You are on page 1of 65

ĐỀ CƯƠNG HỌC KÌ II

NGỮ VĂN 9
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
MÙA XUÂN Thanh Hải

NHO NHỎ
Bài làm:
Con người được ban tặng cho cuộc sống để
sống, tận hưởng đồng thời cần biết tận hiến. Sống một
cuộc đời có ý nghĩa là nguồn cảm hứng mãnh liệt nhất
thôi thúc nhà thơ Thanh Hải cầm bút viết bài thơ: “Mùa
xuân nho nhỏ”. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được sáng
tác vào tháng 11 năm 1980. Điều đặc biệt ở chỗ, đó là
khoảnh khắc hấp hối của thi nhân trên giường bệnh.
Thi phẩm vừa là tiếng lòng thi sĩ, vừa là thông điệp
nhân sinh sâu sắc mà Thanh Hải dành tặng cho độc giả
hôm nay và cả mai sau.
Thanh Hải là một trong những cây bút
nổi bật cho hồn thơ thời chống Mỹ cứu nước. Thơ ông
giản dị, đôn hậu và chân thành. Với hồn thơ giản dị,
mộc mạc đậm tính Huế, nhà thơ thực sự đã đã mang
đến vẻ đẹp cho cuộc sống này. Trước lúc lâm chung,
Thanh Hải vẫn dành trọn từng giây từng phút cho văn
chương nghệ thuật, cho đời và cho người. Bài thơ: “Mùa
xuân nho nhỏ” ra đời trong hoàn cảnh như vậy nên
nhan đề bài thơ cũng đặc biệt ý nghĩa. Bài thơ “Mùa
xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
phát hiện mới mẻ của nhà thơ. Hình ảnh “Mùa xuân
nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ
nhất của sự sống và cuộc đời mỗi người. Nó thể hiện
quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng với cái
chung, giữa cá nhân và cộng đồng. Đồng thời, qua
nhan đề còn thể hiện nguyện ước cao đẹp của nhà
thơ. Nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống
đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng
rất khiêm nhường là một mùa xuân nho nhỏ góp vào
mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước, của cuộc đời
chung và khát vọng sống chân thành, cao đẹp của
nhà thơ. Đó cũng chính là chủ đề của bài thơ mà nhà
thơ muốn gửi gắm.
Trước tiên, nhà thơ bộc lộ cảm xúc của mình
trước mùa xuân của thiên nhiên. Bức tranh mùa xuân
thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được vẽ bằng vài
nét phác họa nhưng rất đặc sắc:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Ngay ở dòng đầu tiên, với phép đảo trật tự ngữ
pháp, động từ “mọc” được đặt trước hình ảnh “dòng
sông xanh” và “hoa tím biếc”, tác giả đã gợi được

FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN


cái sức sống trỗi dậy, vươn mình của vạn vật trước
mùa xuân. Những câu thơ mở ra không gian cao
rộng của bầu trời, rộng dài của dòng sông, màu sắc
hài hòa của bông hoa tím biếc và dòng sông xanh –
đặc trưng của xứ Huế. Bức tranh thiên nhiên còn rộn
rã, tươi vui với âm thanh tiếng chim chiền chiện hót
vang trời, tiếng chim trong ánh sáng xuân lan tỏa
khắp bầu trời như động thanh: “từng giọt long lanh
rơi”. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời
thể hiện cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những
lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên:
“ơi, hót chi…, mà…”. Đặc biệt, cảm xúc của nhà thơ
được thể hiện trong một động tác trữ tình đón nhận
vừa trân trọng vừa tha thiết trìu mến với mùa xuân:
đưa tay hứng từng giọt long lanh của tiếng chim
chiền chiện.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Cụm từ “giọt long lanh” có thể hiểu câu thơ
theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long
lanh” là những giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa
xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá
như những giọt ngọc. Cùng với đó, “giọt long lanh”
có thể hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng
thính giác) chuyển thành từng giọt (hình và khối,
cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh
ánh sáng và màu
KINGEDU.VN - GIÁO DỤC THCS
sắc, có thể cảm nhận bằng xúc giác: “Tôi đưa tay
tôi hứng”. Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ
vẫn thể hiện cảm xúc say sưa ngây ngất của tác giả
trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, thể hiện mong
muốn hòa vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng
giữa mùa đông giá lạnh khiến ta vô cùng khâm
phục.
Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, ta bắt gặp một bức
tranh thiên nhiên đầy xuân sắc xuân tình, thì ở khổ
thứ hai, ta không khỏi xao xuyến trước bức tranh
lao động tươi vui, phấn khởi của con người:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Hình ảnh lộc xuân theo người cầm súng,
tràn theo người ra đồng làm đẹp ý thơ với cuộc
sống lao động và chiến đấu, xây dựng và bảo vệ,
hai nhiệm vụ không thể tách rời. Những người chiến
sĩ, người nông dân đã đem mùa xuân đến mọi nơi
trên đất nước.
Hình ảnh “người cầm súng” khiến chúng ta liên
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Cụm từ “giọt long lanh” có thể hiểu câu thơ
theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long
lanh” là
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
những giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân,
trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như
những giọt ngọc. Cùng với đó, “giọt long lanh” có
thể hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng
thính giác) chuyển thành từng giọt (hình và khối,
cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh
ánh sáng và màu sắc, có thể cảm nhận bằng xúc
giác: “Tôi đưa tay tôi hứng”. Dù hiểu theo cách nào
thì hai câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say sưa ngây
ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào
xuân, thể hiện mong muốn hòa vào thiên nhiên đất
trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá lạnh khiến
ta vô cùng khâm phục.
Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, ta bắt gặp một
bức tranh thiên nhiên đầy xuân sắc xuân tình, thì ở
khổ thứ hai, ta không khỏi xao xuyến trước bức tranh
lao động tươi vui, phấn khởi của con người:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Hình ảnh lộc xuân theo người cầm súng,
tràn theo người ra đồng làm đẹp ý thơ với cuộc
sống lao động và chiến đấu, xây dựng và bảo vệ,
hai nhiệm vụ
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
không thể tách rời. Những người chiến sĩ, người
nông dân đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất
nước. Hình ảnh “người cầm súng” khiến chúng ta
liên tưởng đến những người chiến sĩ ra trận mà trên
vai, trên lưng họ có cành lá ngụy trang. Những cành
lá ấy mang lộc biếc, chồi non, mang theo mùa xuân
của thiên nhiên, cây cỏ. Từ “lộc” trong “lộc giắt đầy
trên lưng” làm cho người ta liên tưởng đến người
lính khi ra trận, mang theo sức sống của cả dân tộc.
Chính màu xanh sức sống đó đã tiếp cho người lính
có thêm sức mạnh, ý chí để họ vươn xa ra phía
trước tiêu diệt quân thù. Đất nước có được mùa
xuân tươi đẹp chẳng phải nhờ các chiến sĩ dũng
cảm đó sao? Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy
những người lao động, những người ươm mầm cho
sự sống, ươm những hạt mầm non trên những cánh
đồng quê hương hiện lên thật bình dị: “người ra
đồng”. Khác với từ “lộc” xuất hiện trước đó, từ “lộc”
trong “lộc trải dài nương mạ” cho ta nghĩ tới những
cánh đồng trải dài mênh mông với những chồi non
mới nhú lên xanh mướt từ những hạt thóc giống
đầu mùa xuân. Từ “lộc” còn mang ý nghĩa chung, nó
là sức sống, sức mạnh của con người. Có thể nói,
chính con người đã tạo nên sức sống của mùa xuân
thiên nhiên đất nước.
Nhà thơ Thanh Hải phải là một người say
mê vẻ đẹp của mùa xuân đất nước, mê luyến sự sống
tươi
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
đẹp thì mới cảm nhận mùa xuân đất nước bằng hai từ
láy gợi cảm ““hối hả”, “xôn xao”. Từ “Hối hả” gợi ra
một không khí vội vã, khẩn trương, liên tục không
dừng lại. Từ “xôn xao” khiến ta nghĩ tới những âm
thanh liên tiếp vọng về, hòa lẫn với nhau xao động.
Đây chính là tâm trạng tác giả, là cái náo nức trong
tâm hồn. Tiếng lòng của tác giả như reo vui nao nức
trước tinh thần lao động khẩn trương của con người.
Mùa xuân đất nước được làm nên từ cái hối hả ấy. Sức
sống của đất nước, của dân tộc, cũng được tạo nên từ
sự hối hả, náo nức của người cầm súng, người ra
đồng. Như vậy, hình ảnh mùa xuân đất nước đã được
mở rộng dần. Đầu tiên, nó chỉ gói gọn trên đôi vai,
tấm lưng của người ra trận sau đó đã được mở rộng
thành một cánh đồng bao la. Nhưng tất cả đều chung
một chí hướng, cùng thi đua xây dựng và bảo vệ đất
nước trong hoàn cảnh mới. Hẳn Thanh Hải phải có
một tấm lòng sâu nặng với non sông gấm vóc Việt mới
có những ý thơ hay như vậy.
Nhà thơ tin tưởng, tự hào về tương lai tươi
sáng của đất nước cho dù trước mắt còn nhiều vất vả,
khó khăn. Và đất nước được hình dung bằng một hình
ảnh so sánh thật đẹp mang nhiều ý nghĩa.
“Đất nước bốn nghìn
năm Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía
trước”
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
“Sao” là một nguồn sáng lấp lánh, là vẻ
đẹp vĩnh hằng vượt qua mọi giới hạn không gian và
thời gian. “Sao” cũng là hình ảnh rạng ngời trên lá cờ
Tổ quốc. Qua hình ảnh so sánh: “Đất nước như vì
sao”, tác giả Thanh Hải bộc lộ niềm tự hào về
một đất nước Việt Nam anh hùng giàu và đẹp. Đất
nước mãi trường tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ, không bao
giờ mất đi và cũng không một thế lực nào ngăn cản
được. Nhất định đất nước cũng sẽ tỏa sáng như
những vì sao trong hành trình đi đến tương lai rực
rỡ, đi đến bến bờ hạnh phúc. Đó là chí quyết tâm,
niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan của cả dân tộc.
Ở câu thơ thứ hai, phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi
lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến
lên phía trước, vượt qua mọi khó khăn. Trong lúc
đang bị bệnh nặng nhưng nhà thơ vẫn lạc quan, tin
tưởng, ngợi ca sức sống của quê hương, của dân
tộc khi mùa xuân về quả thực đáng quý!
Từ cảm xúc dạt dào, ngây ngất trước cảnh
sắc đất nước, sâu thẳm trái tim nhà thơ bộc lộ niềm
khao khát cao đẹp của một tâm hồn trong ngần.
Nhà thơ bộc lộ ước nguyện của mình- muốn làm
những việc hữu ích, dâng hiến cho đời. Điều đó
được ông bày tỏ qua những hình ảnh tự nhiên, giản
dị, đẹp và giàu ý nghĩa. Nhà thơ đã lấy cái đẹp tinh
túy của
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
thiên nhiên để diễn tả vẻ đẹp của tâm hồn:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Chao ôi! Nhà thơ muốn “con chim hót” giữa
muôn ngàn tiếng chim vô tư cống hiến tiếng hót
vui, muốn làm “một nhành hoa” giữa vườn hoa xuân
rực rỡ vô tư cống hiến hương sắc cho đời, muốn làm
“một nốt trầm” giữa bản hòa tấu muôn diệu, muốn
làm “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa xuân lớn
của đất nước, của cuộc đời chung. Ở phần đầu bài
thơ, tác giả đã phác họa hình ảnh màu xuân
bằng các chi tiết bông hoa và tiếng chim hót. Cấu
tứ lặp lại như vậy tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Hình
ảnh chọn lọc ấy trở lại đã mang một ý nghĩa mới:
niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến cho
đời là một lẽ tự nhiên. Điệp từ “ta” như một lời
khẳng định. Nó không chỉ là lời tâm niệm thiết tha,
chân thành của nhà thơ mà nó còn đề cập đến một
vấn đề lớn là khát vọng chung của nhiều người.
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”

FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN


Ước nguyện hóa thân đó vô cùng cháy bỏng, nhưng
được tác giả âm thầm “lặng lẽ dâng cho đời”. Từ
láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân
thành mà giản dị, là cách sống cao đẹp. Tác giả
muốn mỗi người là một mùa xuân nhỏ hòa vào cuộc
sống, là ước nguyện sống có ích, được cống hiến
cho đời như Tố Hữu viết trong “Một khúc ca xuân” :
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.”
Có lẽ, đối với Thanh Hải, “Mùa xuân nho nhỏ”
là một ẩn dụ đầy sáng tạo, cũng là cách thể hiện
thiết tha, cảm động. Nó đã khắc sâu ý tưởng: “Mỗi
cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm).
Đó không phải mong muốn trong một lúc mà là cả
một cuộc đời: “Dù là tuổi hai mươi. Dù là khi tóc
bạc”. Điệp từ “dù là” khiến âm điệu câu thơ tha
thiết, sâu lắng, ý thơ được nhấn mạnh làm cho
người đọc không chỉ xúc động trước một giọng thơ
ấm áp, mà còn xúc động trước lời tâm sự thiết tha
của một con người đã từng trải qua hai cuộc kháng
chiến, đã cống hiến trọn cuộc đời và sự nghiệp cho
cách mạng vẫn tha thiết được sống đẹp, sống có
ích với tất cả sức sống tươi trẻ của mình cho cuộc
đời chung. Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà
thơ trở về với
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
cát bụi nhưng không gợn chút băn khoăn về bệnh tật,
những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng
lẽ cháy bỏng một khát khao được dâng hiến”.
Bài thơ khép lại bằng những câu thơ ngợi ca
quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế. Như
một nhịp láy lại, khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm
làm tăng giá trị biểu hiện của các khổ thơ trên, đem
lại thi vị Huế trìu mến, tha thiết:
“Mùa xuân ta xin hát
Khúc Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất
Huế”.
Đoạn thơ kết thúc như một khúc hát ca ngợi
mùa xuân, để lại dư vị sâu lắng. Nhà thơ muốn hát
lên điệu Nam ai, Nam bình, điệu dân ca thiết tha
của xứ Huế để đón mừng mùa xuân. Câu ca nghe
như một lời từ biệt để hòa vào vĩnh viễn. Nhưng
đây không phải là lời ca buồn thuở trước mà “nhịp
phách tiền đất Huế” nghe giòn giã, vang xa – “Nước
non ngàn dặm mình. Nước non ngàn dặm tình” còn
ngân nga mãi mãi. Phải yêu đời lắm, phải lạc quan
lắm nhà thơ Thanh Hải mới có thể hát lên trong
hoàn cảnh đang ốm nặng như vậy. Điều đó làm ta
càng thêm yêu quý tiếng hát và tấm lòng nhà thơ.
Như vậy, xuyên suốt bài thơ không chỉ có hình
tượng mùa xuân mà còn
nhiều hình tượng khác. Từ tiếng chim chiền chiện
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
tượng trưng cho khúc hát của đất trời đến làm một
nốt trầm nhập vào bản hòa ca của đất nước, và đến
đây là khúc hát tạo ấn tượng cho bài ca không dứt,
một bài ca yêu cuộc sống. Bài thơ được nhạc sĩ Trần
Hoàn phổ nhạc thành bài hát và trở thành một khúc
ca xuân quen thuộc, xúc động, còn mãi với đời.
Mạch cảm xúc trong bài thơ “Mùa xuân
nho nhỏ” được diễn đạt thành công, mang lại nhiều
dư vị trong lòng người đọc là nhờ sự thành công về
mặt nghệ thuật. Bài thơ được làm bằng thể thơ năm
chữ gần với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ
nhàng, tha thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn,
cách gieo vần tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc.
Hình ảnh thơ cũng rất tự nhiên, giản dị kết hợp với
những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng. Đặc biệt
một số hình ảnh cành hoa, cánh chim, mùa xuân
được lặp đi lặp lại và nâng cao, gây ấn tượng đậm
đà. Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự
phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mùa xuân
đất trời đến mùa xuân của đất nước, đến mùa xuân
của con người. Hơn thế nữa, giọng điệu bài thơ phù
hợp với cảm xúc của tác giả: đoạn đầu vui, say sưa
với vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn
chấn, rồi hối hả trước khí thế lao động của đất
nước. Và cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm
mà thiết tha bộc bạch, tâm
niệm.
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
Có thể nói, đã có rất nhiều thi nhân
Việt Nam bộc lộ xúc cảm trước mùa xuân, nhưng
“Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải vẫn mang nét
độc đáo, riêng biệt. Bài thơ đã để lại cho đời một ý
nghĩa thật lớn lao. Tác giả không chỉ biểu hiện một
bức tranh thiên nhiên làm say mê lòng người mà
còn như một dịp cất lên tiếng lòng thiết tha của một
người con yêu nước. Đó cũng là lòng say mê, là
niềm tin mãnh liệt vào sức sống lâu bền của dân tộc
ta.
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
VIẾNG LĂNG BÁC Viễn Phương

Bài làm:
Thời gian có thể phủ bụi dường như tất
cả nhưng có những giá trị, những con người càng
rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp. Đã gần nửa
thế kỷ trôi qua, Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại cống
hiến và hy sinh cả cuộc đời mình cho quốc gia, dân
tộc - vẫn chiếm trọn tình cảm của mỗi người con
Việt Nam.
“Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị. Màu quê
hương bền bỉ đậm đà. Ta bên Người, Người tỏa sáng
trong ta…” (Tố Hữu). Và một lần nữa, ta lại không
khỏi bồi hồi trước những dòng thơ trong bài thơ
Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ
chính là tấm lòng “tủy cốt chung tình” không chỉ của
tác giả, mà còn của toàn thể đồng bào Việt.
Nhắc đến Viễn Phương, Mai Văn Tạo có lần
từng nhận xét: “Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm,
man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắc,
cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời
sống anh cũng tìm thấy chất thơ. Không đợi đến
“Tiếng tù và trong sương đêm”, “Hoa lục bình trôi
man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều” hay
“Chòm xanh điên điển nhuộm vàng mặt nước”…
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
Một mái lá khô hanh trong rừng vắng anh cũng
đưa vào đấy cái thực, cái hư, rất thơ mà thực, rất thực
mà thơ” Quả thật như vậy, các sáng tác của Viễn
Phương đã thể hiện rất rõ điều đó. Ông có rất nhiều
thi phẩm hay nhưng nổi bật nhất phải kể đến Viếng
lăng Bác.
Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân”
năm 1978 với những dòng cảm xúc chân thành, sâu
sắc, niềm thành kính và biết ơn của nhà thơ cũng
như toàn thể đồng bào miền Nam, của nhân dân
toàn quốc dành cho người cha vĩ đại của dân tộc.
Bởi lẽ đó, bài thơ cũng được coi như một nén tâm
hương chân thành dâng lên Người. Trước hết có thể
thấy hiện lên ở khổ thơ đầu là cảm xúc tự hào, niềm
xúc động khi được đến thăm lăng Bác để thỏa nỗi
lòng của thi nhân:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Câu thơ mở đầu thay cho một lời chào, một lời
giới thiệu về hành trình của những đứa con từ miền
Nam ra Hà Nội thăm Bác Hồ kính yêu. Cách xưng hô
“con -Bác” của người Nam Bộ gợi đến những tình
cảm rất thân thương và gần gũi. Nó cho thấy mối
quan hệ giữa Bác và những đứa con tựa như tình cha
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
con ruột thịt.
Tác giả như một đứa con lâu ngày mới có dịp
về thăm vị cha già kính yêu. Với từ “thăm”- một
cách nói giảm nói tránh, tác giả cố giấu đi, nén lại
trong lòng cảm xúc đau thương mất mát không thể
nào bù đắp được của cả dân tộc và cũng như để nói
với tự lòng mình: Bác còn sống mãi với non sông
đất nước, còn sống mãi “như trời đất của ta”, trong
“từng ngọn lúa mỗi nhành hoa” (Tố Hữu).
Hình ảnh “hàng tre bát ngát” hiện ra trong
sương mờ buổi sớm trên con đường đến thăm Bác,
đó là hình ảnh tả thực, hình ảnh của quê hương
thân thương, yên bình, gần gũi luôn ở bên Người.
Một câu cảm thán tác giả sử dụng để bộc lộ cảm
giác ngỡ ngàng về hình ảnh hàng tre:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Đó là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp cho người dân
Việt Nam, là biểu tượng cho dân tộc Việt Nam trải
qua “bão táp mưa sa”- thành ngữ chỉ muôn vàn khó
khăn gian khổ để rồi thi nhân như khẳng định chắc
nịch rằng: mỗi cây trẻ như một con người Việt Nam
bền bỉ, kiên trung, vững vàng nay trở về kính cẩn
nghiêng mình trước anh linh của Bác. Ba hình ảnh
đã tạo nên một trường liên tưởng độc đáo, thú vị:
Lăng Bác hiện lên như một làng quê yên bình với
những con người bình dị, gần gũi vô cùng.
Chầm chậm theo dòng người vào trong lăng,
nơi Bác đang yên nghỉ, tâm hồn nhà thơ chứa chan
lòng thành kính, biết ơn và ngưỡng mộ sâu sắc đối với
Bác Hồ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
“Mặt trời đi qua trên lăng” là mặt trời của vũ
trụ, của thiên nhiên ngày ngày sưởi ấm Trái Đất,
mang lại sự sống cho vạn vật muôn loài. Tác giả
cũng nhận ra, trong lăng cũng có một “mặt trời”,
một “mặt trời rất đỏ”. Đó cũng chính là hình ảnh ẩn
dụ tuyệt đẹp chỉ Bác Hồ kính yêu vì Bác như vầng
mặt trời có công lao to lớn cho toàn thể dân tộc, dìu
dắt ta từ chỗ lầm than đến ngày tự do huy hoàng.
Đồng thời phép ẩn dụ cũng như một cách thể
hiện tấm lòng thành kính của chính tác giả với Bác
Hồ. Cụm từ “ngày ngày” đã khẳng định quy luật bất
biến của con người cũng như tự nhiên: nơi lăng Bác
dòng người nối dài vô tận không ngừng nghỉ, lặng
lẽ, kính cẩn, trang nghiêm để được vào lăng viếng
Bác.
Dòng người ấy là tấm gương điển hình trên các mặt
trận lao động, sản xuất, chiến đấu, đại diện cho gần
sáu mươi dân tộc anh em từ khắp nơi trên mọi miền
Tổ quốc tụ họp lại đây. Họ kết thành hình ảnh một
“tràng hoa” - hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa tượng
trưng cho những gì tốt đẹp nhất, tinh túy nhất của
thiên nhiên, của con người Việt Nam thành kính
dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”.
Phép hoán dụ, cũng là cách nói trang trọng
nhằm diễn đạt ý tứ sâu xa: bảy mươi chín tuổi đời
của Bác là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, một
cuộc đời đẹp và tràn đầy ý nghĩa. Bác đã đem lại
cho ta một mùa xuân vĩnh hằng, mùa xuân của độc
lập tự do và hạnh phúc.Với những cảm xúc và suy
nghĩ của riêng mình, lời thơ của Y Phương đã chạm
vào trái tim của tất cả chúng ta khi nghĩ về Bác:
Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên Người Hồ Chí
Minh.
Mạch cảm xúc của tác giả tiếp tục với những
dòng cảm xúc tiếc thương vô hạn, cho dù cố giấu đi
những dòng cảm xúc ấy nhưng vẫn đủ sức lay động
trái tim của hàng triệu người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu
hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Vẫn là phép nói giảm, nói tránh “giấc ngủ bình
yên”, tác giả như cố gắng muốn xua đi sự thật phũ
phàng: Bác không còn nữa. Hai câu thơ như tái hiện
trước mắt độc giả hình ảnh chân thực: Bác đang
nằm
.
trên kính, ánh đèn hồng chiếu xuống khiến cho gương
mặt Bác trở nên hồng hào và sáng dịu hiền như
vầng trăng.
“Trời xanh” và “ánh trăng” được nhắc đến
vừa là hình ảnh thực, vừa có ý nghĩa ẩn dụ thể hiện
sự bất diệt và trường tồn của thiên nhiên. Kết hợp
với cặp quan hệ từ “vẫn biết - mà sao”, tác giả như
muốn lấy quy luật của tự nhiên để khẳng định quy
luật của con người, nhằm tự trấn an lòng mình: vẫn
biết Bác luôn sống mãi trong lòng dân tộc nhưng sự
thật phũ phàng rằng Bác đã ra đi mãi mãi khiến tác
giả thấy “nghe nhói ở trong tim”
Từ “nghe nhói” là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi
cảm giác một cách rõ nét nhất cảm giác đau đớn tột
cùng của tác giả khi nghĩ sự thật rằng Bác không
còn nữa. Đó là nỗi đau quá lớn khiến tác giả không
giấu nổi nghẹn ngào. Có lẽ cũng bởi vậy mà mới
nghĩ đến việc ngày mai phải xa Bác kính yêu, lòng
tác giả và những đứa con miền Nam đã dâng niềm
xúc động bồi hồi:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Lời thơ nghẹn ngào, nức nở, cảm xúc nhớ
thương được bộc lộ một cách trực tiếp, “thương trào
nước
mắt” không chỉ là cảm xúc của Viễn Phương mà ông
như đang nói hộ tấm lòng của muôn vàn những trái
tim ấm nóng khác khi phải xa chốn thiêng liêng. Để
rút ngắn khoảng cách không gian, nhà thơ đã bày
tỏ niềm ước muốn chân thành, thiết tha, xúc động
bằng một loạt các động từ “muốn làm” kết hợp với
hình ảnh thiên nhiên đầy ẩn dụ tượng trưng: làm
con chim để dâng tiếng hót lên lăng Bác, làm cây
trẻ thành kính, tôn nghiêm như người lính canh giữ
giấc ngủ bình yên cho Người.
Đó không chỉ là hình ảnh tinh túy của thiên
nhiên mà còn là hình ảnh kết tinh vẻ đẹp sức sống
con người kính dâng lên Bác. Bình dị, khiêm
nhường, không ồn ào khoa trương, ước nguyện của
nhà thơ cũng là ước nguyện của chúng ta: Ai cũng
muốn ở bên Bác, muốn làm điều gì đó dẫu là nhỏ
bé cho Bác vui lòng. Đặc biệt hơn cả là hình ảnh
“cây tre trung hiếu” kết thúc bài thơ tạo ra kết cấu
đầu cuối tương ứng. Đồng thời còn là hình ảnh nhân
hóa, ẩn dụ mang ý nghĩa khái quát, nhất là đặt
trong hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ, câu thơ
khẳng định tấm lòng chung thủy, sắt son với Đảng,
với Bác Hồ của đồng bào miền Nam. Cứ thế, bước
chân đi nhưng lòng còn níu lại. Cảm xúc của nhà
thơ thật chân thành, xúc động đã chạm vào dây
đồng cảm của tất cả chúng ta.
Cùng với tất cả những tác phẩm ca ngợi về hồ
chủ tịch, bài thơ Viếng lăng Bác đã để lại dòng cảm
xúc xót thương biết bao trong lòng người đọc suốt
bốn mươi năm qua bởi thành công rực rỡ về cả nội
dung lẫn nghệ thuật. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc
mạc, đậm chất Nam Bộ, hình ảnh thơ chân thực gợi
nhiều trường liên tưởng, tưởng tượng.
Trong đó, đặc sắc nhất là những biện pháp
như:
nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ… được
tác giả sử dụng linh hoạt, hiệu quả cao về giá trị
thẩm mỹ. Bài thơ bởi lẽ đó đã mang đến cho ta
những cảm xúc sâu sắc về Bác Hồ kính yêu với
những công lao vĩ đại mà Người đã cống hiến, hy
sinh cho dân tộc.
Với ý nghĩa đó, bài thơ thực sự trở thành nén tâm
hương thành kính của nhà thơ cũng như của nhân dân
cả nước kính dâng lên Bác. Bên cạnh đó, Viễn
Phương đã góp phần lớn của mình vào đề tài ca
ngợi lãnh tụ. Một bài thơ hay, một cảm xúc chân
thành, lắng đọng trong lòng người đọc.
Cùng với rất nhiều bài thơ ca ngợi Bác,
Viếng lăng Bác của Viễn Phương mãi mãi là bài ca
đi cùng năm tháng. Bài thơ đã thể hiện trong lòng
ta những cảm xúc tự hào, biết ơn vô hạn với vị cha
già vĩ đại của dân tộc.
THU
SANG Bài làm:
Hữu Thỉnh

Đây mùa thu tới, mùa thu


tới Với áo mơ phai dệt lá
vàng
Là tiếng thơ reo vui, hồi hởi của thi sĩ Xuân
Diệu trước khoảnh khắc thu sang, câu thơ hiện đại
mà vẫn thấm đẫm chất cổ điển. Còn đến với nhà thơ
Hữu Thỉnh ta sẽ được cảm biết một mùa thu rất đỗi
thân thuộc, rất đỗi Việt Nam qua bài thơ "Sang thu".
"Sang thu" không dùng thứ ngôn từ mĩ lệ,
quá cầu kì trau chuốt mà rất đỗi giản dị tự nhiên,
kết hợp hài hòa với tình cảm chân thành đã đem
đến cho thi ca Việt Nam một bức tranh mùa thu rất
khác:
Bỗng nhận ra hương
ổi Phả vào trong gió
se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Bỗng – cảm giác bất chợt, tự nhiên ùa về, một
mùi hương vừa lạ, vừa quen, mùi hương ấy giản dị biết
bao, ấy chính là hương ổi. Hương ổi là mùi hương
điển hình của làng quê Việt Nam, mỗi độ thu về,
theo cơn gió se lạnh, hương ổi cũng tung mình bay
đi xa. Hương thơm ấy không hề nhạt nhòa, mà đậm
và sánh

FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN


lạnh phả vào cơn gió se, khiến cả không gian tràn
ngập hương thơm dịu dàng đồng quê ấy.
Câu thơ không chỉ giúp người đọc cảm nhận
được mùi hương mà còn hình dung ra sắc màu
vàng ươm, chín thơm của những trái ổi đang lúc lỉu
trên cành. Không chỉ cảm nhận ở hương ổi, mà Hữu
Thỉnh còn lắng lòng mình để thấy bước thu về trên
những dòng sương thu thong thả, chậm chạp trên
bầu trời. Và để cuối cùng ông chợt giật mình nhận
ra: “Hình như thu đã về”. Chữ hình như ấy còn như
một tiếng reo vui, sự ngỡ ngàng chào đón thu sang.
Nếu như ở khổ thơ đầu nhưng cảm giác về mùa
thu vẫn còn rất đỗi mong manh, thì sang đến khổ thơ
thứ hai mùa thu đã rõ ràng hơn. Tiếp tục sử dụng
ngôn từ giản dị, mộc mạc, Hữu Thỉnh đưa người đọc
đi lần lượt bóc tách từng dấu hiệu khi thu về:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang
thu
Ngôn từ quá đỗi dung dị, khiến ta ngỡ như chỉ
là những lời nói, lời tâm sự của tác giả với mọi
người. Nhưng cái giản dị đó lại được kết hợp hài
hòa với các biện pháp nghệ thuật, tạo nên chất thơ
cho tác phẩm. Con sông được nhân hóa, cũng dềnh
dàng khi thu sang. Nước thôi cuồn cuộn chảy, mà đỏ
nặng phù
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
sa, chậm chạp trôi. Trên bầu trời những chú chim
cũng chỉ mới “bắt đầu vội vã” tìm về phương Nam
tránh rét.
Đặc biệt nhất là hình ảnh đám mây mang
trên mình hai mùa: một nửa mùa hạ và một nửa
mùa thu. Đám mây không còn là đám mây đơn
thuần nữa mà nó tựa như một tấm lụa mỏng, vắt
ngang bầu trời, khiến cho khái niệm thời gian vốn
vô hình nay cũng trở nên hữu hình. Đám mây nửa lưu
luyến, bịn rịn mùa hè sôi động, nửa lại háo hức
nghiêng hẳn mình sang mùa thu để khám phá.
Không chỉ dừng lại ở đó những hiện tượng thiên
nhiên như sấm, chớp, mưa cũng trở nên thưa dần và
ít dần đi. Đến đây mùa thu đã thực sự hiện hình một
cách rõ nét. Chỉ với những nét phác họa hết sức đơn
sơ nhưng cũng đủ để cho ngòi bút tài hoa của Hữu
Thỉnh dựng lên bức tranh thu nồng đượm tình người,
tình yêu cuộc sống. Hình ảnh thu không ảm đạm, héo
úa, mà tươi tắn, tràn đầy sự sống và hết sức giản dị.
Tác giả đã sử dụng liên tiếp các từ láy: chùng
chình, dềnh dàng, vội vã và giọng thơ biến đổi linh
hoạt, khi ngỡ ngàng khi vui mừng, reo ca để đưa
người đọc đến một khung cảnh thu thật thu của
làng quê Việt Nam. Hai câu thơ cuối mang tính ẩn
dụ rõ nét:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Bên hàng cây đứng
tuổi
Cũng như những hàng cây, trải qua một mùa
hè đầy giông bão, nó cũng trở nên chín chắn hơn.
Và một cơn mưa rào rơi rớt của của hạ đầu thu, với
tiếng sấm thưa thớt dần không còn làm cho hàng
cây sợ hãi. Con người cũng vậy, khi trải qua bao
giông tố trong cuộc đời, họ cũng dần dần trở nên
chín chắn và trưởng thành hơn.
Bởi vậy, đối với những sóng gió họ không
còn bất ngờ mà sẵn sàng đương đầu với những khó
khăn thử thách. Đây chính là điểm nhấn của bài
thơ, đằng sau bức tranh thu còn là những triết lí
sâu sắc về cuộc đời và con người.
"Sang thu" không chỉ là khúc ca giản dị,
mộc mạc miêu tả bước chuyển mình của thiên nhiên
từ hạ sang thu. Mà nó còn là một bài thơ thấm đẫm
chất triết lí về con người về cuộc đời. Với ngôn ngữ
dung dị, thể thơ năm chữ linh hoạt, giàu nhịp điệu
kết hợp với các biện pháp nghệ thuật đã để lại ấn
tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
NÓI VỚI CON
Y Phương

Bài làm:
Ca dao từng có câu: "Công cha như núi
Thái Sơn". Có phải vì vậy mà người cha luôn khao
khát những đứa con có được sự vững vàng, rắn rỏi
mạnh mẽ trên đường đời. Qua bài thơ Nói với con
của Y Phương, người đọc nhận thấy tình cảm và mong
ước của một người cha như vậy dành cho con, một
thứ tình cảm nồng ấm và thiêng liêng, giản dị. Bài
thơ đồng thời cũng gợi cho người đọc những suy
nghĩ sâu sắc về trách nhiệm của người làm con.
Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi
về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ
niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê
hương mình. Nhà thơ đã mở rộng từ tình cảm gia đình
đến tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi,
thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống.
Mở đầu bài thơ bằng những hình ảnh cụ thể,
Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm,
quấn quýt. Từng bước đi, từng tiếng nói tiếng cười của
con được cha mẹ mừng vui đón nhận:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
FANPAGE: CHỊ LY YÊU VĂN
Một bước chạm tiếng
nói Hai bước tới tiếng
cười"
Những câu thơ có cách diễn đạt thật độc đáo
đã cho thấy tình yêu thương của cha mẹ đối với
con. Con lớn lên hàng ngày trong tình yêu thương
ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ.
Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, thời
gian trôi qua, con trưởng thành trong cuộc sống lao
động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của
quê hương. Đó là cuộc sống của những "người đồng
mình", rất cần cù và tươi vui:
"Người đồng mình thương lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời".
Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện: cài nan hoa,
ken câu hát,... đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng
thời thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con
người quê hương. Rừng núi quê hương thơ mộng và
trữ tình cũng là một trong những yếu tố nuôi con khôn
lớn, nâng đỡ tâm hồn con. Thiên nhiên với những
sông, suối, ghềnh, thác... đã nuôi dưỡng con người cả
về tâm hồn và lối sống: "Rừng cho hoa, con đường
cho những tấm lòng". Cách gọi "người đồng mình"
đặc biệt gần gũi, thân thiết và gắn bó như gợi niềm
ruột thịt yêu thương.
Không chỉ gợi cho con về nguồn sinh
dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao
đẹp của "người đồng mình". Đó là lòng yêu lao
động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức
sống bền bỉ, mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ:
"Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”.
Dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ như "cao",
"xa", "lớn", tác giả muốn nhấn mạnh cuộc sống
khoáng đạt, mạnh mẽ của những "người đồng mình".
Dù khó khăn, đói nghèo còn nhiều nhưng họ không
nhụt chí, ý chí của họ vẫn rất vững chắc, kiên cường:
"Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê
hương Còn quê hương thì là phong tục"
Những "người đồng mình" vượt qua vất vả để bám
trụ lấy quê hương. Bằng cuộc sống lao động không
mệt mỏi, họ xây dựng quê hương với những truyền
thống cao đẹp. Những "người đồng mình" mộc mạc,
thẳng thắn nhưng giàu chí khí, niềm tin...Người cha
đã kể với con về quê hương với cảm xúc rất tự hào.
Tình cảm của người cha dành cho con rất thiết tha,
trìu mến. Tình cảm này bộc lộ tự nhiên, chân thực qua
những lời nhắn gửi của cha cho con. Người cha
muốn con sống phải có nghĩa tình, thuỷ chung với
quê hương, biết chấp nhận những khó khăn, vất vả
để có thể:
"Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc"
Người cha mong cho con mình sống ngay
thẳng, trong sạch, sống với ý chí, niềm tin để vững
vàng vượt qua mọi thử thách khó khăn. Người cha
mong cho con sống phải luôn tin vào khả năng của
mình, tin tưởng vào bản thân. Có như vậy, con mới
có thể thành công, mới không thua kém ai cả Người
cha đã nói với con bằng tất cả lòng yêu thương của
mình, nói với con những điều từ đáy lòng mình. Điều
lớn nhất người cha đã truyền dạy cho con chính là
niềm tự tin vào bản thân và lòng tự hào với sức
sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống của quê
hương.
Qua những lời người cha nói với con, có thể
thấy tình cảm của người cha đối với con thật trìu
mến, thiết tha và tin tưởng. Điều lớn lao nhất mà
người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào
với sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương và
niềm tin khi bước vào đời.
Bài thơ đã gợi cho người đọc những niềm cảm động
sâu xa và những suy nghĩ sâu sắc. Thì ra, đằng sau
những lặng lẽ, thâm trầm của cha là biết bao yêu
thương, biết bao mong mỏi, biết bao hi vọng, biết
bao đợi chờ ... Con lớn lên như hôm nay không chỉ
nhờ vào cơm ăn và áo mặc mà còn mang nặng ân
tình của những lời dạy dỗ ân cần thấm thía. Quả là:
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".
Vậy thì, là người làm con, con xin nguyện:
"Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Chẳng những vậy, con sẽ bước theo những
bước chân vững chắc mà cha để lại trên con đường
cha bước đến đỉnh Thái Sơn - nguyện "sống như sông
như suối", nguyện ngẩng cao đầu "lên đường" mà
không "thô sơ da thịt". Và trên con đường ấy, con
sẽ mang theo hình ảnh quê hương để tiếp tục nối
tiếp cha anh "tự đục đá kê cao quê hương" thân thiết
của mình.
Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật, tuy
nhiên, độc đáo nhất và đặc sắc nhất là cách thể
hiện, diễn tả tình cảm. Những từ ngữ, hình ảnh
trong bài rất mộc mạc nhưng đồng thời cũng rất
giàu hình ảnh gợi tả vừa cụ thể vừa có sức khái
quát cao.
Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình ấm
cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ
của quê hương, của dân tộc. Qua lời nói với con, ta
phần nào hiểu rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn những
tình cảm của người cha dành cho con. Những bài
học mà người cha trong bài thơ Nói với con có lẽ là
những bài học mà bất kỳ người cha nào cũng muốn
dạy cho con mình. Và những bài học giản dị, mộc
mạc đó có lẽ sẽ theo con suốt trên chặng đường
đời, bài học của cha - bài học đầy ý nghĩa sâu sắc.
NHỮNG NGÔI SAO
Lê Minh
Khuê XA XÔI
Bài làm:
Hình ảnh những thanh niên xung phong
anh dũng, kiên cường vốn là đề tài nổi bậc và
xuyên suốt trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu
nước. Lê Minh Khuê với truyện ngắn “Những ngôi
sao xa xôi” đã khắc họa thành công hình ảnh
những cô gái xung phong phá bom, mở đường thật
chân thực: hồn nhiên, trong sáng, giàu mộng ước,
lạc quan, yêu đời và rất dũng cảm, mạnh mẽ trong
chiến đấu. Tác phẩm là “đứa con tinh thần” đầu
tiên của nhà văn, được viết vào năm 1971, trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn
ra rất ác liệt.
Sức hấp dẫn của thiên truyện không chỉ dừng
lại ở việc phản ánh chân thực cuộc sống chiến đấu
đầy khốc liệt của các cô gái thanh niên xung phong
ở tuyến đường Trường Sơn mà truyện còn lôi cuốn
người đọc ở nghệ thuật trần thuật và miêu tả tâm lí
nhân vật độc đáo của Lê Minh Khuê. Nhà văn đã
rất khéo léo trong việc lựa chọn ngôi kể cho truyện
ngắn của mình: ngôi thứ nhất qua nhân vật
Phương Định. Điều này có tác dụng làm cho thế
giới nội tâm
với những ấn tượng, hồi tưởng của nhân vật hiện lên
thật phong phú, đậm nét. Đồng thời, cách chọn ngôi
kể qua một cô gái trẻ hồn nhiên, nhạy cảm, trong
sáng và lại là người trong cuộc không chỉ làm cho
câu chuyện trở nên khách quan, chân thực mà còn
khiến cho câu chuyện mang một giọng điệu sôi nổi,
đầy nữ tính.
Hoàn cảnh sống của ba cô gái trẻ vô cùng khắc
nghiệt. Họ ở trong một cái hang dưới chân cao
điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường
Trường Sơn, nơi tập trung nhiều nhất bom đạn, sự
nguy hiểm và ác liệt, từng ngày từng giờ phải đối
mặt với bom rơi, đạn nổ. Có biết bao thương tích vì
bom đạn giặc: “Đường bị đánh lở loét, màu đất đỏ,
trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ
có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây
nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài cái
thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm
trong đất”. Đó là hiện thực đầy mùi chiến tranh,
không có màu xanh của sự sống, chỉ thấy thần
chết luôn rình rập.
Công việc của các cô đặc biệt nguy hiểm. Họ phải
chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình ra
giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch
để đo và ước tính khối lượng đất đá lấp vào hố
bom,
đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Nhiệm
vụ của họ thật quan trọng nhưng cũng đầy gian
khổ, hi sinh, phải mạo hiểm với cái chết, luôn căng
thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh
hết sức. Đây là một công việc vô cùng nguy hiểm,
có thể đối diện với cái chết bất cứ lúc nào. Thậm
chí, ở nơi cư trú của họ cũng luôn có sự rình rập của
tử thần.
Đó là một hiện thức tàn khóc của chiến tranh, của sự
tàn phá khủng khiếp khi mà màu xanh của cây cỏ
tự nhiên cũng không thể sống nổi. Vì thế, sự che
chắn giản đơn của thiên nhiên như là ngụy trang
để bảo vệ mạng sống của họ cũng không có được.
Trước mắt người đọc là cảnh tượng của hoang phế,
trần trụi, ảm đạm chết chóc, tang thương.
Không dừng lại ở đó, khi làm nhiệm vụ họ phải
chạy trên cao điểm giữa cái nắng chói chang, phơi
mình giữa trọng điểm bắn phá của máy bay địch.

VẺ ĐẸP CHUNG CỦA 3 CÔ GÁI


Thế nhưng, ngay giữa chiến trường, ta vẫn thấy
những tâm hồn tươi trẻ, luôn rạng rỡ niềm tin yêu
cuộc sống của ba cô gái trẻ. Ở họ toát lên vẻ đẹp
của tuổi trẻ Việt Nam anh hùng trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nước.
Như biết bao con người trẻ tuổi của đất nước đang
dấn thân vào cuộc chiến một mất một còn với kẻ
thù xâm lược, họ là những cô gái còn rất trẻ, tuổi
đời mười tám đôi mươi. Nghe theo tiếng gọi thiêng
liêng của Tổ quốc, họ rời xa gia đình, xa mái
trường, tình nguyện vào cái nơi mà sự mất còn chỉ
diễn ra trong gang tấc. Họ hi sinh tuổi thanh xuân
và không tiếc máu xương, thực hiện lí tưởng cao
đẹp:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
• Tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, lòng
dũng cảm, can trường
Qua thực tế chiến đấu, cả ba cô gái đều có tinh
thần trách nhiệm cao với công việc, lòng dũng
cảm, gan dạ không sợ gian khổ hi sinh. Mặc dù còn
rất trẻ, luôn phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ,họ có
thể hi sinh bất cứ lúc nào, nhưng để con đường
được thông suốt nên các cô luôn sẵn sàng trong
việc ra trận. Có lệnh là lên đường bất kể trong tình
huống nào. Họ làm việc một cách tự nguyện, luôn
nhận khó khăn, nguy hiểm về mình: “Tôi một quả
bom trên đồi. Nho hai quả dưới lòng đường. Chị
Thao một quả dưới cái chân hầm ba – ri – e cũ”.
Đối mặt với hiểm nguy, các cô cũng nghĩ đến cái
chết nhưng là “một cái chết mờ nhạt không cụ thể”
quan trọng là “liệu mìn có nổ, bom có nổ không?”.
Như thế họ đã đặt
công việc lên trên cả tính mạng của mình.
Họ bình tĩnh, can trường và có tinh thần dũng
cảm. Những lúc căng thẳng nhất, chị Thao móc cái
bánh bích quy trong túi ra nhai. Họ nói đến công
việc phá bom với giọng điệu bình thản. Đối mặt với
cái chết, các cô không hề run sợ mà bình tĩnh moi
đất, đặt dây, châm lửa, tính toán sao cho chính
xác.
• Tình đồng chí, đồng đội
Ở họ còn có tình đồng đội gắn bó, thân thiết. Họ
hiểu được tính tình, sở thích của nhau, quan tâm
chăm sóc nhau rất chu đáo. Phương Định bồn
chồn, lo lắng khi chờ chị Thao và Nho đi trinh sát
trên cao điểm. Khi Nho bị thương, Phương Định và
chị Thao đã lo lắng, băng bó chăm sóc Nho cẩn
thận với niềm xót xa như chị em ruột thịt và cảm
thấy “đau hơn người bị thương”.
• Lạc quan, yêu đời
Cuộc sống chiến đấu ở chiến trường thật gian khổ,
hiểm nguy nhưng họ luôn lạc quan, yêu đời. Họ có
cuộc sống nội tâm phong phú, đáng yêu, dễ xúc
cảm, nhiều mơ ước. Họ thích làm đẹp cho cuộc
sống của mình ngay cả trong hoàn cảnh chiến
trường ác liệt.Nho thích thêu thùa, chị Thao chăm
chép bài hát, Phương Định thích ngắm mình trong
gương, ngồi bó gối mộng mơ và hát… Họ hồn nhiên
như những đứa
trẻ trước cơn mưa đá. Và trận mưa đã trở thành nỗi
nhớ – sự nối dài quá khứ hôm qua và khát vọng mai
sau. Kỉ niệm sống dậy như những khoảng sáng trong
tâm hồn, những cảm xúc hồn nhiên như nguồn sống,
điểm tựa, giúp họ thêm vững vàng, thêm sức mạnh
vượt qua những khó khăn, nguy hiểm.
Quả thật, đó là những cô gái mang trong mình
những tính cách tưởng như không thể cùng tồn tại,vô
cùng gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu mà cũng
hồn nhiên, vô tư trong cuộc sống sinh hoạt. Mỗi
người có một cá tính riêng nhưng ở họ đều ngời
sáng vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam, của
tuổi trẻ Việt Nam. Viết về ba cô thanh niên xung
phong, Lê Minh Khuê đã không tô vẽ, không mĩ lệ
mà miêu tả hết sức cụ thể, chân thực bằng cách cá
thể hóa nhân vật với những hình ảnh rất đời thường.
Họ đã từ cuộc đời bước vào trang sách, trở thành
những anh hùng – những ngôi sao trên bầu trời
Trường Sơn

NÉT ĐẸP RIÊNG CỦA MỖI NGƯỜI


Sự thành công của truyện ngắn “Những ngôi sao
xa xôi” còn được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng
nhân vật, nhất là việc miêu tả tâm lí các nhân vật
trong truyện. Điều này không chỉ được thể hiện ở
việc tác giả khắc họa thái độ và trạng thái nhân vật
trong
mỗi lần làm nhiệm vụ phá bom, mà nữ nhà văn
còn đặc biệt lách sâu vào trong mạch ngầm đời
sống nội tâm của các cô gái thanh niên xung
phong, làm hiện lên những vẻ đẹp tâm hồn thật
sinh động, phong phú.
• Chị Thao
Đó là những nét đẹp chung của những cô gái trẻ
như nhạy cảm, dễ xúc động, nhiều mộng mơ nhưng ở
họ lại có những nét đẹp, sức hấp dẫn riêng của các
cô gái ra đi từ đất Hà Thành mỹ lệ. Chị Thao là đội
trưởng, người lớn tuổi nhất, luôn “cương quyết, táo
bạo” và “bình tĩnh đến phát bực” trong mọi hoàn
cảnh nhưng lại sợ nhìn thấy máu chảy và sợ vắt.
Chị có sở thích là chép lại các bài hát, dù chẳng
thuộc nhạc, giọng lại chua.
• Nho
Nho thì ít tuổi hơn, trẻ trung, hồn nhiên “trông mát
mẻ như một que kem trắng”, lại thích nhai kẹo, tắm
suối, dù biết là ở đó hay có bom nổ chậm… nhưng
khi làm nhiệm vụ thì luôn tỉnh táo, mạnh mẽ, dũng
cảm. Khi bị thương, Nho không hề rên la và không
muốn mọi người xung quanh phải lo lắng.
• Phương Định
Nhất là Phương Định, dưới ngòi bút của Lê Minh
Khuê, cô hiện lên là một cô gái hồn nhiên, trẻ trung,
lạc quan và giàu mơ ước về tương lai. Cô luôn tự
hào, hãnh diện về vẻ đẹp ngoại hình của mình,
khiến các anh lính phải ngả nghiêng, ngây ngất,
luôn tìm cách để bắt chuyện, làm quen: “Tôi là con
gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô
gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái
cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn…”. Đặc biệt
Phương Định luôn thích ngắm mình trong gương,
nhất là ngắm đôi mắt. “Nó dài, màu nâu, hay nheo
lại như chói nắng” và được các anh lái xe khen “Cô
có cái nhìn sao mà xa xăm!”.
Phương Định luôn có ý thức giữ gìn hình tượng của
mình trong mọi hoàn cảnh. Dù trong lúc đang phá
bom nổ chậm, cảm thấy rất sợ nhưng cô “cảm thấy
có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ
nữa. Tôi sẽ không đi khom.
Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể
cứ đàng hoàng mà bước tới”. Cô có sở thích mê
hát, “thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa
ra lời mà hát…”. Nhưng hình ảnh gây ấn tượng
nhất trong lòng người đọc khi nói tới Phương Định là
cảnh tượng cô bất ngờ gặp cơn mưa đá. “Tôi chạy
vào, bỏ trên bàn tay đang xòe ra của Nho mấy viên
đá nhỏ. Lại chạy ra, vui thích cuống cuồng”. Để rồi
sau những
niềm vui con trẻ “say sưa, tràn đầy” là những nỗi nhớ
da diết về người mẹ, cái cửa sổ ngôi nhà, những
ngôi sao to trên bầu trời thành phố, là cây, là cái
vòm nhà hát hoặc bà bán kem đẩy những chiếc xe
chở đầy kem…
Lê Minh Khuê tiếp tục lia ống kính quay chậm vào
một lần phá bom của Phương Định, tái hiện thật
chân thực, tinh tế cảnh tượng kinh khủng đó. Mặc
dù đã rất nhiều lần phá bom, nhưng với Phương
Định mỗi lần làm công việc này vẫn là một thử
thách với thần kinh cho đến từng cảm giác: “Tôi
dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn.
Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh
thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng
động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi
rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm chậm
quá. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu
hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên trong quả
bom. Hoặc là mặt trời nung nóng”. Lời văn như dao
nhọn, sắc lạnh đến rợn người, khiến người đọc như
cảm giác đang trực tiếp trải nghiệm tham gia công
việc phá bom cùng với nhân vật vậy!
Tiếp đó là những giây phút chuẩn bị kích nổ trái
bom: “Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái hố
đã đào, châm ngòi. Dây mìn dài, cong, mềm. Tôi
khỏa đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình…”. Những
giây phút đợi chờ tiếng nổ của quả bom thật căng
thẳng, “tim tôi cũng đập không rõ”, thậm chí cô còn
nghĩ tới cái chết, nhưng đó là cái chết mờ nhạt,
không cụ thể. Cái chính lúc này là “bom có nổ
không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ
hai? […] nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì quái,
đến vang óc. Ngực tôi nhói, mắt cay xè… mùi thuốc
bom buồn nôn… Mảnh bom xé không khí, lao và rít
vô hình trên đầu”…
Quả là một cuộc chiến đấu không cân sức, nguy
hiểm đầy ngoạn mục nhưng cô gái đã mạnh mẽ
vượt qua. Đến đây, người đọc càng cảm nhận thấy
sự tàn ác khốc liệt của chiến tranh bao nhiêu thì lại
càng cảm phục tinh thần trách nhiệm trong công
việc, lòng quả cảm vô song, sẵn sàng hi sinh vì tổ
quốc, vì hòa bình của những cô gái thanh niên
xung phong phá bom mở đường đến bấy nhiêu.
Qua đó, chúng ta mới thấy hết được ý thức, trách
nhiệm công dân cao độ của những con người anh
hùng xả thân vì kháng chiến, cách mạng:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ
quốc?”
(Thanh Thảo)
ĐÁNH GIÁ CHUNG
Lê Minh Khuê đã có lựa chọn ngôi kể phù hợp, cách
kể chuyện tự nhiên. Nghệ thuật xây dựng nhân vật hết
sức tinh tế và sắc sảo, nhất là miêu tả tâm lí. Ngôn
ngữ giản dị, vừa mang tính khẩu ngữ vừa đậm chất
trữ tình. Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập, gợi không
khí chiến trường. Tất cả đã giúp nhà văn làm nổi bật
tâm hồn trong sáng,mơ mộng, tinh thần dũng cảm,
cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất
hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung
phong trên tuyến đường Trường Sơn.
Qua nhân vật Phương Định và các cô thanh niên
xung phong, Lê Minh Khuê đã có cái nhìn thật đẹp, thật
lãng mạn về cuộc sống chiến tranh, về con người trong
chiến tranh.Chiến tranh là đau thương mất mát
song chiến tranh không thể hủy diệt được vẻ đẹp
tâm hồn rất tươi xanh của tuổi trẻ, của con người.
Chính từ những nơi gian lao, quyết liệt ta lại thấy ngời
sáng vẻ đẹp của tuổi trẻ, của chủ nghĩa anh hùng Cách
mạng Việt Nam. Ba nữ thanh niên xung phong trong
những trang văn xuôi trữ tình êm mượt của Lê Minh
Khuê gieo vào lòng người đọc ấn tượng khó quên về vẻ
đẹp lung linh tỏa sáng của những ngôi sao xa xôi. Hình
ảnh họ khiến ta nhớ đến ý thơ của Lâm Thị Mĩ Dạ trong
“Khoảng trời hố bom”:
Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói lung linh.

You might also like