trận, từ thiên tai lũ lụt, đến chống dịch bệnh, chống cả giặc ngoại xâm. “Đâu cần
thanh niên có, nơi nào khó có thanh niên”. Khi tóc bạc, chính là khi bóng xế về chiều, đầu bạc răng long, họ
vẫn không ngừng âm thầm mà đóng góp đến cả hơi thở cuối cùng. Để rồi sau này khi nhìn lại quãng đường
ta đã đi sẽ thật tự hào mà không bao giờ phải ngoảnh đầu lại mà hối tiếc, thất vọng về chính mình. Thử hỏi
làm sao ta không khỏi xúc động khi những vần thơ ấy vang lên như lời tổng kết cho cuộc đời của Thanh Hải.
Thật vậy, chính hình ảnh cao cả đó, ta đã bắt gặp ngay ở Thanh Hải, ngay cả khi đang chống chọi với bệnh
tật, Thanh Hải vẫn xin làm một mùa xuân nho nhỏ trong hàng triệu mùa xuân nho nhỏ khác để được suốt đời
góp phần cho “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” (Lê Anh Xuân). Hay nhân vật ông họa sĩ trong tác phẩm
“Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, sự cống hiến hết sức lực, mặc cho tuổi già sức yếu, khi đã về hưu,
ông họa sĩ vẫn luôn đi tìm nguồn cảm hứng sáng tác cho một tác phẩm để đời, vẫn muốn cống hiến dù tóc đã
ngã sang màu bạc.
3.4: Khổ thơ cuối: Lời ca ngợi mà tác giả dành cho quê hương, cội nguồn của mình:
Kết thúc bài thơ, tác giả đã khép lại vẻ đẹp mùa xuân trong giai điệu ngọt ngào, êm dịu của làn điệu dân ca
trữ tình xứ Huế:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế
Vẫn trái tim dào dạt yêu quê hương, Thanh Hải chọn khúc hát giữa mùa xuân. Giai điệu êm ái Nam ai, Nam
bình, thiết tha hiền hòa như con người Việt Nam. Dù ở trên mảnh đất “nước non nghìn dặm” hay ở bất đâu
cũng đẹp, cũng gắn liền với tình cảm con người:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”
(Chế Lan Viên)
Thanh Hải với niềm tin yêu trìu mến quê hương, nhà thơ hết sức khéo léo khi chọn dòng sông, sắc màu, âm
thanh, điệu hát đều gắn chặt với quê hương và dường như nhà thơ muốn ôm trọn tất cả hình ảnh ấy trước khi
về cõi vĩnh hằng. Bằng điệp ngữ “nước non ngàn dặm” kết hợp gieo vần bằng “bình, mình, tình” đã tạo âm
hưởng bài thơ nhẹ nhàng như câu hò xứ Huế cứ ngân dài mãi ra rồi lắng đọng lại trong lòng chúng ta những
cảm xúc chân thành, ru hồn người đọc trên con đò xứ Huế êm ả trôi nhẹ trên sông Hương rồi khép lại trong
âm hưởng rộn ràng, xao động của “nhịp phách tiền” đầy xao xuyến. Kết thúc bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là
tình yêu đời, yêu cuộc sống trỗi dậy thật mãnh liệt. Tình cảm ấy đã trở thành khúc hát tâm tình đầy cảm
động, cao quý và đáng trân trọng như chính cuộc đời của tác giả.
4. Đánh giá chung:
Bài thơ sử dụng thể thơ năm chữ giàu nhạc điệu, mang âm hưởng gần gũi với dân ca, lời thơ bình dị, tình
cảm chân thành, các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ được vận dụng sắc sảo, tài tình. Bài thơ có
câu từ chặt chẽ, giọng điệu thơ luôn có sự biến đổi phù hợp với nội dụng từng đoạn. Tình yêu mùa xuân gắn
liền với tình yêu quê hương, đất nước được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Những lời tâm
sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất.
Và “Mùa xuân nho nhỏ” cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời ông. Ông đã giải bày, tâm tình những
điều sâu kín nhất trong lòng, và cũng chính lúc đó Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung nhịp đập với
thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau.
III. Kết bài:
Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng mãi như khơi gợi trong lòng chúng ta về một tình
cảm cao đẹp của con người. Chính tình yêu thiên nhiên, khát vọng dâng hiến của Thanh Hải làm xao xuyến
rung động biết bao trái tim người đọc. Bài thơ cứ nhẹ nhàng, thấm thía tự nhiên đi vào lòng người như một
bài học sâu sắc về lẽ sống đẹp, cách ứng xử đầy nhân văn, tấm gương cao thượng trong sáng của Thanh Hải
làm ta trân trọng, khâm phục và tự ngẫm phải sống sao cho xứng đáng với Tổ quốc, nhân dân
Đề bài: Phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
I.Mở bài:
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết:
“Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa.”
Những vần thơ rưng rưng cảm xúc tự hào cùng những suy tưởng sâu sắc về hành trình ra đi tìm đường
cứu nước của Bác Hồ. Đó là một hành trình dài với biết bao gian khổ mà Người đã trải qua. Và rồi tất cả
những gì Bác để lại cho dân tộc Việt trong 79 năm cuộc đời ấy là dấu ấn không phai trong trái tim dân tộc.
Viễn Phương – một nhà thơ trẻ miền Nam khi ra thăm lăng Bác đã thay mặt nhân dân bày tỏ tình cảm của
mình. Bằng sự xúc động, bồi hồi, nghẹn ngào, nhà thơ đã viết bài thơ “Viếng Lăng Bác”.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung:
Viễn Phương là một trong những cây bút xuất hiện sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam
thời kì chống Mĩ cứu nước. Nhắc đến nhà thơ Viễn Phương là nhắc đến một thi sĩ với hồn thơ nhẹ nhàng,
man mác, giản dị. Thơ ông lay động lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, hình ảnh thơ
mộc mạc mà sâu sắc. Bởi “Viễn Phương là một con người rất đa mang, rất nặng lòng với quá khứ, với cách
mạng, quá khứ đấu tranh của dân tộc lẫn vào sâu sắc với thơ anh, với hồn anh, với đời anh” (Nhà văn, nhà
báo Mai Văn Tạo). Nhà thơ để lại nhiều thi phẩm hay, nhưng chắc chắn phải nhắc đến tác phẩm “Viếng lăng
Bác”. Bài thơ đã thể hiện tình cảm, lòng kính yêu vô hạn của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác Hồ. Đặc
biệt <Vị trí của đoạn thơ> thể hiện cảm xúc của tác giả về <Nội dung đoạn thơ> <Trích dẫn thơ>
2. Khái quát về bài thơ/đoạn thơ:
Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết vào tháng 4/1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc
thắng lợi, đất nước được thống nhất, công trình lăng chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng
đúng lúc nguyện vọng thiết tha của nhân dân ba miền là được đến viếng lăng Bác. Viễn Phương là người con
của đất Nam Bộ, luôn mong mỏi được ra thăm Bác nơi miền Bắc xa xôi. Bằng tất cả tình cảm chân thành,
nhà thơ đã sáng tác thi phẩm này. Đồng thời, bài thơ cũng được in trong tập “Như mây mùa xuân” (1978)
Cảm hứng chủ đạo: Lúc sinh thời, đất nước chưa được giải phóng, Bác Hồ luôn nghĩ đến miền Nam đang
chịu nhiều đau thương mất mác. Nhưng khi đất nước giải phóng, Bắc Nam sum họp một nhà thì Bác đã
không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi xót xa của nhân dân dồn nén trong bao nhiêu năm đã được nhà thơ
nói hộ trong bài thơ “Viếng lăng Bác”. Cảm xúc bao trùm bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, lòng biết
ơn và tự hào, xen lẫn nỗi xót đau của tác giả. Mạch cảm xúc của bài thơ đi theo trình tự không gian và thời
gian. Đó là cảm xúc khi đứng trước lăng, cảm xúc khi vào trong lăng và cuối cùng là cảm xúc trong giây
phút chia xa Bác của nhà thơ.
Vị trí: Đây là <Vị trí của đoạn thơ> “Viếng lăng Bác” thể hiện <Nội dung của đoạn thơ>
3. Phân tích cảm nhận đoạn thơ:
3.1: Khổ thơ đầu:
Bác đã không còn, không thể nhìn tận mắt cái ngày mà Bác đã mong ước, đã dõi theo hơn nửa cuộc đời
mình. Ai cũng có thể cảm nhận được trên khoảng trời không bao la kia có ánh mắt hiền từ, vui sướng của vị
cha già dân tộc, Bác đang cười.. một nụ cười mãn nguyện giữa bầu trời rợp đỏ sao vàng. Trong dòng người
đến viếng lăng Bác, Viễn Phương đã bộc bạch:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Câu thơ mở đầu thay cho một lời chào, một lời giới thiệu về hành trình của những đứa con từ miền Nam ra
Hà Nội thăm vị lãnh tụ kính yêu. Nó như một thông báo ngắn gọn, một lời kể chuyện mà chứa chan trong đó
là bao xúc cảm của nhà thơ. Cách xưng hô “con – Bác” của người Nam Bộ gợi đến những tình cảm rất thân
thương và gần gũi. Nó cho thấy mối quan hệ giữa Bác và những đứa con tựa như tình cha con ruột thịt.
Dường như nó đã xóa tan đi mọi khoảng cách giữa một vị lãnh tụ vĩ đại và một công dân. Bởi trong thâm
tâm mọi người, Bác là người cha kính yêu:
Người là Cha, là Bác, là Anh
Qủa tim lớn lọc trăm dòng máu đỏ
(Sáng tháng năm - Tố Hữu)
Trong những dòng thơ đầu tiên cất lên của Viễn Phương, cụm từ “ở miền Nam” như một thông báo cho Bác
biết rằng người con này đến từ một nơi rất xa xôi – miền Nam – mảnh đất anh hùng suốt mấy chục năm trời
chiến đất gian khổ chỉ mong có ngày giành được độc lập, mảnh đất mà Bác vẫn luôn đau đáu một nỗi nhớ
một niềm mong. Sau bao nỗi mong nhớ, đợi chờ, nay con mới được ra miền Bắc, con đã về đây thăm Bác
nhưng Bác đã không còn nữa. Tác giả đã sử dụng từ “thăm”, một cách nói giảm nói tránh đầy tinh tế, tác giả
cố giấu đi, nén lại trong lòng cảm xúc đau thương mất mác không thể nào bù đắp được của cả dân tộc và
cũng như tự nhủ với lòng rằng: Bác còn sống mãi với non sông đất nước, còn sống mãi “như trời đất của ta”,
trong “từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa” (Tố Hữu). Ngoài ra, Viễn Phương cũng muốn nhấn mạnh rằng chuyến
đi này của mình như một chuyến thăm từ miền Nam. Chuyến thăm từ miền đất đau thương, quật cường
trong bao năm gian khó kháng chiến chống Mĩ.
Tiếp đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên tác giả bắt gặp sau làn sương sớm mai là hàng tre xanh bát ngát, thấp
thoáng bóng dáng quen thuộc của làng quê:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Chẳng phải tự nhiên mà Viễn Phương nhắc tới những hàng tre, ta đều biết cây tre là hình ảnh thân quen gắn
bó với mỗi người dân Việt Nam. Đi đâu ta cũng có thể bắt gặp những lũy tre bao bọc làng xóm, quê hương.
Nhà văn Thép Mới trong “Cây tre Việt Nam” cũng có cảm nhận như thế: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái
nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre anh hùng lao động. Tre anh hùng chiến
đấu.” Từ những chuyện cổ tích xa xôi đến những bài thơ, bài văn, tre vẫn luôn hiện hữu. Trước lăng Bác,
trong lòng Viễn Phương, tre như dài rộng mênh mông. Tre vẫn uy nghi, vẫn màu xanh của Việt Nam. Hàng
tre ấy đã gợi cho nhà thơ lấy lại cuộc sống thầm lặng đã từng sát cánh cùng dân tộc chống lại kẻ thù chung.
Tre đã kiên cường chiến đấu bất khuất hiên ngang, là biểu tượng của dân tộc Việt Nam:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã thẳng như chông lạ thường
(Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)
Bao năm cùng người xông pha trận mạc, tre vẫn giữ thế uy nghiêm: “Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”.
Thành ngữ “bão táp mưa sa” kết hợp với hình ảnh “đứng thẳng hàng” đã gợi lên tinh thần đoàn kết dân tộc,
là vẻ đẹp cứng cỏi, kiên cường, bền bỉ, hiên ngang, bất khuất của con người Việt Nam từ bao đời nay đã
vượt qua bao thử thách gian lao để đi đến thắng lợi vinh quang. Qua bao phong ba sóng gió, hàng tre vẫn
vững vàng cùng dân tộc. Từ khi Tháng Gióng nhổ tre đánh giặc cứu nước cho đến nay, những con người đất
Việt đã trải qua bao biến đổi, bao lần chiến đấu để bảo vệ từng mảnh đất cha ông thật kiên cường, bền bỉ.
Tre tượng trưng cho những phẩm chất của con người Việt: đoàn kết, bất khuất, hiên ngang như Nguyễn Duy
cũng từng viết trong “Tre Việt Nam”:
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi!
(Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)
Ngoài ra, chỉ với thán từ “Ôi” mà bao nghẹn ngào tràn ngập cả câu thơ. Tất cả dân tộc đã quay về quanh
Bác, là cây tre trung hiếu, là cả một đội quân danh dự chỉnh tề giữ giấc ngủ bình yên cho Người.
3.2: Khổ thơ hai:
Hòa vào dòng người cùng vào thăm lăng Bác bằng sự trang nghiêm, nhà thơ đã có những cảm nhận thật đặc
biệt, đã khắc họa những hình ảnh thiên nhiên như ánh mặt trời vẫn sáng soi
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Nếu ở khổ thứ nhất, tác giả đã cảm nhận không gian trong cảm giác thanh tĩnh tuyệt đối thì khổ thơ thứ hai
là cảm nhận từ góc độ thời gian nghệ thuật. Thời gian được nói đến là “ngày ngày” diễn tả sự liên tục, bất
biến của thời gian, cũng như góp phần làm bất tử hóa hình ảnh của Bác. Nhà thơ đã sáng tạo hình ảnh mặt
trời vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ. Nếu ánh sáng của mặt trời soi sáng đường đi, giúp
sinh vật phát triển, lớn lên thì “mặt trời trong lăng” đã soi sáng cho cách mạng Việt Nam, soi sáng cho tâm
can lòng người, chính mặt trời ấy đã cứu biết bao sinh mệnh trước chiến tranh đau thương và lấy ánh dương
dẫn ta đến với niềm vui và sự hạnh phúc. “Một mặt trời rất đỏ” – hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp chỉ Bác Hồ kính
yêu vì Bác như vầng mặt trời có công lao to lớn cho toàn thể dân tộc, dìu dắt ta từ chỗ lầm than đến ngày tự
do huy hoàng. Đồng thời, phép ẩn dụ ấy cũng thể hiện tấm lòng thành kính của chính tác giả đối với Bác Hồ.
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, Bác xuất hiện như vầng dương dần nhô lên giữa rặng núi xa xăm,
xua tan đi bóng đêm mù mịt tăm tối, bao trùm, quét sạch hơi đông lạnh lẽo, đớn đau, bẻ gãy đi mọi cùm
gông, xiềng xích. Để rồi, dưới hơi ấm của chân lý bừng chói rực rỡ, những đời nô lệ câm lặng lại ngào ngạt
nở hoa để mỗi kiếp người lại hăm hở, sung sướng được trọn vẹn làm người. Trái tim Bác vẫn luôn rất đỏ
một tình yêu mênh mông, vô tận. Và dòng sữa ngọt ngào, ấm áp một tình thương, cháy bỏng từ con tim vĩ
đại ấy chảy ra ôm ấp phủ cả núi đồi, rừng cây, lại ươm mầm, ấp ủ từng góc lúa, lại vun xới, hồi sinh từng
kiếp người. Theo ánh sáng giục giã, thôi thúc đuốc sống chân lí ở phía trước, cả dân tộc dưới sự dìu dắt của
Bác đã tiến lên, chống lại kẻ thù hùng mạnh, tàn bạo. Và trong đớn đau, một sức mạnh mãnh liệt, dữ dội đã
được Bác thắp lên trong mỗi trái tim quặn thắt của người dân lầm than, cơ cực. Bóng hình Bác lồng lộng
được chắp cánh bát ngát bay lên, vĩ đại đã che chở, dẫn dắt cho cả dân tộc vượt qua tăm tối đêm trường để
đến với một nền tự do huy hoàng, rực rỡ:
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người
(Bác ơi -Tố Hữu)
Hôm nay có hai mặt trời chiếu rọi trên đường đời: một mặt trời tỏa sáng trước mặt, một mặt trời tỏa sáng
tâm hồn. Như mặt trời kia, Bác thuộc về vĩnh cửu. Bác sống mãi trong tâm hồn mỗi con người Việt:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Song hành cùng mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ trong đó có cả nhà
thơ. “Ngày ngày” được lặp lại hai lần như thể hiện sự nối tiếp thời gian. Nhịp thơ lại chậm rãi, trầm lắng hơn
như bước chân của chuỗi người triền miên, lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một không khí thương nhớ
Bác khôn nguôi, để rồi họ “kết tràng hoa” gửi tặng đến Bác – những tràng hoa đẹp nhất, thơm nhất, lung
linh nhất để tỏ lòng biết ơn với Người. Hình ảnh “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” là một hình
ảnh ẩn dụ đặc biệt, sáng tạo của nhà thơ. Tràng hoa ấy là hoa thơm dâng lên Bác mỗi ngày, nó được kết từ
hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu trái tim của đồng bào khắp cả nước, đồng thời nó cũng chính là những gì tốt
đẹp nhất, tinh túy nhất của thiên nhiên, của con người Việt thành kính dâng lên Bác, dâng lên “Bảy mươi
chín mùa xuân”. Phép hoán dụ, cũng là cách nói trang trọng nhằm diễn tả ý tứ sâu xa, bảy mươi chín mùa
xuân là bảy mươi chín năm cuộc đời Bác đã hiến trọn cho quê hương, cho Tổ quốc. Người đã gác lại mùa
xuân tươi đẹp của mình để cho dân tộc ta một mùa xuân vĩnh hằng, mùa xuân của độc lập – tự do – hạnh
phúc.
3.3: Khổ thơ ba:
Ở hai khổ thơ trước của tác phẩm “Viếng Lăng Bác”, Viễn Phương đã thể hiện sự xúc động, tấm lòng thành
kính, biết ơn đối với Bác Hồ kính yêu. Và niềm biết ơn, thành kính trong lòng tác giả lúc ấy đã dần chuyển
sang niềm xúc động nghẹn ngào khi đứng trước di hài của Người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế không gian trong lăng Bác. Đó là không gian vô cùng yên
tĩnh, trang nghiêm với ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo và hình ảnh Bác Hồ đang nằm đó như đang nghỉ ngơi
trong một “giấc ngủ bình yên”. Tác giả lại một lần nữa sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh, chẳng là Bác
chỉ mệt quá nên chỉ ngủ một chút thôi? Cả cuộc đời Bác có lẽ chẳng có nổi một giấc ngủ yên bởi Bác lo cho
nước nhà, cho tổ quốc và Bác “chỉ viết quên mình cho tất cả”:
Đêm nay Bác ngồi đó
Đêm nay Bác không ngủ
Vì một lẽ thường tình
Bác là Hồ Chí Minh
(Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ)
Liên tưởng đến câu thơ này càng khiến ta thêm nghẹn ngào, thành kính trước giấc ngủ ngàn thu đã phần nào
yên giấc, một “giấc ngủ bình yên” gợi sự thanh thản, thư thái, ung dung của Người sau cả cuộc đời dài dằn
dặt lo cho dân, cho nước. Không còn đâu những ngày “trằn trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành”, cũng chẳng
còn những đêm trăn trở, lo toan đến nỗi không ngủ được:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
(Cảnh khuya – Hồ Chí Minh)
Nay miền Nam được giải phóng, Bắc Nam sum họp một nhà nên Người thanh thản, thư thái, Bác chỉ tạm
nghỉ ngơi sau một hành trình vất vả mà thôi! Lời thơ lại một lần nữa như nén nỗi đau lại để khẳng định rằng
Bác vẫn còn sống mãi.
Bác vốn yêu trăng, trăng làm bạn với Bác trong nhà lao, trăng theo Bác lên đường ra chiến dịch và trăng lại
về đây để canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” bao bọc giấc ngủ của
Bác gợi cho ta cảm nhận vẻ đẹp hiền lành, nhân từ của Bác, đến tâm hồn và cách sống thanh cao, sáng trong
của Người. Đồng thời ý thơ còn gợi nhớ đến những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Bác:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
(Ngắm trăng – Hồ Chí Minh)
Cùng với mặt trời, hình ảnh vầng trăng đã hoàn thiện bức chân dung Hồ Chủ Tịch trong tâm khảm mỗi
người: chói lóa, rực rỡ, trong sáng, thanh cao, hiền lương và thương mến. Bác rực rỡ như mặt trời, dịu hiền
như ánh trăng. Bác đã hóa thân vào thiên nhiên đất trời dân tộc, sống mãi trong sự nghiệp và trong tâm trí
của nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao:
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già
(Bác ơi – Tố Hữu)
Dù vẫn biết là như vậy nhưng người con Viễn Phương cũng không thể không đau xót trước sự ra đi của
Người:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
“Trời xanh” là hình ảnh của thiên nhiên tồn tại mãi mãi, vĩnh hằng, là hình ảnh ẩn dụ khẳng định Bác là trời
xanh, Bác đã vĩnh viễn hóa thân vào bầu trời của dân tộc, sự nghiệp của Người mãi mãi vang vọng với non
sông. Người đã hóa thân vào thiên nhiên mây núi để trở thành hồn thiêng dân tộc:
Bác còn đó lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non
(Sáng tháng năm - Tố Hữu)
Trong trái tim đầy yêu thương, kính trọng và biết ơn của mọi người, Bác vẫn còn sống mãi. Dù tin như vậy,
lí trí thì tin như vậy nhưng trước sự thật Bác không còn nữa thì tình cảm không thể không xót đau: “Mà sao
nghe nhói ở trong tim!”. “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột, quặn thắt tê tái như
hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ, của một đứa con
về muộn không kịp gặp cha lần cuối. Nhà thơ tự cảm thấy nỗi đau, mất mác đến tận đáy sâu tâm hồn mình,
nỗi đau tột cùng không nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau của riêng nhà thơ mà còn là nỗi đau của cả
dân tộc. Một mất mác lớn lao không gì bù đắp được! Mạch cảm xúc từ thành kính chuyển sang tiếc thương
ngậm ngùi, câu thơ đọc lên như một tiếng khóc đến nghẹn ngào, để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.
Viễn Phương cũng lại một lần nữa cho ta thấy cách sử dụng ngôn từ khéo léo của mình qua cặp quan hệ từ
“Vẫn còn – Mà sao” khiến người đọc đau nhói hơn khi mà không thể phủ nhận một quy luật nào của tạo hóa
đó là có sinh có tử. Cách nói ấy thể hiện sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm. Nghĩa là con người không thể
kìm nén được trong những khoảnh khắc yếu lòng. Chính nỗi đau xót đó đã làm cho tình cảm giữa nhà thơ
nói riêng và nhân dân nói chung đối với Bác thật sâu nặng, thiết tha và sự ra đi của Bác cũng khiến thiên
nhiên phải nhỏ lệ tiếc thương:

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa


Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa
(Bác ơi – Tố Hữu)
3.4: Khổ thơ cuối:
Nếu ở khổ thơ đầu bài thơ, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm lăng Bác thì trong khổ
thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác. Cuộc sum họp nào rồi cũng đến lúc chia xa, đứng trước lăng
Bác trong niềm cảm xúc vô bờ, chạnh nghĩ đến việc trở về miền Nam, nhà thơ đã không kìm được nỗi niềm
thương nhớ:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Thương, thương đến trào nước mắt, đó là tình thương của nhân dân Việt Nam, của miền Nam ruột thịt dành
cho Bác trong giây phút này, giây phút lặng người trước sự hi sinh to lớn của Bác. Chữ “thương” thật giản dị
nhưng cũng rất xúc động. Niềm thương không chỉ là cảm xúc dâng ngập trong tâm hồn mà trào lên thành
“nước mắt” phải chăng vì cảm thông được niềm ao ước bấy lâu về một ngày thống nhất vẫn nặng lòng Bác
lúc ra đi; thương vì Bác chưa thỏa ước nguyện thấy nhân dân được hưởng sự sung sướng, hạnh phúc khi Bắc
Nam sum họp một nhà, nhà thơ không cầm lòng được bởi chưa có ngày: “Đón Bác vào thăm thấy Bác cười”
Bao tình yêu thương, nỗi nhớ ấy giờ lại càng đau hơn bởi ông sắp phải xa Bác – vị cha già kính yêu. Và rồi
trong giây phút nghẹn ngào ấy, tác giả đã có những ước nguyện hóa thân rất đỗi bình dị và khiêm nhường:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Âm hưởng bài thơ được nhấn mạnh lên qua điệp ngữ “muốn làm”. Hình ảnh như có một sức mạnh vô hình
nhưng mãnh liệt níu kéo lòng ta ở lại. Phải chi ta có thể biến thành những gì thân yêu quanh nơi Bác yên
nghỉ, để có thể hằng ngày nhìn thấy Bác, nhìn thấy cả tấm lòng của người lãnh tụ vĩ đại, bao dung. Ước gì ta
có thể làm một con chim nho nhỏ góp tiếng hát của mình vào những buổi bình minh nơi lăng Bác. Hay ước
chi ta được làm một bông hoa dân tộc nở quanh lăng Người. Và phải chi một ngày nào đó ta sẽ trở thành
một cây tre bên những hàng tre xanh tỏa bóng mát dịu dàng nơi lăng Bác. Tuy nhiên, không dừng lại ở đó,
hình ảnh thơ còn mang nét nghĩa ẩn dụ cho khát vọng được ở lại để canh giấc ngủ thiên thu cho Người, bày
tỏ niềm biết ơn sâu sắc dành cho vị cha già của dân tộc, góp phần làm nên vẻ đẹp bất khuất, hiên ngang của
tâm hồn Việt Nam. Lời thơ khiến ta nhớ đến ước nguyện của Thanh Hải trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
(Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)
Nếu như Thanh Hải muốn hóa thân vào cảnh vật để làm đẹp cho cuộc đời, để cống hiến mùa xuân của cuộc
đời mình vào mùa xuân chung của dân tộc thì với Viễn Phương, ước nguyện hóa thân vào cảnh vật là để
được bên Bác suốt đời. Tuy nhiên đặc biệt hơn cả là ước nguyện được làm “cây tre trung hiếu”. Hình ảnh
cây tre đã từng xuất hiện ở khổ một giờ lại một lần nữa xuất hiện ở khổ cuối thông qua ước nguyện của nhà
thơ. Nó tạo ra cái kết cấu đầu cuối tương ứng cho thi phẩm. Nếu như đầu bài, cây tre xuất hiện với hình
tượng, phẩm chất rất Việt Nam “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” thì ở đây hàng tre lại được nhà thơ nhấn
mạnh phẩm chất “trung hiếu”. Đó như một điều khắc cốt ghi tâm những gì Bác nói “Trung với nước, hiếu
với dân”. Và phải chăng những ước nguyện ấy chính là lời hứa thủy chung với con đường mà Bác đã chọn.
Với những ý nghĩa như thế, khổ thơ cuối thực sự đã tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc,
không chỉ bộc lộ tình cảm thương nhớ, lưu luyến mà còn biểu đạt một cách xúc động tình cảm thủy chung,
son sắt của nhà thơ, của nhân dân miền Nam và nhân dân cả nước đối với Bác Hồ kính yêu.
4. Đánh giá chung:
Trải qua bao dòng chảy thời gian, bài thơ vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi nội dung và nghệ thuật đặc
sắc. Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ sáng tạo, kết hợp khéo léo chất tự sự và trữ tình. Ngôn ngữ thơ
giản dị, mộc mạc, đồng thời sử dụng những hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều liên tưởng. Đặc biệt, tác giả sử
dụng thành công các biện pháp nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ. “Viếng lăng Bác” của Viễn
Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về chủ tịch Hồ Chí Minh. Và ông cũng đã bày tỏ
được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như
một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Người ra đi.
III. Kết bài:
Đã có rất nhiều áng thơ văn bất hũ viết về Bác, về sự nghiệp cách mạng sáng ngời của Người. “Viếng lăng
Bác” của Viễn Phương xứng đáng góp mặt trong những tác phẩm thi ca xuất sắc nhất viết về Bác, bằng tình
cảm trân trọng, kính yêu của người con miền Nam, Viễn Phương đã nói lên tình cảm của hàng triệu con
người Việt Nam dành cho vị cha già dân tộc. Hình ảnh về Bác, về sự nghiệp và cuộc đời của Bác đâu chỉ gây
xúc động cho Viễn Phương, cho con người, dân tộc Việt mà còn là người truyền cảm hứng cho rất nhiều con
người, dân tộc trên thế giới, đúng như nhà thơ người Cuba từng viết: Hồ Chí Minh – tên người là cả một
miền thơ.

Đề bài: Phân tích bài thơ “Sang Thu” của Hữu Thỉnh:
I. Mở bài:
“Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời (Sóng Hồng). Viên kim cương ấy sẽ lấp lánh một màu
sắc riêng biệt của cuộc đời, như cách mà Hữu Thỉnh đã chạm khắc tiếng thơ của mình vào thế giới thi ca bốn
mùa nhiều dư vị. Khi đứng trước điểm cuối cùng của tuổi trẻ, người thi sĩ ấy đã không ngần ngại thổ lộ hết
những tâm tư của lòng mình bằng những tiếng thơ khắc khoải. “Sang Thu” chính là như thế, với một giọng
thơ sâu lắng và đầy chất trữ tình, đã thể hiện những tâm sự, hoài niệm của tác giả khi đứng giữa khúc ca
giao mùa đầy rung động của đất trời.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung:
Hữu Thỉnh là một trong những cây bút tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam, trưởng thành trong những
năm đầu kháng chiến chống Mỹ. Ông đi nhiều, viết nhiều và có một số bài thơ đặc sắc về con người cùng
cuộc sống ở nông thôn. Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh phong phú, đa dạng và mang dấu ấn rõ nét.
Những trang thơ của Hữu Thỉnh nhẹ nhàng, gần gũi, tinh tế, ngôn ngữ giàu hình ảnh giản dị trong sáng gợi
nhiều ý nghĩa biểu tượng. Đến với thi phẩm “Sang Thu”, qua những câu thơ viết về cảm nhận tinh tế của nhà
thơ trước khung cảnh thiên nhiên giao mùa từ hạ sang thu, ta nhận ra bước chuyển mình khẽ khàng của mùa
thu và những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời mà tác giả kí thác. Đặc biệt <Vị trí của đoạn thơ> thể hiện
những cảm nhận thật tinh tế của tác giả về <Nội dung đoạn thơ> <Trích dẫn thơ>
2. Khái quát về bài thơ/đoạn thơ:
Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác năm 1977, khi đất nước vừa mới giành độc lập chưa được bao
lâu. Đây cũng là một trong những mùa thu mà những người lính như Hữu Thỉnh lần đầu tiên cảm nhận được
trong không khí hòa bình
Chủ đề tác phẩm: Bằng tâm hồn nhạy cảm, tình yêu thiên nhiên, quê hương, nhà thơ đã mở rộng lòng mình
để đón nhận giây phút chuyển mình của cảnh vật, đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Đồng thời bộc lộ những
chiêm nghiệm, những suy ngẫm về con người, về cuộc đời vốn đầy rẫy những khó khăn.
Mạch cảm xúc: Bài thơ được sắp xếp theo trình tự không gian từ gần đến xa, từ thấp lên cao, từ hẹp đến
rộng. Cảm xúc của nhân vật trữ tình cũng thay đổi. Đi từ sự ngỡ ngàng ở khổ thơ đầu, đến say sưa ở khổ thứ
hai và cuối cùng là những suy ngẫm triết lí trong khổ thơ cuối
Vị trí: Đây là <Vị trí của đoạn thơ> “Sang Thu” thể hiện <Nội dung của đoạn thơ>
3. Phân tích cảm nhận bài thơ:
Tại sao không phải là “Thu sang” mà là “Sang Thu”? Tất cả đều là dụng ý của tác giả. Với tiêu đề “sang
thu”, ta dường như cảm nhận được sự chuyển động của sự vật, mọi thứ như có hồn hơn, sinh động hơn.
“Sang thu” nghĩa là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Mùa hạ đang chủ động chuyển mình thành một
sắc trời mới, dịu dàng, mát mẻ như nàng thu mộc mạc.
3.1: Khổ thơ đầu: Những tín hiệu giao mùa
Nhật Chiêu từng tâm sự “Thơ ca, trong bản chất của nó là mây, là một thể vô định và huyền ảo. Và thơ ca,
cũng còn là bão tố”. Có lẽ, lúc cái đám mây “vô định và huyền ảo” kia bỗng dưng ùa về lấp kín hồn thơ của
Hữu Thỉnh, cũng đầy bất ngờ và hư ảo như cái hương thơm quen thuộc từ đâu xộc thẳng vào hồn ông, để rồi
thi nhân phải giật mình thảng thốt:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Thu của Hữu Thỉnh được bắt đầu từ một mùi hương quen thuộc phảng phất trong làn “gió se” – gió khô và
se se lạnh. Đó là hương ổi – mùi hương đặc trưng của mùa thu làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Kỳ lạ
thay, tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu lại chính là hương ổi. Thu đến trong thơ Hữu Thỉnh một
cách rất riêng, không phải là “ao thu lạnh lẽo” như Nguyễn Khuyến, không như “rặng liễu điều hiu” và “lá
mờ phai” của Xuân Diệu. Ông chẳng đi theo lối mòn sáo rỗng của những dấu chân cũ, với tâm hồn lãng mạn
ấy, thu không chỉ đơn giản là trời xanh, là hoa cúc, là hương cốm hay nắng vàng, Thu còn là mùi hương ổi
chín nơi quê nhà mộc mạc, ấm nồng. Thứ hương kia không “bay”, không “quyện” mà “phả”, là xộc thẳng
vào khứu giác. “Phả” là động từ giàu sắc gợi cảm, nó có nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành từng luồng, hơi
mùa thu đã tỏa đầy trong không gian. Hữu Thỉnh không tả mà chỉ gợi cho người đọc liên tưởng tới trái ổi
chín trong khu vườn nhỏ thơm lừng trong những ngày cuối hạ đầu thu, thấm cả vào hồn người. Chính hương
ổi đã đem lại cho làn gió se một màu mới mang một tính chất mới khác hẳn với các loại gió khác. Làn gió
heo may đã đưa hương thơm ấy lan tỏa khắp các đường thôn, ngõ xóm. Để rồi ta nhận ra trong gió có mùi
thơm hương ổi nồng nàn, một tín hiệu rõ nhất báo mùa thu về. Ngoài ra, sớm thu cũng đã khơi gợi nên bao
xúc cảm nhân gian, giữ lại kí ức tuổi thơ của những ngày xưa cũ chẳng thể quay về. Hương ổi ấy, cơn gió
đầu mùa se lạnh ấy chính là sứ giả của mùa thu. Nó đến rất khẽ khàng, “khẽ” đến mức chỉ một chút vô tình
thôi là không ai hay.
Tín hiệu sang thu không chỉ hương ổi, gió se mà còn gợi ra bằng hình ảnh sương thu. Với Hữu Thỉnh, sương
thu không chỉ đẹp, nhẹ nhàng, mong manh hư ảo mà còn âm thầm thể hiện con người đang ngập ngừng lưu
luyến trước bước đi của thời gian:
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Những hàng sương nhỏ li ti giăng màn khắp nơi được tác giả nhân hóa qua từ láy “chùng chình” để gợi lên
dáng vẻ lãng đãng như đợi chờ, cố ý chậm lại đầy lưu luyến của màn sương. Phép tu từ ấy đã thổi hồn vào
những sự vật vô tri, vô giác để làn sương mỏng manh ấy như có tâm hồn, có cảm nhận riêng. Từ láy ấy phải
chăng là tâm trạng của Hữu Thỉnh, mang chút tiếc nuối, mang chút quyến luyến lại pha thêm vào giọt bịn rịn
của thi nhân khi bồi hồi nhận ra mùa hạ đã đi qua từ lúc nào. Không gian “ngõ” mà sương theo gió đi qua ấy
vừa là ngõ thực của làng quê nhưng cũng vừa là cửa ngõ của thời gian giữa mùa hạ và mùa thu, của không
gian giao mùa. Thế là ông đã cảm nhận dấu hiệu của mùa thu bằng nhiều giác quan và sự tinh tế trong tâm
hồn nhạy cảm của một nhà thơ thực thụ. Trong sự ngỡ ngàng, cả khúc giác, xúc giác và thị giác đều đang
mách bảo rằng thu đã về mà con người vẫn còn chưa dám tin, chưa dám chắc. Cảm xúc ấy thể hiện qua từ
“bỗng” diễn tả tâm trạng bất ngờ như chưa kịp chuẩn bị và thành phần tình thái “hình như” – một sự phỏng
đoán nửa khẳng định, nửa hoài nghi. Có thể nói, phải là con người yêu thiên nhiên tinh tế, nhạy cảm mới có
thể cảm nhận được những tín hiệu ban đầu của khoảnh khắc giao mùa nhẹ nhàng, mơ hồ như vậy.
3.2: Khổ thơ giữa: Bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa:
Có lẽ mùa thu đã sang, là mùa thu của đất trời, của lòng người mênh mang, nhiều tâm trạng. Sau phút giây
ngỡ ngàng và khẽ mừng vui, tác giả lấy lại được cái điềm đạm vốn có để tiếp tục ngắm nhìn thiên nhiên đất
trời đang hiện rõ:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã”
Tới đây, cái bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến đâu mất, nhường lại chỗ cho những rung cảm mãnh liệt của hồn thơ.
Thiên nhiên trong thơ được tác giả tinh tế nhân hóa trở nên vừa có hồn vừa có tình. Hình ảnh dòng sông
được tác giả miêu tả qua từ láy “dềnh dàng” cùng biện pháp nhân hóa giúp người đọc hình dung trạng thái
của dòng sông mùa thu khác hẳn với mùa hạ. Dòng sông lúc sang thu không còn cuồn cuộn gấp gáp như
ngày hạ mà bỗng trở nên thong thả, dềnh dàng, lững lờ trôi. Cái “dềnh dàng” của dòng sông đâu chỉ gợi ra
vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn mang đầy tâm trạng của con người. Đối lập với
dòng sông là những cách chim bắt đầu vội vã, gấp rút như đứa con sợ lỡ mất chuyến xe cuối cùng trở về
nhà. Chim là loài động vật vô cùng nhạy cảm, chúng nhận ra trong gió heo may cái se lạnh của mùa thu
đang về và mùa đông đang tới. Có lẽ nó đang chuẩn bị cho cuộc hành trình bay đi tránh rét ở phương Nam.
Điều đáng nói ở câu này chính là cái tinh tế của hồn thơ Hữu Thỉnh, tại sao là “bắt đầu” mà không phải là
những chú chim đang vội vã. Nhận ra quy luật này chắc hẳn Hữu Thỉnh phải là người rất yêu cuộc sống nên
mới có tâm hồn nhạy cảm, mới có thể nghe được, thấy được cái vỗ cánh bắt đầu của những cánh chim, cái
cựa mình rất nhẹ của thời gian. Cái cựa mình khẽ khàng, nhẹ nhàng của mùa thu đã từng được nhà thơ Xuân
Diệu cảm nhận:
“Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tan.”
Thế nhưng, đấy chưa phải là tất cả những tinh hoa của vị thi sĩ tài hoa, nét chấm phá độc đáo trong bức tranh
thơ gợi nhiều suy tưởng cho bạn đọc có lẽ ở hai câu thơ sau:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Hiện lên trước mắt ta là bức tranh thu đầy lãng mạn và trữ tình của đất trời. Thu chỉ đang ở nơi cửa ngõ, vì
vậy đám mây chỉ vừa mới “vắt nửa mình” mà thôi. Hữu Thỉnh dùng động từ “vắt” để gợi ra trong thời điểm
giao mùa, đám mây như kéo dài ra, nhẹ trôi bồng bềnh uốn lượn như dải lụa mà ai đó tung lên trời. Cũng có
thể gợi cho ta nghĩ đến cây cầu dải yếm hay cầu Ô Thước trong truyện “Ngưu Lang, Chức Nữ” bắc trên dải
ngân hà. Biết bao liên tưởng thú vị được gợi ra từ hình ảnh đám mây đã trở thành nhịp cầu nối liền hai dải
thời gian, nối liền hai bờ không gian và thời gian giữa hạ và thu. Bước qua dải cầu mây mềm mại ấy tức là ta
đã bước qua mùa hạ sôi động để sẵn sàng với một mùa thu dịu dàng, quyến rũ. Có lẽ, ta cũng từng bắt gặp ở
đâu đó đám mây như vậy trong thơ của Lê Thu An:
“Mây trời một dải trắng pha
Vắt ngang sườn núi chiều thu ngập ngừng”
Mây của Lê Thu An “vắt ngang” sườn núi – một vật hữu hình và ta có thể nhìn, có thể cảm. Thế nhưng đám
mây của Hữu Thỉnh lại khác, nó tựa như một dải lụa bồng bềnh vắt nửa mình sang thu. Trên đời này giữa hạ
và thu làm gì có một ranh giới rạch ròi nào phân cách? Ấy vậy mà Hữu Thỉnh lại vẽ nên ranh giới cho một
thứ vô hình như thế. Ông tinh tế dùng hình ảnh của không gian để diễn tả lại sự vận động diệu kì của thời
gian. Đám mây kia là thật, nhưng ranh giới của mùa là ảo. Bầu trời ấy như nhuộm nửa sắc thu để rồi đến
một lúc nào đó sẽ là cả một bầu trời trong vắt như pha lê:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
(Thu điếu – Nguyễn Khuyến)
Hai câu thơ ấy không chỉ hát về khúc ca mùa mà còn như chất chứa cả những suy tư, trăn trở của chính nhà
thơ. Khi viết bài thơ này, tác giả tâm sự rằng ông đã từng liên tưởng đến những đám mây thu trọn vẹn. Thế
nhưng, dường như đã có gì níu giữ tâm trí ông theo chiều hướng “một nửa ấy”. Có lẽ mây mùa hạ đã mang
theo tất cả những hoài bão, những ước mơ của tuổi trẻ, cuốn theo bao sức sống mãnh liệt của tuổi vô ưu vô
lo, tô nên một mùa hạ ngập tràn màu sắc. sặc sỡ và nên thơ hơn bao giờ hết. Vậy mà giữa mơ và thực luôn bị
ngăn cách bởi một ranh giới vô hình nào đó khiến chúng khó mà trọn vẹn. Sự dở dang, mất mát là một hiện
thực mà ta buộc phải học cách chấp nhận, có chăng vì vậy, đám mây chỉ có thể vắt nửa mình sang thu mà
thôi. Những đồng đội, những người lính ngoài chiến trường của ông năm ấy cũng thế, họ đã ra đi, đã “gục
lên súng mũ bỏ quên đời” (Tây Tiến), bỏ quên cả tuổi trẻ vì tương lai tươi sáng phía trước. Cùng với họ,
những hoài bão kia sẽ mãi mãi nằm lại nơi chiến trường mà chẳng bao giờ có thể trở về được nữa, tựa như
nửa đám mây còn vắt vẻo phía bên mùa hạ, tất cả sẽ chỉ còn là hồi ức.
3.3: Khổ thơ cuối: Những suy tư, chiêm nghiệm của nhà thơ
Có câu: “Xuân sinh, hạ trưởng, thu liễn, đông tàn”. Những biến chuyển của tạo vật tới đây đã hóa thành
những suy tư của đời người lúc khoảnh khắc thu vừa chớm nở. Trong khổ thơ cuối, Hữu Thỉnh đã bộc lộ ra
hết những trăn trở từ tận đáy lòng mình:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa”
Bức tranh phong cảnh lúc giao mùa được tác giả gợi tả bằng những hình ảnh quen thuộc. Bằng giác quan
nhạy cảm, tinh tế. Hữu Thỉnh đã nghe thấy, nhìn thấy và đong đếm được những nắng, những mưa, những âm
vang của cuộc sống. Hàng loạt những phó từ chỉ mức độ giảm dần “vẫn còn, vơi dần” để nói về trạng thái
đặc điểm của thiên nhiên nắng, mưa, sấm khi sang thu, chúng lắng lại, chừng mực và ổn định hơn những
ngày hạ, không còn gay gắt, nặng nề. Hạ nhạt dần, thu đậm nét hơn. Với một hồn thơ bay bổng, một trái tim
nhạy cảm, một giác quan tinh tế Hữu Thỉnh đã cảm nhận trên bầu trời thu nắng hạ vẫn còn nhưng không
chói chang, đổ lửa như nắng mùa hạ. Mưa mùa hạ vẫn còn nhưng sang thu mật độ thưa hơn, nhẹ hơn. Chớm
thu, sấm mùa hạ còn theo bước chân mùa hạ đi vào mùa thu nhưng âm vang giảm hẳn. Sang thu, con người
và vạn vật dường như đã quen dần với tiếng sấm mùa hạ nên không còn bất ngờ và kinh hãi nữa. Đối diện
với mùa thu của đất trời, trong lòng nhà thơ dào dạt bao suy ngẫm về đời người lúc chớm thu qua những
hình ảnh giàu sức gợi:
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Lời thơ trước hết mang ý nghĩa tả thực: hình tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những cơn mùa
rào chỉ có ở mùa hạ. Hàng cây cổ thụ, cảnh vật thiên nhiên vào thu không còn giật mình, bất ngờ bởi tiếng
sấm mùa hạ. Nhưng không chỉ có thế, lời thơ còn mang nét nghĩa ẩn dụ gợi nhiều suy tưởng. Cũng như
chính tác giả đã từng tự bạch: “Có thể hiểu, hàng cây đã lớn, đã trải qua bao mùa thay lá sẽ trở nên vững
vàng hơn trước những tiếng sấm bất ngờ”. Phép nhân hóa và ẩn dụ như ẩn ý rằng tiếng sấm là những vang
động bất thường, những khó khăn, chông chênh của cuộc đời mỗi người. Khi càng trưởng thành, càng trải
nghiệm nhiều, ta lại càng trở nên bình tâm hơn khi đối mặt với những cơm sấm mà cuộc đời ban tặng, không
còn bồng bột như xưa. Đến đây giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không chỉ đơn thuần là giọng kể, là sự
cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt
đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại những
tháng ngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên
tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn trước những chấn động của cuộc đời. Vậy là “sang thu” đâu chỉ có ở
thời gian, ở thiên nhiên mà còn là sự “sang thu” của đời người. Chính vì vậy những vần thơ của ông khiến
bạn đọc như vỡ òa bởi sức lay động lòng người mãnh liệt.
4. Đánh giá chung:
Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên, chân thật, cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa tài tình, Hữu
Thỉnh đã vẽ nên bức tranh đặc sắc về thời điểm giao mùa hạ - thu ở nông thôn Bắc Bộ. Các khổ thơ trên đều
là hình ảnh thơ giản dị, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm. Với “Sang Thu”, Hữu Thỉnh đã góp thêm
một nét thu mang dấu ấn riêng vào những chùm thơ thu hay và đẹp của thơ ca Việt Nam. Nhìn lại cả bài thơ,
ta mới thấm thía vì sao lại có sự bịn rịn, “chùng chình” lúc sang thu. Vì sao lại có sự “dềnh dàng” mà lại vội
vã, có lẽ khi mái tóc đã dần phai sương, ta lại càng luyến tiếc những ngày xanh lúc trước để rồi phải càng
vội vã để sống, để cống hiến và tận hưởng thời giờ ít ỏi còn lại của cuộc đời.
III. Kết bài:
Hạ đi, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để rồi gieo lại trong lòng ai những bồi hồi về một nàng
thu nồng nàn êm ái. Qủa thực, ta thấy lòng thanh thản vô cùng lại còn nôn nao nhớ đến những miền quê xa
vắng trong nắng thu của những câu thơ ấy. Bài thơ cũng đã làm rõ câu nói: “Sang Thu của Hữu Thỉnh
không chỉ có hình ảnh đất trời nên thơ mà còn có hình tượng con người trước những biến chuyển của cuộc
đời ở thời khắc giao mùa.”

Đề bài: Phân tích bài thơ “Nói với con” của Y Phương:
I.Mở bài:
Bình an, hạnh phúc có nào xa
Cũng bởi tình thương tỏa khắp nhà
(Gia đình – Nguyễn Xuân Viện)
“Gia đình”, nơi chứa đầy tình yêu thương và sự ngọt ngào của mẹ, là những lời tâm tình trầm ấm của cha.
Là bến đỗ bình yên mà ta luôn muốn chạy đến. Là nơi trái tim con người ta phải rung lên khi khoảnh khắc
chạm nhắc. Không chỉ hiện mình trong đời sống thường nhật mà hình ảnh gia đình, tình yêu thương của cha
mẹ cũng xếp danh trong nền văn học Việt Nam. Và trong số đó, ta không thể không nhắc đến “Nói với con”
của Y Phương - một lời nhắn nhủ, dặn dò của người cha dân tộc miền núi gửi gắm cho đứa con của mình.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung:
Y Phương là nhà thơ mang một tiếng nói rất riêng, rất đặc trưng cho dân tộc Tày. Ông luôn đi tìm cái mới,
cái độc đáo trong những sáng tác của mình, tuy nhiên vẫn giữ cho mình khuôn phép riêng, ngay cả trong đời
sống thực. Vì thế, thơ ông luôn thể hiện một tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu
hình ảnh của người miền núi. Ông có rất nhiều tác phẩm hay, nhưng chắc chắn phải kể đến bài thơ “Nói với
con”, một tác phẩm đã đi vào lòng bạn đọc một thức tình cảm gần gũi nhưng thiêng liêng, cao quý: tình phụ
tử. Đó là những tâm sự, những điều mà cha muốn thổ lộ cho con nghe, con hiểu. Đặc biệt <Vị trí của đoạn
thơ> thể hiện <Nội dung đoạn thơ> <Trích dẫn thơ>
2. Khái quát về tác phẩm:
Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được ra đời năm 1980, 5 năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Đây là giai đoạn mà đời sống của nhân dân nói chung gặp rất nhiều khó khăn, cả về vật chất lẫn tinh
thần. Giống như một người mới ốm dậy, xã hội khi ấy bắt đầu xuất hiện người tốt, kẻ xấu để tranh giành sự
sống. Từ hiện thực ấy, nhà thơ đã viết nên bài thơ này. Bài thơ như một lời tâm sự với chính mình để động
viên mình, đồng thời nhắc nhở thế hệ mai sau.
Mạch cảm xúc: “Nói với con” là một lời tâm sự, thủ thỉ của người cha dành cho con. Cảm xúc chủ đạo của
bài thơ chính là tình yêu thương, chia sẻ, gắn bó và giáo dục cho con những truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và những người xung quanh con. Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ tình cảm gia đình rồi mở rộng ra tình cảm
quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi mà nâng lên thành lẽ sống.
Vị trí: Đoạn thơ là khổ thơ <vị trí> của bài thơ nói về <Nội dung chính của đoạn thơ>
3. Phân tích cảm nhận bài thơ:
3.1: Khổ thơ đầu: Cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con là gia đình:
Bài học đầu tiên mà người cha Y Phương muốn gửi gắm cho đứa con của mình không phải những gì vật chất
hay cũng không phải những thứ quá đỗi xa vời, mà đơn giản chỉ là nơi gần gũi với chúng ta, nơi chứa đựng
đầy ắp những tiếng cười:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Mở ra khung cảnh của 4 câu thơ đầu với những hình ảnh thật cụ thể, cùng với việc sử dụng nhịp thơ 2/3, cấu
trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt: chân phải – chân trái, rồi một
bước – hai bước, rồi lại tiếng nói – tiếng cười cùng thủ pháp liệt kê, tác giả đã gợi lên trước mắt người đọc
một hình ảnh cụ thể thường gặp trong đời sống. Điệp ngữ “bước tới” với động từ “chạm” được dùng rất
khéo, làm nổi bật cái hồn của bức tranh. Từ lúc mới lọt lòng, con luôn được bao bọc, yêu thương trong vòng
tay của cha mẹ. Từng ngày, từng giờ con lớn lên là từng ngày từng giờ cha mẹ mong chờ. Từ lúc con chập
chững bước những bước đầu đời thì cha mẹ luôn chứng kiến và cổ vũ. Bao tiếng nói, tiếng cười lan tỏa khắp
phòng tạo nên một không gian ấm áp, hạnh phúc. Tuy nhiên, đằng sau lời nói cụ thể đó, tác giả muốn khái
quát một điều lớn hơn: con sinh ra và lớn lên bằng tình yêu thương, trong sự nâng niu, vỗ về của cha mẹ.
Gia đình chính là cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con, dù con có đi bất cứ nơi đâu, có làm gì thì hãy
luôn nhớ nơi đây vẫn mãi là bến đỗ dang tay chào đón khi con trở về, dẫu thành công hay thất bại, khi con
cần – gia đình sẽ trở thành chỗ dựa, là bờ vai vững chắc cho con:
Thuở thơ ấu no lòng bầu sữa mẹ
Khi vào đời nương tựa bóng cha tôi..
(Công cha nghĩa mẹ)
Đứa con trưởng thành trong cuộc sống lao động cần cù của cha mẹ, trong khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ,
thơ mộng của quê hương. Nhìn con lớn lên từng ngày, cha mẹ càng yêu quý thêm mảnh đất tổ tiên, ông bà
đã để lại. Câu thơ bật thốt lên từ trái tim tình cảm sâu nặng:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Quê hương được giới thiệu qua lối nói hình ảnh của người vùng cao – “người đồng mình”. “Người đồng
mình” nghĩa là người bản mình, người buôn làng. Cách giới thiệu hình ảnh ấy lại đi liền với hô ngữ “con ơi”
khiến lời của cha với con thật trìu mến, thân thương. Chắc hẳn, nhà thơ đã rất tự hào về những người cùng
sống trên mảnh đất quê hương đã nuôi con mình nên vóc nên hình. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui
của đồng bào dân tộc đã được nhà thơ miêu tả qua những hình ảnh:
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Những con người dân tộc mộc mạc, bình dị, chăm chỉ làm ăn, khéo léo trong mọi công việc. Các động từ
“cài”, “ken” vừa diễn tả động tác lao động cụ thể, vừa nói lên sự hòa hợp, gắn bó giữa hiện thực lãng mạn
trong đời sống vật chất, tinh thần của người vùng cao. Đan lờ đánh cá, dưới bàn tay người Tày, những nan
tre, nan trúc đều trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà còn được ken bằng “câu hát”,
một câu thơ tả thực lối sinh hoạt văn hóa cộng đồng của gia đình “người đồng mình” khiến cho những vách
nhà như được ken trong câu hát si, hát lượn, gợi một thế giới tâm hồn tinh tế và tràn đầy lạc quan của người
miền cao. Từ đó, gợi ra sự gắn bó, hòa quyện, quấn quýt của con người và của quê hương, xứ sở.
Cuộc sống lao động ấy, sinh hoạt gia đình đầy niềm vui ấy được đặt trong cả một quê hương giàu đẹp, nghĩa
tình. Quê hương của “người đồng mình” với hình ảnh rừng, một hình ảnh gắn liền với cảnh quan miền núi:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những hình ảnh khác cách
nói của Y Phương: là thác lũ, bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn,
giọng nguồn thét núi”, những bí mật của rừng thiêng. Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh
“hoa” nói về cảnh quan của rừng. Hoa trong “Nói với con” có thể là hoa thực như một đặc điểm của rừng.
Nhưng đâu chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn muốn từ hình ảnh hoa để gợi lên trong lòng bạn đọc rằng chính
những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó. Rừng đâu chỉ cho sản
vật hoa quý, con đường đâu chỉ để đi ngược về xuôi, lên non xuống biển mà ở đó còn có tình cảm quê
hương đang vun đắp, nâng cánh cho tâm hồn, ước mơ của con. Con thật may mắn và hạnh phúc khi lớn lên
trong tình làng nghĩa xóm. Không những thế, đó còn là một điều tốt tôi luyện nhân cách của con bởi : “Ở
bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Bằng cách nhân hóa “rừng” và “con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể
nhận ra lối sống tình nghĩa của “người đồng mình”. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống
êm đềm. Cội nguồn của hạnh phúc con người chính là gia đình và quê hương. Phải chăng đó là điều đầu tiên
mà người cha muốn nói với đứa con của mình. Nếu như gia đình là cội nguồn sinh thành, dưỡng dục con thì
quê hương bằng văn hóa, lao động đã nuôi dưỡng và che chở cho con thêm khôn lớn, trưởng thành.
Sung sướng ôm con thơ vào lòng, nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ đã
nghĩ về cội nguồn hạnh phúc:
“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Người cha còn nhắc đến những kỉ niệm ngày cưới của mình với con để mong con luôn nhớ con lớn lên trong
tình yêu trong sáng và hạnh phúc của cha mẹ. Ngày cưới của cha mẹ - cái ngày mà “đẹp nhất trên đời”, ngày
cha mẹ được tác hợp bởi duyên trời, cũng là ngày mà sự sống của con được bắt đầu. Người cha muốn con
mình biết về ý nghĩa của ngày ấy – một kỉ niệm thiêng liêng không bao giờ phai mờ đối với mẹ cha và giờ
đây lại in dấu trong lòng con. Đó là điểm xuất phát mọi tình yêu trong con. Chính nơi này, cha mẹ đã sinh cơ
lập nghiệp là nơi mà con cất tiếng khóc chào đời. Nói với con những điều đó, người cha muốn dạy dỗ con
tình cảm cội nguồn bằng chính tình yêu và lòng tự hào về quê hương, về gia đình. Đó là một nguồn mạch
yêu thương, vẫn da diết, tha thiết chảy trong huyết quản và tâm hồn con người. Cũng là lời tác giả nhắc nhở
con không được quên quê hương dù có khôn lớn đến đâu đi chăng nữa:
Rời tổ ấm chim tung bay xứ lạ
Gói hành trang chỉ vỏn vẹn “nhớ nguồn”
Đoạn thơ đã mở ra bằng hình ảnh đứa con, kết thúc bằng hình ảnh cha mẹ, mở ra bằng cội nguồn gia đình và
kết thúc bằng cội nguồn quê hương, quê hương và gia đình đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở che con
ngay từ khi con cất tiếng khóc. Quê hương và gia đình chắc chắn sẽ luôn bên nhau, nâng đỡ con trong suốt
hành trình đầy rẫy những gian nan. Tâm sự với con về tình cảm thiêng liêng đó chắc hẳn nhà thơ muốn nhắn
nhủ với con rằng: Hãy yêu gia đình, yêu quê hương mình, đừng bao giờ quên đi cội nguồn sinh dưỡng đó
bởi đúng như nhà thơ Đỗ Trung Quân từng viết:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”
Có thể nói tình cảm gia đình, nhất là tình cha con luôn thiêng liêng, là tiền đề, là cơ sở cho tình yêu tổ quốc
phát triển. Năm 1966, ta đã từng thấm thía tình cha con qua tác phẩm “Chiếc Lược Ngà” của Nguyễn Quang
Sáng. Cái khác biệt ở chỗ, Nguyễn Quang Sáng đã thử thách tình cha con qua bom rơi đạn nổ, qua cái khốc
liệt của chiến tranh mà ánh ngời lên “hạt ngọc ẩn náu trong tâm hồn” người cha, còn Y Phương lại để thứ
tình cảm ấy nhẹ nhàng mà không kém phần nồng ấm. Qua đó mà ta thấm thía bài ca quý giá về tình cảm gia
đình và tình phụ tử cao quý thiêng liêng.
3.2: Những phẩm chất truyền thống tốt đẹp của người đồng mình và mong ước của cha:
Nếu trong khổ thơ đầu là sự gợi nhớ về tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của quê hương dành cho
con thì đến khổ thơ thứ hai, người cha muốn nói với con về những đức tính cao đẹp của đồng bào mình, dặn
dò con phải kế tục và phát huy một cách xứng đáng
Người đồng mình thương lắm con ơi
Ở đây ta lại bắt gặp một lần nữa hình ảnh “người đồng mình”. Tiếng gọi “người đồng mình” sao mà thân
thương, thân mật và gần gũi đến thế bởi đó là cha mẹ, là những người thân thích, đồng bào, những người
cùng quê hương. Rồi ở đây lại là “thương” chứ không phải “yêu” như khổ thơ đầu. Ở khổ thơ đầu, tác giả sử
dụng từ “yêu”, “yêu” chính là yêu cái cuộc sống lao động nhộn nhịp của quê hương, yêu bản làng thơ mộng,
những tấm lòng thân thiện nghĩa tình, nhưng “thương” lại nghĩa là thương cho cuộc sống gian nan vất vả. Từ
đó bộc lộ tình yêu quê hương sâu sắc của tác giả. Những khó khăn, thách thức cứ liên tục chồng chất, nhưng
người nơi đây vẫn chăm chỉ, vẫn cố gắng, không những chịu khó mà còn có chí lớn:
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy cái cao vời vợi của đất trời để đo nỗi buồn,
lấy cái xa của đất để đo ý chí con người. Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy hai
câu thơ là sự đối lập giữa cuộc sống nhiều khó khăn, trắc trở nhưng đầy lòng quyết tâm và sự tin tưởng vào
bản thân. Qua đó, ta thấy được rằng người đồng mình sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ là thế nhưng
họ vẫn nhẫn nhục chịu đựng nỗi buồn dai dẳng của mảnh đất quê hương. “Xa nuôi chí lớn” người cha muốn
nhắn nhủ với con, dân tộc mình ai cũng có một ý chí, nghị lực, ai cũng muốn bay cao bay xa trong tương lai.
Vì thế, con phải hiểu được, phải kế thừa và phát huy được đức tính tốt đẹp này.
Bên cạnh sự ý chí nghị lực vươn lên ấy, “người đồng mình” còn có những phẩm chất cao đẹp khác, đó là
lòng thủy chung, gắn bó với quê hương dù khó khăn, nghèo đói chỉ cần sớm tối bên nhau, truyền cho nhau
chút lửa, thì dù nghịch cảnh nào cũng đều có thể vượt qua:
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Câu thơ có chút ngậm ngùi, xót xa để diễn tả thực tại đời sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn của đồng bào
vùng cao. Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng hình ảnh đối xứng đã nhấn mạnh rằng
người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí và quyết tâm. Từ láy
“gập ghềnh” gợi sự bấp bênh, không ổn định trong cuộc sống. Người đồng mình vẫn chấp nhận và để từ
“không chê” vang lên một cách dứt khoát, nhấn mạnh tấm lòng thủy chung, gắn bó với quê hương của họ,
như một lời cam kết đầy tự hào và cũng đầy kiêu hãnh của những con người sinh ra từ mạch nước của rừng
và ý chí của đá. Mặc dù đá gập ghềnh, mặc cho thung nghèo đói, người cha vẫn muốn sống ở nơi mảnh đất
quê hương, không vì những thiếu thốn gian khổ mà chối bỏ hay chê bai quê hương. Phải chăng, chính cuộc
sống nhọc nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo nên sức
mạnh giúp họ vượt qua tất cả. Đồng thời người cha khuyên con phải có ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc
sống:
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Hình ảnh “sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình, đưa bạn đọc trở về
nụ cười lạc quan của người đồng mình trong lối sống hồn nhiên, trong sáng, mạnh mẽ. Gian khó là thế, họ
vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ
trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sông trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người. Và cũng từ đó
mà người cha khuyên con hãy sống cuộc đời rộng lớn, tự do, khoáng đạt, không thụ động chấp nhận thực tại
mà luôn hướng tới tương lai không bao giờ cam chịu cuộc sống nhỏ bé tầm thường. Đã có biết bao nhà thơ,
nghệ sĩ viết về vấn đề này. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về lẽ sống “cho” – “nhận” ở đời: “Sống là cho đâu chỉ
nhận riêng mình. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng qua ca từ đã đề cập đến lẽ sống yêu thương: “Sống trong đời
cần có một tấm lòng”. Đó đều là những lẽ sống cao thượng, đẹp đẽ. Và Y Phương cũng mong con mình sống
như thế.
Việc vận dụng thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh” đã gợi bao nỗi vất vả, lam lũ. Cách nói ẩn dụ
“lên thác xuống ghềnh” kết hợp với lời nói mộc mạc thường ngày “không lo cực nhọc”, cha khuyên con hãy
sẵn sàng đương đầu với thử thách, khó khăn của cuộc đời, dẫu có ra sao, con cũng không được chùn bước
nản chí. Bởi cuộc đời không bao giờ yên ả như một mặt nước hồ thu nên con hãy ngẩng cao đầu dũng cảm
vượt qua chông gai, thử thách cuộc đời. Đó như một lời khuyên, lời giáo huấn chân thành để con có thể tự
mình bước tiếp những chặng đường tiếp theo.
Ngoài những phẩm chất cao đẹp về ý chí, nghị lực, về lòng thủy chung với quê hương thì “người đồng
mình” còn có đức tính cao quý hơn thế nữa, đó là lòng yêu bản làng, tôn cao vẻ đẹp truyền thống cao vời
của quê hương, của chính dân tộc mình:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Có lẽ “thô sơ da thịt” đã không còn xa lạ với chúng ta, nó gợi cho chúng ta thấy sự mộc mạc, đơn giản về vẻ
ngoài của những con người quê hương nơi đây, của những người dân tộc miền núi. Tuy cũng chỉ là con
người bình thường bằng da bằng thịt nhưng ý chí và tâm hồn của người đồng mình lại lớn lao chứ không hề
nhỏ bé. Họ “thô sơ” vẻ bề ngoài nhưng lại giàu về đời sống tâm hồn. Chính cái hồn nhiên mộc mạc ấy lại
chứa đứng sức sống mạnh mẽ của dân tộc; giàu chí khí, niềm tin, về ý chí và đặc biệt là khát vọng xây dựng
quê hương. Ý chí và mong ước ấy được cô đúc trong hai câu thơ vừa có hình ảnh cụ thể lại vừa hàm chứa ý
nghĩa sâu sắc:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Cách nói này đậm ngôn ngữ dân tộc, có sự độc đáo mà vẫn chứa đứng ý vị sâu xa. Hình ảnh “tự đục đá kê
cao quê hương” vừa mang tính tả thực, vừa mang nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Việc “đục đá” là khó, là đòi hỏi nghị
lực, nhưng người quê hương ta đã làm, vẫn làm để làm rạng rỡ quê hương. Dù khó khăn, gian khổ nhưng
người đồng mình đã tự tay xây dựng nên truyền thống quê hương đẹp giàu, sánh tầm với các miền quê khác
trên mảnh đất hình chữ S thân yêu. Chính những con người cần cù, nhẫn nại, bằng chính bàn tay và khối óc,
bằng sức lao động đã xây dựng và làm đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương. Còn quê
hương là điểm tựa tinh thần với phong tục tập quán nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin. Câu
thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống quê
hương tốt đẹp của người đồng mình.
Với những bài học tha thiết về nơi cội nguồn sinh dưỡng, về sự chan chứa nghĩa tình của người đồng mình,
thì giờ đây những câu thơ kết chính là lời tâm tình, dặn dò, nhắn nhủ của người cha, chuẩn bị cho con những
hành trang trước cuộc đời lắm bão giông, gian khổ:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Tiếng gọi “con ơi” tha thiết, tâm tình, nhắn nhủ với con điều lớn lao nhất đó là lòng tự hào dân tộc và niềm
tự tin khi con bước vào đời. Ở đây, hình ảnh “thô sơ da thịt” lại một lần nữa được nhắc đến, khẳng định sự
kiên cường, bản lĩnh to lớn của người đồng mình. Nhưng hai tiếng “lên đường” cho thấy người con đã lớn
khôn và tạm biệt gia đình – quê hương để bước vào một trang đời mới. Trong hành trang con mang theo khi
lên đường có một thứ quý giá hơn mọi thứ trên đời, đó chính là ý chí, nghị lực, truyền thống quê hương;.
Con có thể “thô sơ” nhưng con không được “nhỏ bé”, con có thể mộc mạc giản dị nhưng phải thật bền bỉ,
mạnh mẽ trên con đường đời phía trước, không bao giờ được bỏ cuộc. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ
hiểu, thấm thía, ẩn chứa bao niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng con sẽ tiếp tục vững bước trên đường
đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương. Hai từ “nghe con” lắng đọc bao cảm xúc, ẩn chứa tình
yêu thương vô bờ bến của cha dành cho con. Câu thơ chắc gọn như một mệnh lệnh, con không được chối bỏ
cội nguồn dân tộc, hãy khắc sâu tình cảm quê hương vào trong trái tim mình, luôn tôn trọng và phát triển
truyền thống dân tộc. Đó là tấm lòng của cha dành cho con hay đúng hơn là quê hương của mỗi chúng ta.
Người cha ấy nói với con cũng là nói với chính mình, với những ai đang đi trên đường đời: Hãy yêu mến tự
hào quê hương, sống có chí khí, sống đẹp như người đồng mình từ bao đời nay. Người cha trong bài thơ của
Y Phương đã vun đắp cho con một hành trang quý vào đời. Nếu mẹ là bông hoa cho con cài lên ngực thì cha
là cánh chim cho con bay thật xa. Nếu mẹ cho con những lời ngọt ngào yêu thương vỗ về thì cha cho con
tinh thần ý chí nghị lực, ước mơ khát vọng, lối sống cao đẹp. Hai từ “nghe con” ở cuối bài như sự đúc kết
trọn vẹn cho những bài học đường đời – bài học về cội nguồn, về quê hương, phẩm chất đáng có mà cha đã
dạy con. Nhắn gửi con và mong con, mong cả những người trẻ trong xã hội lúc bấy giờ - những người lãng
quên quê hương, tổ quốc vì thấy đất nước đói nghèo mà tìm cách vượt biên, mong họ có thể thức tỉnh mà
khắc sâu bài học mà Y Phương đã thầm gửi nhắn đến họ. Đoạn thơ chứa chan ý nghĩa, mộc mạc, đằm thắm
mà sâu sắc. Nó tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ là hành trang
đi theo con suốt cuộc đời và có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ về niềm tin, nghị lực và ý chí
vươn lên.
4. Đánh giá chung:
Với thể thơ tự do, câu dài câu ngắn rất phù hợp với cuộc sống gập ghềnh của người dân vùng núi. Hình ảnh
thơ mang đậm chất của núi rừng, sông suối. Bài thơ tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang. Mượn lời
tâm sự với con, Y Phương đã thành công khắc sâu trong tâm khảm bạn đọc về những bài học quý giá mà ông
đã nhắn nhủ tới con đồng thời cũng là gửi gắm tới bạn đọc phải biết sống đẹp, biết vượt qua gian khó bằng
niềm tin, ý chí như người đồng mình. Qua đó, ta thấy được người đồng mình là hình ảnh mang tính biểu
tượng đại diện cho vẻ đẹp của con người Việt Nam từ muôn đời nay.
III. Kết bài:
Tình cha – một đề tài không mới nhưng chỉ cần nó xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào thì nó cũng sẽ
đánh động hàng triệu trái tim hồi tưởng lại ý nghĩa của nó. Không một cái gì có thể đánh đổi được tình cảm
của cha dành cho con và “Bạn không cần phải đắn đo phân tích xem cha chúng ta là người như thế nào vì
lúc nào cha cũng thật vĩ đại”. Vì vậy, con người phải sống và làm việc sao cho xứng đáng với tình cảm cao
quý đó, để xứng với công lao trời bể mà cha đã dành ra yêu thương ta suốt một cuộc đời.

Đề bài: Phân tích tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê:
I.Mở bài:
Đi qua cuộc chiến tranh chống Mỹ, nhà văn Lê Minh Khuê dường như đã biết chọn cho mình cách sống cân
bằng, không ồn ào, bon chen. Có lẽ vì thế mà những truyện ngắn của bà, từ “Những ngôi sao xa xôi”, “Cao
điểm mùa hạ” hay “Nhiệt đới gió mùa” lại gần gũi, chân thực và ám ảnh người đọc. Những tác phẩm chủ
yếu viết về chiến tranh và những đề tài hậu chiến mà ở đâu cũng thấy chuyện tuổi trẻ, chuyện về số phận
con người. Kí ức chiến tranh có lẽ là món nợ và buộc bà phải cầm bút. Kí ức ấy đã được bà tái hiện qua tác
phẩm “Những ngôi sao xa xôi”
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung:
NGHỊ LUẬN XÃ HỘI:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí:
I.Mở bài:
Có rất nhiều yếu tố giúp con người thành công trong cuộc sống. Người xưa thì khái quát thành “Thiên thời,
địa lợi, nhân hòa”. Người nay lại khẳng định lí tưởng cao đẹp, phương pháp đúng đắn, hiểu biết sâu sắc, bản
lĩnh sáng tạo là những yếu tố đưa chúng ta vươn tới những thành công. Song có lẽ, không ai có thể phủ nhận
vai trò của […]
Đâu phải tự nhiên mà nhà giáo dục nhân văn Sukhomlynsky đã từng tâm niệm: “Con người sinh ra không
phải để tan biến đi như hạt cát vô danh. Họ sinh ra để lưu lại dấu ấn trên mặt đất và trong trái tim người
khác”. Có lẽ chăng để sống một cuộc đời có ý nghĩa thay vì chỉ đơn thuần là tồn tại, con người ta cần có <tư
tưởng>
II. Thân đoạn:
1. Giải thích:
2. Bàn luận vấn đề:
- Biểu hiện
- Ý nghĩa
- Dẫn chứng
3. Mở rộng vấn đề:
- Phản đề
- Phê phán/lên án
4. Bài học nhận thức và hành động
III. Kết bài:
[…] là bài học cuộc đời được góp nhặt. Giống như giọt mật ong được chắt chiu từ công sức lao động của
những chú ong chăm chỉ để lại cho đời. Mang theo hành trang này bên mình tôi tin chúng ta sẽ gặt hái được
nhiều thành công trong tương lai.
Nghị luận về hiện tượng đời sống
I.Mở bài:
Nguyễn Quang Vũ có viết trong bài “Thơ tự sự” thế này:
“Hạnh phúc như bầu trời này vậy
Không chỉ dành cho một riêng ai.”
Điều tuyệt vời và mục đích lớn nhất trong mỗi chúng ta là sống để cảm nhận và tạo ra hạnh phúc. Để đạt
được điều ấy, mỗi người đều chọn cho mình những cách thể hiện khác nhau từ đó hình thành nên những lối
sống khác nhau. Trong đó, …. [VĐNL] Là lối sống đẹp mà chúng ta cần phải hướng tới.
Tiêu cực:
V. Hugo trong cuốn tiểu thuyết bất hủ của mình từng viết về những vấn đề lớn của thời đại: “Pháp luật và
phong hóa còn đày đọa con người, còn dựng nên những địa ngục ở giữa xã hội văn minh và đem 1 thứ định
mệnh nhân tạo chồng thêm lên thiên mệnh.” Nhưng đối với hiện tại, thứ có lẽ đang “đày đọa con người”
chính là […]
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, nơi mà con người suy nghĩ nhiều hơn là yêu thương, bỏ quên nhiều hơn
là tìm lại, chúng ta thường phải đối mặt với một số vấn đề … [VĐNL]
II. Thân bài:
1. Khái niệm:
2. Thực trạng
3. Tác động:
+ Tích cực
+ Tiêu cực
4. Giải pháp
5. Bài học nhận thức và hành động
III. Kết bài:
Cuộc sống là hành trình để mỗi người trải nghiệm và chinh phục. Thành công hay thất bại phụ thuộc vào lựa
chọn của chúng ta. […] “Chẳng có lý do gì người khác có thể làm được mà bạn thì không.”

You might also like