You are on page 1of 6

MÙA XUÂN NHO NHỎ

- Thanh Hải
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả:
- Phạm Bá Ngoãn ( 1930 – 1980 )
- Quê: Phong Điền, Thừa Thiên Huế
- Bản thân:
+ Ông hoạt động văn nghệ cuối những năm KCCP. Trong thời kì đầu KCCM, Thanh
Hải ở lại quê hương hoạt động và là 1 trong những cây bút có công xây dựng cho
nền văn học cách mạng ở miền Nam những ngày đầu. Sau giải phóng, ông gắn bó
với quê hương, sống và sáng tác đến khi qua đời. Năm 1965, ông đc tặng giải
thường văn học Ng Đình Chiểu.
+ Thơ Thanh Hải chân chất, đôn hậu, bình dị, lắng đọng, cảm xúc thiết tha, chân
thành, ngôn ngữ trong sáng, giàu nhạc điệu.
2. Tác phẩm
a) HCST: Bài thơ đc vt t11/1980, khi TH đang nằm trên giường bệnh, 1 tháng trc
khi ông qua đời. Đây là nhữg năm tháng đất nc ta mới bước ra khỏi ch.tranh, đất
nc thống nhất nhưg phải đối mặt vs nhiều khó khăn thử thách. Qua đó, niềm yêu
tha thiết c.đời, khát vọng đc công hiến của t.giả càng thêm ý nghĩa.
b) Chủ đề: Bài thơ là tiếng lòng tha thiết, yêu mến, gắn bó và là nguyện ước với
đất nc, vs c.đời của nhà thơ TH.
c) Bố cục, mạch cảm xúc: 4p
d) Nhan đề và ý nghĩa:
- “MXNN” là 1 nhan đề sáng tạo, độc đáo, 1 phát hiện mới mẻ của t.giả:
+ “Mùa xuân” là 1 DTC chỉ khái niệm trừu tượng, chỉ những tháng đầu tiên của
năm.
+ “nho nhỏ” là 1 TT cụ thể chỉ những phần nhỏ bé, ít ỏi; khi kết hợp nó khiến cho
mùa xuân trở nên hữu hình, cụ thể rõ nét.
- Như vậy, đây là 1 nhan đề mang t/c ẩn dụ chỉ những đóng góp tinh túy đẹp nhất
của mỗi con ng dành cho sự sống và c.đời chung. Qua đó, thể hiện được nguyện
ước của t.giả: muốn cống hiến những phần nhỏ bé nhưng tốt đẹp nhất dành cho
cuộc đời chung. Quan niệm ấy cho thấy rõ đc sự thống nhất giữa cái riêng và cái
chung, cái cá nhân và cái cộng đồng.
=> Như vậy, đây là một nhan đề hay, nhiều ý nghĩa, bộc lộ rõ chủ đề của bài thơ.
II. TÌM HIỂU CHI TIẾT
1. Khổ 1: Tiếng lòng tha thiết, yêu mến của TH đối với mùa xuân thiên nhiên đất
trời xứ Huế
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
- Mở đầu khổ thơ chỉ với 3 nét chấm phá và NT liệt kê, t.giả đã vẽ nên 1 bức tranh
thiên nhiên tuyệt đẹp với dòng sông Hương hiền hòa xanh thắm lững lờ trôi; bông
hoa tím biếc mọc giữa dòng và tiếng chim chiền chiện lảnh lót vang trời. Hai câu
thơ đầu khổ thơ đc vt theo kết cấu vị ngữ đảo lên trước chủ ngữ:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
NT đảo ngữ đã nhấn mạnh, gợi ấn tượng về sự xuất hiện của bông hoa tím biếc và
làm nổi bật lên sức sống của mùa xuân. Ko chỉ vậy, 2 câu thơ còn diễn tả cảm xúc
thú vị, ngạc nhiên của nhà thơ trc hình ảnh mùa xuân.
- Bức tranh thiên nhiên mùa xuân ko chỉ đẹp bởi sắc màu, h/ả mà còn rộn rã bởi
âm thanh tiếng chim. NT nhân hóa “ơi” cho thấy con chim hiện ra như 1 ng bạn
để t.giả cất lên tiếng gọi chan chứa yêu thương và sau từ “ơi” cùng vs từ “chi”, ĐT
“Hót”, t.giả đã đưa âm điệu thân thương của dân ca xứ Huế vào khổ thơ.
- Trước vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân ấy, TH bộc lộ c/xúc một cách mãnh liệt:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
+ “Giọt long lanh” ở đây ko phải là giọt sương dưới ánh nắng của trời xuân mà là
giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện. Tiếng chim có thể ngưng đọng thành
từng giọt hay ko? Đó là sự ngây ngất, say mê của nhà thơ trc vẻ đẹp thiên nhiên
mà ngỡ như tiếng chim bay lên cao ngưng đọng thành từng giọt rơi xuống. Hay
nói cách khác, âm thanh ấy ko bị loãng ra, ko tan trong ko trung mà đọng lại thành
có hình có khối thành dấu ấn, đặc trưng của mùa xuân.
+ Ở đây, TH đã s/d thành công NT ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để bộc lộ cảm xúc
của mình. ĐT “hứng” đã thể hiện sự say sưa, ngây ngất của TH.
=> Tóm lại, bằng nhiều giác quan và tài phác họa của TH, khổ thơ thứ 1 đã mở ra 1
ko gian cao rộng với khung cảnh thiên nhiên tươi tắn, âm thanh vang vọng, tươi
vui.
2. Khổ 2,3: Tiếng lòng tha thiết, yêu mến của TH đối với mùa xuân đất nc, CM
- Nếu ở khổ 1, t.giả bày tỏ c.xúc với mùa xuân thiên nhiên thì ở khổ 2,3 là tiếng
lòng tha thiết, yêu mến đối với mùa xuân đất nc, CM.
- Trước hết là khổ 2:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…”
+ Đọc khổ thơ ta thấy qua việc gợi ra 2 hình ảnh “người cầm súng” “người ra
đồng” tác giả đã nêu lên khí thế mạnh mẽ của những người thực hiện nhiệm vụ
chiến đấu, bảo vệ và lao động cho Tổ quốc. Trong đoạn thơ còn có hình ảnh “lộc”,
lộc là chồi non, lá non của mùa xuân. Đây là hình ảnh đặc trưng của mùa xuân,
chứa đựng, cô đọng trong nó là sức sống của mùa xuân.
+ Nhưng ở đây hình ảnh “lộc” còn được phát triển nghĩa. Trước hết, “lộc giắt đầy
trên lưng”, lộc ở đây là cành lá ngụy trang của người chiến sĩ khi ra chiến trường
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, giành độc lập cho đất nước. Cạnh đó, “lộc” trong “lộc
trải dài nương mạ” là thành quả của người nông dân ra đồng cày cấy đem lại cuộc
sống ấm no hay còn là mầm xanh của sự sống cho mảnh đất khói bom, lửa đạn.
 Như vậy, với nhịp thơ 2/3, giọng thơ náo nức vui tươi, NT điệp từ, điệp ngữ,
điệp cấu trúc câu đã diễn tả ko khí mùa xuân tràn ngập muôn nơi, và cả “ng cầm
súng” “người ra đồng” đã tích cực hoạt động để đem lại độc lập, phát triển cho
đất nước.
+ Kết thúc khổ thơ, điệp ngữ “tất cả” và các từ láy “hối hả, xôn xao” diễn tả sinh
động nhịp sống sôi động, khẩn trương, nhất trí, đồng lồng của con người khi đất
nước vào xuân. Hay đó chính là tâm trạng của tác giả - cái náo nức trong tâm hồn,
sự gieo vui trước tinh thần lao động của mọi người.
=> Tóm lại, ở khổ thơ thứ 2 với NT đặc sắc, hình ảnh sáng tạo, giàu biểu cảm, ta
thấy mùa xuân đang tràn ngập trong ko gian đất trời và lòng người.
- Cạnh đó là khổ thơ thứ 3:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
+ Khổ thơ cho ta thấy TH có cái nhìn sâu sắc về đất nc 4000 năm lịch sử có truyền
thống chống giặc ngoại xâm và cần cù trong lao động. Ở đây, với BPTT nhân hóa
và so sánh, tác giả ko chỉ thể hiện niềm cảm thương mà còn thể hiện niềm tin
tưởng tự hào về đất nước; đất nước như bà mẹ tần tảo trải qua bao gian lao, vất
vả nhưng vẫn tràn đầy sức sống bền bỉ, kiên cường. Hay nói cách khác, trong 4000
năm dựng nc và giữ nc, đất nc ta trải qua bao nhiêu khó khăn gian khổ, hi sinh
mất mát nhưng cũng có bt bao chiến thắng lẫy lừng, kiêu hùng vững vàng vượt
qua khó khăn. Ở đây, tác giả đã lấy cái trường tồn, vĩnh cửu của thiên nhiên là “vì
sao” để so sánh với tầm vóc dân tộc gợi ta liên tưởng tới ánh sáng, niềm hi vọng
vào tương lai rộng mở.
+ Ko chỉ vậy, hình ảnh “vì sao” còn gợi cho ta liên tưởng đến lá cờ Tổ quốc. Phải
chăng qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về đất nước VN anh hùng. Đất nước ấy
sẽ mãi trường tồn vĩnh cửu, ko 1 thế lực nào có thể ngăn cản. Từ “cứ” trong câu
thơ đã tô đậm điều ấy, nó thể hiện tư thế hiên ngang, ngạo nghễ, ý chí quyết tâm
và niềm tin dù đất nước có vất vả và gian lao thì sẽ ko ngừng tiến lên phía trc.
=> Cả đoạn thơ cho thấy tấm lòng tin tưởng, tự hào của nhà thơ vào tương lai
tươi sáng của đất nc.
3. Khổ 4,5 : Tâm nguyện của tác giả
- Tấm lòng tha thiết, yêu mến, gắn bó với đất nc, cuộc đời còn đc thể hiện qua
khát khao cống hiến và ước nguyện của nhà thơ qua khổ 4,5.
- Trước hết là khổ 4:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
+ Đến đây ta thấy cách xưng hô có sự thay đổi: “tôi” thành “ta”, điều đó cho thấy
đây ko chỉ là nguyện ước của riêng nhà thơ mà còn là nguyện ước của mọi người,
của toàn dân tộc. Điệp ngữ “ta làm” đã khẳng định ước nguyện sống có ích, hết
mình cho cuộc đời chung của tác giả và cũng là của bt bao nhiêu người.
+ Tâm nguyện ấy còn đc gửi gắm qua NT liệt kê và hình ảnh thiên nhiên giản dị,
đẹp đẽ: “con chim, cành hoa, nốt trầm”. Khác với tác giả của bài hát “Tự nguyện”,
ước làm ng anh hùng, sứ giả hòa bình…, Thanh Hải có điều ước nhỏ bé, khiêm
nhường:
. Ước làm “con chim” để đem tiếng hót của mình góp vui cho cuộc đời
. Ước làm “cành hoa” để đem hương sắc tô điểm cho cuộc đời
. Ước làm “nốt trầm xao xuyến” – một nốt nhạc lắng sâu để đem âm thanh nhập
vào khúc hòa ca của đất nước, ngợi ca non sông, cuộc đời mới; chứ ko phải một
nốt cao vượt trội để thể hiện mình.
-> Đây là những ước mơ nhỏ bé nhưng có ý nghĩa to lớn bởi nó làm nên mùa
xuân, làm nên vẻ đẹp của cuộc sống.
- Hình ảnh “con chim, bông hoa” được lặp lại ở khổ 1 tạo sự đối ứng chặt chẽ
nhưng ý nghĩa được phát triển nâng cao: ko chỉ hiểu theo nghĩa đen là chỉ hình
ảnh mùa xuân thiên nhiên mà còn hiểu theo nghĩa ẩn dụ chỉ ước nguyện được
cống hiến của nhà thơ.
- Đặc biệt ở khổ thơ thứ 5, ta thấy xuất hiện của “mùa xuân nho nhỏ”:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
+ Câu thơ thứ nhất lặp lại nhan đề bài thơ:
. “Mùa xuân” là DTC chỉ khái niệm trừu tượng – chỉ những tháng đầu tiên trong
năm.
. “Nho nhỏ” là TT cụ thể chỉ những phần nhỏ bé, ít ỏi. Đây là sự kết hợp ko logic
nhưng là ẩn dụ để chỉ sự cống hiến những phần nhỏ bé nhưng tốt đẹp nhất của
mỗi con người cho cuộc đời chung, của mỗi cá nhân với tập thể.
 Qua đó ta thấy nguyện ước, khát khao của TH: muốn làm 1 mùa xuân sống đẹp
và ý nghĩa để đóng góp cho mùa xuân lớn của đất nước. Một nguyện ước thật
khiêm nhường, lặng lẽ và tự nguyện.
- Sự cống hiến âm thầm lặng lẽ ấy trải dài suốt cuộc đời từ tuổi hai mươi đến khi
tóc bạc.
“Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
NT đảo ngữ ở 2 từ “lặng lẽ” đã tô đậm sự cống hiến ko ồn ào, phô trương mà âm
thầm bền bỉ. Cạnh đó, điệp ngữ “dù là” và NT hoán dụ “tuổi hai mươi, tóc bạc”
khẳng định lẽ sống cao đẹp, sự cống hiến trọn đời bất chấp tgian và tuổi tác. Nó
như là lười tự nhủ tự dặn những cũng là lời nhắn nhủ tới mỗi người: hay đóng
góp những phần nhỏ bé nhưng tốt đẹp cho cuộc đời để làm nên mùa xuân của
đất nước.
4. Khổ 6: Lời ngợi ca quê hương đất nước
- Bài thơ kết thúc bằng 1 âm điệu dân ca xứ Huế mênh mang, tha thiết biểu lộ
niềm tin yêu của tác giả vào cuộc đời vào đất nước qua những giá trị truyền thống
bền vững.
“Mùa xuân- ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
- Khổ cuối hòa nhịp với cảm xúc chung của bài thơ. Khi đc cống hiến, tâm hồn
thanh thản, tác giả cất cao lên tiếng hát – “câu Nam ai, Nam bình” – hai làn điệu
dân ca xứ Huế. Nếu như ở đầu bài thơ, ta cảm nhận đc sắc màu của xứ Huế qua
bông hoa tím biếc thì kết thúc bài thơ, ta lại đc nghe âm thanh làn điệu dân ca xứ
Huế quen thuộc. Qua đó, ta cảm nhận đc sự gắn bó của nhà thơ với quê hương,
với cội nguồn, với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
- Đó còn là lời hát mê say ca ngợi đất nước:
“Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình”
Hai câu thơ với NT điệp cấu trúc câu và nhịp 4/1 có tác dụng như 1 lời hát mê say
yêu đời, yêu cuộc sống. Đối với tác giả, trên đất nc này, đâu đâu cũng đẹp, cũng
thấm đượm tình người và luôn có tấm lòng sẵn sàng cống hiến.
- Đặc biệt, kết thúc bài thơ là “phách tiền”
“Nhịp phách tiền đất Huế.”
“Phách tiền” là hai thanh tre hoặc gỗ có đính thêm cọc tiền đồng, đây là nhạc cụ
trong dân ca Huế, có âm thanh rộn rã vui tươi.
=> Tóm lại, trước ko khí xuân xôn xao rạo rực, tác giả cũng bồi hồi xao xuyến và
trên hết là niềm tự hào, ngợi ca quê hương, đất nc, trài dài muôn dặm.

You might also like