Professional Documents
Culture Documents
Lý thuyết đóng khung
Lý thuyết đóng khung
LÝ THUYẾT VÀ KỸ NĂNG
BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG ĐƯƠNG ĐẠI
1. Mở đầu:
Lý thuyết là những vấn đề chúng nhất , khái quát nhất được đúc kết từ thực tiễn và
có vai trò chỉ đạo, hướng dẫn hoạt dộng thực tiễn, từ nhận thức, thái độ đến hành vi
xã hội của con người và cộng đồng.
Việc tổng kết và nêu ra những lý thuyết truyền thông có thể giúp người học nắm
vững hơn bản chất của truyền thông – một khái niệm phức tập, đa nghĩa – tạo cơ sở
quan trọng trong việc hình thành và phát triền các kỹ năng truyền thông chuyên
nghiệp trong tương lai. Việc tiếp cận các lý thuyết truyền thông cũng có ý nghĩa rất
lớn với các nhà báo và các nhà truyền thông nhằm ứng dụng có hiệu quả trong
công việc của mình, cũng như tiếp tục tổng kết kinh nghiệm và hình thành những
lý thuyết mới.
Người ta đã tổng kết và nêu ra hàng trăm lý thuyết truyền thông gián tiếp, trực tiếp,
giúp người làm truyền thông, các nhà báo nhận diện và ứng dụng ở nhiều tình
huống và bối cảnh khác nhau trong giao tiếp thông thường và truyền thông điệp,
đặc biệt trong lĩnh vực thông tin – giáo dục – truyền thông và truyền thông vận
động xã hội.
Lý thuyết truyền thông đóng khung do Erving Goffman ( người Mỹ gốc Canada)
đề xuất vào năm 1974. Lý thuyết truyền thông đóng khung có ý nghĩa quan trọng
đối với các chiến dịch truyền thông hay tuyên truyền chính trị, với các báo chính
trị, trong tuyên truyền chính trị,...
2. Lý thuyết truyền thông đóng khung:
Erving Goffman được cho là người đầu tiên đưa ra khái niệm “đóng khung” vào
năm 1974, trong cuốn Frame analysis: An essay on the organization of experience.
Theo Goffman, “khung” chính là những giản đồ của sự diễn giải (schemata of
interpretation) cho phép con người “xác định, tiếp nhận, định dạng và dán nhãn
cho vô số những sự biến diễn ra trong cuộc sống của họ”. Sự đóng khung này được
hiểu là quá trình tổ chức các kinh nghiệm, tìm ra ý nghĩa của chúng trong sự tham
chiếu tới những nhận thức sẵn có.
Sức mạnh của việc đóng khung chính là ở chỗ con người buộc phải viện tới các hệ
thống quen thuộc, ví dụ như hệ thống biểu tượng, tri thức, huyền thoại v.v. để có
thể diễn giải về một hiện tượng bất kỳ trong đời sống xã hội.
Sau khi Goffman áp dụng lý thuyết đóng khung vào phạm vi tổ chức kinh nghiệm
của con người, nhiều nhà nghiên cứu đã phát triển lý thuyết này cho lĩnh vực hẹp
hơn là truyền
thông đại chúng. Trong bài phân tích về di sản của Goffman, Gamson William cho
rằng quá trình đóng khung của báo chí là “gần như hoàn toàn ngầm ẩn, và được
thừa nhận như lẽ tất nhiên. Cả nhà báo lẫn công chúng đều không nhận ra rằng đây
thực chất là một quá trình kiến tạo mang tính xã hội (social construction), mà chỉ
đơn giản xem nó là việc phóng viên phản ánh lại sự kiện”.
Theo Gamson, việc đóng khung chính là quá trình “quyết định xem cái gì được
chọn, cái gì bị loại bỏ, và cái gì được nhấn mạnh. Nói tóm lại, tin tức cho chúng ta
biết về một thế giới đã được đóng gói”. Khung được Gamson định nghĩa là “ý
tưởng tổ chức cốt lõi” của cái thế giới đã-bị-gói kia, giúp “giải nghĩa về các sự kiện
liên quan, cũng như gợi ý xem đâu mới là vấn đề cần xem xét”.
Định nghĩa tường minh nhất về quá trình đóng khung của truyền thông đại chúng
có lẽ được đưa ra bởi Robert Entman: “Quá trình đóng khung chủ yếu liên quan tới
việc lựa chọn (selection) và làm nổi bật (salience). Đóng khung có nghĩa là lựa
chọn một số khía cạnh trong cách hiểu về hiện thực, rồi làm cho nó nổi bật lên trên
văn bản truyền thông bằng cách nhấn mạnh vào một cách đặt vấn đề, một cách lý
giải, một cách đánh giá đạo đức, hoặc/và một cách xử lý nào đó”.
Một điểm thú vị là mặc dù lý thuyết đóng khung được áp dụng trước hết cho văn
bản viết, thì bản thân hành vi “đóng khung”, theo nghĩa đen, lại dùng cho hình ảnh.
Việc áp dụng lý thuyết này vào phân tích hình ảnh là khá hữu dụng, bởi hình ảnh là
một công cụ đóng khung rất mạnh, khi mà công chúng dễ dàng chấp nhận nó một
cách vô thức hơn văn bản viết.
Paul Messaris và Linus Abraham chỉ ra rằng: “Nếu như tác động của quá trình
đóng khung phụ thuộc chủ yếu vào việc các bộ khung được mặc nhiên công nhận,
vì công chúng chẳng hề có ý thức gì về nó, thì rõ ràng, bất cứ điều gì có thể làm
thay đổi nhận thức của công chúng đều có thể tạo ra khác biệt đáng kể tới kết quả
cuối cùng của cả quá trình”
Như vậy, nếu công chúng nhận thức được rằng hình ảnh là một công cụ đóng
khung quan trọng, thì họ sẽ có ý thức phê phán hơn khi tiếp cận với các thông điệp
thị giác và từ đó, có khả năng nhận diện được mục đích quyền lực hoặc lợi nhuận
ngầm ẩn trong các thông điệp hình ảnh.
Tầm quan trọng của việc phân tích khung hình ảnh sẽ được phân tích kỹ hơn khi
tham chiếu tới các đặc trưng dưới đây của hình ảnh.
- Nội dung: Theo đó, đối với hoạt động báo chí - truyền thông, quá trình đóng
khung chủ yếu liên quan tới việc lựa chọn và làm nổi bật thông tin về sự
kiện và vấn đề thời sự. Đóng khung có thể có cách hiểu hiểu là lựa chọn một
số khía cạnh trong cách hiểu về hiện thực, rồi làm cho nó nổi bật lên trên
văn bản và chiến dịch truyền thông bằng cách nhấn mạnh vào một cách đặt
vấn đề nào đó, một cách lý giải, một cách đánh giá đạo đức, hoặc/và một
cách xử lý nào đó. Nói chung là, thiết kế và chọn lựa thông điệp phù hợp với
nhãn quan của nhà truyền thông.
Kết luận
Mô hình phê phán hình ảnh trình bày trong bài viết này không chống lại quá trình
đóng khung, bởi lẽ không một hành vi nhận thức nào của con người có thể thoát
khỏi việc bị định hình bởi hệ thống nhận thức sẵn có. Trái lại, mô hình này hướng
tới việc nhận thức được tính tất yếu của quá trình đóng khung và tạo một thói quen
phân tích hình ảnh theo các cấp độ khung trước khi rút ra kết luận hoặc quyết định.
Năng lực này có vai trò quan trọng đối với mỗi cá nhân trong kỷ nguyên của truyền
thông đại chúng, bởi nó là chìa khóa giúp trả lời câu hỏi xem con người và truyền
thông, ai là công cụ của ai.