You are on page 1of 73

BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

BÀI 1: MÙA XUÂN NHO NHỎ ( THANH HẢI)

ĐỀ 1: CẢM NHẬN VỀ TIẾNG LÒNG CỦA NHÀ THƠ THANH HẢI QUA HAI
KHỔ THƠ SAU:
« Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Mùa xuân người cầmsúng


Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…”

(Trích Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải, Ngữ văn 9, Tập hai, NXB Giáo dục )

Dàn ý Bài làm


I. Mở bài Cách 1 :
- Dẫn dắt: giới thiệu Thơ là sự rung cảm mãnh liệt của tâm hồn thi sĩ “mở hồn ra
về ý nghĩa của thơ đón lấy tất cả những vang động của cuộc đời” (Nam Cao). Thơ là
ca với người cầm những nốt nhạc ngân lên giai điệu tha thiết của tiếng lòng người
bút. cầm bút. Và bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” chính là tiếng lòng của
- Giới thiệu bài thơ nhà thơ Thanh Hải. Đó là những vần thơ hay, bộc lộ thiết tha nội
“ Mùa xuân nho cảm, lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời của tác giả. Tiếng lòng tha
nhỏ”- là tiếng lòng thiết, yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời của nhà thơ
của nhà thơ Thanh được thể hiện rõ nhất qua hai khổ thơ đầu. ( Trích thơ)
Hải. Cách 2:
- Giới thiệu nội Mùa xuân từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận, là nơi hội tụ
dung khổ 1: cảm bàn tay nghệ sĩ tài hoa. Thanh Hải - Nhà thơ của xứ Huế cũng góp
xúc của nhà thơ vào vườn thơ xuân ấy một bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” . Bài thơ là
trước mùa xuân tiếng lòng thiết tha, yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời
thiên nhiên, đất thể hiện ước nguyện của nhà thơ được cống hiến cho đất nước.
nước Tiếng lòng ấy được thể hiện xuyên suốt bài thơ, đặc biệt rõ nhất
qua hai khổ thơ đầu. ( Trích thơ)
Cách 3 :
Thanh Hải là gương mặt tiêu biểu của thơ trẻ Việt Nam những năm
đầu chống Mỹ. Nhà thơ xứ Huế này được biết đến là một trong
những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng Việt Nam
từ những ngày đầu. Ông có công thắp sáng ngọn lửa thi ca Cách

1
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

mạng miền Nam trong những năm dài đen tối đầy máu và nước
mắt. Thơ ông nhẹ nhàng , sâu lắng đầy trách nhiệm với đời . Bài
thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” là một thi phẩm độc đáo và tuyệt hay,
tiêu biểu cho hồn thơ Thanh Hải đã thể hiện được tâm nguyện thật
thiết tha, cảm động của nhà thơ Thanh Hải với đất nước, với cuộc
đời. Tiếng lòng ấy được thể hiện xuyên suốt bài thơ, đặc biệt rõ
nhất qua 2 khổ thơ đầu. ( Trích thơ)

II. Thân bài * Giới thiệu tác giả ( Dành cho mở bài 1,2) :
* Khái quát: - Thanh Hải là gương mặt tiêu biểu của thơ trẻ Việt Nam những
- Giơi thiệu tác giả ( năm đầu chống Mỹ. Nhà thơ xứ Huế này được biết đến là một trong
nếu mở bài chưa những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng Việt Nam
nêu) từ những ngày đầu. Ông có công thắp sáng ngọn lửa thi ca Cách
- Nêu hoàn cảnh ra mạng miền Nam trong những năm dài đen tối đầy máu và nước
đời bài thơ. mắt. Thơ ông nhẹ nhàng , sâu lắng đầy trách nhiệm với đời
* Hoàn cảnh ra đời bài thơ:
-Giới thiệu khái Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” ra đời tháng 11/1980- 5 năm sau
quát bài thơ và vị ngày đất nước giành được độc lập.Và đây cũng là một hoàn cảnh
trí đoạn thơ cần rất đặc biệt đối với nhà thơ Thanh Hải. Ông đang bị bệnh nặng
PT phải điều trị ở bệnh viện trung ương thành phố Huế, và một tháng
sau ông qua đời. Đối lập giữa ranh giới sự sống và cái chết nhưng
không làm trái tim nhà thơ nguội lạnh. Ngược lại tâm hồn thi nhân
lại nảy nở, bừng sức sống để cảm nhận ấm áp về một mùa xuân
nồng ấm tình người.Có hiểu cho hoàn cảnh của nhà thơ trên giường
bệnh ta mới thấy hết được tấm lòng tha thiết với cuộc sống, với quê
hương đất nước của nhà thơ.
Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp mùa xuân thiên nhiên, đất nước, con
người và khát vọng cống hiến của nhà thơ. Hai khổ thơ đầu của
bài thơ đã ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời và cảm xúc
của nhà thơ trước mùa xuân đất nước.
* Phân tích Đến với khổ thơ đầu của bài thơ, ta sẽ cảm nhận được cảm xúc
Luận điểm 1 : Cảm của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên, đât trời :
xúc của nhà thơ Mọc giữa dòng sông xanh
trước mùa xuân Một bông hoa tím biếc
của thiên nhiên, Ơi con chim chiền chiện
đất trời ( Khổ 1 ) Hót chi mà vang trời
Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân xứ Huế hiện lên thật
trong trẻo, thơ mộng, và tràn đầy sức sống.
--Mùa xuân xứ Đoạn thơ mở ra bằng một không gian mùa xuân với nhiều
Huế hiện lên thật chiều khác nhau. Đó là một không gian mùa xuân rộng lớn,
trong trẻo, thơ khoáng đạt. Một bông hoa giữa dòng sông xanh trong với hình ảnh
mộng, và tràn đầy con chim chiền chiện giữa bầu trời cao rộng . Như vậy không gian
sức sống: mùa xuân được mở rộng từ dòng sông cho tới tầng trời. Bức tranh

2
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

xuân vì thế mà hiện lên thật rộng mở, thoáng đãng, bát ngát ,
mênh mông.
Trên phông nền của không gian mùa xuân ấy, nhà thơ đã
điểm tô vào đó những hình ảnh và sắc màu hết sức tươi đẹp. Đó là :
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
+ Hình ảnh chọn Giản dị mà ấm áp nhà thơ nhà thơ Thanh Hải đã chọn cho mình
lọc: " Dòng sông bức tranh mùa xuân với gam màu ấm áp mà dịu dàng, trang nhã.
xanh", "hoa tím Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông hoa tạo nên
biếc" ( đặc trưng một nét chấm phá nhẹ nhàng mà sống động, đem lại một vẻ đẹp tự
của mùa xuân xứ nhiên, hài hòa, một màu sắc đặc trưng của xứ Huế.
Huế) Mùa xuân không chỉ đẹp mà còn tràn đầy sức sống. Từ
“một” chỉ số ít tạo nên thế đối lập giữa dòng sông mênh mông và
bông hoa nhỏ bé. Tuy vậy, người đọc không hề thấy sự nhỏ bé, yếu
+ Mùa xuân không ớt của bông hoa mà ngược lại bông hoa thể hiện một sức sống vô
chỉ đẹp mà còn tràn cùng mãnh liệt. Phép đảo ngữ đưa từ “mọc” đảo lên đầu câu thơ
đầy sức sống. là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Nó như nhấn mạnh một
( Phép đảo ngữ- luồng sức sống đang vươn lên, một sức sống căng tràn trỗi dậy
đưa từ “ mọc” lên của một bông hoa giữa bốn bề sông nước.
đầu câu) =>Với nét bút khoáng đạt, bức tranh mùa xuân thiên nhiên được
nhà thơ phác họa vô cùng tươi đẹp , tràn đầy sức sống và đậm
phong vị xứ Huế. Xứ Huế vào xuân với “dòng sông xanh”, với
“bông hoa tím biếc”. Sắc xanh hiền hòa của sông điểm xuyết nét
chấm phá của bông hoa tím biếc gợi một sắc xuân tươi tắn, rực rỡ
mà vẫn rất mực bình dị, dân dã mang đậm chất Huế.
Bức tranh mùa xuân ấy không chỉ đẹp bởi đường nét, màu sắc
+ Bức tranh xuân mà còn sinh động bởi âm thanh của tiếng chim chiền chiện hót
không chỉ có líu lo. Âm thanh ấy vút cao, lảnh lót, trong trẻo, ngân vang như lan
đường nét, màu tỏa trong không gian làm cho không khí mùa xuân trở lên náo nức,
sắc mà còn có cả rộn ràng cũng như làm rung động tâm hồn nghệ sĩ:
âm thanh. Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
- Tác giả gọi chim chiền chiện bằng thán từ “Ơi” được đặt lên đầu
câu cùng với câu hỏi “ hót chi” tạo cảm giác thân thương, trìu
+ Tiếng gọi “ ơi” mến, đồng thời giúp ta cảm nhận được sự ngọt ngào thân thương
của xứ Huế, như một nốt nhạc ngân vang trong bản trường ca vô
tận, đồng thời thể hiện được cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác
giả trước mùa xuân thiên nhiên. Tiếng chim hót như rót vào tâm
hồn nhà thơ một niềm rung cảm mãnh liệt, tiếng hót vang lừng
trong trẻo như nốt nhạc rộn rã của mùa xuân. Thứ âm thanh không
thể thiếu ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng đạt,
làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối
mặt với những bóng đen u ám của bệnh tật, của cái chết rình rập.

3
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Bằng phép tu từ nói quá “ Hót vang trời” và câu hỏi tu từ ,


tác giả đã làm nổi bật âm thanh tiếng chim như lan tỏa trong không
gian làm cho không khí mùa xuân trở nên náo nức, rộn ràng.
Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa
của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn để rồi ông lặng ngắm,
lắng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên
tưởng độc đáo:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
+ Đây là một hình ảnh đẹp đậm chất tạo hình , diễn đạt cảm xúc
một cách tự nhiên, giản dị mà giàu sức biểu cảm. Hình ảnh “ giọt
long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó
có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân
tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa
xuân đang rơi… hay chính là giọt âm thanh của tiếng chim chiền
chiện đã ngưng đọng thành hình, thành khối, thành sức sống
mùa xuân có sắc màu lóng lánh. Âm thanh mượt mà trong vắt của
tiếng chim thánh thót như chuỗi ngọc long lanh, đọng lại thành
từng giọt và rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm
hồn đang rạo rực tình xuân.
+ Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tài
hoa, tinh tế qua trí tưởng tượng của nhà thơ. Rõ ràng, âm thanh
tiếng chim vô hình, vô ảnh vốn được cảm nhận bằng thính giác đã
được hữu hình, hữu ảnh thành vật thể được cảm nhận bằng thị
giác và xúc giác. Trong cảm xúc của nhà thơ, âm thanh tiếng chim
đồng nội trở thành giọt vui, giọt hạnh phúc ở đời đáng được nâng
niu, trân trọng, để rồi: “Tôi đưa tay tôi hứng”. Nhà thơ đã mở rộng
lòng mình để say ngắm vẻ đẹp của mùa xuân bằng tất cả sự rạo rực,
thiết tha. Điệp từ “tôi” cùng với hai động từ “ đưa tay” và “hứng”
trong cùng một dòng thơ đã thể hiện được sự nâng niu, trân trọng
sức xuân trong bàn tay của nhà thơ. Thanh Hải đã dùng các giác
quan để cảm nhận vẻ đẹp mùa xuân tươi trẻ bằng tất cả sự trân
trọng, nâng niu, sự say sưa, ngây ngất của thi nhân trước vẻ đẹp của
thiên nhiên đất trời lúc vào xuân.
=> Nếu nói rằng “thi trung hữu họa”,”thi trung hữu nhạc”,”thi
trung hữu tình”, thì ta thấy bức tranh mùa xuân thiên nhiên xứ
Huế được gợi ra từ những câu thơ như thế - một bức tranh
mùa xuân thật thơ mộng, thật quyến rũ lòng người! Tình cảm
của tác giả đối với mùa xuân là sự nâng niu, khát vọng thu

4
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

nhận và giữ gìn vẻ đẹp của đất trời. Đó cũng là biểu hiện của
một tấm lòng tha thiết yêu cuộc sống.
Như vậy, với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, biện pháp tu từ
ẩn dụ.... cùng các từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị gợi tả, khổ thơ là
cảm hứng xuân phơi phới của một tâm hồn trong sáng, lạc quan,
yêu đời, dạt dào tình yêu thiên nhiên, cuộc sống. Chính vì vậy,
Thanh Hải mới dệt nên một bức tranh xuân tươi đẹp, đầy sức sống
và rất đáng yêu bằng những vần thơ nồng nàn khi ông đang nằm
trên giường bệnh giữa mùa đông lạnh giá.
Luận điểm 2: Cảm Nếu như ở khổ thơ đầu tiên là cảm xúc của Thanh Hải trước mùa
xúc trươc mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên đất trời thì ở khổ thơ thứ hai là cảm
xuân của đất nước xúc của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước:
( Khổ 2) “Mùa xuân người cầm súng
Chuyển ý Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao..."
Từ những cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, nhà thơ
liên tưởng đến mùa xuân của con người, của đất nước với một
sức sống vô tận. Nhà thơ cảm nhận sức sống của mùa xuân đất
nước hiện hữu trong con người ở mọi miền không gian khác nhau.
Nói về mùa xuân đất nước Thanh Hải đã rất tinh tế khi lựa chọn
hai hình ảnh ẩn dụ và hoán dụ sóng đôi hết sức có ý nghĩa:
“người cầm súng”, “người ra đồng”. Nếu “người cầm súng” đại
diện cho lực lượng chiến đấu, thì “người ra đồng” tiêu biểu cho
những con người lao động sản xuất dựng xây đất nước. Điều thú vị
ở đây là cả hai lực lượng này đều gắn bó với hình ảnh “lộc”..Với
“người cầm súng” là “ lộc giắt đầy”,còn với “người ra đồng”là “
lộc trải dài”. Đây là hình ảnh vừa cso ý nghĩa tả thực , vừa có
nghĩa tượng trưng. Đó không chỉ là chồi non, lộc biếc trên cành
cây , mà còn là là sức sống mới, một niềm tin và hi vọng mới
đang bừng lên ở con người và đất nước.
- Người lính khoác trên lưng vành lá ngụy trang xanh biếc mang
theo sức sống của mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ
quốc. Người nông dân đem sức lao động cần cù , nhỏ giọt mồ hôi
làm nên màu xanh của ruộng đồng. Như thế, người chiến sĩ và
người lao động đã đem mùa xuân, gieo mùa mùa xuân đến mọi
miền đất nước. Họ trở thành những con người làm ra mùa xuân,
bảo vệ mùa xuân của đất nước, quê hương.
Để rồi đất nước vào xuân với không khí vô cùng tưng bừng, náo
nhiệt. Giai điệu rộn rã của mùa xuân, nhịp sống của con người như
hối hả hơn, xôn xao hơn.

5
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

“Tất cả như hồi hả


Tất cả như xôn xao”
- Điệp ngữ “tất cả” kết hợp với từ láy “hối hả” , “xôn xao” dã tạo
nên một âm hưởng thơ rộn ràng, náo nức , sôi động và khẩn
trương , nhộn nhịp dựng xây đất nước . Đặc biệt từ láy “hối hả” ,
“xôn xao”đã thể hiện được sức xuân đang bừng lên của cả dân
tộc.
Câu thơ khẳng định một điều: cả đất nước đang hối hả, khẩn
trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng
trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước.
* Đánh giá Với thể thơ năm chữ mang âm hưởng của ca dao dân ca nhẹ nhàng,
- Nghệ thuật tha thiết, giàu hình ảnh đẹp, giản dị, gần gũi, khổ thơ đã sử dụng
- Nội dung thành công các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ, nghệ thuật
- Gắn với hoàn cảnh đảo ngữ ....cùng các từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị gợi tả, hai khổ thơ
ra đời để thêm trân đầu đã giúp người đọc cảm nhận được những cảm xúc của nhà thơ
trọng tấm lòng của trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước. Đó là niềm say sưa
nhà thơ. ngây ngất trước vẻ đẹp mộng mơ, dịu dàng của bức tranh thiên
nhiên xứ Huế, là niềm tin, niềm vui, niềm tự hào khi đất nước
bước vào xuân. Và đằng sau những vần thơ ấy, ta nhận ra ở Thanh
Hải là niềm yêu đời, yêu cuộc sống, là tình yêu tha thiết với thiên
nhiên, với quê hương đất nước. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng
biết bao !

III. Kết bài Đoạn thơ kết thúc nhưng dư âm vẫn vang vọng trong lòng mỗi
- Đánh giá chung về
người. Hình ảnh mùa xuân thiên nhiên xứ Huế thơ mộng cùng niềm
đoạn thơ say đắm với thiên nhiên, tình yêu tha thiết với cuộc đời của nhà thơ
- Đoạn thơ khơi gợi
vẫn khiến lòng người xao xuyến. Mỗi lần đọc bài thơ ta càng thêm
trong em những tình
trân trọng một tâm hồn yêu thiết tha quê hương, đất nước của nhà
cảm, trách nhiệm
thơ. Cảm động trước tấm lòng nhà thơ, mỗi chúng ta hãy trân trọng
gì? Em học đượcvẻ đẹp của hiên nhiên và chung tay xay dựng quê hương đất nước
bài học gì mạnh giàu. Với những giá trị ấy, tên tuổi của nhà thơ Thanh Hải
cùng với bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” sẽ mãi bất tử với thời gian
ĐỀ 2: CẢM NHẬN CỦA EM VỀ HAI ĐOẠN THƠ SAU:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến

Một mùa xuân nho nhỏ


Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mười
Dù là khi tóc bạc.
(Trích Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải, Ngữ văn 9, tập hai, NXB Giáo dục)

6
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
Từ đó, liên hệ tới trách nhiệm của tuổi trẻ đối với đất nước trong cuộc sống hôm
nay.
Dàn ý Bài làm
I. Mở bài Cách 1 :
- Dẫn dắt: giới Cách 1: Mùa xuân từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận, là nơi
thiệu về ý nghĩa hội tụ bàn tay nghệ sĩ tài hoa. Thanh Hải - Nhà thơ của xứ Huế cũng
của thơ ca với góp vào vườn thơ xuân ấy một bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” . Bài
người cầm bút. thơ là tiếng lòng thiết tha, yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc
- Giới thiệu bài đời thể hiện ước nguyện của nhà thơ được cống hiến cho đất nước.
thơ “ Mùa xuân Tiếng lòng ấy được thể hiện xuyên suốt bài thơ, đặc biệt với khổ
nho nhỏ”- là tiếng thơ thứ tư và năm của bài thơ ta sẽ cảm nhận được lời ước
lòng của nhà thơ nguyện chân thành và tha thiết của nhà thơ ( Trích thơ)
Thanh Hải. Cách 2 : Thanh Hải là gương mặt tiêu biểu của thơ trẻ Việt Nam
- Giới thiệu nội những năm đầu chống Mỹ. Nhà thơ xứ Huế này được biết đến là một
dung khổ 1: cảm trong những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng Việt
xúc của nhà thơ Nam từ những ngày đầu. Ông có công thắp sáng ngọn lửa thi ca Cách
trước mùa xuân mạng miền Nam trong những năm dài đen tối đầy máu và nước mắt.
thiên nhiên, đất Thơ ông nhẹ nhàng , sâu lắng đầy trách nhiệm với đời . Bài thơ “
nước Mùa xuân nho nhỏ” là một khúc ca xuân nổi tiếng mà Thanh Hải
gửi lại cho đời. Thi phẩm được viết không bao lâu sau khi tác giả qua
đời . Tác phẩm vì thế được xem là di chúc thiêng liêng thể hiện niềm
yêu thiết tha cuộc sống , đồng thời cũng là lời ước nguyện chân thành
được cống hiến cho đât nước của Thanh Hải . Cùng đến với hai khổ
thơ sau để cảm nhận rõ điều đó:( Trích thơ)

II. Thân bài * Giới thiệu tác giả ( Dành cho mở bài 1) :
* Khái quát: - Thanh Hải là gương mặt tiêu biểu của thơ trẻ Việt Nam những năm
- Giơi thiệu tác đầu chống Mỹ. Nhà thơ xứ Huế này được biết đến là một trong
giả ( nếu mở bài những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng Việt Nam
chưa nêu) từ những ngày đầu. Ông có công thắp sáng ngọn lửa thi ca Cách
- Nêu hoàn cảnh mạng miền Nam trong những năm dài đen tối đầy máu và nước mắt.
ra đời bài thơ. Thơ ông nhẹ nhàng , sâu lắng đầy trách nhiệm với đời.
* Hoàn cảnh ra đời bài thơ:
-Giới thiệu khái Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” ra đời tháng 11/1980- 5 năm sau ngày
quát bài thơ và đất nước giành được độc lập.Và đây cũng là một hoàn cảnh rất đặc
vị trí đoạn thơ biệt đối với nhà thơ Thanh Hải. Ông đang bị bệnh nặng phải điều
cần PT trị ở bệnh viện trung ương thành phố Huế, và một tháng sau ông
qua đời. Đối lập giữa ranh giới sự sống và cái chết nhưng không làm
trái tim nhà thơ nguội lạnh. Ngược lại tâm hồn thi nhân lại nảy nở,
bừng sức sống để cảm nhận ấm áp về một mùa xuân nồng ấm tình
người.Có hiểu cho hoàn cảnh của nhà thơ trên giường bệnh ta mới
thấy hết được tấm lòng tha thiết với cuộc sống, với quê hương đất
nước của nhà thơ. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp mùa xuân thiên nhiên,

7
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

đất nước, con người và khát vọng cống hiến của nhà thơ.
* Phân tích
a) Lời ước Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Văn học thực chất là cuộc đời, văn
nguyện thiết tha, học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi
cảm dộng được xuất phát của văn học và cũng là nơi đi tới của văn học”. Còn Diệp
cống hiến cho Tiến lại cho rằng “ Thơ ca là tiếng lòng của người nghệ sĩ”. Đó là
đất nước của nhà những rung động mãnh liệt được bật ra trong một phút thăng hoa
thơ cảm xúc của nhà thơ. Chính vì vậy trong “ Mùa xuân nho nhỏ”
giúp ta cảm nhận rõ hơn tiếng lòng, cũng như ước nguyện chân
thành, tha thiết được cống hiến cho đất nước của nhà thơ. Điều đó
được thể hiện rõ qua khổ thơ:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
+ Điệp ngữ “Ta Một nốt trầm xao xuyến
làm” Ta thấy lời thơ cất lên ngân vang như một lời ca. Khổ thơ có sự
+ Phép liệt kê chuyển đổi đại từ nhân xưng. Nếu như ở khổ đầu tác giả xưng “tôi”
những hình ảnh là để bộc lộ cảm xúc say sưa, ngây ngất của riêng mình trước cảnh
đẹp: bông hoa, mùa xuân thiên nhiên đất trời thì đến khổ thơ này nhà thơ đã chuyển
con chim, nốt thành đại từ “ta” để nói lên khát vọng hòa nhập không chỉ của
trầm. riêng mình mà là của tất cả mọi người, để được hòa nhập vào mùa
+ Lặp lại của hình xuân đất nước. Đó không phải là lời tự nhủ mà còn là lời nhắn nhủ,
ảnh bông hoa, lay gọi, thức tỉnh mọi khát khao, cống hiến ở mọi người.
tiếng chim ở khổ Mặt khác , đại từ “ ta” kết hợp với hai động “ làm” , “ nhập” cùng
thơ đầu. với biện pháp điệp từ, điệp ngữ đã thể hiện một ước nguyện chân
thành, tha thiết được hòa nhập, được cống hiến, được sống có ích và
giá trị với giọng điệu vừa sôi nổi, vừa tha thiết, ngân vang như một
+ Điệp ngữ “một” lời ca.
Thanh Hải đã cụ thể hóa ước nguyện được cống hiến của mình
bằng những hình ảnh thơ bình dị, nhỏ bé nhưng có ý nghĩa. Đó là
“ con chim hót” để góp âm thanh rộn ràng cho mùa xuân, “ một cành
hoa” để tỏa hương sắc nồng nàn dâng hiến cho đời. Và “một nốt
trầm” trong bản hòa ca làm xao xuyến lòng người.
Ta thấy có sự lặp lại của hình ảnh bông hoa, tiếng chim ở
khổ thơ đầu. Cách lặp lại những hình ảnh thơ ấy tạo ra sự đối ứng
chặt chẽ và mang một ý nghĩa mới, mang ý nghĩa tượng trưng hơn tả
+ Chuyển đổi đại thực. Những hình ảnh ấy nói lên mong muốn tha thiết được sống có
từ xưng hô từ ích, được cống hiến của tác giả.
“Tôi” sang “Ta” Điệp ngữ “ta làm” được lặp lại đã tạo nên một điệp khúc sâu
lắng , thiết tha cho khúc ca xuân , như một lời khẳng định muốn làm
điều gì đó cho cuộc đời.
b b) Khát vọng Sau ước nguyện dâng tặng cho cuộc đời, nhà thơ đi tới
cống hiến bền bỉ khát vọng cống hiến bền bỉ. Giọng thơ từ hào hứng, sôi nổi sang

8
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

trầm lắng, suy tư. Tâm nguyện hiến dâng của nhà thơ được thể hiện
qua hình ảnh thơ độc đáo:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
+ Ẩn dụ “ mùa Đây là một khổ thơ đẹp mang ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Hình
xuân nho nhỏ” ảnh “mùa xuân nho nhỏ” là một hình ảnh đầy sáng tạo của Thanh
+ Từ láy "nho Hải. Bởi lẽ, mùa xuân là khái niệm thời gian trừu tượng, khó có thể
nhỏ" định lượng, định hình, định tính. Ở đây có sự kết hợp danh từ “ mùa
+ Tính từ " lặng xuân” với tính từ “ nho nhỏ” , Thanh Hải như muốn thể hiện sự tự
lẽ" nguyện dâng hiến toàn bộ, sự cống hiến toàn bộ sức sống của mình,
giá trị sống của cuộc đời mình làm nên giá trị lớn của mùa xuân dân
tộc . Vì vậy “ mùa xuân nho nhỏ” là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng
tạo. Thêm vào đó hoán dụ “ tuổi hai mươi” , “ khi tóc bạc” đã
khẳng định một sự cống hiến không ngừng nghỉ, không mệt mỏi,
kể cả lúc còn trẻ hay khi về già , mệt mỏi, kiệt sức, ông vẫn luôn
mong mỏi được cống hiến, vẫn không thôi khao khát được góp sức
mình cho đất nước.
Phép đảo ngữ “lặng lẽ” đứng đầu câu thơ đã nhấn mạnh
khát vọng cống hiến chân thành của nhà thơ không ồn ào, không
+ Điệp ngữ “Dù phô trương chỉ âm thầm lặng lẽ trôi đi mà không đòi hỏi được đền
là” đáp, không cần mọi người biết đến. Đó chính là lối sống, cống hiến
+ Cách nói hoán đẹp đẽ, vô tư, trong sáng nhất mà con người cần hướng tới.
dụ “tuổi hai Điệp ngữ “ Dù là” đã tạo nên nhịp thơ mạnh mẽ, dứt khoát như
mươi”, “khi tóc một sự khẳng định, như một lời thề “ khắc cốt ghi tâm”, Thanh Hải
bạc” đã cống hiến đến giây phút cuối cùng . Trước lúc ra đi , người nghệ
sĩ ngôn từ ấy vẫn sáng tác và để lại cho đời một khúc ca xuân đầy
tươi sáng và xúc động.
* Đánh giá Bằng những hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, với giai điệu tha thiết, chân
- Nghệ thuật thật, trong sáng, cùng những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ đẹp và đầy ý
- Nội dung nghĩa, kết hợp với nghệ thuật điệp , hai khổ thơ đã thể hiện được ước
- Gắn với hoàn nguyện chân thành của tác giả mong được cống hiến, góp một phần
cảnh ra đời để mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của đất nước. Đó là
thêm trân trọng lời tâm nguyện của một con người đã cống hiến trọn vẹn đời mình
tấm lòng của nhà cho đất nước. Càng xúc động hơn khi ta biết rằng những vần thơ ấy
thơ. được tác giả viết trên gường bệnh . Mong muốn được cống hiến của
Thanh Hải cũng đã tìm được sự đồng điệu với Tố Hữu nói riêng và
với biết bao người nói chung:
“Nếu là con chim chiếc lá
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”

9
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Với Thanh Hải, vì ý thức được quỹ thời gian còn lại của đời mình
không nhiều nên những khát khao , cống hiến ấy lại càng cháy bỏng,
thiết tha, càng đáng quý, đáng trọng.
Liên hệ tới trách Từ ước nguyện cống hiến của Thanh Hải, thế hệ trẻ hôm nay cần
nhiệm của tuổi phải sống đẹp, sống có ích để cống hiến một phần nhỏ bé cho đất
trẻ đối với đất nước, cho dân tộc. Trong thời đại ngày nay, khi đất nước đã hòa
nước trong cuộc bình, thống nhất và đang trên đà phát triển, nhiệm vụ của chúng ta là
sống hôm nay. phải gắng phấn đấu học tập, lao động để phục vụ, xây dựng đất nước
vững mạnh đi lên: “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Mỗi
người với khả năng của mình, hãy cố gắng đóng góp những những
“mùa xuân nho nhỏ” của mình cho đất nước, để đưa quê hương ngày
càng giàu đẹp hơn.
- Cống hiến cho đất nước là nghĩa vụ và bổn phận của tất cả người
dân Việt Nam . Để là người sống có trách nhiệm với đất nước, chúng
ta phải sống có mục đích, ước mơ, lí tưởng. Đặc biệt, tuổi trẻ chúng
ta cần tránh xa những tệ nạn xã hội, biết sống một cách lành mạnh và
có trách nhiệm, hướng về nguồn cội, tổ tiên.
III. Kết bài Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” nói chung và hai khổ thơ trên nói
- Đánh giá chung riêng đã làm lay động tâm hồn chúng ta bởi chất nhạc vấn vương,
về đoạn thơ bởi tình yêu cuộc sống và nguyện ước chân thành, tha thiết của nhà
- Đoạn thơ khơi thơ. Đoạn thơ như một tâm niệm chân thành lời gửi gắm thiết tha của
gợi trong em Thanh Hải đã để lại cho đời. Chúng ta càng cảm thấy khâm phục,
những tình cảm, trân trọng khát vọng hòa nhập, dâng hiến của Thanh Hải bao nhiêu
trách nhiệm gì? thì bản thân chúng ta là là học sinh cần phải bồi đức, luyện tài để góp
Em học được bài phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng quê hương.
học gì? Đất nước ngày càng giàu mạnh và phát triển .

10
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
BÀI 2: VIẾNG LĂNG BÁC ( VIỄN PHƯƠNG)

ĐỀ 1: CẢM NHẬN CỦA EM VỀ HAI ĐOẠN THƠ SAU :


“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng


Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Em cần làm gì để xứng đáng với những công lao to lớn của Bác.

Bài tham khảo:

Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải
phóng miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Thơ Viễn Phương bình dị, đằm thắm
mang đậm tính cách Nam Bộ. Bài thơ “ Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài thơ
hay, xúc động trong dòng chảy thơ ca viết về Bác, đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng
người đọc bởi ý đẹp, lời hay. “Viếng lăng Bác” dường như đã nói lên được tấm lòng
thành kính và biết ơn vô hạn của nhà thơ cũng như đồng bào miền Nam đối với vị
lãnh tụ vĩ đại, người cha già kính yêu của dân tộc. Đặc biệt, những tình cảm ấy lại
mạnh mẽ và dạt dào nhất ở hai khổ thơ một và hai. ( Trích thơ)

Bài thơ được viết vào năm 1976, khi lăng Bác được khánh thành, Viễn Phương vinh
dự có mặt trong đoàn Đại biểu đại diện cho nhân dân Miền Nam vào viếng Bác. Xúc
động tận đáy lòng, ông đã viết lên bài thơ này. Hai khổ đầu của bài thơ như những nốt
nhạc du dương, nhẹ nhàng như tấm lòng tha thiết yêu mến của nhà thơ với Bác Hồ. Bằng
những ngôn từ ẩn dụ đặc sắc, từ ngữ bình dị mà giàu sức gợi cảm, câu thơ đã khơi gợi
trong lòng người đọc những rung động sâu sắc và đáng quý.

Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã bày tỏ cảm xúc của mình qua lời tự giới thiệu
như lời tâm tình nhẹ nhàng, “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.Đại từ nhân xưng
“con”, “Bác” là cách xưng hô ngọt ngào thân thương rất Nam Bộ, dường như nhà thơ
muốn thể hiện tình cảm yêu thương kính trọng của mình đối với Bác. Cách xưng hô nghe
vừa chân chất, mộc mạc lại vừa gần gũi thân tình. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc
động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách. “Con” ở đây cũng là cả miền
Nam, là tất cả tấm lòng của đồng bào Nam Bộ đang hướng về Bác, hướng về vị cha già
kính yêu của dân tộc với một niềm xúc động lớn lao. Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho
từ “viếng”một cách đầy tinh tế, Viễn Phương đã cố tình thay từ viếng bằng từ thăm để

11
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
giảm nhẹ nỗi đau thương mà vẫn không che giấu được nỗi xúc động của cảnh tử biệt sinh
li. Đây là cách nói giảm, nói tránh nhằm làm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát. Dường
như nhà thơ muốn nói với người đọc rằng dù Bác đã mãi mãi ra đi nhưng hình ảnh của
Người vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc.

Và với một cảm xúc tiếc thương đang dâng trào ấy, Viễn Phương dường như trở thành
một người con từ chiến trường miền Nam cùng bao nỗi xúc động sau bao năm mong mỏi
bây giờ mới được ra thăm người cha kính yêu của mình. Hình ảnh đầu tiên mà tác giả
thấy được và là một dấu ấn đậm nét của Việt Nam ta, là hàng tre xanh quanh lăng Bác.
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Có lẽ hình ảnh đầu tiên nhà thơ bắt gặp qua màn sương mờ buổi sớm chính là bóng dáng
quen thuộc của làng quê, nhưng trong đó cũng là một hàng tre bát ngát xanh tươi trải
rộng bên lăng như những hàng quân canh giữ cho giấc ngủ yên bình của Bác. Bằng bút
pháp tả thực, tác giả đã giúp ta hình dung một hiện thực trong màu sương trắng mờ ảo,
cảnh quan quanh lăng Bác hiện ra thật lung linh mà cũng vô cùng thú vị. Hình ảnh “hàng
tre trong sương” đã khiến câu thơ vừa thực vừa ảo.

Hàng tre xanh mộc mạc và bình dị của quê hương được nhà thơ nhấn mạnh qua
câu từ “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”.Từ cảm thán “Ôi” bộc lộ cảm xúc trào
dâng khi bắt gặp hình ảnh thân thiết của quê nhà. Từ gợi tả “xanh xanh” đảo ra phía trước
như muốn nhấn mạnh sức sống bền bỉ của quê hương, dân tộc. Nhờ phép dùng điệp ngữ
ấy, hàng tre hiện lên vẻ đẹp đẽ vô cùng rõ nét. Và sau cùng, hình ảnh hàng tre còn là một
biểu tượng con người, dân tộc Việt Nam kiên trung bất khuất. Thành ngữ “bão táp mưa
sa”nhằm chỉ những khó khăn thử thách của lịch sử dân tộc Việt Nam. Dáng “đứng thẳng
hàng” là tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục của
một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng vô cùng mạnh mẽ. Đây là một ẩn dụ mang tính khẳng định
tinh thần hiên ngang bất khuất, sức sống bền bỉ của dân tộc.

Nếu như ở khổ thơ đầu nhà thơ bộc lộ cảm xúc khi đứng trước cảnh vật ngoài lăng,
ấn tượng sâu sắc về hàng tre trước lăng thì đến khổ hai nhà thơ tiếp tục thể hiện những
xúc cảm của mình trước những đoàn người vào lăng viếng Bác và bộc lộ tình cảm thành
kính, biết ơn của nhà thơ với Bác.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật điệp ngữ, hai hình ảnh mặt trời sóng đôi nhau xuất
12
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
hiện. Mặt trời trên lăng là “mặt trời” của thiên nhiên, vũ trụ ấm áp, rực rỡ chiếu sáng,
mang lại nguồn sống cho muôn vật muôn loài trên trái đất. Còn“mặt trời trong lăng” là
hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác Hồ. Thực ra, việc ví Bác với mặt trời không phải là tứ thơ
mới, trước Viễn Phương đã có rất nhiều nhà thơ đã ví Bác với mặt trời. Tố Hữu đã từng
có ý thơ:
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà Đế quốc là loại dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người...
Nhưng cái mới mẻ của Viễn Phương là đã kết hợp ẩn dụ với nghệ thuật nhân hóa.
Mặt trời của tự nhiên vốn đã đẹp, vốn đã rực rỡ chói lóa, ấy vậy mà vẫn phải ngưỡng mộ
trước vẻ đẹp tài năng và nhân cách của Hồ Chí Minh. Với việc ví Bác với mặt trời, Viễn
Phương vừa ca ngợi được sự vĩ đại của Bác vừa nhấn mạnh được tư tưởng ngời sáng của
Người, lại vừa thể hiện được lòng thành kính của nhân dân, của nhà thơ đối với Bác Hồ.
Cặp câu thơ thứ hai nhà thơ miêu tả:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Nhịp thơ chậm chậm như bước chân đi lặng lẽ. Đoàn người vào lăng viếng Bác nối
nhau thành “dòng” không dứt. Thông qua nghệ thuật ẩn dụ dòng người bất tận kia trở
thành “tràng hoa” dâng lên vị cha già dân tộc. Tràng hoa là hình ảnh ẩn dụ những
người con từ khắp miền đất nước về đây viếng Bác giống như những bông hoa trong
vườn được Bác ươm trồng, chăm sóc nảy nở rộ ngát hương rồi về đây tụ hội kính dâng
lên Bác. Điệp ngữ “ngày ngày” được nhắc lại hai lần, vừa có ý nhấn mạnh, vừa có ý so
sánh. Giống như “mặt trời đi qua trên lăng”, tình cảm của nhân dân với Bác cũng vĩnh
hằng như quy luật vận hành của vũ trụ. Hơn thế nữa, niềm thương nhớ Bác được Viễn
Phương diễn tả qua một hình ảnh xúc động “đi trong thương nhớ”. Thương nhớ từ lòng
người, nhuốm phủ lên tất cả để làm thành không gian thương nhớ. Hóa ra niềm tôn kính
Bác đâu chỉ của riêng nhà thơ. Niềm tôn kính Bác là của chung dân tộc. Tình cảm ấy
không vô hình, cụ thể bao trùm lên trong không gian, thời gian vô tận “ngày ngày”.
Đặc biệt, hình ảnh “bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ thật đẹp mang ý
nghĩa tượng trưng vì “mùa xuân” không chỉ gợi tuổi mà còn gợi đến sự bất tử và khẳng
định sức cống hiến không mệt mỏi, thanh xuân tươi trẻ mãi của Bác Hồ cho đất nước,
nhân dân. “bảy mươi chín mùa xuân”, Bác ra đi khi vừa tròn 79 tuổi - 79 năm -79 mùa
xuân Bác đã cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp của dân tộc mà không giành một chút riêng
tư về mình.
Từng câu thơ trong bài đều có giọng điệu trang trọng và tha thiết, gợi lên cho
người đọc nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ bình dị mà cô đúc. Bài thơ
“Viếng lăng Bác” đã thật sự thành công khi đã thể hiện được tâm trạng lưu luyến, xúc
động và lòng thành kính biết ơn sâu sắc của tác giả khi vào lăng viếng Bác một cách
chân thực nhất. Đó là tình cảm thành kính thiêng liêng của người con Nam Bộ đối với vị
cha già dân tộc.
Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã
bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra
13
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
miền Bắc viếng lăng Bác, cũng như nói lên được nỗi lòng của bao người con Việt Nam
khi Bác ra đi, qua đó thấy được vị trí của Bác Hồ trong lòng dân quan trọng như thế
nào. Từ bài thơ này, em cảm thấy mỗi tuổi đời của Bác là một mùa xuân tươi đẹp dâng
hiến cho Tổ quốc. Và giờ đây, Bác chính là mùa xuân còn dòng người là những đóa hoa
tươi thắm. Hoa nở giữa mùa xuân, một hình ảnh đẹp đẽ, ý nghĩa biết bao! Em xin tự dặn
với lòng sẽ cố gắng chăm ngoan ra sức học tập, rèn luyện tốt nhân cách đạo đức, mai
sau góp công sức nhỏ bé của mình vào việc xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước, đền
đáp phần nào công lao vĩ đại của Bác.
Đề 2: Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên


Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Mai về miền Nam thường trào nước mắt


Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiến chốn này

(Trích Viếng lăng Bác, Viễn Phương, Ngữ văn 9, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam,
2015, tr. 58-59)

Bài tham khảo:

Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải
phóng miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Thơ Viễn Phương bình dị, đằm thắm
mang đậm tính cách Nam Bộ. Bài thơ “ Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài thơ
hay, xúc động trong dòng chảy thơ ca viết về Bác, đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng
người đọc bởi ý đẹp, lời hay. Đặc biệt hai khổ thơ cuối thể hiện sâu sắc dòng cảm xúc của
nhà thơ khi vào trong lăng và tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác :
( Trích thơ) .

Bài thơ Viếng lăng Bác được viết vào tháng 4 năm 1976 khi đất nước vừa thống nhất
được một năm, lăng Bác vừa khánh thành, nhà thơ Viễn Phương vinh dự có mặt trong
đoàn cán bộ chiến sĩ miền nam ra bắc viếng Bác. Xúc động, nghẹn ngào, hạnh phúc trào
dâng ông đã viết bài thơ trong những giây phút lịch sử đó.

Bài thơ là dòng chảy cảm xúc theo chân nhà thơ trong hành trình từ ngoài đi vào lăng
viếng Bác. Với giọng thơ vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, tự hào kết hợp với
hình ảnh thơ sáng tạo, vừa thực vừa giàu tính biểu tượng, khổ thơ thứ ba là tiếng lòng của

14
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Viễn Phương khi vào trong lăng, đứng trước di hài Bác, bao tình cảm nhớ thương chất
chứa bao lâu bây giờ đã vỡ òa. Chính vì thế cho nên khi gặp hình bóng của Người thì trào
dâng thổn thức. Hình ảnh Bác nằm yên trong lăng được diễn tả một cách xúc động qua
những dòng thơ ở khổ thứ ba này:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên


Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Câu thơ mở ra một không khí trang nghiêm, thanh tĩnh trong lăng, nhà thơ cảm
nhận Bác đang ngủ - một “giấc ngủ bình yên”, cách nói giảm nói tránh, giảm bớt sự đau
thương, mất mát của cả dân tộc khi Bác đã ra đi. Đồng thời cho thấy giấc ngủ nhẹ nhàng,
bình yên, thanh thản của Bác trong giấc ngủ ngàn thu. Bởi cả cuộc đời của Bác chưa đêm
nào Người có một giấc ngủ trọn vẹn, Người luôn trằn trọc, băn khăn vì vận mệnh đất
nước.
Hình ảnh vầng trăng trong câu thơ “Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền” là một
hình ảnh đầy chất thơ, giàu sức gợi. Đây là hình ảnh ẩn dụ gợi ta liên tưởng đến tâm hồn
cao đẹp, sáng trong gợi ta nhớ đến những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Bác.
Người ngắm trăng soi ngoài của sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Qua những vần thơ về trăng của Bác, chúng ta thấy tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu
cuộc sống, chất nghệ sĩ trong con người Hồ Chí Minh. Cùng với mặt trời, hình ảnh vầng
trăng đã hoàn thiện bức chân dung Hồ Chí Minh trong tâm khảm mỗi người: chói lóa,
rực rỡ, trong sáng, thanh cao, hiền lương, thương mến. “Vầng trăng” tỏa chiếu giấc ngủ
của Người thật phù hợp và có ý nghĩa. Nhờ đó, người đọc cảm nhận đầy đủ hơn, xúc
động hơn về “giấc ngủ” đẹp đẽ, thanh cao của một con người đã bao đêm không ngủ,
đấu tranh và hi sinh quên mình cho dân tộc, nhân loại. Trong khung cảnh bình yên đến
tưởng như ngưng kết cả không gian, thời gian, tâm trạng và cảm xúc nhà thơ chuyển
sang niềm xót xa, đau đớn, tiếc nuối.
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Hình ảnh "trời xanh" là hình ảnh của thiên nhiên tồn tại mãi mãi, vĩnh hằng, là hình
ảnh ẩn dụ khẳng định Bác là trời xanh, cũng giống như Bác là mùa xuân, là mặt trời…
Viễn Phương dùng hình ảnh ẩn dụ, so sánh Bác với bao nhiêu hình ảnh kì vĩ, lớn lao là
để khẳng định cái vô cùng cao cả và sức sống vĩnh hằng của Người “Bác sống như trời
đất của ta…”. Bác còn mãi với non sông, đất nước như trời xanh. Người hóa thân vào
thiên nhiên mây núi để trở thành hồn thiêng dân tộc.“Vẫn biết” là đã nhận thức được
như thế nhưng lí trí không điều khiển được cảm xúc, tình cảm xót thương không chấp
nhận sự mất mát, ra đi mãi mãi của Người. Nỗi đau được nhà thơ thể hiện thông qua
nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác:
Mà sao nghe nhói ở trong tim!

15
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
Cặp quan hệ từ "Vẫn ... mà" kết hợp với dấu chấm than ở cuối khổ thơ diễn tả sự mâu
thuẫn: cảm giác nghe nhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi.
Giữa tình cảm và lý trí có sự mâu thuẫn. Và con người đã không kìm nén được khoảnh
khắc yếu lòng. “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột, quặn thắt.
Nỗi đau tinh thần được cụ thể hóa bằng nỗi đau thể xác. Đây chính là cảm xúc chân
thành, sự rung động mãnh liệt chân của Viễn Phương được bộc lộ trực tiếp khi đứng
trước di hài của Bác. Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót.
Trong tâm hồn dân tộc, Bác còn sống mãi nhưng thực tế chúng ta đã vĩnh biệt Người - vị
lãnh tụ vĩ đại, người cha già kính yêu. Đó là mất mát lớn lao không gì bù đắp được!
Mạch cảm xúc từ thành kính chuyển sang tiếc thương ngậm ngùi, câu thơ đọc lên như
một tiếng khóc đến nghẹn ngào, để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.

Bài thơ kết thúc trong tình cảm thương nhớ và lưu luyến không muốn rời xa của
Viễn Phương với Bác. Đây cũng là dòng cảm xúc được đẩy tới mức cao trào nhất.
Mai về miền Nam thương trào nước mắt.
Nghĩ đến lúc phải ra về, phải trở lại miền nam, phải xa Bác, nhà thơ rưng rưng niềm
xúc động. Từ ngữ thời gian "Mai" đi liền với địa danh "miền Nam" gợi sự chia xa, gợi
khoảng cách, gợi cả tấm lòng, tình cảm của những người con miền Nam. Thương trào
nước mắt là cảm xúc bộc lộ trực tiếp, là sự bịn rịn, lưu luyến nhớ thương không muốn rời
xa lăng Bác. Chữ “thương” giản dị mà xúc động. Niềm thương không chỉ là cảm xúc
dâng ngập trong tâm hồn mà trào lên thành “nước mắt” phải chăng vì cảm thông được
niềm ao ước bấy lâu về một ngày thống nhất vẫn nặng lòng Bác lúc ra đi; thương vì Bác
chưa thỏa ước nguyện thấy nhân dân được hưởng sự sung sướng, hạnh phúc khi Bắc
Nam sum họp một nhà. nhà thơ không cầm lòng được bởi chưa có ngày: “Đón Bác vào
thăm thấy Bác cười”.
Trong giây phút ngẹn ngào, Viễn Phương bộc lộ tấm lòng kính yêu, ước nguyện
chân thành đối với Bác.
‘’Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre chung hiếu chốn này.’’
- Điệp ngữ muốn làm được nhắc lại ba lần để nhấn mạnh mong ước chân thành, tự
nguyện, giản dị, cao đẹp của Viễn Phương. Đồng thời tạo nhạc điệu ngân dài, vang mãi
trong khổ thơ, diễn tả tình cảm lưu luyến không rời của Viễn Phương với Bác.
Hệ thống hình ảnh giàu sức gợi: "con chim", "đóa hoa", "cây tre" mang nhiều ý
nghĩa. Lớp nghĩa thực, tác giả muốn góp cuộc đời mình để làm đẹp cho cảnh quan quanh
lăng, ao ước được hóa thân thành con chim để cất tiếng hót làm vui lăng Bác; làm đóa
hoa để đem lại sắc hương, tô điểm cho vườn hoa quanh lăng. Đặc biệt là ước nguyện
"muốn làm cây tre trung hiếu" để nhập vào hàng tre bát ngát, toả bóng mát cho lăng. Lớp
nghĩa ẩn dụ: khát vọng ở lại để canh giấc ngủ thiên thu cho Người; bày tỏ niềm biết ơn
sâu sắc dành cho vị cha già của dân tộc; góp phần làm nên vẻ đẹp bất khuất, hiên ngang,
trung hiếu của tâm hồn Việt Nam.

16
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
Hình ảnh “cây tre trung hiếu” gợi đến người con trung kiên, hiếu nghĩa, một lòng
vì nước vì dân. Khổ thơ do đó không chỉ bộc lộ tình cảm thương nhớ, lưu luyến mà còn
biểu đạt một cách xúc động tình cảm thủy chung, son sắt của nhà thơ, của nhân dân miền
Nam, nhân dân cả nước với Bác Hồ vô vàn kính yêu.
Như vậy, với thể thơ tự do, nhiều hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa đẹp. Nhịp thơ linh hoạt,
giọng thơ vừa trang trọng, thành kính, vừa tha thiết sâu lắng, vừa đau xót tự hào, ngôn
ngữ thơ bình dị mà cô đúc, bài thơ nói chung và hai khổ thơ cuối nói riêng đã diễn tả được
một cách sâu sắc nỗi niềm xúc động, nghẹn ngào của nhà thơ khi vào trong lăng, đứng
trước di hài Bác và tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác . Tình cảm ấy
không chỉ là của riêng nhà thơ mà còn là tình cảm chung của bao người dân dành cho
Bác kính yêu.
Tóm lại, bằng tất cả tình cảm chân thành, Viễn Phương đã làm “Viếng lăng Bác” trở
thành một bản tình ca bất tận để lại ấn tượng sâu sắc cho bao người dân Việt Nam. Đoạn
thơ nói riêng và bài thơ nói chung hay không chỉ vì các nghệ thuật độc đáo mà quan trọng
hơn, đó là sự kết hợp nhuần nhị giữa cái “tâm” của một nguời con yêu nước và cái “tài”
của người nghệ sĩ. Rất nhiều năm tháng đã đi qua nhưng mỗi thế hệ đọc “Viếng lăng
Bác” đều đón nhận vào tâm hồn mình một ánh sáng tư tưởng, tình cảm của nhà thơ và
đồng thời cũng thấm nhuần vẻ đẹp trong suốt, lấp lánh toả ra từ chính cuộc đời, trí tuệ và
trái tim Bác Hồ.

BÀI 3 :

SANG THU ( HỮU THỈNH )


ĐỀ 1: CẢM NHẬN CỦA EM VỀ HAI KHỔ THƠ SAU TRONG BÀI “SANG
THU” - HỮU THỈNH (*)
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu."
(Sang thu, Hữu Thỉnh, Ngữ văn 9, tập 2)
ĐỀ 2 : CẢM NHẬN VỀ BỨC TRANH THIÊN NHIÊN TRONG KHOẢNH KHẮC
GIAO MÙA TỪ CUỐI HẠ SANG ĐẦU THU TRONG BÀI THƠ “ SANG THU”
CỦA HỮU THỈNH ( 2 KHỔ ĐẦU )
Dàn ý Bài làm
I. Mở bài Cách 1 :
- Dẫn dắt: giới Nếu mùa xuân là mùa tụ hội của những bàn tay nghệ sĩ tài hoa thì

17
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

thiệu về ý nghĩamùa thu bước vào trong thơ ca cũng tự nhiên và gần gũi. Trước đây
của mùa thu với Nguyễn Khuyến nổi tiếng với chùm thơ thu: “Thu điếu”,“Thu
thơ ca. vịnh”,“Thu ẩm”, sau này Xuân Diệu có “Đây mùa thu tới”. Bằng một
- Giới thiệu bàicách nhỏ nhẹ, khiêm nhường, Hữu Thỉnh cũng góp vào cho mùa thu
thơ “ Sang thu”,đất nước một góc quê hương “Sang thu”. Cùng đến với hai khổ thơ
Hữu Thỉnh đầu của “ Sang thu” để cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong
- Giới thiệu nộikhoảnh khắc giao mùa từ cuối hạ sang đầu thu : ( Trích thơ)
dung khổ 1,2: Cách 2 :
bức tranh thiên “Thơ là thu của lòng người, thu là thơ của đất trời.” Mùa thu từ bao
nhiên tronglâu nay đã trở thành suối nguồn vô tận, khơi nguồn cảm hứng cho thi
khoảnh khắc ca nhạc họa. Những cảnh đẹp thiên nhiên tươi sáng, trời thu trong
giao mùa từ xanh, khí thu dịu mát, cảnh thu trong sáng đã làm mê luyến trái tim
cuối hạ sang bao thi sĩ. Nhỏ nhẹ và khiêm nhường Hữu Thỉnh góp vào cho bản hòa
đầu thu. ca của đất trời một góc thiên nhiên “Sang thu” để cùng tôn vinh những
mùa trái, mùa hương của đất trời, xứ sở. Cùng đến với hai khổ thơ
đầu của bài thơ để cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong khoảnh
khắc giao mùa từ cuối hạ sang đầu thu : ( Trích thơ)
II. Thân bài -Hữu Thỉnh là gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ Việt Nam,
* Khái quát trưởng thành trong những năm đầu kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông
Giới thiệu tác nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng, thấm đượm những suy tư, triết lí với
giả và nêu hoàn nhiều vần thơ thu mang nhiều cảm xúc, bâng khuâng , vấn vương
cảnh ra đời bài trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Và “ Sang thu”
thơ. là tác phẩm tiêu biểu, thành công nhất của ông.
- Bài thơ được sáng tác năm 1977 khi đất nước mới giành được độc lập
2 năm. Đây cũng là một trong những mùa thu và những người lính như
Hữu Thỉnh lần đầu tiên được cảm nhận vẻ đẹp của nó trong không khí
hòa bình. Bằng tâm hồn nhạy cảm, bằng tình yêu mùa thu, quê hương
nhà thơ đã mở rộng lòng mình để đón nhận giây phút chuyển mình của
cảnh vật, đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Đồng thời bộc lộ những
chiêm nghiệm, những suy ngẫm về con người, về cuộc đời vốn đầy
dẫy những khó khăn thử thách. Hai khổ thơ đầu của bài thơ là bức
tranh thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa từ cuối hạ sang
đầu thu. ( Trích thơ)
* Phân tích
L Đ1: Khổ thơ Mỗi nhà thơ khi viết về mùa thu thường có một tín hiệu báo thu của
đầu: Sự ngỡ riêng mình. Đó có thể là chiếc lá vàng rơi hay hoa cúc nở rộ. Có người
ngàng, bất ngờ lại cảm nhận thu về trong tiết trời trong xanh hay mùi hương cốm mới
trước những thoảng qua trong gió. Mùa thu cũng là khoảng ngưng kì diệu của đất
tín hiệu báo trời, đặc biệt là thời khắc giao mùa chớm thu . Nhà thơ HT lại có tín
thu sang hết hiệu báo thu rất riêng của mình. Giữa cái mênh mang của trời đất, tác
sức độc đáo giả lắng nghe thu về trong sự ngỡ ngàng, bất ngờ trước tín hiệu báo
thu sang hết sức độc đáo:
“Bỗng nhận ra hương ổi

18
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Phả vào trong gió se


Sương chùng chình qua ngõ
- Tín hiệu đầu Hình như thu đã về”
tiên: bằng khứu Trước hết, bằng khứu giác , tác giả đã nhận ra thu về trong “ hương
giác “hương ổi” ổi” phảng phất trong “ gió se”. Có thể thấy “ hương ổi” là mùi hương
rất đặc trưng của ĐB Bắc Bộ mỗi độ thu về . Mùa thu với người dân
xứ Bắc là mùi ổi chín. Hơn nữa , với nhà thơ và cả một thế hệ thơ Hữu
Thỉnh hương thu giản dị , mộc mạc , dân dã ấy dễ gợi nhắc đến kỉ
niệm tuổi thơ. Hữu Thỉnh đã từng nói: “ Với tôi mùi hương đó gợi nhớ
đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng , với một dòng sông
thanh bình, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu no cỏ, giỡn đùa
nhau và những đưa trẻ ẩn hiện trong vườn ổi chín ven sông”. Với
- "Hương ổi" đi những kỉ niệm đẹp ấy nên HT đã có một cảm nhận rất tinh tế về
liền với động từ hương ổi.
"phả" -> cảm "Hương ổi" đi liền với động từ "phả" giàu sức gợi cho thấy nhà thơ
nhận bằng xúc đã sử dụng nhiều giác quan, cả khứu giác và xúc giác để cảm nhận
giác hương thu ấy. HT không chỉ cho ta thấy hương ổi đang ở độ chín đậm
nhất, nồng nàn nhất mà còn diễn tả hương thơm ấy như sánh lại và
đậm đặc hơn, như quện lại và sánh trong gió se và lan tỏa đến độ
khiến cả không gian vườn ngào ngạt và nồng . Để rồi ta nhận ra đó là
cảm nhận tinh tế của một người sống gắn bó với quê hương. Nhờ
những trải nghiệm thú vị ấy, nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu
mùa thu dân dã mà thi vị. Ông đã phát hiện một nét đẹp đáng yêu của
mùa thu thôn quê vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Sau hương ổi, , nhà thơ tiếp tục cảm nhận thu sang bằng thị giác
với “sương thu” – một tín hiệu để nhà thơ cảm nhận được bước chân
Từ láy, phép thu đã chạm ngõ nơi góc vườn:
nhân hóa “ “Sương chùng chình qua ngõ
chùng chình” Hình như thu đã về”
 cảm nhận Từ láy “ chùng chình” giàu giá trị tạo hình cùng phép nhân hóa “
bằng thị qua ngõ” đã diễn tả đầy tinh tế làn sương thu mỏng manh, nhẹ
giác nhàng đang thong thả trôi giăng, đang cố ý bước đi chậm lại qua
đường làng, ngõ xóm. Hay sự “chùng chình” ấy cũng chính là cảm
giác bâng khuâng, lưu luyến của nhà thơ khi thu tới. Ngay cả cái
“ngõ” mà sương đang ngập ngừng đi qua ấy cũng là một ẩn dụ rất
thơ, rất tinh tế. Nó vừa là cái ngõ quê trong thực tại, lại vừa là cửa
- Cụm từ “bỗng ngõ thời gian thông giữa hai mùa. Ở đó có hương trong gió, có gió
nhận ra” và “ trong sương, những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu đều hiện diện.
hình như” Với hình ảnh này, mùa thu đã hiện về thật yên ả, thật êm nhẹ và lảng
diễn tả trạng bảng, thơ mộng mờ ảo.
thái đầy bâng Trước tín hiệu báo thu về, tâm hồn nhà thơ rộn ràng những cảm xúc
khuâng, mơ hồ, rất lạ , đó là tâm thế đón thu của tác giả được thể hiện rất rõ trong hai
ngờ ngợ chưa từ “bỗng” và ‘ hình như” . Nếu từ “ bỗng” ở đầu khổ thơ đã diễn tả

19
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

dám tin. trạng thái đầy bất ngờ, ngạc nhiên đến giật mình thì từ “ hình như’ ở
cuối khổ thơ lại diễn tả trạng thái đầy bâng khuâng, mơ hồ, ngờ ngợ
chưa dám tin. Có thể thấy sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên bởi mùa thu
đến một cách bất chợt , tín hiệu thu hiện hữu một cách rất tinh tế mà
không phải ai, không phải lúc nào cũng có thể nhận ra được.
 Với giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng ; ngôn ngữ, hình ảnh giản dị,
tự nhiên nhưng giàu sức gợi, khổ thơ đầu là những cảm nhận
tinh tế của nhà thơ về thời khắc giao mùa từ hạ sang thu qua
những tín hiệu đầu tiên khó nắm bắt. Tâm hồn nhạy cảm cùng
tình yêu vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương đất nước đã giúp
nhà thơ ghi lại những biến chuyển tinh tế của không gian và
thời gian phút giao mùa với tín hiệu thu về nhẹ nhàng, thơ
mộng, bâng khuâng.
L Đ 2: Khổ 2
Những cảm
nhận của tác
giả về sự biến
chuyển của đất
trời tạo vật từ
cuối hạ sang
đầu thu và suy Nếu khổ thơ thứ nhất là sự bất chợt ngỡ ngàng trước tín hiệu báo thu
tư của tác giả về thì khổ thơ thứ hai là những cảm nhận của tác giả về sự biến
về những biến chuyển của đất trời tạo vật từ cuối hạ sang đầu thu và suy tư của
chuyển của đất tác giả về những biến chuyển của đất nước , con người ở thời khắc
nước , con giao thời.
người ở thời
khắc giao thời
a. Những cảm *Trước hết là những cảm nhận của tác giả về sự biến chuyển của
nhận của tác đất trời tạo vật từ cuối hạ sang đầu thu. So với khổ thơ đầu , không
giả về sự biến gian thu đã có sự thay đổi theo điểm nhìn của tác giả. Nếu ở khổ đầu là
chuyển của đất góc vườn, ngõ xóm thì sang khổ thứ hai không gian được mở ra từ
trời tạo vật từ dòng sông đến bầu trời. Nhà thơ đã cảm nhận được những biến
cuối hạ sang chuyển rất tinh tế của tạo vật từ mặt đất đến bầu trời, từ gần đến xa,
đầu thu. từ thấp đến cao:
- Hai câu thơ “ Sông được lúc dềnh dàng
đầu có cấu trúc Chim bắt đầu vội vã
đối tự nhiên, Có đám mây mùa hạ
chặt chẽ: Vắt nửa mình sang thu."
+ Hình ảnh Nếu ở khổ 1 mùa thu mới chỉ là sự đoán định , ít nhiều bỡ ngỡ thì ở
"dòng sông" khổ thơ này , tác giả đã khẳng định thu đến thật rồi. Thu đã để lại
được nhân hóa dấu ấn, sự tác động của nó lên tạo vật thiên nhiên. Trước hết là sự
qua từ láy "dềnh biến chuyển của dòng sông và cánh chim:
dàng" “ Sông được lúc dềnh dàng

20
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Chim bắt đầu vội vã”


+ Hình ảnh Hai câu thơ là hai sự vận động trái chiều của tạo vật được diễn tả
những chú bằng cấu trúc đối tự nhiên, chặt chẽ: “sông” – “chim”; "dềnh dàng" -
"chim" được "vội vã". Mùa thu về Sông được lúc dềnh dàng, còn cánh chim lại “
nhân hóa qua từ vội vã” . Từ láy “dềnh dàng” mang đầy giá trị tạo hình, cùng với sự
láy "vội vã khéo léo và tinh tế khi sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, HT đã miêu
tả bức tranh giao mùa từ hạ sang thu có hình, có hồn, gợi cảm và
sống động . Dòng sông lúc sang thu không còn cuộn chảy dữ dội như
những ngày hè mưa lũ mà êm ả dềnh dàng như đang lắng lại, thong
thả, hiền hòa, lững lờ trôi. Ngược lại khi thu về , những cánh chim
- Nghệ thuật vội vã, hối hả bay về phương Nam tránh rét. Trong cái yên ả, tĩnh
nhân hóa qua lặng của mùa thu, nhà thơ vẫn lắng nghe được những động cựa, xôn
cụm từ “ vắt xao của tạo vật. Hai nhịp vận động : một dềnh dàng- một vội vã;
nửa mình” một nhanh- một chậm; một tĩnh- một động đã hòa tấu với nhau để
tạo nên bản giao hưởng của mùa thu.
Trong sự biến chuyển của đất trời, sự cảm nhận tinh tế nhất của
HT có lẽ dành cho đám mây mùa hạ khi thu về :
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu."
Đây có thể nói là hình ảnh tiêu biểu điển hình của tạo vật thiên nhiên
trong khoảnh khắc giao mùa. Bằng sự liên tưởng , tưởng tượng đầy
bất ngờ , kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, HT đã sáng tạo nên một
hình ảnh thơ độc đáo đặc sắc . Cách nói “ Vắt nửa mình sang thu."
khiến người đọc hình dung , tưởng tượng đám mây như một nhịp cầu,
một dải lụa nối liền hai bờ hạ- thu. Đó là một dải mây mềm mại ,
uyển chuyển đã tô đậm cho bức tranh thu đầy thơ mộng, lãng mạn.
Đám mây vừa xốn xang bước vào mùa thu lại vừa bịn rịn, lưu luyến
khi chia tay mùa hạ. Mùa thu đã đến thật rồi, mùa thu mang theo
b. Tác giả suy những gì tinh khôi, nhẹ nhàng mà dịu êm nhất!
tư về những về *Cùng với sự biến chuyển của tạo vật sông , nước, mây, trời
những biến trong thời khắc giao mùa, nhà thơ HT còn suy tư về những về
chuyển của đất những biến chuyển của đất nước , con người ở thời khắc giao thời
nước , con
người ở thời Trước hết là những chuyển biến trong nhịp sống của con người ở
khắc giao thời thời khắc chuyển giao từ chiến tranh sang hòa bình. “ Dềnh dàng”
và “ vội vã” không chỉ là nhịp vận động của dòng sông và cánh chim
mà còn là nhịp sống của đất nước lúc bấy giờ . Đất nước lúc này sống
trong hòa bình, yên ả hơn nhưng cũng vội vàng và hối hả hơn trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Không những thế hai từ “ được lúc’ và “ bắt đầu” như một tín hiệu
cho thấy tác giả đang suy tư về những đổi thay trong lối sống của
thế hệ mình. Có những người trong chiến tranh từng hăng hái xông
pha trận mạc, giờ đây hòa bình về đã tự cho mình cái quyền chậm trễ ,

21
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

nghỉ ngơi, thong dong. Nhưng bên cạnh đó cũng có người thấy cần
phải vội vã, gấp gáp, khẩn trương hơn để bắt nhịp cuộc sống mới.
Với hình ảnh “đám mây mùa hạ” đã gợi cho tác giả nhớ về những
năm tháng tuổi trẻ đầy say mê, hoài niệm với những ước mơ nồng
nhiệt và rạo rực , những khát khao cháy bỏng và đam mê của một
thời thanh xuân.... Có những ước mơ đã trở thành hiện thực, những có
những ước mơ vẫn còn dang dở. Khi viết những câu thơ này, HT đang
nhớ về những người đồng dội của mình đã hi sinh và nằm lại khi
những ước mơ còn dang dở.
* Đánh giá  Bằng việc sử dụng một cách hiệu quả đối ngẫu của thơ Đường,
ngôn ngữ thơ cô đọng , hàm súc kết hợp với biện pháp nhân
- Đánh giá hóa, ẩn dụ mang đầy ý nghĩa, cùng với sự cảm nhận tinh tế của
chung về đoạn nhà thơ, khổ thơ đã thể hiện những biến chuyển âm thầm của
thơ thiên nhiên, đất trời, tạo vật trong khoảnh khắc giao mùa từ
cuối hạ sang đầu thu thật thanh bình, thơ mộng, êm ả và đầy
lãng mạn , đồng thời lắng nghe và suy tư về đất nước và con
người trong thời khắc giao thời.
III. Kết bài
- Đoạn thơ khơi Bằng hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm,
gợi trong em cùng thể thơ năm chữ, bài thơ “ Sang thu” nói chung và hai khổ thơ
những tình cảm, đầu nói riêng, Hữu Thỉnh đã mở ra cho ta một bức tranh thu vừa sống
trách nhiệm gì? động lại vừa nên thơ, đồng thời thể hiện cảm xúc ngỡ ngàng, bất ngờ
Em học được trước những tín hiệu báo thu sang, suy tư về những biến chuyển
bài học gì? của đất nước , con người ở thời khắc giao thời. Bài thơ đã đánh
thức tình cảm của mỗi người về tình yêu quê hương đất nước và suy
ngẫm về cuộc đời.
.

ĐỀ 2: CẢM NHẬN CỦA EM VỀ HAI KHỔ THƠ SAU TRONG BÀI “SANG
THU” - HỮU THỈNH (*)
“ Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.

Vẫn còn bao nhiêu nắng


Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi "
(Sang thu, Hữu Thỉnh, Ngữ văn 9, tập 2)
Đề 3: Có ý kiến cho rằng: “ Sang thu không chỉ là khúc giao mùa nhẹ nhàng, bâng
khuâng mà còn là lời thì thầm triết lý, sâu lắng”. Bằng cảm nahanj của em về hai khổ thơ
cuối , em hãy làm sáng tở ý kiến trên.

22
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Dàn ý Bài làm


I. Mở bài Cách 1 :
- Dẫn dắt: giới Nếu mùa xuân là mùa tụ hội của những bàn tay nghệ sĩ tài hoa thì
thiệu về ý nghĩamùa thu bước vào trong thơ ca cũng tự nhiên và gần gũi. Trước đây
của mùa thu với Nguyễn Khuyến nổi tiếng với chùm thơ thu: “Thu điếu”,“Thu
thơ ca. vịnh”,“Thu ẩm”, sau này Xuân Diệu có “Đây mùa thu tới”. Bằng một
- Giới thiệu bàicách nhỏ nhẹ, khiêm nhường, Hữu Thỉnh cũng góp vào cho mùa thu
thơ “ Sang thu”,đất nước một góc quê hương “Sang thu”. Cùng đến với hai khổ thơ
Hữu Thỉnh cuối của bài thơ để cảm nhận những biến chuyển của đất trời, tạo
- Giới thiệu nộivật, hiện tượng tự nhiên và những suy tư chiêm nghiệm của nhà
dung khổ 2,3: thơ trong thời khắc chuyển mùa (Hoặc “Sang thu” không chỉ là khúc
Những biến
giao mùa nhẹ nhàng, bâng khuâng mà còn là lời thì thầm triết lý, sâu
chuyển của đất lắng”): ( Trích thơ)
trời, tạo vật, Cách 2 :
hiện tượng tự “ Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời” ( Sóng Hồng).
nhiên và
“ Viên kim cương” ấy sẽ lấp lánh một màu sắc riêng biệt của cuộc đời,
những suy tư như cách mà Hữu Thỉnh đã chạm khắc tiếng thơ của mình vào thế
chiêm nghiệm giưới thi ca bốn mùa nhiều dư vị . Người thi sĩ ấy đứng trước thời
của nhà thơ điểm cuối cùng của tuổi tre đã không thổ lộ hết những tâm tư củ đời
trong thời khắc mình vào tiếng thơ khắc khoải. Và “ Sang thu” của HT là tiếng thơ như
chuyển mùa thế . Với dòng thơ sâu lắng và đầy chất trữ tình bài thơ là những tâm ự,
hoài niệm của HT khi đứng giữa khúc ca gaio mùa đầy rung động của
dất trời từ cuối hạ sang đầu thu . Cùng đến với hai khổ thơ cuối của bài
thơ để cảm nhận những biến chuyển của đất trời, tạo vật, hiện
tượng tự nhiên và những suy tư chiêm nghiệm của nhà thơ trong
thời khắc chuyển mùa ( Hoặc “Sang thu” không chỉ là khúc giao mùa
nhẹ nhàng, bâng khuâng mà còn là lời thì thầm triết lý, sâu lắng”) :
( Trích thơ)
II. Thân bài -Hữu Thỉnh là gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ Việt Nam,
* Khái quát trưởng thành trong những năm đầu kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông
Giới thiệu tác nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng, thấm đượm những suy tư, triết lí với
giả và nêu hoàn nhiều vần thơ thu mang nhiều cảm xúc, bâng khuâng , vấn vương
cảnh ra đời bài trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Và “ Sang thu”
thơ. là tác phẩm tiêu biểu, thành công nhất của ông.
- Bài thơ được sáng tác năm 1977 khi đất nước mới giành được độc lập
2 năm. Đây cũng là một trong những mùa thu và những người lính như
Hữu Thỉnh lần đầu tiên được cảm nhận vẻ đẹp của nó trong không khí
hòa bình. Bằng tâm hồn nhạy cảm, bằng tình yêu mùa thu, quê hương
nhà thơ đã mở rộng lòng mình để đón nhận giây phút chuyển mình của
cảnh vật, đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Đồng thời bộc lộ những
chiêm nghiệm, những suy ngẫm về con người, về cuộc đời vốn đầy
dẫy những khó khăn thử thách.

23
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Phân tích: Nếu khổ thơ thứ nhất là sự bất chợt ngỡ ngàng trước tín hiệu báo thu
Luận điểm về thì khổ thơ thứ hai là những cảm nhận của tác giả về sự biến
1( Khổ 2) chuyển của đất trời tạo vật từ cuối hạ sang đầu thu và suy tư của
Những cảm tác giả về những biến chuyển của đất nước , con người ở thời khắc
nhận của tác giao thời.( Sang thu” không chỉ là khúc giao mùa nhẹ nhàng, bâng
giả về sự biến khuâng)
chuyển của đất
trời tạo vật từ *Trước hết là những cảm nhận của tác giả về sự biến chuyển của
cuối hạ sang đất trời tạo vật từ cuối hạ sang đầu thu. So với khổ thơ đầu , không
đầu thu và suy gian thu đã có sự thay đổi theo điểm nhìn của tác giả. Nếu ở khổ đầu là
tư của tác giả góc vườn, ngõ xóm thì sang khổ thứ hai không gian được mở ra từ
về những biến dòng sông đến bầu trời. Nhà thơ đã cảm nhận được những biến
chuyển của đất chuyển rất tinh tế của tạo vật từ mặt đất đến bầu trời, từ gần đến xa,
nước , con từ thấp đến cao:
người ở thời “ Sông được lúc dềnh dàng
khắc giao thời. Chim bắt đầu vội vã
a. Những cảm Có đám mây mùa hạ
nhận của tác Vắt nửa mình sang thu."
giả về sự biến Nếu ở khổ 1 mùa thu mới chỉ là sự đoán định , ít nhiều bỡ ngỡ thì ở
chuyển của đất khổ thơ này , tác giả đã khẳng định thu đến thật rồi. Thu đã để lại
trời tạo vật từ dấu ấn, sự tác động của nó lên tạo vật thiên nhiên. Trước hết là sự
cuối hạ sang biến chuyển của dòng sông và cánh chim:
đầu thu. “ Sông được lúc dềnh dàng
- Hai câu thơ Chim bắt đầu vội vã”
đầu có cấu trúc Hai câu thơ là hai sự vận động trái chiều của tạo vật được diễn tả
đối tự nhiên, bằng cấu trúc đối tự nhiên, chặt chẽ: “sông” – “chim”; "dềnh dàng" -
chặt chẽ: "vội vã". Mùa thu về Sông được lúc dềnh dàng, còn cánh chim lại “
+ Hình ảnh vội vã” . Từ láy “dềnh dàng” mang đầy giá trị tạo hình, cùng với sự
"dòng sông" khéo léo và tinh tế khi sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, HT đã miêu
được nhân hóa tả bức tranh giao mùa từ hạ sang thu có hình, có hồn, gợi cảm và
qua từ láy "dềnh sống động . Dòng sông lúc sang thu không còn cuộn chảy dữ dội như
dàng" những ngày hè mưa lũ mà êm ả dềnh dàng như đang lắng lại, thong
thả, hiền hòa, lững lờ trôi. Ngược lại khi thu về , những cánh chim
+ Hình ảnh vội vã, hối hả bay về phương Nam tránh rét. Trong cái yên ả, tĩnh
những chú lặng của mùa thu, nhà thơ vẫn lắng nghe được những động cựa, xôn
"chim" được xao của tạo vật. Hai nhịp vận động : một dềnh dàng- một vội vã;
nhân hóa qua từ một nhanh- một chậm; một tĩnh- một động đã hòa tấu với nhau để
láy "vội vã tạo nên bản giao hưởng của mùa thu.
Trong sự biến chuyển của đất trời, sự cảm nhận tinh tế nhất của
HT có lẽ dành cho đám mây mùa hạ khi thu về :
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu."
- Nghệ thuật Đây có thể nói là hình ảnh tiêu biểu điển hình của tạo vật thiên nhiên
24
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

nhân hóa qua trong khoảnh khắc giao mùa. Bằng sự liên tưởng , tưởng tượng đầy
cụm từ “ vắt bất ngờ , kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, HT đã sáng tạo nên một
nửa mình” hình ảnh thơ độc đáo đặc sắc . Cách nói “ Vắt nửa mình sang thu."
khiến người đọc hình dung , tưởng tượng đám mây như một nhịp cầu,
một dải lụa nối liền hai bờ hạ- thu. Đó là một dải mây mềm mại ,
uyển chuyển đã tô đậm cho bức tranh thu đầy thơ mộng, lãng mạn.
Đám mây vừa xốn xang bước vào mùa thu lại vừa bịn rịn, lưu luyến
khi chia tay mùa hạ. Mùa thu đã đến thật rồi, mùa thu mang theo
b. Tác giả suy những gì tinh khôi, nhẹ nhàng mà dịu êm nhất!
tư về những về *Cùng với sự biến chuyển của tạo vật sông , nước, mây, trời
những biến trong thời khắc giao mùa, nhà thơ HT còn suy tư về những về
chuyển của đất những biến chuyển của đất nước , con người ở thời khắc giao thời
nước , con
người ở thời Trước hết là những chuyển biến trong nhịp sống của con người ở
khắc giao thời thời khắc chuyển giao từ chiến tranh sang hòa bình. “ Dềnh dàng”
và “ vội vã” không chỉ là nhịp vận động của dòng sông và cánh chim
mà còn là nhịp sống của đất nước lúc bấy giờ . Đất nước lúc này sống
trong hòa bình, yên ả hơn nhưng cũng vội vàng và hối hả hơn trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Không những thế hai từ “ được lúc’ và “ bắt đầu” như một tín hiệu
cho thấy tác giả đang suy tư về những đổi thay trong lối sống của
thế hệ mình. Có những người trong chiến tranh từng hăng hái xông
pha trận mạc, giờ đây hòa bình về đã tự cho mình cái quyền chậm trễ ,
nghỉ ngơi, thong dong. Nhưng bên cạnh đó cũng có người thấy cần
phải vội vã, gấp gáp, khẩn trương hơn để bắt nhịp cuộc sống mới.
Với hình ảnh “đám mây mùa hạ” đã gợi cho tác giả nhớ về những
năm tháng tuổi trẻ đầy say mê, hoài niệm với những ước mơ nồng
nhiệt và rạo rực , những khát khao cháy bỏng và đam mê của một
thời thanh xuân.... Có những ước mơ đã trở thành hiện thực, những có
những ước mơ vẫn còn dang dở. Khi viết những câu thơ này, HT đang
nhớ về những người đồng dội của mình đã hi sinh và nằm lại khi
những ước mơ còn dang dở.
 Bằng những hình ảnh cụ thể và giàu sức gợi mang ý nghĩa tượng
trưng, ngôn ngữ thơ cô đọng , hàm súc, nhà thơ không những
cảm nhận những chuyển biến của tạo vật, đất trời sang thu mà
còn lắng nghe những suy tư, đất nước con người khi chuyển từ
chiến tranh sang hòa bình.
Luận điểm Nếu như hai khổ thơ đầu nghiêng về mùa thu của đất trời thì đến khổ
2( Khổ cuối) thơ kết, tác giả lại hướng chúng ta về một mùa thu của lòng người
a.Hai câu đầu: với những trải nghiệm của chính bản thân mình :
Những biến “ Vẫn còn bao nhiêu nắng
chuyển của các Đã vơi dần cơn mưa
hiện tượng tự Sấm cũng bớt bất ngờ

25
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

nhiên trong Trên hàng cây đứng tuổi”


thời khắc Trước hết khổ thơ là những biến chuyển của các hiện tượng tự
chuyển giao nhiên trong thời khắc chuyển giao. Các tính từ “vẫn còn”, “vơi
dần” chỉ mức độ bớt dần, chỉ mức độ rằng mùa hạ đang nhạt dần,
mùa thu dần đậm nét hơn. “Nắng” là bình ảnh đặc trưng của mùa hạ,
Nghệ thuật đối diễn tả cụ thể sắc thái thiên nhiên nổi bật của nó. Giờ đây, vào khoảnh
qua hình ảnh khắc giao mùa, nắng cuối hạ dù vẫn còn nồng, còn sáng chói nhưng
"vẫn còn" >< cũng đã yếu dần, nhạt dần, bởi gió se đã đến. Cơn gió đổi mùa đã
"vơi dần" ; làm dịu đi cái gay gắt của thiên nhiên, khiến ánh nắng không còn chói
"nắng" >< chang, dữ dội, khiến con người khó chịu nữa.
"mưa" - Đối lập với “nắng” là “mưa”. Vào khoảnh khắc giao mùa này, mưa
- Những từ ngữ cũng đã ít đi. Nếu như cơn mưa mùa hạ chợt đến chợt đi thì giờ đây
chỉ mức độ, ước dường như đã hiền hòa hơn, “vơi” đi. Ở đây, tác giả đã sử dụng từ
lượng: "vẫn “vơi” có giá trị gợi tả sâu sắc. Nó giúp diễn tả rõ nét cái thưa dần, ít
còn" , "bao dần, hết dần của những cơn mưa rào bất ngờ, ào ạt, xối xả của mùa hạ.
nhiêu" , "vơi" , - Qua hai câu thơ, ta có thể cảm nhận được dường như mùa hạ vẫn
"bớt" còn đang vấn vương, níu kéo điều gì khi thời gian cứ trôi đi. Thế
nhưng không gì có thể ngăn lại được những bước chân trôi chảy của
hiện thực. Thời gian vẫn cứ tuần hoàn, và mùa hạ trôi đi không nhanh,
không chậm, làm con người ta xao xuyến, nuối tiếc theo.
- Phải yêu thiên nhiên, tha thiết với cuộc đời lắm thì những nhà thơ
ấy mới vấn vương, tiếc nuối thời gian trôi chảy. Mặc dù không trực
tiếp nói ra, thế nhưng ta vẫn cảm nhận được niềm yêu quý cuộc đời,
mong muốn sống từng phút từng giây trọn vẹn của thi sĩ Hữu Thỉnh.
Và chính nhờ những giây phút chuyển mình tinh tế của thiên nhiên,
cảm xúc ấy mới có thể bộc lộ một cách rõ ràng nhất.
b. Hai câu Trong cảm nhận của nhà thơ HT, cảnh giao mùa tuyệt đẹp, tình yêu
cuối: thiết tha cảnh sắc non sông, đất nước đã giúp cho ngòi bút của tác giả
Những suy tư, thăng hoa vẽ nên bức tranh giao mùa bằng nghệ thuật ngôn từ độc đáo.
trải nghiệm của Khổ thơ cuối không chỉ miêu tả cảnh mùa thu mà còn chứa đựng
người nghệ sĩ những suy tư, trải nghiệm của người nghệ sĩ về cuộc đời (Hay
về cuộc đời: “Sang thu” còn là lời thì thầm triết lý, sâu lắng):
Sấm cũng bớt bất ngờ
Lớp nghĩa thực Trên hàng cây đứng tuổi”
- Hình ảnh thơ gợi ra hai tầng nghĩa: nghĩa thực và nghĩa ẩn dụ.
Trước hết là lớp nghĩa thực với hình ảnh “sấm” chỉ một hiện tượng
tự nhiên của thời tiết, thường xuất hiện sau những cơn mưa lớn. Cuối
hạ, đầu thu, không chỉ có ánh nắng dịu đi, cơn mưa chậm lại, mà
sấm cũng thưa thớt dần. Chúng không còn dữ dội để có thể làm lay
động hàng cây nữa. Thiên nhiên dường như cũng dịu dàng hơn, ưu ái
hơn đối với mùa thu. Chính điều đó đã làm cho mùa thu trở nên dịu
nhẹ, tinh tế, làm con người ta xao xuyến.
Nghĩa ẩn dụ - Không chỉ thế, ở hai câu thơ này, tác giả còn thể hiện những ý nghĩa

26
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

ẩn dụ sâu sắc. Hình ảnh “sấm” còn là biểu tượng cho những vang
động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời con người; là những
khó khăn gian lao mà đất nước phải trải qua. Cụm từ “bớt bất ngờ”
đã được nhân hóa chỉ trạng thái của con người. Còn hình ảnh ẩn dụ
“hàng cây đứng tuổi” không chỉ là hình ảnh tả thực của thiên nhiên
chỉ những cây cổ thụ lâu năm, mà còn là biểu tượng của con người,
biểu tượng của đất nước luôn vững vàng, kiên cường. Ở đây, tác giả
không dùng từ “cây” mà là “hàng cây” để ám chỉ sự khăng khít,
đoàn kết bền chặt. Đó là một thế hệ những con người đã trải qua
biết bao khó khăn, vấp ngã, thất bại của cuộc sống. Những thăng
trầm ấy của cuộc đời đã tôi luyện cho con người ta bản lĩnh vững
vàng, không còn bất ngờ trước những biến đổi của thời gian, của
hoàn cảnh nữa. Chính những sự từng trải ấy đã khiến họ trở nên
mạnh mẽ, kiên cường, biết cách đối mặt với giông tố, khó khăn.
Hai câu thơ cuối mang đầy tính triết lí: Khi con người đã bước
“sang thu” thì càng trở nên sâu sắc, hiểu mình, hiểu người và hiểu đời
hơn. Trước những bất thường của ngoại cảnh, họ sẵn sàng bình tĩnh
đón nhận những giông bão cuộc đời. Thông qua lời thơ trên, tác giả
Hữu Thỉnh còn muốn gửi gắm một quan điểm nhân sinh sâu sắc.
Cũng giống như mùa thu yên bình và lặng lẽ, con người ta khi đã đến
cái tuổi xế chiều, khi đã trải qua những năm tháng bão giông của
cuộc đời, sẽ chẳng còn những bồng bột, nông nổi nữa. Đối mặt với
những khó khăn, thử thách, ta sẽ thật bình tĩnh và nhẹ nhàng để cảm
nhận, suy ngẫm, suy tư và bước qua nó một cách bình thản nhất.
Năm 1977 khi ấy đất nước ta đã hòa bình, độc lập nhưng vẫn còn rất
nhiều những khó khăn, vất vả và bài thơ đã thể hiện được bản lĩnh
cứng cỏi của đất nước khi chuyển mình. Đó cũng chính là chất triết
lý đậm đà của bài thơ. Điều đó khẳng định sức sống mãnh liệt của
tâm hồn nhà thơ, dù đã “sang thu” vẫn còn rạo rực và nồng nàn hạ
nắng.
* Đánh giá Bằng hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm,
- Đánh giá cùng thể thơ năm chữ, với lời thơ nhẹ nhàng, tinh tế cùng những
chung về ND, hình ảnh ẩn dụ độc đáo bài thơ “ Sang thu” nói chung và hai khổ thơ
Nt đoạn thơ cuối nói riêng, Hữu Thỉnh đã gửi đến cho chúng ta một bức tranh thu
tuyệt đẹp, khơi gợi tình cảm yêu mến thiết tha với thiên nhiên Tổ
quốc mình, hiểu rõ giá trị của mùa thu hòa bình. “ Sang thu” còn là
một khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng chứa đầy cảm xúc tinh tế
của con người, đồng thời thức tỉnh mỗi chúng ta bản tính mạnh mẽ,
dám đương đầu với thử thách, tin vào chính mình như “ hàng cây
đứng tuổi” trong mùa thu.
III. Kết bài “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời , mà còn là sự
- Đoạn thơ khơi chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế , nên
gợi trong em mỗi vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt. Với dòng
27
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

những tình cảm, thơ năm chữ , tác giả đã gửi tình yêu đằm thắm, khát khao yêu đời
trách nhiệm gì? và đặc biệt gửi đến bạn đọc cũng như gửi lại cho tuổi trẻ của mình đã
Em học được qua đi từ thuở nào . Tác phẩm như viên pha lê góc cạnh, trải qua bao
bài học gì? thăng trầm để trọn vẹn lung linh. “Sang thu” – một hình ảnh quê
hương tự nó đã tô điểm thêm một vẻ đẹp cho đất nước , cho quê nhà,
cho mùa thu chung của cả đất trời VN.

BÀI 4 : NÓI VỚI CON ( Y PHƯƠNG)

ĐỀ 1: CẢM NHẬN CỦA EM VỀ LỜI NGƯỜI CHA “NÓI VỚI CON” TRONG ĐOẠN
THƠ SAU:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa

28
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Từ đó liên hệ tới ý thức hướng về nguồn cội yêu thương của thế hệ trẻ hôm nay.
Hoặc : Từ đó liên hệ tới trách nhiệm làm con của thế hệ trẻ hôm nay.
Dàn ý Bài làm
I. Mở bài Cách 1
Tình cảm gia đình, tình yêu đối với quê hương xứ sở là
- Dẫn dắt , giới thiệu tác những tình cảm nguyên sơ nhưng cũng thiêng liêng nhất của
giả, tác phẩm và nội dung con người Việt Nam. Lòng yêu thương con cái, ước mong
đoạn thơ thế hệ sau nối tiếp xứng đáng truyền thống của tổ tiên, dân
tộc, quê hương là sự thể hiện cụ thể của tình cảm cao đẹp đó.
Nhiều nhà thơ đã giãi bày những sắc thái tình cảm ấy lên
trang giấy. Chúng ta bắt gặp trong bài thơ “nói với con” của
tác giả Y Phương một cách diễn đạt mộc mạc, chân chất của
người miền núi những lời tâm tình thiết tha, những lời dặn dò
ân cần, chia sẻ của người cha đối với con lòng tự hào về con
người và quê hương yêu dấu của mình. Khổ thơ đầu là lời
tâm tình của người cha với con gái nhỏ về gia đình và quê
hương - cội nguồn sinh dưỡng của mỗi người. ( Trích thơ)
Cách 2 :
Nhận xét về thơ Y Phương có ý kiến cho rằng: “ Thơ Y
Phương giống như một bức tranh thổ cẩm được đan dệt bằng
nhiều màu sắc khác nhau, nhưng trong đó màu sắc chủ đạo là
bản sắc dân tộc miền núi”. Quả đúng như vậy, đọc thơ YP ,
người ta dễ bị hút hồn bởi bản sắc vùng cao rất riêng và đậm
đà. Thật khó mà lí giải được một cách tường tận, rạch ròi cái
bản sắc ấy được thể hiện ở đâu như thế nào, nhưng có một
điều mà ai cũng cảm nhận được rằng: phải là con người được
sinh ra, lớn lên, được nuôi dưỡng bằng chính nguồn mạch
của núi rừng mới cất lên được tiếng nói mang đầy âm hưởng
của màu sắc vùng cao như vậy. “Nói với con” của Y P là
một bài thơ mang âm hưởng ấy. Cùng đến với khổ thơ đầu
của bài thơ để lắng nghe YP nói với con về cội nguồn gia
đình và quê hương- côi nguồn sinh dưỡng của mỗi con
người . ( Trích thơ)

II. Thân bài: -YP là nhà thơ dân tộc Tày nổi tiếng và cũng là niềm tự hào
* Khái quát của Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn trong sáng, chân
- Giới thiệu tác giả và thật mạnh mẽ, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền
Hoàn cảnh ra đời bài thơ núi .
- “Nói với con” là một bài thơ hay và cảm động về tình cha

29
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

con , tình yêu quê hương, đất nước. Bài thơ được sáng tác
năm 1980, khi nhà thơ vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh,
nền kinh tế nước ta lúc ấy như người “ trọng bệnh” mới hồi
dậy. Cái nghèo khó phủ lên từng con phố , làng bản, gương
mặt... Nhà thơ đã viết “ Nói với con” nhằm động viên và tôn
vinh dân tộc Tày của mình qua hình thức tâm sự của người
cha với người con. Tình yêu con lớn dần cùng tình yêu dân
tộc, vừa xúc động, thiêng liêng, vừa chân thành , mạnh mẽ,
sáng trong. Khổ thơ đầu của bài thơ YP nói với con về cội
nguồn gia đình và quê hương- cội nguồn sinh dưỡng của
mỗi con người: Con lớn lên trong tình yêu thương, sự
nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động nên thơ của
quê hương.
*Luận điểm 1: Cội nguồn hạnh phúc của con người chính là gia đình và quê
4 câu thơ đầu, người cha hương- cái nôi êm để từ đó con lớn lên, trưởng thành với
nói với con cội nguồn những nét đẹp trong tâm hồn và tình cảm . Phải chăng đó
sinh thành và nuôi chính là điều đầu tiên mà người cha muốn nói với đứa con
dưỡng con trước hết là của mình. Ngay từ 4 câu thơ đầu, người cha nói với con cội
gia đình, con đã được nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con trước hết là gia đình,
lớn lên và trưởng thành con đã được lớn lên và trưởng thành trong tình yêu thương
trong tình yêu thương của cha mẹ:
của cha mẹ: Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười

Với việc sử dụng nhịp thơ 2/ 3, cấu trúc đối xứng,


nhiều từ được láy lại, tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn
quýt: chân phải - chân trái , rồi một bước - hai bước , rồi lại
“tiếng nói - tiếng cười” cùng thủ pháp liệt kê, tác giả đã gợi
lên trước mắt người đọc một hình ảnh cụ thể thường gặp
trong đời sống: đứa con đang tập đi, cha mẹ vây quanh
mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Từng bước
đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm
chút, nâng niu, đón nhận. Bằng những hình ảnh cụ thể với lối
tư của người miền núi, YP đã giúp ta hình dung được một
mái ấm gia đình, có mẹ , có cha với hình ảnh những đứa
trẻ ngây thơ , tập đi, tập nói trong vòng tay yêu thương,
chăm sóc của cha mẹ. Cả ngôi nhà như rung lên trong
“tiếng nói, tiếng cười” của cha, của mẹ. Đó là khung cảnh
của một gia đình đầm ấm, hòa thuận luôn tràn đầy niềm
vui, hạnh phúc, tràn đầy tiếng nói, tiếng cười.Điệp từ
“bước” đã tạo ra âm điệu vui tươi, quấn quýt, tạo nên

30
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

không khí gia đình đầm ấm, thể hiện niềm sung sướng và
đầy tự hào của cha mẹ khi thấy con đang lớn lên. Mỗi bước
đi của con còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự lớn lên và
trưởng thành của con. “ Tiếng nói, tiếng cười” là hai hình
ảnh cụ thể và giàu chất thơ, tượng trưng cho tình yêu thương
và niềm hạnh phúc của cha mẹ .
 Con đã được lớn lên và trưởng thành trong tình yêu
thương và hạnh phúc của cha mẹ. Đây có lẽ là khát
vọng hạnh phúc của con người, là hành trang quý
báu đối với cuộc đời và tâm hồn con. Người cha nói
với con lời đầu tiên đó để nhắc nhở con về tình cảm
ruột thịt, về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người.
Gia đình chính là cội nguồn sinh thành và nuôi
dưỡng con. Vì thế, trên hành trình vạn dặm của cuộc
đời, con không được phép quên.
*Luận điểm 2: Bên cạnh tình cảm gia đình thắm thiết, hạnh phúc, quê
Quê hương thơ mộng hương thơ mộng nghĩa tình và cuộc sống lao động trên quê
nghĩa tình và cuộc sống hương cũng giúp con trưởng thành, góp phần bồi dưỡng
lao động trên quê hương tâm hồn con:
cũng giúp con trưởng “Người đồng mình yêu lắm con ơi!
thành, góp phần bồi Đan lờ cài nan hoa
dưỡng tâm hồn con Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng"
- vẻ đẹp tâm hồn của con -YP tiếp tục nói với con về quê hương- cái nôi đùm bọc,
người quê hương đã che chở, cưu mang con. Ông muốn con hiểu rằng , vẻ đẹp
nuôi dưỡng, bồi đắp nên tâm hồn của con người quê hương đã nuôi dưỡng, bồi đắp
tố chất tâm hồn con, tạo nên tố chất tâm hồn con, tạo nên dáng vẻ hình hài của
nên dáng vẻ hình hài của con:
con: ““Người đồng mình yêu lắm con ơi!”
- YP gọi những người sống chung một miền đất, có chung
-Cách gọi “ người đồng một dân tộc là “ người đồng mình”. Cách nói mang đậm nét
mình” của người miền núi, song trong cách gọi ấy đã ẩn dấu bao
niềm tự hào, yêu mến, gắn bó thiết tha của nhà thơ dành
cho con người của quê hương. Có lẽ vì thế khi nói về “
người đồng mình” YP đã không cất giấu được cảm xúc mà
xúc động thổ lộ lòng mình “ Yêu lắm con ơi!”.
-cuộc sống lao động của - Khi tâm tình với con về cuộc sống lao động của người
người đồng mình: đồng mình, tác giả đã lựa chọn đưa vào những hình ảnh
“ Đan lờ cài nan hoa đẹp đẽ : “ Đan lờ cài nan hoa” và tươi vui: “ Vách nhà
Vách nhà ken câu hát” ken câu hát”. Những động từ đan, ken, cài bên cạnh giúp
người đọc hình dung được những công việc cụ thể của con
động từ đan, ken, cài- gợi người trên quê hương còn gợi ra tính chất gắn bó, hòa

31
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

công việc, gợi ra tính quyện, quấn quýt của con người và của quê hương, xứ sở.
chất gắn bó, hòa quyện, Đây là hình ảnh gợi nên nét đẹp sinh hoạt văn hóa của
quấn quýt của con người người đồng bào miền núi vào đêm trăng thanh hoặc trong
và của quê hương, xứ sở. dịp lễ hội: Người con trai ngồi ngoài vách , người con gái
Đây là hình ảnh gợi nên ngồi trong vách hát cho nhau nghe , hát từ lúc trăng lên cho
nét đẹp sinh hoạt văn hóa đến sáng bạch. Nét sinh hoạt văn hóa ấy đã thể hiện tâm hồn
của người đồng bào miền trong sáng và lãng mạn, lạc quan và yêu đời của “người
núi vào đêm trăng thanh đồng mình”. Công việc của họ tuy vất vả, nhưng cuộc sống
hoặc trong dịp lễ hội của họ luôn vui vẻ, lạc quan và rất ngọt ngào.
- Thiên nhiên , quê hương thật đẹp , luôn dành cho con
- Thiên nhiên , quê những gì tinh túy nhất:
hương thật đẹp , luôn Rừng cho hoa
dành cho con những gì Con đường cho những tấm lòng"
tinh túy nhất: Cảnh sắc thiên nhiên của vùng cao được YP gợi lên bằng hai
+ hình ảnh “ rừng” và “ hình ảnh “ rừng” và “ con đường”. Bóng dáng quê hương
con đường” đã được tác giả nhân hóa như luôn dang rộng vòng tay che
+ nhân hóa chở , nuôi dưỡng con người cả tâm hồn và lối sống. Câu
+ Điệp từ “ cho” thơ như mở ra trước mắt người đọc hình ảnh những cánh
rừng bạt ngàn, hùng vĩ; những con đường vắt vẻo lưng
chừng núi đồi mang đậm vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên
vùng cao đã ban tặng cho con người những món quà vô giá:
“ hoa” và “ tấm lòng”. Đó là những gì tươi đẹp nhất, ấm áp
nhất. Từ “ cho” được lặp lại hai lần đã nhấn mạnh và làm
 quê hương bằng nổi bật thiên nhiên, quê hương luôn rộng mở , phóng
văn hóa, lao động khoáng và đầy nghĩa tình. Chính thiên nhiên ấy đã cưu
đã nuôi dưỡng và mang, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của con . Con đã
che chở cho con lớn lên trong nghĩa tình quê hương như thế.
thêm khôn lớn,  Nếu như gia đình là cội nguồn sinh thành và dưỡng
trưởng thành dục con, thì quê hương bằng văn hóa, lao động đã
nuôi dưỡng và che chở cho con thêm khôn lớn,
trưởng thành. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa
con vào cuộc sống êm đềm. Cội nguồn của hạnh
phúc con người chính là gia đình và quê hương - cái
nôi êm để từ đó con lớn lên, trưởng thành với những
nét đẹp trong tình cảm, tâm hồn
*Luận điểm 3 Cuối cùng, tác giả tâm sự với con về kỉ niệm êm đềm,
tác giả tâm sự với hạnh phúc nhất của cha mẹ. Bởi đó cũng là cội nguồn để
con về kỉ niệm êm đềm, sinh thành nên con:
hạnh phúc nhất của cha " Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
mẹ. Bởi đó cũng là cội Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời"
nguồn để sinh thành nên Hình bóng người con ngày một lớn lên, cha mẹ ngập
con: tràn hạnh phúc, nhìn thấy con cha mẹ lại nhớ về kỉ niệm
ngày cưới, ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời. "Nhớ về ngày

32
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

cưới" là nhớ về kỷ niệm cho sự khởi đầu của một gia đình.
Nó là minh chứng cho tình yêu và con chính là kết tinh
của tình yêu , hạnh phúc, là những gì đẹp đẽ của người
đồng mình. Tình cảm ấy sẽ khơi nguồn cho những tình cảm
lớn lao, bền vững hơn như tình yêu đất nước
Đánh giá => Với giọng điệu tâm tình, tha thiết, từ ngữ giàu hình ảnh,
Đánh giá chung về đoạn sức gợi cảm, cách nói phù hợp với người miền núi cùng với
thơ thể thơ tự do phóng khoáng, cụ thể, giàu sức khái quát, vừa
mộc mạc nhưng giàu chất thơ kết hợp với các phép tu từ so
sánh, điệp ngữ, đoạn thơ là lời dặn dò, nhắn nhủ tâm tình của
người cha nói với con về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng
con: gia đình, quê hương chính là những nền tảng cơ bản để
tiếp bước cho con khôn lớn, trưởng thành. Bởi vậy,con phải
luôn sống bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào, con phải
khắc cốt ghi tâm nơi mình đã sống và trưởng thành.
Liên hệ “Con người có tổ có tông/Như cây có cội như sông có nguồn”.
Đúng vậy, mỗi chúng ta được sinh ra và lớn lên trong thời bình
như hiện nay là một điều vô cùng may mắn và hạnh phúc, chính
vì thế, chúng ta cần phải có nhận thức được ý thức, trách nhiệm
của bản thân mình trước cội nguồn dân tộc, đất nước trong
hoàn cảnh mới. Thế hệ trẻ chúng ta luôn hướng về cội nguồn,
ông bà, cha mẹ, tổ tiên, quê hương của mình và khi đi xa
luôn hướng về quê hương, Tổ quốc. Bản thân mỗi người luôn
có lòng tự hào về con người, quê hương, đất nước, anh hùng
hào kiệt, danh nhân văn hoá, về non sông gấm vóc, những
sản vật phong phú; cần cù và sáng tạo trong lao động để xây
dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc và xây dựng đất nước
ngày càng giàu đẹp.
III. Kết bài Đoạn thơ đầu của bài thơ “Nói với con” của Y Phương giúp
- Đoạn thơ khơi gợi trong chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của một áng thơ về tình cha con
em những tình cảm, trách cao quý, xúc động, góp thêm một tiếng nói yêu thương của
nhiệm gì? Em học được cha mẹ đối với con cái. Bằng cách diễn đạt mộc mạc, thô sơ,
bài học gì? bằng những hình ảnh cụ thể mà giàu sức khái quát đoạn thơ
đã thể hiện một cách độc đáo mà cũng thật thấm thía về tình
cảm thiết tha sâu sắc nhất của con người : cội nguồn gia
đình và quê hương chính là cội nguồn sinh dưỡng trưởng
thành của mỗi con người. Y Phương đã mượn lời người cha
nhắc nhở con cũng là muốn nhắc nhở chúng ta sống ân
nghĩa, thủy chung, hướng về nguồn cội. Đoạn thơ đã bồi
đắp cho ta thêm về tình yêu gia đình và tình yêu quê hương
đất nước. Từ đó tự nhắn nhủ với bản thân mỗi người phải cố
gắng rèn luyện hơn chăm chỉ học tập để xây dựng nước nhà
một giàu đẹp và phát triển.

33
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

ĐỀ 2: Về những khát vọng trích trong bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương. Từ đó
liên hệ tới trách nhiệm của người làm con trong cuộc sống hiện nay.

“Người đồng mình thương lắm con ơi


Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”

Dàn ý Bài làm


I. Mở bài Cách 1
Tình cảm gia đình, tình yêu đối với quê hương xứ sở là những
- Dẫn dắt , giới thiệu tình cảm nguyên sơ nhưng cũng thiêng liêng nhất của con người
tác giả, tác phẩm và Việt Nam. Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ sau nối tiếp
nội dung đoạn thơ
xứng đáng truyền thống của tổ tiên, dân tộc, quê hương là sự thể
hiện cụ thể của tình cảm cao đẹp đó. Nhiều nhà thơ đã giãi bày
những sắc thái tình cảm ấy lên trang giấy. Chúng ta bắt gặp trong
bài thơ “nói với con” của tác giả Y Phương một cách diễn đạt mộc
mạc, chân chất của người miền núi những lời tâm tình thiết tha,
những lời dặn dò ân cần, chia sẻ của người cha đối với con lòng
tự hào về con người và quê hương yêu dấu của mình. Cùng đến
với khổ thơ thứ hai của bài thơ để lắng nghe YP nói với con về
sức sống và vẻ đẹp tâm hồn người miền núi, gợi nhắc tình cảm
gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên
trong cuộc sống.( Trích thơ)
Cách 2 :
Nhận xét về thơ Y Phương có ý kiến cho rằng: “ Thơ Y

34
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Phương giống như một bức tranh thổ cẩm được đan dệt bằng
nhiều màu sắc khác nhau, nhưng trong đó màu sắc chủ đạo là
bản sắc dân tộc miền núi”. Quả đúng như vậy, đọc thơ YP , người
ta dễ bị hút hồn bởi bản sắc vùng cao rất riêng và đậm đà. Thật
khó mà lí giải được một cách tường tận, rạch ròi cái bản sắc ấy
được thể hiện ở đâu như thế nào, nhưng có một điều mà ai cũng
cảm nhận được rằng: phải là con người được sinh ra, lớn lên,
được nuôi dưỡng bằng chính nguồn mạch của núi rừng mới cất
lên được tiếng nói mang đầy âm hưởng của màu sắc vùng cao như
vậy. “Nói với con” của Y P là một bài thơ mang âm hưởng ấy.
Cùng đến với khổ thơ thứ hai của bài thơ để lắng nghe YP nói
với con về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn người miền núi, gợi
nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý
chí vươn lên trong cuộc sống.( Trích thơ)

II. Thân bài: -YP là nhà thơ dân tộc Tày nổi tiếng và cũng là niềm tự hào của
* Khái quát Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn trong sáng, chân thật mạnh
- Giới thiệu tác giả mẽ, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi .
và Hoàn cảnh ra đời - “Nói với con” là một bài thơ hay và cảm động về tình cha
bài thơ con , tình yêu quê hương, đất nước. Bài thơ được sáng tác năm
1980, khi nhà thơ vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh, nền kinh tế
nước ta lúc ấy như người “ trọng bệnh” mới hồi dậy. Cái nghèo
khó phủ lên từng con phố , làng bản, gương mặt... Nhà thơ đã viết
“ Nói với con” nhằm động viên và tôn vinh dân tộc Tày của
mình qua hình thức tâm sự của người cha với người con. Tình
yêu con lớn dần cùng tình yêu dân tộc, vừa xúc động, thiêng
liêng, vừa chân thành , mạnh mẽ, sáng trong. Nếu như khổ thơ
thứ nhất nhà thơ gợi nhắc cho con về cội nguồn sinh dưỡng
của mỗi người thì đoạn thơ thứ hai là lòng tự hào về vẻ đẹp
của người đồng mình và mong ước của cha.
Phân tích: Những Trước hết, người cha tự hào nói với con về sức sống bền bỉ,
vẻ đẹp của người mãnh liệt, về truyền thống cao đẹp của người đồng mình, về
đồng mình và lời quê hương. Đó là những con người biết lo toan và giàu ước
dặn dò của người mơ:
cha “Người đồng mình thương lắm con ơi
Luận điểm 1 Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
Người cha tự hào Tổ hợp từ “người đồng mình” được lặp lại ba lần đã gây ấn
35
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

nói với con về sức tượng không phai mờ về con người quê hương. Lời gọi con thật
sống bền bỉ, mãnh tha thiết, lời nhắn nhủ thật chân thành: “Người đồng mình
liệt, về truyền thống thương lắm con ơi!”. Tác giả đã tinh tế và đầy dụng ý khi thay từ
cao đẹp của người “ yêu” bằng từ “ thương”. Điều đó nghĩa là nhà thơ không chỉ ca
đồng mình, về quê ngợi, tự hào về vẻ đẹp của người đồng mình mà còn xúc động
hương. Đó là những nhận ra những phẩm chất đáng quý của con người trong gian
con người biết lo khổ, khó khăn và thiếu thốn.
toan và giàu ước Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy
mơ: cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo
+ “thương lắm con ý chí con người. Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến,
ơi” nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người
+ Bằng cách tư duy càng mạnh mẽ.
độc đáo của người - Kết cấu câu thơ sóng đôi, cân đối, cách nói giản dị, mộc mạc
miền núi “cao đo nỗi buồn”, là nỗi buồn của người dân tộc quanh năm giữa
mây ngàn đá núi thường xuyên phải rời xa bản làng, bước chân
+ Sắp xếp tính từ của họ ngày leo núi, thường trải dài trên đỉnh non cao. Qua đó ta
“cao”, “xa” trong sự thấy rằng người đồng mình sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc,
tăng tiến lam lũ. Họ nhẫn nhục chịu đựng nỗi buồn dai dẳng của mảnh đất
quê hương. “Xa nuôi chí lớn”, người cha muốn nói với con, dân
tộc mình ai cũng có một ý chí, nghị lực ai cũng muốn bay cao bay
xa trong tương lai.
=> Bằng cách nói ngắn gọn, giàu sức gọi , YP đã khắc họa một
nét đáng trân trọng cốt cách của người đồng mình: biết lo toan,
giàu ước mơ, kiên cường, giàu ý chí và đầy nghị lực. Cuộc sống
của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề
thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị
lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc.
Luận điểm 2 *Tiếp theo, người cha nói với con về sự thủy chung, chịu
Người cha nói với thương, chịu khó, gắn bó với quê hương, làng xóm :
con về sự thủy “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
chung, chịu thương, Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
chịu khó, gắn bó Sống trong thung không chê thung nghèo đói”
với quê hương, làng Phép liệt kê với những hình ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”, “thung
xóm , sức sống nghèo đói” kết hợp với thành ngữ dân gian “Lên thác xuống
mãnh liệt, mạnh mẽ ghềnh”, gợi bao nỗi vất vả, lam lũ gợi cuộc sống đói nghèo, khó
của người đồng khăn, cực nhọc của người đồng mình.
mình Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng
+ Phép liệt kê với hình ảnh đối xứng đã nhấn mạnh: người đồng mình có thể
những hình ảnh ẩn nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí
dụ và quyết tâm. Người đồng mình chấp nhận và thủy chung gắn
+ Những câu thơ dài bó cùng quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả. Phải
ngắn, cùng những chăng, chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi

36
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

thanh trắc luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo nên sức mạnh
- Phẩm chất: giúp họ vượt qua tất cả. Câu thơ mang âm hưởng mạnh mẽ, dứt
+ Điệp ngữ “sống”, khoát như một lời thề nguyền, thủy chung , gắn bó đồng cam
“không chê” cộng khổ cùng quê hương. Vì vậy , người cha mong con hãy tự
hào về người đồng mình, chung thủy với quê hương, biết chấp
nhận vượt qua gian nan, thử thách.
*YP còn nói với con về sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ của
người đồng mình:
+ Lời thợ mộc mạc, Sống như sông như suối
giản dị Lên thác xuống ghềnh
+ Phép so sánh Không lo cực nhọc
“Sống như sông như Với các hình ảnh so sánh “Sống như sông, như suối”, ẩn dụ,
suối sử dụng thành ngữ “Lên thác xuống ghềnh”, người cha đã nói
với con về tính cách cao đẹp của người đồng mình. Điệp từ
“sống” vang lên ba lần như lời khẳng định tâm thế bản lĩnh và
dáng đứng dũng mãnh của “ người đồng mình”. Gian khó là
thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt
như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong
trẻo, dạt dào như dòng suối, con sông trước niềm tin yêu cuộc
sống, tin yêu con người. Từ đó người cha mong con sống có
nghĩa tình, thủy chung với quê hương, biết chấp nhận và vượt
qua thử thách gian nan, bởi đây là nền tảng hình thành nên giá
trị con người.
Luận điểm 3: *Bên cạnh đó, YP còn dành những dòng thơ thể hiện những
*Những chiêm chiêm nghiệm, suy tư về tầm vóc lớn lao của người đồng
nghiệm, suy tư về mình: Người dồng mình có ý thức tự lập, tự cường và tinh
tầm vóc lớn lao của thần tự tôn dân tộc :
người đồng mình: Người đồng mình thô sơ da thịt
Người dồng mình Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
có ý thức tự lập, tự Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
cường và tinh thần Còn quê hương thì làm phong tục”
tự tôn dân tộc : Lời thợ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình. Cụm từ “thô
sơ da thịt" là cách nói bằng hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc
Tày, ngợi ca những con người mộc mạc, giản dị, chất phác,
thật thà, chịu thương, chịu khó. Cụm từ “chẳng nhỏ bé”
khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và
niềm tin. Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng
mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô
sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí, về
mong ước xây dựng quê hương:
“Người đồng mình tựđục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
Lối nói đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng

37
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

ý vị sâu xa. Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê
hương” vừa mang tính tả thực (chỉ truyền thống làm nhà kê đá
cho cao của người miền núi), vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc.
Người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng sức lao
động đã xây dựng và làm đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để
nâng tầm quê hương. Còn quê hương là điểm tựa tinh thần với
phong tục tập quán nâng đỡ những con người có chí khí và
niềm tin.
Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức
bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống tốt đẹp của
người đồng mình. Chính những con người ấy bằng bàn tay,
khối óc, bằng sức vóc và tình cảm đã xây dựng và làm giàu cho
quê hương, đã tạo nên những giá trị truyền thống, phong tục
tập quán tốt đẹp của quê hương, góp phần tôn vinh và nâng cao
vị thế của quê hương.
Luận điểm Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò của người cha mong
Bốn câu thơ cuối: muốn con mình phải tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê
Lời nhắn nhủ, dặn hương, hãy lấy những tình cảm đó làm hành trang để vững
dò của người cha bước trên đường đời:
mong muốn con Con ơi tuy thô sơ da thịt
mình phải tự hào về Lên đường
truyền thống tốt Không bao giờ nhỏ bé được
đẹp của quê hương, Nghe con.”
hãy lấy những tình Lời dặn của người cha bắt đầu bằng tiếng gọi tha thiết “ con ơi”
cảm đó làm hành và kết thúc bằng một động từ đầy mạnh mẽ và dứt khoát” nghe
trang để vững bước con” . Đó là cách nói, giọng điệu vừa trìu mến, yêu thương, vừa
trên đường đời nghiêm nghị, mạnh mẽ. Lời dạy ấy thật sự khiến con thấm thía
không quên .
+ Ý thơ “Tuy thô sơ - Hình ảnh “thô sơ da thịt” lặp lại hai lần như muốn con
da thịt” và “Không khắc ghi: “Người đồng mình” tuy mộc mạc, chân chất nhưng
bao giờ nhỏ bé”
được lặp lại có lẽ sống cao đẹp. Khi con lên đường, người cha tin rằng những
giá trị văn hóa, những truyền thống tốt đẹp của quê hương( ý
chí, nghị lực , truyền thống quê hương) sẽ trở thành hành trang
+ Tiếng gọi “con ơi” quý giá để con vững bước trên đường đời. Trên đường đời con
và lời dặn dò “nghe phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng với “người đồng
con”
mình”. Con “không bao giờ nhỏ bé được”, dù con đường phía
trước còn đầy chông gai. Con hãy tự tin bước đi, bởi sau lưng
con có gia đình, quê hương, bởi trong tim con sẵn ẩn chứa

38
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

những phẩm chất quý báu của “người đồng mình”.


Hai tiếng “nghe con” chứa đựng tấm lòng yêu thương và niềm
tin sâu nặng cha đặt nơi con. Hai tiếng ấy khép lại bài thơ để lại
một dư âm nhẹ nhàng mà âm vang xao xuyến.
Đánh giá: Với thể thơ tự do, mạch cảm xúc tự nhiên, cách nói giàu hình
- Nghệ thuật ảnh vừa mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ, cụ thể mà giàu sức
- Nội dung khái quát, giọng điệu tha thiết, trìu mến, bài thơ nói chung và
đoạn thơ cuối (nói riêng) thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng,
ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương
và dân tộc mình, giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm
hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với
truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Liên hệ: Trách Qua những lời của người cha nói với con, có thể thấy tình cảm
nhiệm của người của người cha thật trìu mến , thân thương, thiết tha và tin tưởng.
làm con trong cuộc Điều mà người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào với
sống hom nay
sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương và niềm tin khi bước
vào đời. Vì vậy mỗi người con chúng ta, cần luôn khắc ghi:
“ Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Mỗi người con chúng ta hãy luôn tự hào về truyền thống tốt đẹp
của quê hương, luôn bước theo những bước chân vững chắc mà
cha để lại, nguyện sống ngay thẳng, nghĩa tình yêu thương với
quê hương, làng bản, và luôn có ý chí vươn lên trong cuộc sống,
tiếp nối cha anh làm rạng danh non sông đất nước, sống có trách
nhiệm với gia đình, dòng tộc , quê hương và đất nước , để đưa đất
nước “ sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Kết bài Qua lời thủ thỉ tâm tình của người cha nói với con, nhà thơ đã ca
- Đánh giá chung về ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình và của quê
đoạn thơ hương. Đó là suối nguồn ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn và ý
- Đoạn thơ khơi gợi
trong em những tình chí cho con. Khép lại trang thơ, người đọc không chỉ thấy chất
cảm, trách nhiệm Tày thấm đượm trong từng câu chữ, hình ảnh mà còn thấy được
gì? Em học được bài tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước chính là động
học gì? lực mãnh liệt để vun đắp và nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con
người. Đọc đoạn thơ ta càng trân trọng hơn tình cảm thiêng
liêng mà cha mẹ dành cho mình, đồng thời biết tự hào, giữ gìn
và phát huy truyền thống của quê hương, dân tộc, có ý chí và

39
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

nghị lực vươn lên trước những khó khăn vất vả của cuộc đời.

Lưu ý : Nếu đề yêu cầu liên hệ tới trách nhiệm của thế hệ trẻ trong cuộc sống hôm
nay thì thay phần liên hệ như sau:
-Trong thời đại ngày nay, khi đất nước đã hòa bình, thống nhất và đang trên đà phát triển,
nhiệm vụ của chúng ta là phải gắng phấn đấu học tập, lao động để phục vụ, xây dựng đất
nước vững mạnh đi lên: “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Mỗi người với khả
năng của mình, hãy cố gắng đóng góp những những “mùa xuân nho nhỏ” của mình cho
đất nước, để đưa quê hương ngày càng giàu đẹp hơn.

- Cống hiến cho đất nước là nghĩa vụ và bổn phận của tất cả người dân Việt Nam . Để là
người sống có trách nhiệm với đất nước, chúng ta phải sống có mục đích, ước mơ, lí
tưởng. Đặc biệt, tuổi trẻ chúng ta cần tránh xa những tệ nạn xã hội, biết sống một cách
lành mạnh và có trách nhiệm, hướng về nguồn cội, tổ tiên.

BÀI 5 : NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI


LÊ MINH KHUÊ
ĐỀ 1: CẢM NHẬN VỀ VẺ ĐẸP NHÂN VẬT PHƯƠNG ĐỊNH QUA ĐOẠN TRUYỆN
SAU ( HAY ĐỀ PHÂN TÍCH DIỄN BIỄN TÂM LÍ NHÂN VẬT PHƯƠNG ĐỊNH
TRONG MỘT LẦN PHÁ BOM) TRONG TRUYỆN NGẮN « NHỮNG NGÔI SAO XA
XÔI » CỦA NHÀ VĂN LÊ MINH KHUÊ.
“…Vắng lặng đến phát sợ. Cây còn lại xơ xác. Đất nóng. Khói đen vật vờ từng cụm
trong không trung, che đi những gì từ xa. Các anh cao xạ có nhìn thấy chúng tôi
không? Chắc có, các anh ấy có những cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm
mắt. Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ theo dõi mình, tôi không
sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ
đàng hoàng mà bước tới.
Quả bom nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô, một đầu vùi xuống đất. Đầu này có vẽ
hai vòng tròn màu vàng…

40
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra
hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người
cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên
một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên trong quả
bom. Hoặt là mặt trời nung nóng. Chị Thao thổi còi. Như thế là đã hai mươi phút trôi
qua. Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi. Dây mìn dài,
cong, mềm. Tôi khỏa đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình. Hồi còi thứ hai của chị
Thao. Tôi nép người vào bức tường đất, nhìn đồng hồ. Không có gió. Tim tôi cũng đập
không rõ. Dường như vật duy nhất vẫn bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động chung là
chiếc kim đồng hồ. Nó chạy, sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh cửu.
Còn đằng kia, lửa đang chui bên trong cái dây mìn, chui vào ruột quả bom…
Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần. Tôi có nghĩ
tới cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính: liệu mìn có nổ,
bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai? Tôi nghĩ thế,
nghĩ thêm: đứng cẩn thận, mảnh bom ghim vào cánh tay thì khá phiền. Và mồ hôi
thấm vào môi tôi, mằn mặn, cát lạo xạo trong miệng. Nhưng quả bom nổ. Một thứ
tiếng kì quái, đến váng óc. Ngực tôi nhói, mắt cay mãi mới mở ra được. Mùi thuốc
bom buồn nôn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan đi âm thầm trong những
bụi cây. Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình trên đầu.”...
(Lê Minh Khuê, Những ngôi sao xa xôi, Ngữ văn 9, tập hai, trang 117-118)
I. Mở bài
Hình ảnh các cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn là nguồn
cảm hứng bất tận cho văn học cách mạng, đó là những cô gái kiên cường nhưng giàu
tình cảm, mang những phẩm chất tốt đẹp. Phương Định trong truyện ngắn “Những ngôi
sao xa xôi” của Lê Minh Khuê là một minh chứng tiêu biểu cho sức sống mãnh liệt của
hình tượng cô thanh niên xung phong trong lòng bạn đọc. Nhà văn Lê Minh Khuê bằng
một bút pháp tinh tế và cảm nhận sâu sắc đã mở ra một khoảng trời kí ức trong tâm hồn
Phương Định, hé lộ những phẩm chất của nhân vật, đặc biệt qua đoạn trích “Vắng lặng...
vô hình trên đầu”.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “ Những ngôi sao xa xôi” được Lê Minh Khuê viết
vào năm 1971, khi ấy nước ta đang trải qua cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt. Tác
phẩm đã ghi lại một cách chân thực nhất đời sống của các cô gái thanh niên xung
phong sống và chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn đầy bom đạn mà tiêu biểu
là nhân vật Phương Định.
- Chủ đề: Đoạn trích nằm ở giữa tác phẩm. Sau khi giặc ném bom, chị Thao và Nho đi
trinh sát, phát hiện ra có bốn quả bom chậm cần phải phá, nhằm đảm bảo tuyến đường
Trường Sơn không bị đứt mạch, Phương Định có nhiệm vụ phá một quả bom trên đồi.
Đoạn trích miêu tả công việc phá bom căng thẳng và nguy hiểm của Phương Định. Qua
đoạn trích trên ta thấy Phương Định là một cô thanh niên xung phong can trường,
gan dạ, giàu tinh thần trách nhiệm.
2. Cảm nhận vẻ đẹp của nhân vật Phương Định trong đoạn trích

41
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Rời ghế nhà trường phổ thông, Phương Định xung phong ra mặt trận, nguyện dâng
hiến cả tuổi thanh xuân cho đất nước. Cuộc sống nơi chiến trường luôn đối mặt với thử
thách, nguy hiểm và cái chết đã tôi luyện ở Phương Định lòng quả cảm, không sợ hi sinh.
Tâm lí Phương Định trong một lần phá bom được miêu tả rất cụ thể, tinh tế đến từng
cảm giác, ý nghĩ dù chỉ thoáng qua trong giây lát. Lê Minh Khuê đã rất tinh tế khi miêu tả
không gian tĩnh lặng, hoang tàn trên đường Phương Định đi đến chỗ quả bom để làm,
bật lên sự tàn khốc, căng thẳng của cuộc chiến. Phương Định nhận xét về bầu không khí
ấy “Vắng lặng đến phát sợ”. Đó là sự tĩnh lặng tuyệt đối và căng thẳng như đè nặng lên
tâm hồn nhân vật. Tất cả cảnh vật đều thiếu sức sống. Bom giặc hủy diệt thiên nhiên,
những cái cây sót lại thì “xơ xác”. “Đất nóng”- câu văn ngắn khiến người đọc cảm nhận
được mặt đất nóng rẫy bởi lửa đạn chiến tranh. Trong không khí là “khói đen vật vờ
từng cụm trong không trung, che đi những gì ở xa”. Hình ảnh đám khói tạo cảm giác hiu
quạnh, hoang tàn. Tất cả các cảnh vật đều gợi đến sự hủy diệt, đều gợi nhắc đến lằn
ranh giữa sự sống và cái chết chỉ tích tắc, bởi đó là sự tàn tích sót lại sau một đợt càn
quét dữ dội của quân giặc. Vậy mà giữa không gian hoang tàn chết chóc đó, Phương
Định chỉ có một mình.

Trong tình huống nguy hiểm và cô độc ấy, tâm trí Phương Định bỗng hiện ra câu hỏi
“Các anh cao xạ có nhìn thấy chúng tôi không?”. Câu hỏi ấy cất lên thật tự nhiên, phù
hợp với tâm lí nhân vật vì Phương Định luôn dành tình cảm đặc biệt cho các anh lính
giải phóng. Tuy cô có nét kiêu kì của một người con gái Hà Thành không săn sóc, vồn vã
nhưng thực tâm cô luôn nghĩ rằng “những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao
thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ”. Sự hiện diện của các
anh như tiếp thêm cho cô sức mạnh và niềm tin để hoàn thành nhiệm vụ. Mặt khác
trong cái tĩnh lặng và cô độc đến đáng sợ ấy ánh mắt dõi theo của các anh cao xạ giống
như một sự đồng tình, một sự ủng hộ, một động lực lớn lao đồng hành cùng Phương
Định. Nó xua tan cảm giác cô quạnh và xua tan sự sợ hãi. Nó giúp Phương Định nhận ra
sợi dây gắn bó vô hình nhưng bền chặt giữa cô và đồng đội, giữa một cá nhân và một
tập thể, để có được thứ sức mạnh đoàn kết to lớn làm điểm tựa tinh thần. Cho nên, mặc
dù lúc đầu sự không chắc chắn thể hiện qua hình thức câu hỏi, qua cụm từ “chắc có”,
Phượng Định vẫn tin tưởng mạnh mẽ vào các anh lính cao xạ. Biện pháp nói quá “Các
anh ấy có những cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt” vừa cho thấy sự nể
phục vừa cho thấy niềm tin vững chắc của Phương Định vào các anh chiến sĩ.

Có một điểm tựa tinh thần như thế nên Phương Định trở nên mạnh mẽ hơn. Cô
nhận ra mình không còn sợ nữa. Và hơn hết cô có can đảm để khẳng định “Tôi sẽ không
đi khom”. Ta có thể hình dung một dáng đi hiên ngang, mạnh mẽ, ngẩng cao đầu đầy

42
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

kiêu hãnh của cô thanh niên xung phong đầy can trường giữa hoàn cảnh khắc nghiệt. Ở
Phương Định sáng lên vẻ đẹp của lòng tự trọng và một trái tim dũng cảm, bản lĩnh.

Thế rồi hình ảnh quả bom hiện ra “Quả bom nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô,
một đầu vùi xuống đất. Đầu này có vẻ hai vòng tròn màu vàng...”. Phép nhân hóa qua
từ “lạnh lùng” khiến quả bom như một kẻ thù hiểm ác, vừa như đe dọa, vừa như thách
thức. Hình ảnh quả bom tách ra, chỉ có hai câu, tô đậm thêm sự nguy hiểm và bầu không
khí căng thẳng, nặng nề của công việc phá bom. Phương Định nhanh chóng bắt tay vào
công việc. Những câu trần thuật ngắn đặt kề nhau như những nhịp hoạt động liên tục,
thành thục của Phương Định “Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom”, “ Những hòn
sỏi theo tay tôi bay ra hai bên”. Công việc gian khổ, nguy hiểm này có lẽ Phương Định
phải đối mặt mỗi ngày cho nên cô hành động dứt khoát, không do dự. Câu đặc biệt “Đất
rắn” ngắn và bình thản. Nó cho thấy sự cảm nhận trong tích tắc và sự phán đoán mau lẹ
của Phương Định. Công việc phá bom không chỉ căng thẳng cần một thần kinh thép mà
còn đòi hỏi một sức khỏe bền bỉ và sự cẩn thận, chính xác từng li, từng tí.

Đôi lúc lưỡi xẻng chạm vào quả bom, Lê Minh Khuê miêu tả âm thanh ấy: “Một tiếng
động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi”. Phép chuyển đổi cảm giác đầy sống động
đã giúp người đọc hình dung ra cái âm thanh chát chúa của kim loại chạm vào nhau.
Tiếng động ấy như một lưỡi dao cứa vào da thịt Phương Định và như cứa vào trái tim
người đọc. Bởi âm thanh ấy, trong những dao động gai người của nó, là thông điệp của
cái chết. Biết đâu sau một trong những va chạm nhỏ nhất, quả bom sẽ phát nổ? Lưỡi hái
thần chết luôn rình rập trong công việc đầy nguy hiểm, gian khổ này.

Âm thanh chát chúa này dội vào tâm hồn Phương Định, cô nhận ra sao mình làm quá
chậm. Câu cầu khiến “Nhanh lên một tí” vang ra như một sự thúc giục. Cần phải nhanh
chóng hoàn thành nhiệm vụ trước khi có điều bất trắc gì xảy ra. Chi tiết “vỏ quả bom
nóng” là một chi tiết đắt giá. Bởi đó là “một dấu hiệu chẳng lành”. Có thể vỏ quả bom
nóng do mặt trời nung, như vậy thì mọi việc vẫn bình an. Nhưng cũng có thể vỏ quả bom
nóng do sức nóng từ bên trong , có nghĩa là nó sắp phát nổ. Câu văn “vỏ quả bom nóng”
như dồn nén tất cả sự căng thẳng. Trong một khoảnh khắc đó là sự giằng co giữa sự
sống và cái chết, an toàn và hiểm nguy, là một thử thách lớn lao ngay cả với những tâm
hồn can đảm nhất. Trước thử thách tâm lí nặng nề ấy, người đọc nhận ra một sức mạnh
phi thường trong tâm hồn Phương Định. Điệp cấu trúc “hoặc là”...lặp đi lặp lại hai lần
cho thấy sự phán đoán bình thản đến bất ngờ. Dường như đứng giữa lằn ranh sống
chết ấy, Phương Định quên đi sự an nguy của chính mình và vượt qua mọi nổi sợ hãi,
dồn toàn bộ tâm trí để hoàn thành nhiệm vụ.
43
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Đặt mìn phá bom xong, Phương Định hồi hộp chờ kết quả. Nếu ở phần trên, Lê Minh
Khuê khắc họa sự nguy hiểm, căng thẳng của công việc phá bom trên bình diện không
gian còn đến đây thì nữ nhà văn giúp người đọc hình dung điều đó rõ hơn qua bình diện
thời gian. Hai dấu hiệu của thời gian đó là: hồi còi của chị Thao và chiếc kim đồng hồ.

Không gian tĩnh lặng đến tận cùng. Và dường như thời gian ngưng đọng. “ Không có
gió” –không có dù chỉ một âm thanh nhỏ và không khí vẫn khô nóng đầy ngột ngạt.
Không gian tĩnh lặng đủ để Phương Định cảm nhận trái tim mình. “Tim tôi đập không
rõ”. Đó là những nhịp tim loạn nhịp cho thấy sự căng thẳng, hồi họp ngự trị trong tâm
hồn cô thanh niên xung phong. Đối lập với tâm hồn đầy biến động của Phương Định là
hình ảnh những chiếc kim đồng hồ “bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động chung” như một
sinh vật sống dửng dưng, lạnh lùng. Những câu văn dài như dòng chảy vô thủy vô chung
của thời gian “Nó chạy sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh cửu”. Ở đây
bằng sự tương phản giữa thời gian vật lí và thời gian tâm lí, Lê Minh Khuê đã khắc họa
được bức tranh tâm hồn của Phương Định. Nếu thời gian của đời người trong cuộc phá
bom đầy nguy hiểm này chỉ là từng khoảnh khắc giằng co giữa sống-chết thì thời gian
vật lí lạnh lùng vô tri bởi chúng ta chỉ là “những con số vĩnh cửu”. Nếu tâm lí căng
thẳng của Phương Định cảm nhận thời gian trôi chậm chạp, nặng nề thì những chiếc kim
đồng hồ chỉ đơn giản là “chạy, sinh động và nhẹ nhàng” theo nhịp vận động từ ngày xưa
của nó. Tại sao Phương Định lại có thể mạnh mẽ đến như vậy khi đối mặt với cái chết?
Tại sao cô lại hồi hộp, căng thẳng đến mức tim loạn nhịp khi dõi theo ngọn lửa chạy vào
quả bom? Khi công việc phá bom thành công. Phương Định tâm tình cùng bạn đọc và lí
giải những điều đó “Quen rồi”. Câu đặc biệt vừa chân thành như một lời tâm tình vừa
bình thản gan dạ đến lạ lùng. Thì ra sức mạnh tinh thần lớn lao ấy giống như một thứ
kim loại quý giá và vững vàng đã được ngọn lửa chiến tranh tôi luyện để càng rắn rỏi.
Chính cái hoàn cảnh “một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít:ba lần” đã
tạo cho Phương Định và đồng đội của mình một tinh thần thép để vượt qua nỗi sợ hãi
và những khoảnh khắc căng thẳng đối diện với cái chết.

Tất nhiên họ không phải là những kẻ liều mạng. Họ đủ tỉnh táo để nhận ra “Tôi có
nghĩ tới cái chết nhưng cái chết mờ nhạt, không cụ thể”. Thông thường những người
yêu cuộc sống tha thiết sẽ sợ cái chết bởi như một danh nhân từng nói “Bị kịch thật sự
của cái chết không phải là ta chết mà chính là ở chỗ ta không còn được sống nữa”. Thế
nhưng thật nghịch lí trong hoàn cảnh chiến tranh lúc con người ta dám can đảm đối mặt
với cái chết là lúc con người ta yêu cuộc sống nhất. Bởi cái chết khi làm nhiệm vụ khiến
cuộc đời của họ kết thúc một cách có ý nghĩa, họ ngã xuống trở thành một phần máu

44
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

thịt của đất mẹ quê hương. Lí do khác khiến Phương Định cảm thấy cái chết “mờ nhạt
không cụ thể” chính là bởi tâm trí cô có một mục tiêu rõ ràng, quan trong, cần phải quan
tâm hơn: nhiệm vụ. Các câu hỏi như những làn sóng xoáy sâu vào tâm trí “Liệu mìn có
nổ không?”, “Không thì làm cách nào để châm mìn lần hai” đã lấn át ý niệm về cái chết
và khiến nó trở nên thật mờ nhạt. Như vậy, chính tinh thần trách nhiệm cao độ mà cơ
sở của nó chính là tình yêu nước, là khát vọng hòa bình đã tiếp thêm sức mạnh cho
Phương Định để cô có thể vững vàng vượt qua tất cả.

Và giây phút chờ đợi đã qua. Bom nổ - “Một thứ tiếng kì quái đến váng óc”, ngực
nhói, mắt cay, …“Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình trên đầu.”...cô vẫn phủi áo
và chạy xuống ngay nơi nổ. “Bom nổ”. “Thắng rồi”. Phương Định đã hoàn thành công
việc. Đây quả là một cuộc đấu trí gan góc, kiên cường. Từ đó ta thấy tinh thần, ý chí và
lòng dũng cảm của người con gái nhỏ bé, bình dị nhưng không bao giờ chịu khuất phục.
Một ngày trong những năm tháng Trường Sơn của cô là như vậy! Những trang lịch sử
Trường Sơn không thể quên ghi một ngày như thế!

Đoạn trích trên đã giúp người đọc hình dung ra bức chân dung tinh thần của Phương
Định-một cô thanh niên dũng cảm gan dạ với một tinh thần thép và bản lĩnh phi
thường. Chính nghịch cảnh chiến trường đã tôi luyện nơi cô thanh niên xung phong một
trái tim quả cảm, một tinh thần trách nhiệm để có thể vượt qua được sự căng thẳng của
công việc, vượt qua được nổi sợ hãi cái chết để có thể hoàn thành nhiệm vụ. Sự gan dạ,
dũng cảm phi thường ấy có nguồn cội sâu xa từ tinh thần yêu nước sâu sắc và khát vọng
hòa bình mãnh liệt trong tâm hồn Phương Định. Qua đó ta thấy được ngoi bút của Lê
Minh Khuê đậm chất nhân văn. Nhà văn đã mở lòng mình ra để đồng cảm với nhân vật
và khai phá được những nét đẹp rất riêng của nhân vật cũng như khái quát lên được
những phẩm chất của cả một thế hệ. Đó là thế hệ trẻ trên tuyến đường Trường Sơn
quyết dâng hiến sức trẻ của mình để giải phóng dân tộc. Ở họ dòng suối cuộc đời đã hòa
vào trường giang của quê hương, để rồi tất cả chan hòa trong đại dương của Tổ quốc,
làm nên những sức mạnh thật diệu kì.

3.Đánh giá, mở rộng

a.Đánh giá

Có thể nói, xây dựng nhân vật Phương Định, Lê Minh Khuê đã xây dựng bằng những
thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, hiệu quả. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo tinh
tế. Ở đoạn văn trên, nữ nhà văn đã chú ý đến các yếu tố không gian thời gian và chọn
lọc các chi tiết ngoại cảnh (tiếng xẻng chạm vào vỏ bom, chi tiết vỏ bom nóng,...) để
45
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

khắc họa tâm lí nhân vật. Việc chọn ngôi kể là ngôi thứ nhất, lời kể của Phương Định
cũng giúp người đọc dễ dàng đồng cảm với nhân vật. Ngôn ngữ tự sự hấp dẫn, sống
động, giàu sức tạo hình. Đặc biệt là sự kết hợp giữa câu văn dài, ngắn khác nhau, kết
hợp linh hoạt các kiểu câu trần thuật, câu cầu khiến vừa đặc tả được sự tĩnh lặng của
không gian, sự trôi chảy của thời gian, vừa giúp người đọc hình dung được hoạt động và
tâm lí nhân vật.

b.Mở rộng

Hình ảnh Phương Định khiến ta gợi nhớ đến hình ảnh của những cô gái thanh
niên xung phong trong thơ Phạm Tiến Duật, Lâm Thị Mỹ Dạ, trong văn của
Nguyễn Minh Châu, và 10 đóa hoa thơm ở ngã ba Đồng Lập,…Họ là những cô gái trẻ
đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước.
“Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời nằm yên trong đất
Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói lung linh”.

( “Khoảng trời hố bom”- Lâm Thị Mỹ Dạ)


III/Kết bài

Tóm lại, qua đoạn trích trên, Phương Định hiện lên là một cô gái dũng cảm, gan dạ,
giàu tinh thần trách nhiệm. Bằng một ngòi bút bàng bạc chất thơ và thấm đẫm cảm xúc,
Lê Minh Khuê đã vẽ nên bức chân dung gần gũi, đáng yêu của cô thanh niên Phương
Định, để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc. Chính vì lẽ đó, đứa con tinh thần đầu tay của
nhà văn – truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” đến nay vẫn có sức sống mãnh liệt, nó
khơi gợi trong lòng người đọc sự trân trọng và nể phục trước một thế hệ trẻ hào hùng
của những trang sử vàng dân tộc:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước’

Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

(Tố Hữu)

ĐỀ 2: CẢM NHẬN VỀ VẺ ĐẸP NHÂN VẬT PHƯƠNG ĐỊNH QUA ĐOẠN TRUYỆN
SAU:
« Bây giờ là buổi trưa. Im ắng lạ. Tôi ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Tôi mê hát.
Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn mà ngớ
ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình.

46
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày,
tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh
lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!”.
Xa đến đâu mặc kệ, nhưng tôi thích ngắm mắt tôi trong gương. Nó dài dài, màu nâu, hay
nheo lại như chói nắng.
Không hiểu sao các anh pháo thủ và lái xe lại hay hỏi thăm tôi. Hỏi thăm hoặc viết
những thư dài gửi đường dây, làm như ở cách nhau hàng nghìn cây số, mặc dù có thể
chào nhau hàng ngày. Tôi không săn sóc, vồn vã. Khi bọn bạn gái tôi xúm nhau lại đối
đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy, tôi thường đứng ra xa, khoanh hai tay trước
ngực và nhìn đi nơi khác, môi mím chặt. Nhưng chẳng qua tôi điệu thế thôi. Thực tình
trong suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất
là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ.
(...)
Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Ðất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai
bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa
vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí!
Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên trong quả bom. Hoặc
là mặt trời nung nóng.
Chị Thao thổi còi. Như thế là đã hai mươi phút qua. Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống
cái lỗ đã đào, châm ngòi. Dây mìn dài, cong mềm. Tôi khoả đất rồi chạy lại chỗ nấp của
mình.
Hồi còi thứ hai của chị Thảo. Tôi nép người vào bức tường, nhìn đồng hồ. Không có gió.
Tim tôi cũng đập không rõ. Dường như vật duy nhất vẫn bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động
chung là chiếc kim đồng hồ. Nó chạy, sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh
cửu. Còn đằng kia, lửa đang chui bên trong cái dây mìn, chui vào ruột quả bom…
Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần. Tôi có nghĩ tới
cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính: liệu mìn có nổ, bom
có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai? Tôi nghĩ thế, nghĩ thêm:
đứng cẩn thận, mảnh bom ghim vào cánh tay thì khá phiền. Và mồ hôi thấm vào môi tôi,
mằn mặn, cát lạo xạo trong miệng. »
( Trích Những ngôi sao xa xôi, Lê Minh Khuê, Ngữ Văn 9 tập 2, NXBGD, 2013 )
I. Mở bài
Hình ảnh các cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn là nguồn
cảm hứng bất tận cho văn học cách mạng, đó là những cô gái kiên cường nhưng giàu
tình cảm, mang những phẩm chất tốt đẹp. Phương Định trong truyện ngắn “Những ngôi
sao xa xôi” của Lê Minh Khuê là một minh chứng tiêu biểu cho sức sống mãnh liệt của
hình tượng cô thanh niên xung phong trong lòng bạn đọc. Truyện kể về những cô thanh
niên xung phong mà tiêu biểu là nhân vật Phương Định. Đoạn văn trên giúp người đọc
cảm nhận về vẻ đẹp nhân vật Phương Định với vẻ đẹp hồn nhiên, thơ mộng, trẻ
trung, đáng yêu, tràn đầy sức sống và sự dũng cảm, gan dạ đầy ngưỡng mộ.
II. Thân bài
1. Khái quát chung

47
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
- Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “ Những ngôi sao xa xôi” được Lê Minh Khuê viết
vào năm 1971, khi ấy nước ta đang trải qua cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt. Tác phẩm
đã ghi lại một cách chân thực nhất đời sống của các cô gái thanh niên xung phong sống
và chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn đầy bom đạn mà tiêu biểu là nhân vật Phương
Định.
- Vị trí : Đoạn trích nằm ở giữa tác phẩm. Nó miêu tả vẻ đẹp tâm hồn và sự dũng cảm,
gan dạ của Phương Định trong một lần phá bom.
2. Cảm nhận về nhân vật Phương Đinh
a. Phương Định là một cô gái Hà Thành hồn nhiên, thơ mộng , trẻ trung, đáng yêu
tràn đầy sức sống:
- Trước hết, nhân vật Phương Định tạo cảm tình đầu tiên cho người đọc bởi vẻ hồn
nhiên, thơ mộng , trẻ trung, đáng yêu tràn đầy sức sống. Là con gái Hà Nội xung
phong vào chiến trường miền Nam khói bom, đạn lửa. Cô có một tuổi thơ êm đềm, hồn
nhiên, vui tươi ở bên mẹ, một căn buồng nhỏ nơi con phố yên tĩnh những ngày trước
chiến tranh. Cô là người nhạy cảm và luôn quan tâm đến hình thức của mình. Cô đến với
người đọc bằng lời tự giới thiệu thật dễ mến: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách
khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu
hãnh như đài hoa loa kèn còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa
xăm””.
- Đúng là một cô gái đẹp, một vẻ duyên dáng, đầy nữ tính và có chiều sâu của một cô gái
thị thành. Cô cũng biết mình đẹp và được nhiều chàng trai để ý. Điều đó khiến cô vui và
tự hào nhưng dù nhạy cảm cô cũng không để lòng xao động. Cô biết vẻ đẹp ấy của cô đã
hấp dẫn bao chàng trai: "Các anh pháo thủ và lái xe hay hỏi thăm tôi” nên cô không “
săn sóc vội vã” với các anh bộ đội mà thường đứng ra xa khoanh tay trước ngực và nhìn
đi nơi khác. Nhưng thực sự trong tâm tưởng cô lại luôn ngưỡng mộ những người chiến sĩ
dũng cảm, kiên cường đó. Cô chưa dành riêng tình cảm cho ai.
- Đó là vẻ đẹp kiêu kì đáng yêu của một cô gái Hà Nội như chính cô đã từng thú nhận:
Chẳng qua là cô chỉ điệu thế thôi. “Cô hay thích ngắm mình trong gương” và làm điệu.
Ai mà có thể ghét được một chút điệu như thế của một cô gái đẹp trước chiến trường ác
liệt. Cô mang theo vào chiến trường vẻ hồn nhiên vô tư lự của cô gái Hà Thành mơ
mộng với những bài hát “ thuộc bất cứ một nhạc điệu nào rồi bịa ra lời mà hát….
- Tiếng hát ấy để động viên đồng đội và động viên chính bản thân mình, để gửi vào trong
tiếng hát sự khao khát của tuổi trẻ, của người chiến sĩ, mong được trở về quê hương yêu
dấu, được gặp lại người yêu sau bao ngày nhớ nhung, yêu thương.
b. Phương Định - cô gái thanh niên xung phong gan dạ, dũng cảm, mạnh bạo
* Chuyển ý: Ngoài là cô gái Hà Thành hồn nhiên, thơ mộng , trẻ trung, đáng yêu tràn đầy
sức sống ra thì Phương Định còn là một cô thanh niên xung phong gan dạ, dũng cảm.
Sinh ra và lớn nên ở thủ đô Hà Nội, có lẽ cô dễ dàng chiếm lấy một chỗ ngồi ở giảng
đường đại học, xung quanh cô tíu tít là bạn bè áo trắng. Nhưng cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mĩ đã cướp đi sự bình yên của đất nước. Bác Hồ đã từng kêu gọi dù có
phải hi sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành được độc
lập. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng đó, những lớp thanh niên mang trong mình dòng

48
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
máu của bà Trưng, bà Triệu, bao chàng trai cô cô gái như Phương Định khát khao được
cống hiến cho đất nước, họ ra đi với khí thế quyết tâm :
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Hay : “Đánh cho Mĩ cút, đánh cho ngụy nhào”
để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
- Phương Định có hoàn cảnh sống và chiến đấu vô cùng khó khăn, sống trên một cao
điểm, nơi có trọng điểm ở tuyến Trường Sơn ác liệt, giữa mênh mông khói bụi và bom
đạn hủy diệt kẻ thù. Công việc của cô cung đồng đội của mình là “đo khối lượng đất lấp
vào hố bom và đếm bom nếu bom chưa nổ thì phá bom”, Công việc vô cùng vất vả, hiểm
nguy, cô phải đối diện với tử thần với cái chết bất cứ lúc nào.
- Trận phá bom trên đỉnh cao Trường Sơn thể hiện rõ tinh thần, thái độ dũng cảm vượt
mọi hiểm nguy của Phương Định và các cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường
ấy. Phương Định gan dạ dũng cảm, không hề sợ hãi, không đi khom… vừa thể hiện thái
độ tự trọng, vừa là ý chí mạnh mẽ giúp cô vượt mọi khó khăn, hiểm nguy. Phương Định
có những thao tác rất chuẩn xác “ dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom” “cẩn thận bỏ
gói thuốc mìn châm ngòi”, “khỏa đất”,…Sự thuần thục, nhanh nhẹn do được tôi luyện
theo thời gian đã trở thành tiềm thức của Phương Định. Công việc gian khổ, nguy hiểm
này có lẽ Phương Định phải đối mặt mỗi ngày cho nên cô hành động dứt khoát, không do
dự. Câu đặc biệt “Đất rắn” ngắn và bình thản. Nó cho thấy sự cảm nhận trong tích tắc và
sự phán đoán mau lẹ của Phương Định. Công việc phá bom không chỉ căng thẳng cần
một thần kinh thép mà còn đòi hỏi một sức khỏe bền bỉ và sự cẩn thận, chính xác từng li,
từng tí.
Đôi lúc lưỡi xẻng chạm vào quả bom, Lê Minh Khuê miêu tả âm thanh ấy: “Một tiếng
động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi”. Phép chuyển đổi cảm giác đầy sống động
đã giúp người đọc hình dung ra cái âm thanh chát chúa của kim loại chạm vào nhau.
Tiếng động ấy như một lưỡi dao cứa vào da thịt Phương Định và như cứa vào trái tim
người đọc. Bởi âm thanh ấy, trong những dao động gai người của nó, là thông điệp của
cái chết. Biết đâu sau một trong những va chạm nhỏ nhất, quả bom sẽ phát nổ? Lưỡi hái
thần chết luôn rình rập trong công việc đầy nguy hiểm, gian khổ này.

Âm thanh chát chùa này dội vào tâm hồn Phương Định, cô nhận ra sao mình làm quá
chậm. Câu cầu khiến “Nhanh lên một tí” vang ra như một sự thúc giục. Cần phải nhanh
chóng hoàn thành nhiệm vụ trước khi có điều bất trắc gì xảy ra. Chi tiết “vỏ quả bom
nóng” là một chi tiết đắt giá. Bởi đó là “một dấu hiệu chẳng lành”. Có thể vỏ quả bom
nóng do mặt trời nung, như vậy thì mọi việc vẫn bình an. Nhưng cũng có thể vỏ quả bom
nóng do sức nóng từ bên trong , có nghĩa là nó sắp phát nổ. Câu văn “vỏ quả bom nóng”
như dồn nén tất cả sự căng thẳng. Trong một khoảnh khắc đó là sự giằng co giữa sự
sống và cái chết, an toàn và hiểm nguy, là một thử thách lớn lao ngay cả với những tâm
hồn can đảm nhất. Trước thử thách tâm lí nặng nề ấy, người đọc nhận ra một sức mạnh

49
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

phi thường trong tâm hồn Phương Định. Điệp cấu trúc “hoặc là”...lặp đi lặp lại hai lần
cho thấy sự phán đoán bình thản đến bất ngờ. Dường như đứng giữa lằn ranh sống
chết ấy, Phương Định quên đi sự an nguy của chính mình và vượt qua mọi nổi sợ hãi,
dồn toàn bộ tâm trí để hoàn thành nhiệm vụ.

Đặt mìn phá bom xong, Phương Định hồi hộp chờ kết quả. Nếu ở phần trên, Lê Minh
Khuê khắc họa sự nguy hiểm, căng thẳng của công việc phá bom trên bình diện không
gian còn đến đây thì nữ nhà văn giúp người đọc hình dung điều đó rõ hơn qua bình diện
thời gian. Hai dấu hiệu của thời gian đó là: hồi còi của chị Thao và chiếc kim đồng hồ.

Không gian tĩnh lặng đến tận cùng. Và dường như thời gian ngưng đọng. “ Không có
gió” –không có dù chỉ một âm thanh nhỏ và không khí vẫn khô nóng đầy ngột ngạt.
Không gian tĩnh lặng đủ để Phương Định cảm nhận trái tim mình. “Tim tôi đập không
rõ”. Đó là những nhịp tim loạn nhịp cho thấy sự căng thẳng, hồi họp ngự trị trong tâm
hồn cô thanh niên xung phong. Đối lập với tâm hồn đầy biến động của Phương Định là
hình ảnh những chiếc kim đồng hồ “bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động chung” như một
sinh vật sống dửng dưng, lạnh lùng. Những câu văn dài như dòng chảy vô thủy vô chung
của thời gian “Nó chạy sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh cửu”. Ở đây
bằng sự tương phản giữa thời gian vật lí và thời gian tâm lí, Lê Minh Khuê đã khắc họa
được bức tranh tâm hồn của Phương Định. Nếu thời gian của đời người trong cuộc phá
bom đầy nguy hiểm này chỉ là từng khoảnh khắc giằng co giữa sống-chết thì thời gian
vật lí lạnh lùng vô tri bởi chúng ta chỉ là “những con số vĩnh cửu”. Nếu tâm lí căng
thẳng của Phương Định cảm nhận thời gian trôi chậm chạp, nặng nề thì những chiếc kim
đồng hồ chỉ đơn giản là “chạy, sinh động và nhẹ nhàng” theo nhịp vận động từ ngày xưa
của nó. Tại sao Phương Định lại có thể mạnh mẽ đến như vậy khi đối mặt với cái chết?
Tại sao cô lại hồi hộp, căng thẳng đến mức tim loạn nhịp khi dõi theo ngọn lửa chạy vào
quả bom? Khi công việc phá bom thành công. Phương Định tâm tình cùng bạn đọc và lí
giải những điều đó “Quen rồi”. Câu đặc biệt vừa chân thành như một lời tâm tình vừa
bình thản gan dạ đến lạ lùng. Thì ra sức mạnh tinh thần lớn lao ấy giống như một thứ
kim loại quý giá và vững vàng đã được ngọn lửa chiến tranh tôi luyện để càng rắn rỏi.
Chính cái hoàn cảnh “một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít:ba lần” đã
tạo cho Phương Định và đồng đội của mình một tinh thần thép để vượt qua nỗi sợ hãi
và những khoảnh khắc căng thẳng đối diện với cái chết.

Tất nhiên họ không phải là những kẻ liều mạng. Họ đủ tỉnh táo để nhận ra “Tôi có
nghĩ tới cái chết nhưng cái chết mờ nhạt, không cụ thể”. Thông thường những người
yêu cuộc sống tha thiết sẽ sợ cái chết bởi như một danh nhân từng nói “Bị kịch thật sự
50
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

của cái chết không phải là ta chết mà chính là ở chỗ ta không còn được sống nữa”. Thế
nhưng thật nghịch lí trong hoàn cảnh chiến tranh lúc con người ta dám can đảm đối mặt
với cái chết là lúc con người ta yêu cuộc sống nhất. Bởi cái chết khi làm nhiệm vụ khiến
cuộc đời của họ kết thúc một cách có ý nghĩa, họ ngã xuống trở thành một phần máu
thịt của đất mẹ quê hương. Lí do khác khiến Phương Định cảm thấy cái chết “mờ nhạt
không cụ thể” chính là bởi tâm trí cô có một mục tiêu rõ ràng, quan trong, cần phải quan
tâm hơn: nhiệm vụ. Các câu hỏi như những làn sóng xoáy sâu vào tâm trí “Liệu mìn có
nổ không?”, “Không thì làm cách nào để châm mìn lần hai” đã lấn át ý niệm về cái chết
và khiến nó trở nên thật mờ nhạt. Như vậy, chính tinh thần trách nhiệm cao độ mà cơ
sở của nó chính là tình yêu nước, là khát vọng hòa bình đã tiếp thêm sức mạnh cho
Phương Định để cô có thể vững vàng vượt qua tất cả.

Và giây phút chờ đợi đã qua. Bom nổ - “Một thứ tiếng kì quái đến váng óc”, ngực
nhói, mắt cay, …“Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình trên đầu.”...cô vẫn phủi áo
và chạy xuống ngay nơi nổ. “Bom nổ”. “Thắng rồi”. Phương Định đã hoàn thành công
việc. Đây quả là một cuộc đấu trí gan góc, kiên cường. Từ đó ta thấy tinh thần, ý chí và
lòng dũng cảm của người con gái nhỏ bé, bình dị nhưng không bao giờ chịu khuất phục.
Một ngày trong những năm tháng Trường Sơn của cô là như vậy! Những trang lịch sử
Trường Sơn không thể quên ghi một ngày như thế!

Đoạn trích trên đã giúp người đọc hình dung ra bức chân dung tinh thần của Phương
Định-một cô thanh niên hồn nhiên, thơ mộng , trẻ trung, đáng yêu tràn đầy sức sống,
dũng cảm gan dạ với một tinh thần thép và bản lĩnh phi thường. Chính nghịch cảnh
chiến trường đã tôi luyện nơi cô thanh niên xung phong một trái tim quả cảm, một tinh
thần trách nhiệm để có thể vượt qua được sự căng thẳng của công việc, vượt qua được
nổi sợ hãi cái chết để có thể hoàn thành nhiệm vụ. Sự gan dạ, dũng cảm phi thường ấy
có nguồn cội sâu xa từ tinh thần yêu nước sâu sắc và khát vọng hòa bình mãnh liệt trong
tâm hồn Phương Định. Qua đó ta thấy được ngoi bút của Lê Minh Khuê đậm chất nhân
văn. Nhà văn đã mở lòng mình ra để đồng cảm với nhân vật và khai phá được những
nét đẹp rất riêng của nhân vật cũng như khái quát lên được những phẩm chất của cả
một thế hệ. Đó là thế hệ trẻ trên tuyến đường Trường Sơn quyết dâng hiến sức trẻ của
mình để giải phóng dân tộc. Ở họ dòng suối cuộc đời đã hòa vào trường giang của quê
hương, để rồi tất cả chan hòa trong đại dương của Tổ quốc, làm nên những sức mạnh
thật diệu kì.

3. Đánh giá, mở rộng

51
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
- Có thể nói, xây dựng nhân vật Phương Định, Lê Minh Khuê đã xây dựng bằng những
thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, hiệu quả. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo tinh tế.
Việc chọn ngôi kể là ngôi thứ nhất, lời kể của Phương Định cũng giúp người đọc dễ dàng
đồng cảm với nhân vật. Ngôn ngữ tự sự hấp dẫn, sống động, giàu sức tạo hình. Đặc biệt
là sự kết hợp giữa câu văn dài, ngắn khác nhau, kết hợp linh hoạt các kiểu câu trần thuật,
câu cầu khiến giúp người đọc hình dung được hoạt động và tâm lí nhân vật.
* Liên hệ - Mở rộng: Hình ảnh Phương Định khiến ta gợi nhớ đến hình ảnh của mười cô
gái thanh niên xung phong ở ngã ba Đồng Lộc hay những cô gái mở đường trong thơ của
Lâm Thị Mỹ Dạ. Họ mang vẻ đẹp dũng cảm, trách nhiệm và hi sinh.

“Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường


Ðể cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Ðánh lạc hướng thù. Hứng lấy luồng bom… “
(Khoảng trời hố bom)
III. Kết bài
Giờ đây, những cánh rừng Trường Sơn đã im tiếng súng, màu xanh đã hồi sinh trên
những cánh rừng già. Tuy nhiên, “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê mang dấu
ấn thời đại vẫn còn lưu giữ những nét son một thời hào hùng của tuổi trẻ Việt Nam mà
tiêu biểu là nhân vật Phương Định- một cô gái Hà Thành hồn nhiên, thơ mộng , trẻ trung,
đáng yêu tràn đầy sức sống nhưng cũng gan dạ, dũng cảm. Đọc lại hai đoạn trích trên, ai
trong chúng ta không dậy lên tình yêu mến và khâm phục thế hệ đi trước đã không tiếc
máu xương để dệt gấm thêu hoa trên trang sử vàng đất nước? Vậy chúng ta hôm nay phải
sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh ấy.

...........................................................................................................................................
Đề 3: Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Phương Định qua chi tiết cơn mưa đá giữa rừng
cuối tác phẩm Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
“ Có một đám mây kéo ngoài cửa hang. Một đám nữa. Rồi một đám nữa bay qua
ngày càng nhanh. Bầu trời mở rộng trước cửa hang đen đi. Cơn dông đến. Cát bay mù.
Gió quật lên, quật xuống những cành cây khô cháy. Lá bay loạn xạ, đột ngột như biến
đổi bất thường trong tim con người vậy. Ở rừng mùa này thường như thế. Mưa. Nhưng
mưa đá. Lúc đầu tôi không biết. Nhưng rồi có tiếng lanh canh gõ trên nóc hang. Có cái gì
sắc xé không khí ra từng mảnh vụn. Gió. và tôi thấy đau, ướt ở má.
- Mưa đá ! Cha mẹ ơi! Mưa đá !
Tôi chạy vào, bỏ trên bàn tay đang xoè ra của Nho mấy viên đá nhỏ. Lại chạy ra, vui
thích cuống cuồng.

52
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

(...) Ở đây, trên cao điểm đầy bom này cũng có mưa đá. Những niềm vui con trẻ của
tôi lại nở bung ra, say sưa, tràn đầy. Chẳng ai có thì giờ mà gắt tôi. Chị Thao đang lúi húi
hốt cái gì dưới đất. Chắc là đá. Còn Nho thì nhổm dậy, môi hé mở.
- Nào, mày cho tao mấy viên nữa.
Nhưng tạnh mất rồi. Tạnh rất nhanh như khi đến. Sao chóng thế ? Tôi bỗng thẫn
thờ, tiếc không nói nổi. Rõ ràng tôi không tiếc những viên đá. Mưa xong thì tạnh thôi.
Mà tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu
trời thành phố. Phải, có thể những cái đó... Hoặc là cây, hoặc là cái vòm tròn của nhà
hát, hoặc bà bán kem đẩy chiếc xe chở đầy thùng kem, trẻ con háo hức bâu xung quanh.
Con đường nhựa ban đêm, sau cơn mưa mùa hạ rộng ra, dài ra, lấp loáng ánh đèn trông
như một con sông nước đen. Những ngọn điện trên quảng trường lung linh như những
ngôi sao trong câu chuyện cổ tích nói về những xứ xở thần tiên. Hoa trong công viên.
Những quả bóng sút vô tội vạ của bọn trẻ con trong một góc phố. Tiếng rao của bà bán
xôi sáng có cái mủng đội trên đầu...
Chao ôi, có thể là tất cả những cái đó. Những cái đó ở thiệt xa...Rồi bỗng chốc, sau
một cơn mưa đá chúng xoáy mạnh như sóng trong tâm trí tôi”.

Dàn ý Bài làm


I. Mở bài Hình ảnh các cô thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn đã là một nguồn cảm hứng bất tận cho văn học cách
- Giới thiệu tác
mạng, đó là những cô gái kiên cường nhưng giàu tình cảm, mang
giả, tác phẩm.
những phẩm chất tốt đẹp. Phương Định trong truyện ngắn “Những
- Giới thiệu vấn ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê) là một minh chứng tiêu biểu cho
đề nghị luận sức sống mãnh liệt của hình tượng cô thanh niên xung phong trong
lòng bạn đọc. Nhà văn Lê Minh Khuê, bằng một bút pháp tinh tế và
cảm nhận sâu sắc, đã mở ra một khoảng trời kí ức trong tâm hồn
Phương Định, hé lộ những phẩm chất của nhân vật, đặc biệt qua
dòng chảy tâm trạng của Phương Định khi cơn mưa đá tới: “Ở đây,
trên cao điểm… chúng xoáy mạnh như sóng trong tâm trí tôi”.
II. Thân bài
* Khái quát Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống của
những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
- Nêu vị trí đoạn
Ba nữ thanh niên xung phong (Thao, Phương Định, Nho) làm thành
trích và hoàn
một tổ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường
cảnh diễn ra cơn
Trường Sơn. Nhiệm vụ của họ là quan sát địch ném bom, đo khối
mưa đá
lượng đất đá phải san lấp do bom địch gây ra, đánh dấu vị trí các
53
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

trái bom chưa nổ và phá bom. Công việc của họ hết sức nguy hiểm,
họ phải luôn bình tĩnh đối mặt với thần chết. Họ ở trong một cái
hang, dưới chân cao điểm, cách xa đơn vị. Cuộc sống khắc nghiệt
và nguy hiểm nhưng họ vẫn có những niềm vui của tuổi trẻ, những
giây phút bình thản, mơ mộng, và rất gắn bó với đồng đội của
mình. Một lần phá bom, Nho bị thương, cả Phương Định và chị
Thao đều xót xa, lo lắng. Bỗng nhiên một cơn mưa đá ập đến khơi
dậy trong Phương Định rất nhiều kí ức và hoài niệm. Đoạn trích
nằm ở cuối tác phẩm, miêu tả diễn biến tâm trạng của Phương
Định trong cơn mưa đá.
* Phân tích
Phương Định là Qua đoạn trích trên, ta nhận ra Phương Định là một cô gái
một cô gái giàu giàu tình cảm, có tâm hồn trong sáng, nhạy cảm.
tình cảm, có tâm Khi cơn mưa đá vừa đến, trong tâm hồn đa cảm của Phương
hồn trong sáng. Định ánh lên những tia sáng của niềm vui. Lúc này đây, không khí
oi ngạt và căng thẳng của cuộc chiến vẫn chưa lắng xuống, cụm từ
“cao điểm đầy bom” như dồn nén trong đó tất cả những ngột ngạt,
những đau đớn, những xót xa của cuộc phá bom vừa diễn ra, nó gợi
nhớ người đọc hoàn cảnh sống biệt lập và đầy hiểm nguy của
Phương Định cùng đồng đội. Nhưng điều đó không làm giảm đi sự
vui thích của Phương Định: “trên cao điểm đầy bom này cũng có
mưa đá”.
Sự xuất hiện của cơn mưa đá khiến mạch truyện trở nên đầy
chất thơ. Cơn mưa đá đã phủ lên hiện thực khốc liệt của chiến
trường một màn sương huyền ảo: Tiếng mưa ồn ã tương phản với
bầu không khí im lặng đến đáng sợ của giờ phút phá bom. Hơi lạnh
của cơn mưa tương phản với sự oi ngạt, căng thẳng của hoàn cảnh
chiến trường gian khổ, ác liệt. Niềm vui mà cơn mưa mang đến,
tương phản với tâm trạng rối bời, lo lắng, kìm nén của chị Thao và
Phương Định khi Nho bị thương. Cơn mưa đá chính là cao trào cảm
xúc, như một sự vỡ òa tâm trạng.
Phương Định gọi cảm xúc của mình là “niềm vui con trẻ” – đó
là cái niềm vui tràn đầy, hồn nhiên, cái niềm vui ngây thơ không
vướng chút lo âu, nhọc nhằn, để được sống trọn vẹn với từng
khoảnh khắc hạnh phúc trong cuộc đời. Niềm vui ấy, trong phép ẩn
dụ “nở tung ra, say sưa, tràn đầy”, bừng sáng trong tâm hồn cô
thanh niên xung phong như một đóa hoa tươi tắn đầy hương sắc.
Phải chăng niềm vui ấy chính là hương sắc của chính tâm hồn đầy
mộng mơ, đầy hồn nhiên của Phương Định?
Và niềm vui ấy không chỉ bừng lên trong tâm hồn Phương
Định, mà còn có sức lan tỏa, cộng hưởng đến đồng đội của cô. Chị

54
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
Thao nếu lúc trước còn lúng túng, đau xót vì chị sợ máu, không thể
chăm sóc cho Nho, thì bây giờ chị “lúi húi hốt cái gì dưới đất”. Từ
láy “lúi húi” gợi lên sự mải mê, ham thích, những viên đá do cơn
mưa mang lại cũng khơi dậy trong chị những niềm vui nho nhỏ, hồn
nhiên. Nếu lúc trước Nho hãy còn dáng vẻ tiều tụy, đau đớn vì vết
thương, thì nay niềm vui ấy lan tỏa khiến Nho có sức sống hơn.
Nho “nhổm dậy, môi hé mở”. Câu nói của Nho, “Này, mày cho tao
mấy viên nữa” giản dị, thân tình nhưng lại có vẻ gì đáng yêu. Tình
đồng chí giữa Nho và Phương Định dường như được biểu hiện bình
dị bằng sự sẻ chia những thứ thật nhỏ nhặt, là viên kẹo chanh, là đá
từ cơn mưa,… nhưng ẩn sau đó là sự quan tâm, chăm sóc, là sự thấu
hiểu, là sự gắn bó như chị em trong gia đình.
Cơn mưa đột ngột tạnh và đánh thức trong Phương Định
những nỗi bâng khuâng, tiếc nuối. Sự tiếc nuối trống trải như lan
tỏa khắp tâm hồn Phương Định qua câu văn “Nhưng tạnh mất rồi”
buông nhẹ như một tiếng thở dài, và qua câu hỏi tu từ “Sau chóng
thế” đầy xuýt xoa, lưu luyến. Phương Định tiếc nuối điều gì?
Phương Định không tiếc những viên đá, đơn giản vì “Mưa xong là
tạnh thôi”.
Lần về tận cùng sự luyến tiếc, qua phép liệt kê cùng với những
câu văn êm dịu tuôn dài miên man gọi thức quá khứ, từng kỉ niệm
trong Phương Định hiện ra như những thước phim quay chậm, chợt
sáng chợt tối đầy cảm xúc. Qua các cụm từ phiếm chỉ “cái gì đấy”,
“hình như”, từng hình ảnh kí ức trong Phương Định ùa ạt tràn về,
mới đầu mơ hồ, miên man, càng lúc càng rõ rệt. Những kí ức hiện
về đầu tiên là những gì gần gũi nhất với Phương Định. Đó là hình
ảnh người mẹ – người thân yêu nhất luôn gắn bó và yêu thương cô.
Đó là cái cửa sổ căn phòng gắn bó với cô suốt quãng đời tuổi thơ
mơ mộng. Cánh cửa ấy nhìn ra khung trời lấp lánh những ngôi sao,
đặc biệt là “những ngôi sao to trên bầu trời thành phố”. Hình ảnh
ngôi sao ấy khiến ta liên tưởng đến nhan đề, phải chăng ngôi sao
trong kí ức đã cộng hưởng ánh sáng với một trong “những ngôi sao
xa xôi” là Phương Định để chung đúc nên những vẻ đẹp tâm hồn
tuyệt vời, đáng mến?
Những hình ảnh kí ức càng lúc càng rõ ràng hơn. Câu văn
“Phải, có thể là những thứ đó…”, vừa là một sự xác nhận, vừa khơi
dậy rất nhiều cảm xúc, để rồi những làn sóng hoài niệm càng lúc
càng chảy tràn. Những khung cảnh thân quen của thành phố Hà Nội
dần sống dậy trong tâm hồn Phương Định. Phép điệp “hoặc là” như
những rung động của trái tim, sự bồi hồi thương nhớ, khi từng cảnh
vật thân quen hiện về trong tâm trí: “cây”, “cái vòm tròn của nhà
hát”, “bà bán kem đẩy cái xe chở đầy thùng kem”, “trẻ con háo hức
bâu xung quanh”.

55
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
Những kí ký ức thân thương và sống động ấy được soi chiếu
qua lăng kính của hoài niệm, bỗng lung linh huyền ảo như thế giới
cổ tích. Cơn mưa đá như chiếu ứng gọi thức kí ức về cơn mưa mùa
hạ trong miền kí ức, khiến “con đường nhựa ban đêm” “rộng ra, dài
ra, lấp loàng ánh đèn trông như một con sống nước đen”. Phép so
sánh sinh động, khiến cho thành phố trở nên huyền ảo. Cơn mưa
khiến mặt đường như những mặt gương, và chẳng mấy chốc thành
phố bồng bềnh vũ điệu của ánh sáng khi những ngọn đèn phản
chiếu và trở nên “lung linh như những ngôi sao trong truyện cổ tích
nói về xứ sở thần tiên”, “những quả bóng sút vô tội vạ của bọn trẻ
con trong một góc phố”, “tiếng rao của một bà bán xôi sáng có cái
mủng đội trên đầu…”.
Tất cả những điều đó tác động rất mạnh vào tâm hồn cô thanh
niên xung phong. Phương Định thốt lên “Chao ôi!”- câu cảm thán
chứa niềm xúc động và cả niềm thương nhớ, nó là một sự khẳng
định mạnh mẽ đánh tan các cảm giác mơ hồ phía trên: “Có thể là tất
cả những cái đó”. Dòng hồi tưởng chảy tràn trong tâm trí, Phương
Định bỗng nhận ra “Những cái đó ở thật xa…”. Dấu chấm lửng báo
hiệu những bồi hồi tha thiết, những bâng khuâng trong tâm hồn.
Tại sao những kí ức ấy đối với Phương Định lại “ở thật xa”?
Đó là khoảng cách có thật về không gian, bởi chân cao điểm nơi
Phương Định và các đồng đội làm việc vốn biệt lập và xa cách với
quê hương của cô. Đó còn là cái xa xôi về thời gian, bởi tất cả hình
ảnh sống động và thân thương ấy đến từ miền trời khác – miền trời
của quá khứ, miền trời của kí ức. Hiện tại căng thẳng khốc liệt luôn
phải giằng co trước lằn ranh sống – chết để hoàn thành nhiệm vụ
dường như khiến miền kí ức ấy đối với Phương Định trở nên xa
vắng như một câu chuyện cổ tích.
Và một khi chúng sống dậy, chúng bừng thức một sức mạnh từ
bên trong tâm hồn, “xoáy mạnh như sóng trong tâm trí” Phương
Định. Những làn sóng kí ức xoáy mạnh ấy đã đánh thức trong tâm
hồn Phương Định những gì? Phải chăng là tình yêu thiết tha với quê
hương, với gia đình, với mẹ, với từng cảnh vật thân thương nhất của
Hà Nội trong cô? Phải chăng những kí ức ấy tiếp thêm trong
Phương Định một nguồn sức mạnh to lớn để tiếp tục vững vàng
vượt qua tất cả? Phải chăng những kí ức ấy nhắc nhớ, khắc sâu cái
lý do cao cả mà thiêng liêng khiến Phương Định và đồng đội phải
chống chọi với cuộc sống khắc nghiệt gian khổ chiến trường: Để
bảo vệ những gì thân yêu nhất? Và phải chăng, nó còn thắp lên
trong cô và các đồng đội của mình một niềm tin và một niềm khao
khát mãnh liệt vào một tương lai hòa bình phía trước, để Phương
Định có thể quay trở về sống yên bình với thành phố quê hương, để
những kí ức trong tâm hồn không còn “xa xôi”?

56
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Tác phẩm kết lại như thế, đầy dư ba vang vọng và rất nhiều
chiều sâu chưa nói hết, nhưng người đọc dường như bắt gặp một
tia sáng mạnh mẽ và ấm áp bừng lên trong tâm hồn Phương Định.
* Đánh giá Qua đoạn trích, người đọc thấy được nghệ thuật miêu tả tâm
lý đặc sắc của nhà văn Lê Minh Khuê. Nhà văn đã nắm bắt những
quy luật tâm lý và diễn tả nó một cách tự nhiên, sinh động, dòng kí
ức của Phương Định đi từ chỗ mơ hồ cho đến rõ ràng, từ cảm xúc
bâng khuâng cho đến sự xúc động sâu sắc…Đoạn trích giàu chất
thơ với những câu văn tuôn dài miên man đầy những khoảng lặng,
âm hưởng câu văn du dương như một bản nhạc với nhiều thanh
bằng và những phép điệp tạo điệp khúc tha thiết của cảm xúc.
Nhiều hình ảnh, chi tiết gợi cảm, sinh động tạo ra những “bụi vàng”
làm nên thiên truyện ngắn giàu sức sống.
III. Kết bài Qua đoạn văn trên, Phương Định hiện lên là một cô gái đa
cảm, có tâm hồn lãng mạn, gắn bó sâu đậm với quê hương, với đất
nước. Bằng một ngòi bút bàng bạc chất thơ và thấm đẫm cảm xúc,
Lê Minh Khuê đã vẽ nên bức chân dung gần gũi, đáng yêu của cô
thanh niên, để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc. Chính vì lẽ đó, đứa
con tinh thần đầu tay của nhà văn Lê Minh Khuê, truyện ngắn
“Những ngôi sao xa xôi” đến nay vẫn có sức sống mãnh liệt, nó
khơi gợi trong lòng người đọc sự trân trọng và nể phục trước một
thế hệ trẻ hào hùng của những trang sử vàng dân tộc.

ĐỀ 4: CẢM NHẬN VỀ VẺ ĐẸP TÂM HỒN CỦA NHỮNG CÔ GÁI THANH NIÊN
XUNG PHONG TRONG TRUYỆN NGẮN « NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI » CỦA NHÀ
VĂN LÊ MINH KHUÊ. TỪ ĐÓ HÃY LIÊN HỆ THỰC TẾ TRÁCH NHIỆM CỦA THẾ
HỆ THANH NIÊN TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.
I. Mở bài
Thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ở đó, ai cũng sẵn
một lòng hi sinh vì đất nước, sẵn sàng lên những chiến tuyến xa xôi nhất, hiểm nguy
nhất, không tiếc thân mình để bảo vệ tổ quốc yêu thương. Một lần nữa, Lê Minh
Khuê với truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” lại đem đến cho ta hình ảnh về những
con người anh hùng, vĩ đại ấy- ba nữ thanh niên xung phong trong tổ trinh sát mặt đường
trên một cao điểm ở tuyến đường Trường Sơn.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
a. Vẻ đẹp chung của ba cô gái

57
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
- Nhẹ nhàng như tâm hồn phụ nữ của mình, Lê Minh Khuê đi tìm những vẻ đẹp ẩn
khuất và phát hiện ra vẻ đẹp ẩn sâu ở những nữ thanh niên xung phong trong cuộc sống
đời thường và trong chiến đấu. Câu chuyện kể về ba nữ thanh niên xung phong làm
nhiệm vụ trinh sát mặt đường gồm Thao, Phương Định và Nho. Công việc của họ là quan
sát tọa độ ném bom của địch, kiểm tra đo đạc các hố bom, san lấp mặt đường và nếu cần
sẽ phá bom nổ chậm. Đó là một công việc vất vả và vô cùng hiểm nguy, trong khi ba cô
gái có tuổi đời rất trẻ.
- Ở ba cô gái trẻ có những phẩm chất chung của người chiến sĩ kiên trung, bất
khuất. Họ là những cô gái còn rất trẻ, tuổi đời mười tám đôi mươi. Nghe theo tiếng gọi
thiêng liêng của Tổ quốc, họ rời xa gia đình, xa mái trường, tình nguyện vào cái nơi mà
sự mất còn chỉ diễn ra trong gang tấc. Họ hi sinh tuổi thanh xuân và không tiếc máu
xương, thực hiện lí tưởng cao đẹp:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
Họ ra đi mà không tiếc tuổi thanh xuân, nguyện dâng hiến hết mình cho đất nước:
“Ôi Tổ quốc!Nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”.
- Qua thực tế chiến đấu, cả ba cô gái đều có tinh thần trách nhiệm vô cùng cao trong
công việc của mình. Mặc dù còn rất trẻ, luôn phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ, họ có thể
hi sinh bất cứ lúc nào, nhưng để con đường được thông suốt nên các cô luôn sẵn sàng
trong việc ra trận. Có lệnh là lên đường bất kể trong tình huống nào. Họ làm việc một
cách tự nguyện, luôn nhận khó khăn, nguy hiểm về mình:“Tôi một quả bom trên đồi.
Nho hai quả dưới lòng đường. Chị Thao một quả dướicái chân hầm ba – ri – e cũ”. Đối
mặt với hiểm nguy, các cô cũng nghĩ đến cái chết nhưng là “một cái chết mờ nhạt không
cụ thể” quan trọng là “liệu mìn có nổ, bom có nổ không?”. Như thế họ đã đặt công việc
lên trên cả tính mạng của mình.
- Mặc khác, họ bình tĩnh, can trường và có tinh thần dũng cảm. Những lúc căng thẳng
nhất, chị Thao móc cái bánh bích quy trong túi ra nhai. Họ nói đến công việc phá bom
với giọng điệu bình thản: “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày
nào ít: ba lần”. Khi phá bom, bước tới những quả bom chưa nổ, họ không đi khom mà
cứ đường hoàng, thẳng lưng bước tới. Đối mặt với cái chết, các cô không hề run sợ mà
bình tĩnh moi đất, đặt dây,châm lửa, tính toán sao cho chính xác.
- Ở ba cô gái còn có tình đồng đội, đồng chí keo sơn, thắm thiết. Ba người bọn họ như
ba chị em mặc dù họ không được sinh ra trong cùng một gia đình, nhưng từ khi họ cùng
nhau vào sinh ra tử trên tuyến đường Trường Sơn đầy bom đạn và đầy hiểm nguy đã giúp
họ ngày càng gắn kết với nhau và dần trở thành các chị em vô cùng thân thiết với nhau.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi được nghỉ ngơi, họ luôn vui đùa cùng nhau. Nhưng khi
ra chiến trường thì họ luôn tương trợ lẫn nhau và luôn liều mình giúp đỡ và động viên
nhau mỗi khi ai đó bị thương.
- Tâm hồn của ba cô gái trẻ còn đẹp hơn những vì sao trên trời. Cuộc sống chiến đấu
ở chiến trường thật gian khổ, hiểm nguy nhưng họ luôn lạc quan, yêu đời. Họ có cuộc
sống nội tâm phong phú, đáng yêu, dễ xúc cảm, nhiều mơ ước. Họ thích làm đẹp cho
cuộc sống của mình ngay cả trong hoàn cảnh chiến trường ác liệt. Nho thích thêu thùa,
58
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
chị Thao chăm chép bài hát, Phương Định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối
mộng mơ và hát… Họ hồn nhiên như những đứa trẻ trước cơn mưa đá. Và trận mưa đã
trở thành nỗi nhớ - sự nối dài quá khứ hôm qua và khát vọng mai sau. Kỉ niệm sống dậy
như những khoảng sáng trong tâm hồn, những cảm xúc hồn nhiên như nguồn sống, điểm
tựa, giúp họ thêm vững vàng, thêm sức mạnh vượt qua những khó khăn,nguy hiểm. Quả
thật, đó là những cô gái mang trong mình những tính cách tưởng như không thể cùng tồn
tại,vô cùng gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu mà cũng hồn nhiên, vô tư trong cuộc sống
sinh hoạt.
- Bởi lẽ trong lòng họ biết rõ rằng cuộc chiến này sẽ còn kéo dài và chỉ có yêu đời, lạc
quan và nhưng lời động viên nhau mới có thể giúp họ vượt qua được nhưng khó khăn và
gian khổ này. Và cứ như thế, cuộc đời của họ lúc nào cũng rộn ràng những tiếng cười và
đầy ắp niềm vui mặc dù cuộc chiến xung quanh họ vẫn diễn ra vô cùng khốc liệt và tàn
nhẫn.
- Ba cô gái ấy như một mùa xuân rực rỡ, trong lành, tràn trề sức sống, khiến cho ai cũng
say đắm. Họ đẹp ở hình thức và đẹp cả trong tâm hồn. Tuy sống mỗi ngày trong hang
đá, sống giữa khói bụi và những lần mặt đất rung chuyển dữ dội nhưng những cô gái này
lại có tâm hồn rất đẹp, rất hồn nhiên, mơ mộng và lạc quan về tương lai. Như thể những
tâm hồn ấy chưa từng bị chiến tranh làm bẩn dù chỉ một chút thôi. Ngoài Nho, Thao,
Phương Định, dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, trên tuyến đường Trường Sơn ấy vẫn
có rất nhiều những tâm hồn trong như những giọt sương đầu ngày và đẹp như những cánh
hoa đầu xuân.
- Họ còn rất trẻ, lứa tuổi mà các cô gái đáng lẽ đã phải được say đắm trong một tình yêu
nào đó thì với Thao, Phương Định và Nho lại dành hết tình yêu cho đất nước. Không có
một thứ tình yêu nào khác chen lẫn trong trái tim họ ngoài tình yêu đất nước đang ngự trị
ở đó. Trái tim trẻ cũng đó đôi lần rung cảm nhưng nó mau chóng bị dập tắt đi ngay. Bởi
họ hiểu, khi tổ quốc chưa được giải phóng thì không có một hạnh phúc nào có thể bền
vững được. Họ lấy hạnh phúc của cả dân tộc làm mục tiêu chiến đấu và tạm quên đi
hạnh phúc của riêng mình.
- Ở nơi rừng núi vắng người, họ là gia đình. Họ yêu thương nhau như chị em ruột thịt,
chia sẻ cho nhau từng niềm vui nỗi buồn. Trong công việc, họ không bao giờ bỏ rơi đồng
đội. Mỗi khi bước vào nhiệm vụ, họ đều hợp đồng tác chiến, phân công rõ ràng và thao
tác chính xác. Mỗi sơ xuất trong công việc của ai đó đều có thể khiến cho cả tổ phải hứng
chịu hậu quả khủng khiếp. Họ hiểu rõ điều đó. Họ không sợ chết nhưng lại sợ gây tổn hại
cho đồng đội của mình.
b. Vẻ đẹp riêng của ba cô thanh niên xung phong
* Chuyển ý : Bên cạnh những phẩm chất chung ấy, ở ba cô gái, mỗi người mang một tính
cách riêng rất dễ thương và đáng kính trọng. Thao, tổ trưởng- người chị cả của cả tổ.
Chị là một người điềm tĩnh và ít nói, ít nhiều có từng trải hơn, mơ ước và dự tính về
tương lai có vẻ thiết thực hơn.

59
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
- Trong công việc, cô ấy là một người đáng gờm, rất cương quyết và táo bạo. Đặc biệt là
sự “bình tĩnh đếnphát bực” máy bay địch đến nhưng chị vẫn “móc bánh quy trong túi,
thong thả nhai”. Có ai ngờ con người dày dạn trước sự sống và cái chết như thế lại sợ
máu, sợ vắt: “thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét”.
- Có lẽ bao năm thương trường nên Thao đã trở nên như vậy. Hoặc do bản tính của cô
như vậy cũng nên. Nhưng dù thế nào thì một cô gái đày bản lĩnh. Nhưng mà đừng vì
vậy mà nghĩ Thao khô khan. Chị lại hay tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm.
Chị thích thêu thùa “Áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu”. Chị thích chép lời bài
hát . Và không ai có thể quên được chị hát : nhạc sai bét, giọng thì chua. Chị chăm chép
bài hát dù chẳng thuộc nhạc, chị không hát trôi chảy được bài nào nhưng chị lại có ba
quyển sổ dày chép bài hát và rỗi là chị ngồi chép bài hát như một cách để vượt qua sự
đơn điệu và nhàm chán cuộc sống nơi rừng núi này.
- Và Nho- cô em út của tổ, là một cô gái trẻ, xinh xắn, rất hồn nhiên, ngây thơ, vô tư
“trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng”. Nho có “cái cổ tròn và những cúc áo
nhỏ nhắn” rất dễ thương khiến Phương Định “muốn bế nó trên tay”. Nho lại rất hồn
nhiên – cái hồn nhiên trẻ thơ “vừa tắm dưới suối lên, cứ quần áo ướt, Nho ngồi, đòi ăn
kẹo”; khi bị thương nằm trong hang vẫn nhổm dậy, xòe tay xin mấy viên đá mưa. Nhưng
trong chiến đấu thì rất dũng cảm, hành động thật nhanh gọn“Nho cuộn tròn cái
gối,cất nhanh vào túi”, “quay lưng lại chúng tôi, chụp cái mũ sắt lên đầu…” Và trong
một lần phá bom, cô đã bị sập hầm, đất phủ kín lên người. Mặc dù bị thương rất đau
nhưng cô không rên la, không muốn cho đồng đội phải lo lắng.
- Phương Định được biết đến là cô gái để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi
người đọc. Phương Định chính là một con gái Hà Nội cô được nhà văn miêu tả hiện lên
trong trang sách đó là một cô gái có hai bím tóc dày, tương đối mềm. Cô có một cái cổ
cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn mới thật đẹp làm sao. Và cô tự nhận “Nói một cách
khiêm tốn tôi là một cô gái khá”. Thực tế thì đó là một sự nói tránh, nói một cách khiêm
tốn. Phương Định đẹp như một đóa hoa nở giữ rừng. Cô mang vẻ đẹp của người Hà Nội,
đằm thắm và mê say. Bởi thế mà, co rất thích soi gương và tự ngắm mình trong gương
đến hàng giờ liền. Thế rồi người đọc ấn tượng nhất chính là đôi mắt Định-một đôi mắt
mà các anh lái xe luôn nhận xét “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm” đến thế. Phương Định
cũng rất kiêu kỳ khi được các anh pháo thủ và lái xe “hỏi thăm” cô, có khi còn viết thư
cho Phương Định nữa.
- Ở Phương Định người ta nhận thấy cô hiện lên như là một cô gái rất hồn nhiên yêu đời,
giàu cá tính. Cô cũng rất hay hát và khi ngồi lên thành cửa sổ căn phòng nhỏ bé nhà
mình và có thể say sưa hát. Cho đến khi cô phải sống trong cảnh bom đạn ác liệt khi mà
chính cái chết kề bên thì người con gái đó như càng thích hát hơn. Có lẽ rằng cũng
chính tiếng hát đó như át tiếng bom của quân thù. Cô luôn thích những bài hành khúc,
những điệu dân ca quan họ, hay còn thích cả những bài Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên
Xô, bài dân ca ý… Không chỉ dừng lại ở đó, Phương Định còn biết bịa ra những lời hát
để chị Thao lúc nào rảnh cứ "say mê" chép vào sổ tay của mình.

60
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
Ba cô gái sống trong làn bom đạn nhưng tâm hồn họ lại đẹp. Tâm hồn trong và sáng lạ
thường. Có phải tâm hồn ấy chính là nơi họ nương tựa khi ngoài kia quá nhiều những khó
khăn, mệt mỏi?
=> Mỗi người có một cá tính riêng nhưng ở họ đều ngời sáng vẻ đẹp của chủ nghĩa anh
hùng Việt Nam, của tuổi trẻ Việt Nam. Viết về ba cô thanh niên xung phong, Lê Minh
Khuê đã không tô vẽ, không mĩ lệ mà miêu tả hết sức cụ thể, chân thực bằng cách cá thể
hóa nhân vật với những hình ảnh rất đời thường. Họ đã từ cuộc đời bước vào trang sách,
trở thành những anh hùng –những ngôi sao trên bầu trời Trường Sơn.
c. Liên hệ thực tế về nhiệm vụ của thế hệ thanh niên trong việc xây dựng đất nước
và bảo vệ tổ quốc trong tình hình hiện nay
- Ngày nay, những cánh rừng Trường Sơn đã im tiếng súng, màu xanh đã hồi sinh trên
những cánh rừng già. Chúng ta hiểu được có cuộc sống như ngày hôm nay đó là nhờ biết
bao thế hệ cha ông đổ biết bao mồ hôi, xương máu và nước mắt mới dệt gấm thêu hoa
trên trang sử vàng đất nước. Vì thế chúng ta cần tự hào về những truyền thống tốt đẹp đó.
Mặc dù chúng ta đang sống trong hoà bình nhưng đâu đó xung quanh ta vẫn còn các thế
lực thù địch âm mưu thôn tính nước ta. Thiết nghĩ, là một công dấn của đất nước Việt
Nam trong thời đại mới, chúng ta cần có trách nhiệm góp một phần nhỏ bé của mình
trong việc xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc, phát huy những truyền thống anh hùng
của ba nữ thanh niên trong tác phẩm nói riêng và của cha ông ta nói chung.
3. Đánh giá, mở rộng
- Với cách lựa chọn ngôi kể phù hợp, kể chuyện tự nhiên, xây dựng nhân vật nhất là
miêu tả tâm lí, ngôn ngữ giản dị vừa mang tính khẩu ngữ vừa đậm chất trữ tình, kết hợp
câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập, gợi không khí chiến trường, truyện “Những ngôi sao xa
xôi” đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến
đấu đầy gian khổ hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô thanh niên xung
phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đó chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu của thế hệ trẻ
Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước.
* Liên hệ Mở rộng: Hình ảnh những cô thanh niên xung phong trong “Những ngôi sao xa
xôi” khiến ta gợi nhớ đến hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong trong thơ
Phạm Tiến Duật, Lâm Thị Mỹ Dạ, trong văn của Nguyễn Minh Châu, và 10 đóa hoa
thơm ở ngã ba Đồng Lập,…Họ là những cô gái trẻ đã hiến dâng tuổi thanh xuân của
mình cho đất nước.
“Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời nằm yên trong đất
Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói lung linh”.

( “Khoảng trời hố bom”- Lâm Thị Mỹ Dạ)


III. Kết bài

Truyện ngắn Những Ngôi Sao Xa Xôi là lời nhắc nhở chân thành của Lê Minh Khuê
muốn gửi đến mọi thế hệ. Dân tộc ta đã sống như thế ấy, đã chiến đấu như thế ấy. Nền
độc lập của hôm nay được xây dựng bằng xương máu và sự hi sinh cao cả của biết bao

61
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
con người. Bởi thế, học tập tấm gương của ba cô gái trẻ, tuổi trẻ ngày nay phải sống sao
cho xứng đáng với những hi sin h, mất mát của dân tộc, tiếp tục phát huy thành quả ấy
trong thời đại mới.

Đề 4: Trình bày cảm nhận về nhân vật Phương Định trong truyện ngắn Những ngôi sao
xa xôi (Lê Minh Khuê)

Lê Minh Khuê là nhà văn thuộc thế hệ những tác giả bắt đầu sáng tác trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ. Với tài năng và sự tìm tòi, khám phá của mình, bà sớm gặt hái
được nhiều thành công về mảng đề tài là cuộc sống chiến đấu của những thanh niên
xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. “Những ngôi sao xa xôi” là một
trong những truyện ngắn tiêu biểu của Lê Minh Khuê. Nhân vật chính trong tác phẩm -
Phương Định - là nhân vật giành được nhiều sự yêu mến, cảm phục của người đọc bởi
vẻ đẹp ngoại hình, tâm hồn và sự dũng cảm, ngoan cường, bình tĩnh ung dung trước
hiểm nguy.
Phương Định tạo cảm tình đầu tiên cho người đọc bởi vẻ trẻ trung, xinh đẹp của một
cô gái mới lớn. Cô là người nhạy cảm và luôn quan tâm đến hình thức của mình. Cô tự
đánh giá: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím
tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Con mắt tôi thì
các lái xe bảo: Cô có cái nhìn sao mà xa xăm”, vẻ đẹp ấy của cô đã hấp dẫn bao chàng
trai: "các anh pháo thủ và lái xe hay hỏi thăm tôi”. Điều đó làm Phương Định tự hào
nhưng điều đặc biệt là cô chưa dành riêng tình cảm cho ai.
Nhân vật chính của tác phẩm còn khiến người đọc khâm phục bởi sự dũng cảm
ngoan cường, bình tĩnh ung dung vượt lên khó khăn nguy hiểm.
Phương Định cùng những người bạn của mình sống và chiến đấu trên một cao điểm,
giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Chị phải chạy trên cao điểm
đánh phá của máy bay địch. Sau mỗi trận bom, chị cùng đồng đội phải lao ra trọng điểm,
đo và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và
dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh nó để phá. Đó là công việc mạo hiểm với cái
chết luôn gần kề tạo áp lực khiến thần kinh vô cùng căng thẳng. Thực hiện công việc đó,
Phương Định và đồng đội phải rất bình tĩnh và họ đã thực sự bình tĩnh, ung dung một
cách lạ thường. Thậm chí, với họ, công việc ấy đã trở thành bình thường: "Công việc của
chúng tôi là ngồi đây. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom,
đếm bom chưa nổ và khi cần thì phá bom”.
Mặc dù đã quen với công việc nguy hiểm này, thậm chí một ngày có thế phải phá tới
năm quả bom nhưng mỗi lần vẫn là một thử thách tột độ với thần kinh của Phương
Định. Từ khung cảnh và không khí chứa đầy càng thẳng đến cảm giác là các anh cao xạ ở
trên kia cũng đang theo dõi từng động tác cử chỉ của mình để lòng dũng cảm ở cô như
được kích thích bởi sự tự trọng: “Tôi đến gần quả bom... đàng hoàng mà bước tới” ở
62
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

bên quả bom kề sát với cái chết im lim và bất ngờ, từng cảm giác của con người như
cũng trở nên sắc nhọn hơn: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động
sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”.
Đặc biệt, Phương Định càng khiến người đọc yêu mến, trân trọng hơn bởi tâm hồn
trong sáng, tinh tế. Chị rất giàu tình cảm với đồng chí, đồng đội, quê hương và vô cùng
lạc quan yêu đời.
Giống như hai người đồng đội trong tổ trinh sát, Phương Định yêu mến những người
đồng đội trong tổ và cả đơn vị của mình. Đặc biệt, cô yêu mến và cảm phục tất cả những
người chiến sĩ mà hằng đêm cô gặp trên trọng điểm của những con đường vào mặt trận.
Phương Định đã lo lắng, sốt ruột khi đồng đội lên cao điểm chưa về. Chị yêu thương và
gắn bó với bạn bè nên có những nhận xét tốt đẹp đầy thiện cảm về Nho, phát hiện ra vẻ
đep dễ thương ”nhẹ, mát như một que kem trắng” của bạn. Chị còn hiều và đồng cảm
sâu sắc với những sở thích và tâm trạng của chị Thao.

Phương Định cũng là người con gái có một thời học sinh hồn nhiên, vô tư bên người
mẹ thân thương trong một căn buồng nhỏ nằm trên một đường phố yên tĩnh hồi Hà Nội
còn thanh bình trước chiến tranh. Những kỉ niệm ấy luôn sống lại trong cô giữa chiến
trường dữ dội. Nó là niềm khao khát làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh căng thẳng,
khốc liệt của chiến trường.
Vào chiến trường đã ba năm, làm quen với những thử thách hiểm nguy, giáp mặt
hàng ngày với cái chết nhưng ở Phương Định không mất đi sự hồn nhiên trong sáng và
cả những mơ ước về tương lai: "Tôi mê hát”, “thích nhiều bài".
Phương Định là cô thanh niên xung phong trên tuyến đường huyết mạch Trường Sơn
những ngày kháng chiến chống Mĩ. Chị tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong những
năm tháng hào hùng ấy. Họ là những người không tiếc tuổi thanh xuân, hiến dâng trọn
vẹn cho Tổ quốc những gì quý giá nhất:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

Trong "Những ngôi sao xa xôi", Lê Minh Khuê đã miêu tả chân thực và sinh động tâm lí
nhân vật. Tác phẩm được kể từ ngôi thứ nhất tạo thuận lợi cho tác giả miêu tả thế giới nội
tâm qua việc để nhân vật tự sự về mình.
Nhân vật Phương Định trong "Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê mang
những đặc điểm tốt đẹp tiêu biểu cho tâm hồn những chàng trai, cô gái thanh niên xung
phong lên đường chống Mĩ trong những năm tháng vất vả mà hào hùng của dân tộc.
Phương Định để lại trong lòng độc giả niềm yêu mến, cảm phục đốì với thế hệ trẻ Việt

63
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Nam trong những ngày tháng bom rơi đạn nổ ấy. Và hơn thế, điều đó trở thành động
lực để thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay viết tiếp nét son trong trang sử của thời đại mình.

VĂN BẢN : LÀNG ( KIM LÂN)


( Cô chữa 2 đề thi KSCL lần 1 – Văn 9)
ĐỀ 1: Cảm nhận về vẻ đẹp tình yêu làng của ông Hai qua đoạn trích sau:
Một người đàn bà cho con bú mé bên kia nói xen vào:
- Nó rút ở Bắc Ninh về qua chợ Dầu nó khủng bố ông ạ.
Ông Hai quay phắt lại lắp bắp hỏi:
- Nó… Nó vào chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng? Người đàn bà ẵm con
cong môi lên đỏng đảnh:
- Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa. Cổ
ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở
được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng
lạc hẳn đi:
- Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…
- Thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên đây mà lại. Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ.
Tây vào làng chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng chánh Bệu thì khuân cả
tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam nhông, đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh
mà lại. Có người hỏi:
- Sao bảo làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?…
- Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to:
- Hà, nắng gớm, về nào…
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám
người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người
đàn bà cho con bú:
- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương.
Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!
Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.
(“Làng” - Kim Lân, Ngữ văn 9, tập 1, NXB GD Việt Nam, trang 165)

Dàn ý Bài làm


I. Mở bài Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người dân
Miền Bắc. Ông có sở trường viết truyện ngắn và truyện của ông
thường viết về người nông dân lam lũ, nghèo khó nhưng giàu lòng
- Dẫn dắt: giới nhân hậu và yêu nước. Truyện ngắn “Làng” được ông sáng tác
thiệu tác giả trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ trên quy mô
toàn quốc. Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện thành công hình
- Giới thiệu tác ảnh người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến mà tình
64
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

phẩm yêu làng quê đã hoà nhập trong lòng yêu nước và tinh thần của
người dân kháng chiến. Đọc truyện ngắn này người đọc không
- Giới thiệu đoạn khỏi ấn tượng với cách thể hiện tình yêu làng của nhân vật ông
trích Hai, đặc biệt là trong đoạn ông mới nghe tin làng Chợ Dầu theo
giặc: “Một người đàn bà cho con bú mé bên kia nói xen vào... Ông
Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.’’

II. Thân bài


* Khái quát Tác phẩm Làng được viết năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng
- Hoàn cảnh ra đời chiến chống Pháp, đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ. Truyện đã
tác phẩm diễn tả thành công tình yêu làng, quê hương đất nước, tinh thần
cách mạng của nhân vật ông Hai. Tình yêu làng quê ở nhân vật ông
- Hoàn cảnh của Hai được bộc lộ xuyên suốt trong tác phẩm qua lời nói, việc làm,
ông Hai cử chỉ, hành động, đặc biệt nhà văn đã quan sát và miêu tả tỉ mỉ
những diễn biến nội tâm trong suy nghĩ của ông Hai khi đặt trong
một tình huống bất ngờ, đau đớn. Mỗi thời điểm là một cung bậc
cảm xúc, một nấc thang tâm lí từ thấp đến cao, tôn lên vẻ đẹp tình
yêu làng quê trong tâm hồn của ông Hai. Đoạn trích trên đã miêu tả
chân thực và sinh động tâm trạng nhân vật ông Hai khi mới nghe
tin làng Chợ Dầu theo giặc.
- Tóm tắt
đoạn trích Ông Hai vốn là người yêu làng Chợ Dầu - nơi “chôn rau cắt rốn”
của ông. Tình yêu làng của ông gắn liền với những thay đổi của
làng quê, đất nước, cách mạng. Trước Cách mạng tháng Tám năm
1945 tình yêu làng của ông biểu hiện ở tính hay khoe về làng của
mình: giàu có, sầm uất... Sau Cách mạng tháng Tám ông lại khoe
về làng ông kháng chiến rầm rộ khắp nơi với những buổi đào hào
đắp ụ mà bản thân ông cũng đã từng trực tiếp tham gia. Khi đi tản
cư, tình yêu làng của ông gắn liền với những nỗi nhớ về làng. Ông
- Giới thiệu luôn theo dõi tin tức về làng, tự hào hãnh diện về làng quê một
vị trí đoạn lòng một dạ với kháng chiến, cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ.
trích Đoạn trích dẫn ghi lại cảm xúc của ông Hai khi rời khỏi phòng
thông tin với tâm trạng vui sướng, hả hê. Ruột gan ông cứ múa
cả lên, vui quá! Rồi ông đi nghênh ngang ngoài đường, gặp ai
ông cũng chào hỏi. Trên đường về, ông đã ghé lại quán nước,
cạnh gốc cây đa. Tại đây, ông đã nghe một tin sét đánh, đó là
làng Chợ Dầu theo Tây làm Việt gian bán nước. Đây là một tin
sốc mà ông không thể tưởng tượng được. Nó khiến ông rơi vào
những xúc cảm rất tiêu cực và nhớ đời.

65
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
* Phân tích
- Hoàn cảnh ông *Vẻ đẹp tình yêu làng của ông Hai khi mới nghe tin làng Chợ
Hai nghe tin làng Dầu theo Tây được bộc lộ qua tâm trạng của ông Hai khi nghe
chợ Dầu theo giặc người ta nhắc đến làng Chợ Dầu.

- Tâm trạng của + Tình yêu làng quê của ông Hai được thể hiện qua sự phản ứng rất
ông Hai khi nghe bất ngờ: “Ông Hai quay phắt lại lắp bắp hỏi:” khi nghe người ta
người ta nhắc nhắc đến tên ngôi làng thân thương của ông “Nó rút ở Bắc Ninh về
đến làng Chợ qua Chợ Dầu, nó khủng bố ông ạ”. Đó là một phản ứng thể hiện rõ
Dầu. sự bất ngờ “quay phắt lại”, sự hồi hộp, cuống quýt, khiến giọng
nói trở lên “lắp bắp” và một tâm trạng phấn chấn như chờ đợi,
Ông Hai quay
như khao khát được nghe người ta nói những điều tốt đẹp về
phắt lại lắp bắp
làng của mình. Ông Hai nhắc lại cả tên làng của mình, và hỏi:
hỏi
“Thế ta giết được bao nhiêu thằng?” . Biểu hiện đó cho thấy trong
lòng ông Hai luôn thường trực một tình yêu làng, luôn tự hào về
ngôi làng kháng chiến của mình. Câu hỏi của ông hết sức tự
nhiên, đúng với suy nghĩ và mong muốn trong lòng ông.
-> Đó là một tình cảm chân chất, mộc mạc mà sâu nặng thật
đáng trân trọng ở người nông dân!
* ông Hai khi
* Vẻ đẹp tình yêu làng của ông Hai còn được thể hiện ở khi
tiếp nhận thông
tiếp nhận thông tin làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây
tin làng Chợ Dầu
Việt gian theo Cái tin dữ ấy đến với ông đột ngột vào giữa một buổi trưa, lúc
Tây tâm trạng ông đang vui vẻ, phấn chấn vì nghe được tin ta thắng
giặc trên tờ báo của phòng thông tin, thật chẳng khác nào gáo nước
“Cổ ông lão
lạnh dội vào ngọn lửa đang cháy bừng bừng khiến ông sững sờ.
nghẹn ắng hẳn
Tin làng theo Tây đến với ông quá đột ngột, khiến ông Hai rơi vào
lại, da mặt tê rân
tâm lí đau khổ, hụt hẫng, bàng hoàng, sững sờ, tưởng như không
rân. Ông lão lặng
thể gượng dậy được: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân
đi, tưởng như đến
rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được” . Chỉ bằng
không thở được”
một vài câu văn ngắn, với nghệ thuật miêu tả chi tiết tỉ mỉ, cụ thể
những cử chỉ, dáng vẻ bên ngoài để thể hiện thái độ nội tâm bên
trong, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận chân thực trạng thái tâm
lí ngạc nhiên đến sững sờ, bàng hoàng, ngỡ ngàng ,hốt hoảng, đến
ông Hai đã lắp nghẹn giọng khi nghe tin dữ - một cái tin mà ông không ngờ có thể
bắp hỏi : “Liệu có xảy ra.
thật không hở
bác? Hay là chỉ Vốn là một người yêu làng, luôn tự hào về làng của mình nên
lại….” ông không thể ngờ, không thể tin rằng làng mình theo giặc. Cái tin
dữ ấy đến với ông như một cú sốc lớn bởi trong tâm trí ông, làng
Chợ Dầu, vốn là niềm tự hào về ý chí kiên cường về sự hăng hái

66
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

trong kháng chiến.


Bởi thế nên , trong cảm giác chưa thể tin, trong tâm trạng đầy hoài
nghi, ông Hai đã lắp bắp hỏi : “Liệu có thật không hở bác? Hay là
chỉ lại….” . Đối diện với những lời nói chắc như đinh đóng cột
+ Ông vờ lảng ra
rằng làng ông “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”, bao nhiêu niềm
chỗ khác, rồi về tin, bao nhiêu niềm tự hào về ngôi làng mà ông luôn khoe khoang
thẳng nhà. với mọi người bỗng chốc sụp đổ. Là người làng Chợ Dầu, ông đâu
còn can đảm để ở lại mà nghe những lời bàn tán bủa vây mình.
Ông vội vàng ra về cùng câu nói tưởng chừng như chỉ bâng quơ
+ Ông xấu hổ, tủi thốt lên nhưng nó lại chính là cái cớ ông bám lấy để rời khỏi
cực" cúi gằm mặt đây :”Hà, nắng gớm, về nào”. Mảnh độc thoại ấy sao mà cay
mà đi". đắng, xót xa như một sự trốn chạy thực tại tàn nhẫn, không
muốn ai phát hiện ra mình là người làng Chợ Dầu. Nếu trên đường
+ Thấy ông mất đi
đi tới phòng thông tin ông hiên ngang bao nhiêu thì giờ ông lại
hạnh phúc
“cúi gằm mặt mà đi”. Bởi cõi lòng ông Hai giờ đây tựa như vỡ tan
- Tâm trạng của thành từng mảnh, trái tim ông rỉ máu, đâu đây như thể một nỗi
ông Hai khi về chua xót, ô nhục và tủi thân.
nhà: Trong cảm giác lo lắng, hốt hoảng, ông lão cố bấu víu vào một tia
hi vọng rằng đó là một lời đồn đại , một sự nhầm lẫn không căn cứ.
+ Ông tủi thân Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy.
+ Ông căm giận Nhưng những người tản cư kể rành rọt quá, lại khẳng định họ vừa
ở dưới ấy lên, làm ông không thể không tin. Ông vờ lảng ra chỗ
những người theo
khác, rồi về thẳng nhà.
Tây
Trên đường về, trong tâm trí ông Hai chỉ còn cái tin dữ ấy xâm
+ Ông đau khổ, chiếm, nó trở thành nỗi ám ảnh day dứt. Ông hổ thẹn, nhục nhã,
tuyệt vọng "cúi gằm mặt xuống mà đi".Ông đánh trống lảng để che giấu tâm
trạng những nỗi tủi hổ trong lòng. Ống ra về như thể trốn chạy điều
gì khủng khiếp, cố không nghe nhưng bên tai vẫn còn nghe văng
vẳng tiếng chửi theo “giống Việt gian bán nước”. Nghe tiếng chửi
bọn Việt gian, ông xấu hổ, tủi cực" cúi gằm mặt mà đi". Đó là sự
tủi cực, xấu hổ; sự thất vọng tràn trề trong lòng ông lão.
* ông Hai trên Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ, tan tành trước cái tin sét
đường về đánh ấy. Cái mà ông yêu quí nhất nay cũng đã quay lưng lại với
ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất
đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một
lần nữa. Ông đã nghĩ tới hậu quả của cái tin dữ ấy: “Ông thoáng
nghĩ đến mụ chủ nhà”. Mụ mà biết gia đình ông là người làng chợ
Dầu thì thế nào cũng bị đuổi ra đường.

67
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)
Bao nhiêu điều tự hào về quê hương như sụp đổ trong tâm hồn
người nông dân rất mực yêu quê hương ấy. Ông cảm thấy như
chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các
con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy. Tác giả đã để cho nhân vật trải
qua từng cung bậc tâm lí, đẩy lên cao trào rồi bật ngược như vỡ òa
ở phần sau. Ngẫm kĩ, ta thấy đối với người nông dân chất phác, tay
lấm chân bùn thì cái tin làng theo giặc quả thật là cú sốc to lớn, là
điều đau đớn và nặng nề mà họ phải chịu đựng.

-> Đoạn trích đã diễn tả tâm trạng đau đớn, tủi cực, hụt hẫng,
vò xé, xấu hổ trong lòng ông Hai. Phải là một người có tình yêu
làng quê tha thiết, sâu nặng ông Hai mới có những tâm trạng
như vậy.
* Đánh giá Có thể nói. nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một hình ảnh
- Nghệ thuật người nông dân thời kì kháng chiến chống Pháp rất chân thật.
Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, đậm chất nông dân đồng bằng Bắc
- Nội dung Bộ , sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ đối thoại , nghệ thuật miêu
tả tâm lí nhân vật được miêu tả cụ thể qua diễn biến nội tâm suy
nghĩ cảm giác hành vi ngôn ngữ. Tình huống truyện khá độc đáo
tạo chiều sâu cho nhân vật, đã đặt nhân vật trong sự dằn vặt, đau
khổ .... Đó là một “chất liệu xúc tác” có năng lực thanh lọc những
tình cảm cao quý của con người. Qua tác phẩm Làng, nhà văn Kim
Lân đã thành công trong việc đổi mới trong nhận thức và tình cảm
của người nông dân Việt Nam trong giai đoạn chống Pháp. Một
người nông dân cần cù, chân chất, thà hi sinh tất cả chứ nhất định
không chịu khuất thân với giặc. Đó chính là vẻ đẹp của tình yêu
nước sâu thẳm của nhân vật ông Hai đáng cho chúng ta trân trọng.
III. Kết bài Để xây dựng thành công nhân vật ông Hai, Kim Lân đã dựng
được một tình huống truyện rất đặc biệt mà qua đó nhân vật bộc lộ
- Đánh giá chung
được chiều sâu tâm trạng. Nghệ thuật miêu tả tâm lí rất tinh tế,
thông qua từng cử chỉ, hành động, ý nghĩ, lời nói,… làm cho nhân
vật trở nên sống động, hấp dẫn. Khả năng sử dụng ngôn ngữ đối
thoại cùng độc thoại nội tâm linh hoạt đã tạo nên một ông Hai rất
điển hình của người nông dân Việt Nam yêu nước nhưng vẫn có
được những nét riêng, dấu ấn riêng của bản thân mình: một người
yêu làng da diết nay nghe tin làng theo giặc thì vô cùng đau khổ,
tuyệt vọng. Tâm trạng ấy khiến ta thêm hiểu hơn về ông- một
người nông dân yêu làng, yêu nước. Đó cũng chính là tình cảm của
những người nông dân nói chung trong thời kì đầu cuộc kháng

68
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

chiến chống Pháp. Tâm trạng ấy, tình cảm ấy thật đáng trân trọng
biết bao!

Đề 2: Cảm nhận về vẻ đẹp tình yêu làng của ông Hai qua đoạn trích sau:

Khoảng ba giờ chiều hôm ấy, có một người đàn ông đến chơi nhà ông Hai. Hắn
cũng là người chợ Dầu. Hai người thì thầm ở góc nhà một lúc lâu rồi thấy ông Hai đóng
khăn áo chỉnh tề tất tả theo hắn đi. Ông vội vã đến quên cả dặn trẻ coi nhà. Ông Hai đi
mãi đến xẩm tối mới về. Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm
bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy… Vừa đến ngõ ông lão đã lên tiếng:

- Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia quà cho nào. Lũ trẻ ở trong nhà ùa ra, ông lão vội rút
cái gói bọc lá chuối khô cho con bé lớn:

- Bánh rán đường đây, chia cho em mỗi đứa một cái.

Dứt lời ông lão lại lật đật đi thẳng sang bên gian bác Thứ.
Chưa đến bực cửa ông lão đã bô bô:
- Bác Thứ đâu rồi? Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông
chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết...cái chính là cái tin
làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.
Bác Thứ chưa nghe thủng câu chuyện ra sao, ông lão đã lật đật bỏ lên nhà trên.
- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính...
cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng có
gì sất. Toàn sai sự mục đích cả!
Cũng chỉ được bằng ấy câu, ông lão lại lật đật bỏ đi nơi khác.
(Trích Làng - Kim Lân, Ngữ văn lớp 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.169 –
170)
Dàn ý Bài làm
I. Mở bài Kim Lân là một nhà văn có sở trường về truyện ngắn. Ông
- Dẫn dắt: giới thiệu am hiểu sâu sắc về đời sống nông dân, nông thôn Việt Nam.
tác giả Truyện ngắn Làng đừng viết vào thời kỳ đầu cuộc kháng chiến
- Giới thiệu tác phẩm chống Pháp đăng trên tạp chí Văn Nghệ năm 1948. Ông Hai là
- Giới thiệu đoạn trích nhân vật chính của tác phẩm, một người nông dân phải rời làng
đi tản cư đã để lại những ấn tượng sâu sắc nhắc bởi tình yêu
làng, yêu nước, tinh thần kháng chiến, trung kiên với cách
mạng. Đọc truyện ngắn này người đọc không khỏi ấn tượng với
cách thể hiện tình yêu làng của nhân vật ông Hai, đặc biệt là
trong đoạn ông nghe tin làng được cải chính.
II. Thân bài Truyện làng được viết năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng
* Khái quát chiến chống Pháp. Truyện thành công không chỉ bởi tài năng
- Hoàn cảnh ra đời tác truyện ngắn của ông mà còn do sự am hiểu người nông dân cùng

69
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

phẩm thời kì lịch sử lúc bấy giờ. Truyện hấp dẫn bạn đọc ở nghệ thuật
miêu tả tâm lí nhân vật trong những tình huống đặc biệt cùng
- Hoàn cảnh của ông với cách viết đơn giản ngôn ngữ mộc mạc dân dã.
Hai Tình yêu làng quê ở nhân vật ông Hai được bộc lộ xuyên suốt
trong tác phẩm qua lời nói, việc làm, cử chỉ, hành động, đặc biệt
nhà văn đã quan sát và miêu tả tỉ mỉ những diễn biến nội tâm
trong suy nghĩ của ông Hai khi đặt trong một tình huống bất
ngờ, đau đớn. Mỗi thời điểm là một cung bậc cảm xúc, một nấc
thang tâm lí từ thấp đến cao, tôn lên vẻ đẹp tình yêu làng quê
Phân tích trong tâm hồn của ông Hai.
L Đ1: Tâm trạng của a. Khái quát nội dung đoạn trước đó.
ông Hai khi có người Ở phần đầu của tác phẩm, người đọc đã được chứng
đàn ông đến nói kiến một ông Hai rất yêu và tự hào về làng của mình. Thế rồi,
chuyện đột ngột ông nghe tin dữ làng Dầu theo giặc, giữa lúc tâm trạng
của ông đang phấn chấn vì nghe những tin thắng trận. Tâm trạng
ông trở nên đau đớn, nặng nề, tủi hổ tràn ngập lòng ông.Trước
ông Hai hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì nay lại đau đớn,
nhục nhã bấy nhiêu. Tình huống này buộc ông Hai phải lựa chọn
giữa tình yêu làng và tình yêu nước.Đoạn trích dẫn ghi lại cao
trào tâm trạng của nhân vật cũng là lúc bộc lộ một cách sâu sắc,
cảm động nhất tình cảm chân thành thiêng liêng của ông Hai với
quê hương, đất nước, cách mạng. Đó là tình huống khi tin dữ về
làng Chợ Dầu được cải chính, ông Hai như được hồi sinh,
“bệnh” hay khoe của ông lại “tái phát”
Kể từ ngày nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai không
dám đi đâu, tuy vậy bằng mọi cách ông vẫn lắng nghe mọi tin
tức về làng. Ông suy nghĩ của ông đã có sự lựa chọn dứt khoát
“Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tuy nhiên
, ông vẫn luôn mong có một phép màu xảy ra, luôn hi vọng rằng
tin “ Làng ông theo Tây “ chỉ là một sự nhầm lẫn. Chính vì vậy,
khi có người đàn ông đến nói chuyện với ông sau đó ông khăn
áo chỉnh tề rồi vội vã đi theo hắn đến quên nhắc cả bọn trẻ coi
nhà. Ông phải mong chờ một điều gì đó rất lớn từ người đàn ông
thì ông mới vội vã đi theo hắn như vậy.Và rồi đúng là có phép
màu xảy ra, ông đã nghe được tin mà mình muốn nghe “ Nhà
ông bị Tây nó đốt rồi” – đồng nghĩa với việc “Làng ông không
theo giặc”. Chắc rằng ông Hai đã rất mong ngóng một phép
màu từ người đàn ông đó, nếu không thì sao ông có thể đi ra
ngoài trong khi trước đó ông đó ông chỉ biết trốn tránh.Ông
Hai đã rất mong làng của mình không theo giặc vì ông có một
tình yêu mãnh liệt với làng Chợ Dầu.
LĐ2: *Ông Hai là một người nông dân ít chữ, chân chất, mộc mạc.
Ông Hai là một Đọc đoạn trích này, ta không khỏi ấn tượng với hình ảnh

70
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

người nông dân ít ông Hai- một người nông dân ít học, chân chất mộc mạc. Nhận
chữ, chân chất, mộc được tin cải chính, ông đi khoe khắp nơi. Ông gọi “Bác Thứ đâu
mạc rồi? Bác Thứ làm gì đấy?” rồi “Láo! Láo hết! Toàn là sai sự
mục đích cả” Cái cách ông Hai trò chuyện và giao tiếp với mọi
người mới thân thiện và gần gũi làm sao. Ông ít học, không
thông thạo chữ nghĩa nhưng lại thích dùng chữ. Kim Lân để cho
ông năm lần bảy lượt nói “Toàn là sai sự mục đích” nhưng
không hề biết rằng mình đang dùng sai từ. Thế đấy, người nông
dân bao giờ cùng mộc mạc và giản dị như vậy.
LĐ3: Tuy nhiên, nổi bật hơn cả ở ông Hai trong đoạn trích này là
tinh thần sẵn sàng hi tinh thần sẵn sàng hi sinh vì kháng chiến.
sinh vì kháng chiến Khi nghe tin cải chính làng Chợ Dầu không theo giặc, ông
của ông Hai Hai như được sống lại, mọi đau khổ, tủi nhục tan biến khi nghe
tin cải chính làng bị giặc tàn phá vì không theo Tây. Niềm vui
trở lại tràn đầy trên gương mặt, cử chỉ, dáng vẻ của ông. Khăn
áo lại chỉnh tề, mặt tươi rạng rỡ. Miệng bỏm bẻm nhai trầu, mắt
hấp háy, nói bô bô, khao các con bánh rán đường...
Ông hoan hỉ chạy sang nhà bác Thứ khoe với bác và tất cả
mọi người tin vui. “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông
chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho
biết... cải chính cái tên làng Chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy
mà. Láo! Lào hết!”. Ông nhắc đi nhắc lại “Tây nó đốt nhà tôi rồi
bác ạ. Đốt nhẫn!” Ấy thế mà vẫn vui. Mất hết cả cơ nghiệp mà
ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng, hạnh
phúc, chỉ biết đến trước mắt là niềm vui kháng chiến, niềm vui
cách mạng. Bởi lẽ, trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là
sự hồi sinh về danh dự của làng Chợ Dầu anh dũng kháng chiến.
Đó là một niềm vui kỳ lạ, thể hiện một cách đau xót và cảm
động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng
của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù
xâm lược.
Nỗi vui mừng của ông Hai thật là vô bờ bến: “Ông cứ múa
tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người mặt ông “tươi vui, rạng
rỡ hẳn lên”. Làng mình theo Chợ Dầu theo Đối với người nông
dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung
sướng hề hạ loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà
tôi rồi bác ạ!” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự
của mình. Mới đọc chi tiết này, ta thấy dường như vô lý bởi ngôi
nhà là cả một tài sản quá lớn. Mất nó ai mà không xót xa đau
đớn? Nhưng ông Hai lại có cử chỉ “Múa tay lên để khoe” đó là
biểu hiện của tâm trạng sung sướng, sung sướng đến tột độ. Tâm
trạng này dường như có vẻ không bình thường? Không! Đặt ông
Hai trong hoàn cảnh của làng Dầu đang bị hai tiếng Việt gian

71
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

theo Tây - thì ông Hai không vui sướng sao được vì nhà bị tây
đốt là bằng chứng hùng hồn rằng làng Dầu của ông vẫn theo
kháng chiến, theo cách mạng, đó là một làng quê anh hùng,
chống thực dân Pháp.
Chắc hẳn mất nhà ông Hai cũng đau lắm chứ, xót xa lắm
chứ.
Đối với người nông dân , căn nhà là một cơ nghiệp. Vậy mà ông
Hai lại sung sướng hả hê khoe: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ”
như một chiến công bởi vì: Với ông Hai, Tây đốt nhà là minh
chứng hùng hồn khẳng định làng ông không theo giặc, làng ông
vẫn anh dũng kháng chiến. Ông đã quên nỗi đau, sự mất mát
riêng để tự hào sung sướng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của
làng quê, đất nước. Thế đấy niềm vui, nỗi buồn của ông Hai
luôn gắn liền với vận mệnh của Làng Dầu. Thế mới biết ông Hai
yêu làng quê tha thiết đến chừng nào! Tình yêu làng quê được
mở rộng, hoà quyện trong tình yêu tổ quốc thật sâu nặng và
thiêng liêng.
Đó là niềm vui kì lạ, thể hiện một cách cảm động tinh
thần yêu nước và cách mạng của người dân Việt Nam trong
kháng chiến.Ông Hai đã biết đặt tình yêu nước lên trên tình
yêu cá nhân của mình với làng chợ Dầu, ông dành tất cả cho
cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong con người ông Hai nói
riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.
Vẻ đẹp tình yêu làng Niềm vui của ông Hai còn được thể hiện qua cách đối xử với
của ông Hai còn thể
mọi người.
hiện ở niềm vui của
ông khi đối xử với + Đầu tiên là với ba đứa trẻ, có thể chúng vui vì được mua bánh
mọi người chứ không phải vì tin cải chính nhưng nhờ tin cải chính mang lại
niềm vui cho ông Hai để rồi ông lan tỏa niềm vui đó qua những
chiếc bánh.
+ Ông lão khoe cái tin ấy, không biết bao người mừng, không
chỉ là mừng cho lão mà còn mừng cho chính họ, tin cải chính có
nghĩa là họ có những người đồng bào dũng cảm, chứng không
phải là Việt gian mà họ từng nghĩ.
+ Rồi cả mụ chủ, bên ngoài thì nói tức nói xóc thế thôi chứ mụ
cũng vui lắm, mụ giương tròn hai mắt lên nói rồi cười khì khì.
 Nhận xét: Niềm vui không chỉ của một mình ông
Hai, đó là niềm vui của tất cả mọi người.Không ai muốn
đồng bào theo Tây cả. Chắc trước đó,họ cũng rất buồn bã
với thất vọng, họ chỉ muốn kề vai sát cánh, cùng nhau dành
lại độc lập.

72
BỘ ĐỀ ÔN THI PHẦN VĂN HỌC KÌ II – Cô Giang ( THCS Quang Trung)

Đánh giá Nhà văn Kim Lân đã tạo dựng một tình huống thử thách
ND – NT tâm lí nhân vật rất đặc sắc, qua đó, tính cách, phẩm chất của
nhân vật nổi lên thật rõ ràng. Lối kể chuyện giản dị tự nhiên,
gần gũi, ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo, sự kết hợp hài hòa
giữa ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm cũng góp phần
xây dựng được một hình ảnh người nông dân thời kì kháng
chiến chống Pháp rất chân thật
- Đoạn trích đã cho ta thấy sự phát triển trong nhận
thức của người nông dân Việt Nam: tình yêu làng là cơ sở
của tình yêu nước, yêu cách mạng song tình yêu nước vẫn
bao trùm lên tất cả và là định hướng hành động cho họ.
III. Kết bài Văn hào I-li-a, Ê-ren-bua có nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng
- Đánh giá chung xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu tổ quốc”. Ông Hai đúng là
- Truyện khơi gợi một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn bó
trong em những tình với làng. Lòng yêu làng chính là cội nguồn của lòng yêu nước.
cảm, trách nhiệm gì? Ông Hai tiêu biểu cho tầng lớp nông dân thời kì kháng chiến
Em học được bài học chống Pháp. Qua nhân vật ông Hai trong tác phẩm nói chung và
gì? trong đoạn truyện ông hai nghe tin làng cải chính tác giả muốn
biểu đạt một cách thấm thía, xúc động tình yêu làng, yêu nước
sâu sắc của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. Tác
giả viết bằng trái tim, tình cảm của mình nên dễ tìm được sự
đồng cảm từ người đọc.

73

You might also like