You are on page 1of 19

Lời chào tới lớp Ngôn ngữ và văn hóa - EN07.

036

 Xin chào anh chị, Tôi là Nguyễn Thị Toàn, thạc sĩ ngành ngôn ngữ. Giảng viên Online của
Trung tâm đào tạo E-Learning, Đại học Mở, Hà Nội. Chào mừng anh/chị đến với diễn đàn môn
học Ngôn ngữ và Văn hóa. Một bộ môn mang tính ứng dụng cao cả trong giao tiếp hằng ngày và
soạn thảo văn bản. Hy vọng qua khóa học, anh chị có thể hiểu sâu sắc hơn về ngôn ngữ mình
đang sử dụng, cũng như ứng dụng ngôn ngữ trong công việc. Rất mong anh/chị ngoài việc
nghiên cứu, làm bài tập sẽ tham gia tích cực trên diễn đàn để tiếp cận kiến thức một cách nhanh
chóng và thuận lợi nhất. Xin chúc anh/chị sức khỏe và hoàn thành xuất sắc khóa học!

Tuần 1

Về các khái niệm ngôn ngữ, văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ
Bài viết bởi GS. TS. Dương Đức Niệm
Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG HN
Mục đích cao nhất của dạy học ngoại ngữ là dạy cho người học năng lực sử dụng ngoại ngữ trong giao
tiếp với người bản ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất, lưu giữ và phản ánh bản sắc
văn hóa của mỗi dân tộc. Chúng ta không thể tưởng tượng văn hóa của một dân tộc lại không có giao tiếp.
Từ đó nảy sinh mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa ngôn ngữ, văn hóa và giao tiếp giao văn hóa.

Khái niệm язык, language (ngôn ngữ) được nhiều nhà khoa học ở nhiều quốc gia, thuộc các
thời đại khác nhau nghiên cứu và đưa ra nhiều định nghĩa. Lời lẽ trong các định nghĩa có thể tại trong
khác nhau, nhưng tựu trung đều xoay quanh một ý cơ bản: ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt,
là phương tiện giao tiếp, phương tiện biểu đạt tư duy của con người.

Khái niệm văn hóa có nội hàm rất rộng, đã được nhiều nhà khoa học của nhiều nước trên
thế giới thuộc nhiều thế hệ khác nhau nghiên cứu và đưa ra hàng trăm định nghĩa. Mỗi nhà
khoa học thuộc một cộng đồng ngôn ngữ và một nền văn hóa dân tộc cụ thể, dựa trên những
xem xét thiên về một khía cạnh nào đó của khái niệm văn hóa, có thể đưa ra một định nghĩa
riêng của mình về văn hóa. Các từ điển tiếng Nga hoặc tiếng Anh cũng đưa ra những định
nghĩa về văn hóa với những nét khác nhau. Nhưng, nhìn chung, tất cả các định nghĩa về văn
hóa đều có một nét chung cơ bản là xem xét văn hóa như là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do một cộng đồng người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Khi xác định nghĩa của từ
tiếng Nga «культура» từ điển Oжегов viết: «Văn hóa là tổng thể những thành tựu (совокупность
достижентй) của loài người trong sản xuất, xã hội và trí tuệ» (Ожегов С.И., 1983). Khi định nghĩa
khái niệm culture, các từ điển tiếng Anh bên cạnh nội dung đánh giá văn hóa là thành tựu
của trí tuệ và nghệ thuật (intellectual and artistic achievement) còn dùng những từ như customs
(phong tục, tập quán) , bieliefs (tín ngưỡng) hoặc cụm từ the way of life (nếp sống, lối sống) (Oxford
Dictionary) .

Văn hóa là một trong những đặc trưng của dân tộc và được gọi là văn hóa dân tộc. Trong
giáo học pháp ngoại ngữ hiện đại việc nghiên cứu văn hóa không có mục đích tự thân, nghĩa là
các hiện tượng văn hóa dân tộc được nghiên cứu và miêu tả theo hướng phục vụ cho nhiệm vụ
giảng dạy, giáo viên cần chọn lọc tìm ra những hiện tượng văn hóa có liên quan đến hoạt động
giao tiếp để dạy, nhằm giúp học sinh sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp đúng chuẩn mực văn
hóa của người bản ngữ, qua đó nâng cao hiệu quả của quá trình giao tiếp.

Ngôn ngữ và văn hoá luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Ngôn ngữ là phương tiện giao
tiếp quan trọng nhất, lưu giữ và phản ánh bản sắc văn hoá riêng của mỗi dân tộc. Nắm vững
ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp là lĩnh vực hoạt động, không những mang tính ngôn
ngữ, mà còn mang tính văn hoá-xã hội của con người. Cho nên, muốn dạy cho học sinh có kỹ
năng sử dụng ngoại ngữ như một phương tiện giao tiếp, thì đồng thời cũng phải dạy cho các
em những hiểu biết về văn hoá của người bản ngữ và qua đó hình thành ở các em năng lực
giao tiếp giao văn hoá (Cross-Cultural Communication) .

Giao tiếp giao văn hoá (Межкультурная коммуникация), theo E.M. Верещагин, là «sự
thông hiểu lẫn nhau giữa những người thuộc các nền văn hoá khác nhau khi tham gia giao tiếp»
(Верещагин,1990, tr. 43). Trong thực tế, có trường hợp một sinh viên Việt Nam học tiếng Nga
hoặc tiếng Anh cố gắng nói chuyện, giao tiếp với một người Nga hoặc người Anh, nhưng họ
không hiểu hết ý của nhau và kết quả là cuộc giao tiếp không được như mong muốn, nhiều
khi không phải vì anh sinh viên yếu về trình độ ngôn ngữ, mà vì chưa nắm được những đặc
điểm văn hóa của người cùng giao tiếp.

Nội dung giao tiếp giao văn hóa gồm hai thành tố cơ bản: ngôn ngữ và văn hóa . Thành tố
ngôn ngữ đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu tìm ra phương pháp và thủ thuật luyện cho học
sinh nắm vững kiến thức và kĩ xảo ngôn ngữ, tức là hình thành ở học sinh năng lực ngôn ngữ
(Языковая компетенция, Linguistic Competence) . Nhưng, để có thể giao tiếp được với người
bản ngữ, như thế vẫn chưa đủ, vì năng lực ngôn ngữ chưa phải là mục đích cuối cùng của dạy
học ngoại ngữ theo đường hướng giao tiếp. Thành tố văn hóa đòi hỏi người học phải có hiểu tại trong
biết và nắm được nội dung văn hóa hàm ẩn trong mỗi hành động lời nói bằng ngoại ngữ, nói
cách khác là học sinh phải có năng lực văn hoá (Культурная компетенция, Cultural Competence) .
Nguyên tắc tính đến đặc điểm văn hóa của người bản ngữ đòi hỏi giáo viên không những dạy
cho học sinh có năng lực ngôn ngữ, mà còn phải dạy cho các em năng lực văn hoá, chỉ như vậy
mới có thể luyện cho học sinh có năng lực giao tiếp giao văn hóa thực sự. Dù có năng lực ngôn
ngữ, nhưng thiếu hiểu biết về đặc điểm văn hóa của người bản ngữ, người học không thể sử
dụng ngoại ngữ trong giao tiếp giao văn hóa có hiệu quả.
Tuần 3
2.1. Những nét dị biệt về văn hóa trong hành vi ứng xử

Mỗi dân tộc có những thói quen và hành vi ứng xử riêng trong giao tiếp, tuy không ghi
trong luật, nhưng được truyền từ đời này sang đời khác và trở thành chuẩn mực, nếu vi phạm
sẽ gây ra sự hiểu lầm không đáng có. Giáo viên ngoại ngữ có nhiệm vụ nghiên cứu, giới thiệu
cho học sinh biết những nét dị biệt đó, nếu không biết các em sẽ bị sốc về văn hoá (культурный
шок, culture shock) , khi giao tiếp với người bản ngữ. Dưới đây là một vài ví dụ:

- Cách tính các tầng nhà ở Nga và Anh khác nhau. Người Nga bắt đầu tính từ tầng một,
nhưng người Anh lại bắt đầu tính từ tầng hai. Như vậy, tầng hai ở Nga sẽ tương ứng với
tầng một ở Anh. Vì không biết nét dị biệt về văn hóa giữa hai dân tộc, nên nhân viên trực
thang máy người Nga rất ngạc nhiên không hiểu, vì sao các sinh viên người Anh đang ở tầng
một, lại yêu cầu đưa thang máy lên tầng một “Прошу Вас поднять меня на первый этаж”
(Верещагин,1990, tr. 133).

- Người Mĩ có truyền thống không uống rượu trong khi ăn, cho nên trong các tiệm rượu,
người ta không bán đồ ăn, ngược lại, trong các quán điểm tâm hoặc các cửa hàng ăn nhỏ,
người ta không bán rượu. Ở Việt Nam thì khác: cửa hàng bia thường bán thêm thức nhắm, ở tại trong
cửa hàng ăn, thường có bán bia rượu. Vì thế, bà bán hàng người Mĩ ngạc nhiên khi khách hàng
Việt Nam vào cửa hàng ăn hỏi mua bia rượu.

- Ở Việt Nam cũng như ở Nga và một số nước khác, để tỏ ý ủng hộ, khâm phục tiết mục
biểu diễn của diễn viên hoặc bài thuyết trình của diễn giả, người nghe vỗ tay. Nhưng ở Mĩ, Tây
Ban Nha … người ta lại phát ra những âm thanh giống như tiếng “Suỵt! Suỵt!” hoặc huýt sáo,
đặc biệt là lởp trẻ. Không nắm được đặc điểm này, các diễn giả người nước ngoài dễ bị “sốc”,
khi nghe tiếng “Suỵt!... Suỵt!... Suỵt!...” kéo dài của thính giả Mĩ. Fries có kể lại rằng, một lần
ông được mời đến giảng bài cho sinh viên Tây Ban Nha. Mới bước vào giảng đường, ông cảm
thấy lúng túng, vì nghe tiếng “Suỵt... Suỵt... Suỵt” rất to từ các hàng ghế dưới. Fries hiểu tiếng
“Suỵt” như là cách biểu đạt sự không đồng tình của sinh viên đối với việc ông đến đọc bài
giảng. Còn sinh viên Tây Ban Nha, theo thói quen, phát ra tiếng “Suỵt” chỉ đơn giản là để kêu
gọi mọi người trật tự. Nghe câu chuyện này, Lado đưa ra lời bình độc đáo và chắc như đinh
đóng cột: “Ở đây chưa có giao tiếp giao văn hoá” (Lado, 1957, tr. 118).

- Nhiều người nước ngoài đã từng sống và làm việc ở Mĩ hay kể về những thói quen ứng
xử của người Mĩ. Ví dụ, ở Mĩ, người bán bao giờ cũng nói lời cám ơn với khách hàng, ngay cả
khi khách hàng không mua gì. Nam giới Mĩ không đội mũ trong thang máy, nếu thấy trong
đó có phụ nữ. Ở Mĩ, khách chỉ đến thăm nhà khi được mời từ trước. Chủ ít khi mời khách ở
lại ăn ngay tại nhà và trong bữa ăn chủ không nài khách ăn. Khác với ở Việt Nam, để tỏ ý thân
mật, gần gũi người Việt thường mời khách ở lại ăn cơm cùng gia đình, nhất là khi khách từ xa
đến hoặc khách đến chơi vào lúc gần bữa ăn, trong bữa ăn chủ thường nài khách ăn thêm, có
trường hợp sợ khách ngại, chủ còn gắp thức ăn vào bát mời khách.

- Một sinh viên Việt Nam mới sang Nga du học. Lần đầu gặp một cô gái Nga, hồn nhiên,
tươi trẻ. Sẵn vốn học tiếng Nga ở trong nước, anh chào hỏi làm quen. Anh hỏi tên, cô gái vui
vẻ trả lời. Rất chân tình theo kiểu phương Đông, anh hỏi về quê hương, gia đình và được biết
cô gái đến từ thành phố Tula, nơi có nhiều ấm xamôva (ấm tự đun nước) nổi tiếng của Nga, cha
mẹ cô đều là giáo viên. Nhưng khi anh hỏi tuổi, cô gái ngập ngừng không nói. Sau đó, cuộc đối
thoại nhạt dần và ý định làm quen với cô gái Nga của anh sinh viên Việt Nam không thành.
- Người Việt Nam quan niệm ở rừng có nhiều củi, nên có câu thành ngữ “Chở củi về rừng”,
để nói về một việc làm vô ích. Với nội dung này, người Nga lại nói “В Тулу со своим самоваром
не ездят.”, câu này có nghĩa: “Tulu là thành phố có nhiều ấm samôva, đừng mang loại ấm đó đến
Tulu làm gì, vô ích.” (Кузьмин, 1996). Nhưng người Anh lại nói: “To carry coals to Newcastle” với
nghĩa “Chở than về Newcastle là vô nghĩa vì ở đó có mỏ than”. Để biểu đạt nội dung trên, người
Pháp có câu thành ngữ: “Porter de l’eau à la riviere” với nghĩa “Không gánh nước ra sông.” Rõ
ràng, qua các ví dụ trên, chúng ta thấy cùng một nội dung, nhưng những người thuộc các nền
văn hóa dân tộc khác nhau lại có những cách nói khác nhau.

- Một sinh viên Mĩ sang Việt Nam học tiếng Việt. Khi làm quen với một nữ sinh Việt Nam,
anh ta khen bằng tiếng Việt: Trông cô gợi tình quá (You look sexy). (Phạm Đăng Bình, 2002, tr. 30) .
Bằng lời khen nhiệt tình, cởi mở, anh sinh viên Mĩ hi vọng cô gái Việt sẽ vui vẻ làm quen với
anh. Anh không ngờ, cô gái lại đỏ mặt và không còn mặn mà tiếp chuyện anh nữa.

Trong cả hai trường hợp trên, những người tham gia giao tiếp không hiểu nhau không
phải vì kém về ngôn ngữ, mà vì những rào cản về văn hoá dẫn đến sai lệch trong giao tiếp giao văn
hóa (Cross-Cultural Miscommunication). Các nhà giáo học pháp gọi những hiện tượng phá vỡ tại trong
quá trình giao tiếp như hai trường hợp trên là sốc về văn hoá (Культурный шок, Culture Shock).
Ở ví dụ thứ nhất, anh sinh viên Việt Nam theo thói quen của người Việt, trong lần đầu làm
quen thường hay hỏi tên, tuổi người cùng đối thoại. Nhưng trong văn hoá của người Nga, nói
riêng và người châu Âu nói chung, thì việc hỏi tuổi phụ nữ mới quen biết là điều cấm kị (Taboo) .
Trong ví dụ thứ hai, cô gái Việt, với bản chất văn hóa phương Đông, coi lời khen của anh sinh
viên Mĩ là bất lịch sự, thậm chí còn cảm thấy bị xúc phạm. Chính vì thế, cô gái không còn nhiệt
tình làm quen với anh sinh viên Mĩ nữa.

Rõ ràng, những hiểu biết về đặc điểm văn hoá dân tộc, chuẩn mực ứng xử, thói quen, tập
quán trong giao tiếp xã hội của người bản ngữ rất cần cho học sinh học ngoại ngữ. Những hiểu
biết đó rất có ích cho sinh viên, nhất là khi các em làm việc và học tập tại đất nước mà các em
học tiếng. Để giải quyết vấn đề này trong quá trình dạy học ngoại ngữ, điều quan trọng không
phải chỉ dạy ngôn ngữ, mà phải dạy cả những nét văn hóa đặc trưng của người bản ngữ.
Chính vì thế, khuynh hướng dạy học ngoại ngữ có tính đến đặc điểm văn hóa của nước học
tiếng được coi là một bình diện mới của giáo học pháp ngoại ngữ hiện đại và được nhiều nhà
khoa học nghiên cứu một cách hệ thống. Có tác giả nghiên cứu những vấn đề chung, mang
tính khái quát của bình diện ngôn ngữ đất nước học (Верещагин, 1990); có tác giả nghiên cứu
những đặc điểm văn hóa của từng nước cụ thể (Seelye,1987; Kramsch, 1993). Điều đó không
những nâng cao hiệu quả của quá trình sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp, mà còn mở rộng
tầm hiểu biết chung của học sinh.

- Đã nói tới giao tiếp trong xã hội là phải nói đến quan hệ giữa những người tham gia giao
tiếp (bình đẳng hay không bình đẳng, vị thế quyền uy, tuổi tác v.v...). Trong tiếng Việt, quan
hệ giao tiếp rất quan trọng. Người ở vị trí thấp hơn, tuổi trẻ hơn không thể nói năng tùy tiện
trong giao tiếp, con cháu không được nói trống không với các bậc cha chú trong gia đình, dòng
họ, tức là không được tỉnh lược chủ ngữ. Nếu vi phạm các nghi thức lời nói tối thiểu ấy, cuộc
giao tiếp có thể bị phá vỡ, quan hệ giữa những người tham gia giao tiếp sẽ bị xấu đi. Ví dụ,
người bố hỏi: Hôm nay, ở nhà con đã làm bài chưa?, người con trả lời gọn lỏn: Rồi! , người con sẽ
bị mắng là ăn nói không lễ phép. Xét về mặt ngôn ngữ, người con hiểu đúng hàm ý trong câu
hỏi của bố và câu trả lời trống không của người con đã thỏa mãn nhu cầu thông báo mà người
bố đang muốn biết. Nhưng xét về mặt văn hóa, thì câu trả lời trống không của người con đối
với bố là vô lễ, không đúng theo chuẩn mực văn hóa - đạo đức của người Việt Nam. Không
riêng gì trẻ con, đối với người lớn cũng vậy. Trong giao tiếp xã hội, người cấp dưới, người ít
tuổi hơn nói trống không với người cấp trên, người nhiều tuổi hơn cũng bị coi là thiếu văn hóa
(Nguyễn Văn Tình, 2004). Trong trường hợp này, nhà giáo học pháp đánh giá người tham gia
giao tiếp có năng lực ngôn ngữ, nhưng chưa đạt chuẩn về năng lực văn hóa . Người nước ngoài
đến Việt Nam học tiếng Việt như ngoại ngữ, nếu không biết điều đó, chắc chắn không thể sử
dụng tiếng Việt để giao tiếp có hiệu quả trong cộng đồng người Việt. Rõ ràng, năng lực giao tiếp
bao hàm trong nó hai thành tố: năng lực ngôn ngữ và năng lực văn hóa. Cả hai thành tố này đều
quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến kết quả của cuộc giao tiếp với người bản ngữ bằng ngoại
ngữ, tức là giao tiếp giao văn hóa .
Những ví dụ trên cho thấy, trong những tình huống giao tiếp như nhau mỗi dân tộc lại
có những chuẩn mực ứng xử khác nhau. Khi giao tiếp với người bản ngữ, nếu vi phạm, chuẩn
mực văn hóa chắc chắn chúng ta sẽ làm người cùng giao tiếp khó chịu. Thực tế đó đòi hỏi giáo
viên và các tác giả sách giáo khoa ngoại ngữ (tiếng Nga cũng như tiếng Anh) phải có những tại trong

phương pháp và thủ thuật dạy học thích hợp để giúp học sinh, nhất là học sinh cuối cấp, nắm
được những thông tin cần thiết về đặc điểm văn hóa của người bản ngữ.

2.2. Những nét dị biệt về văn hoá trong từ vựng.

So với ngữ âm và ngữ pháp, từ vựng là bình diện ngôn ngữ mang nhiều dấu ấn của văn
hoá dân tộc nhất, vì từ là phương tiện tích luỹ, bảo lưu và phản ánh các sự kiện, hiện tượng
của văn hoá dân tộc. Từ vựng lưu giữ thông tin rất đa dạng. Nội dung thông tin của mỗi đơn
vị từ vựng thường có hai cấp độ:

Cấp độ thứ nhất mang tính khái niệm bao gồm những thông tin quan trọng và cơ bản nhất
về sự vật, phù hợp với tên gọi của sự vật. Trong nội dung của từ, đó chính là nghĩa từ vựng
(лексическое значение).

Cấp độ thứ hai mang tính phi khái niệm , bao gồm những thông tin bổ sung về sự vật, cung
cấp thêm những hiểu biết ngoài ngôn ngữ (Extralinguistic) mang nhiều sắc thái văn hoá và
được gọi là tri thức nền (Фоновое значение, Background Knowledge). Các nhà giáo học pháp gọi
cấp độ thứ hai trong nội dung của từ là tri thức nền từ vựng .

Chúng ta hãy xem xét nội dung ý nghĩa của từ “trà” (чай, tea) . Cấp độ thứ nhất mang tính
khái niệm trong nội dung của từ trà cung cấp cho chúng ta những nét nghĩa sau: 1) một thứ
đồ uống; 2) được pha chế từ một loại lá cây đã được chế biến theo những quy trình đặc biệt.
Những thông tin mang tính khái niệm trong nội dung của từ trà ở tiếng Việt, cũng giống nội
dung trong từ чай của tiếng Nga và từ tea của tiếng Anh. Nhưng những thông tin thuộc cấp
độ thứ hai, thông tin về tri thức nền, về đặc điểm văn hoá của từ trà thì không giống nhau trong
những ngôn ngữ khác nhau, mỗi ngôn ngữ đều có nét đặc thù riêng.

Người Việt Nam nói: “Buổi sáng, tôi thường uống trà đặc”. Thông tin đơn giản và quen
thuộc ấy lại làm người Anh ngạc nhiên, vì người Anh không uống trà đặc, mà thường uống
trà với sữa. Câu hỏi của anh sinh viên Ấn Độ: “Cậu có thích uống trà đỏ và trà sô-cô-la không?” sẽ
làm các sinh viên Nga, Anh và Việt Nam lúng túng, không biết trả lời thế nào, vì các loại trà
trên chỉ có ở Ấn Độ, không có ở các nước khác. Câu nói uống trà cũng không đơn thuần là uống
cho đỡ khát, mà trong cách nói ấy có hàm chứa phong tục, tập quán văn hoá của từng dân tộc.
Đối với người Nga, uống trà trước hết có nghĩa là “cuộc họp mặt, gặp gỡ thân mật” giữa những
người thân trong gia đình, họ hàng, bạn bè thân quen. Uống trà là biểu hiện lòng hiếu khách
của người Nga, điều kiện quan trọng nhất để tổ chức một buổi uống trà theo kiểu Nga là phải
có giao lưu, chuyện trò, gặp gỡ thân mật.

Đối với người Nhật, uống trà bao giờ cũng gắn với những thủ tục đặc trưng cho văn hóa
Nhật. Nghi lễ uống trà ở Nhật không tiến hành tại nhà, mà diễn ra trong phòng trà với những
nghi lễ độc đáo, mang đậm màu sắc nghệ thuật dân tộc, trình tự tiến hành nghi lễ uống trà được
quy định chặt chẽ bắt buộc phải tuân thủ. Tham gia nghi lễ uống trà có các nghệ nhân am hiểu
về trà, các nghệ nhân sẽ trực tiếp pha trà và rót trà. Bạn bè, khách mời, sau khi thưởng thức
nghệ thuật pha trà sẽ được mời uống trà. Ở Nhật có nhiều nghi thức uống trà : uống trà đêm,
uống trà ngắm mặt trời mọc, trà tối, trà sáng. Nghi lễ uống trà đối với người Nhật, trước hết là
để thưởng thức khía cạnh thẩm mĩ, uống trà là một loại hình nghệ thuật dân tộc. (Методика,
1990). Ở Việt Nam, câu nói: “Tôi có ấm trà ngon, mời bác sang chơi!” thể hiện lòng hiếu khách,
quan hệ thân tình giữa người nói và người nghe.

Những thông tin có hàm ẩn tri thức nền hoặc tri thức văn hoá của từ rất đa dạng. Nắm
được tri thức nền của từ là điều kiện quan trọng giúp người học sử dụng từ trong giao tiếp tại trong
đúng chuẩn mực văn hóa. Thực tế dạy học ngoại ngữ cho thấy, không nắm được chuẩn mực
văn hoá của người bản ngữ, sinh viên sẽ cảm thấy lúng túng, thiếu tự tin khi giao tiếp.

Một hành vi giao tiếp được gọi là có văn hoá, khi được cộng đồng người bản ngữ thừa
nhận. Có bao nhiêu dân tộc, thì có bấy nhiêu nền văn hoá. Lỗi sai thường gặp nhất ở người học
ngoại ngữ là chuyển di các đặc điểm văn hoá dân tộc mình sang văn hóa của người bản ngữ.
Nhiệm vụ của giáo viên là giúp học sinh nắm được những dị biệt về văn hóa để tránh những
lỗi sai về chuẩn mực văn hoá trong giao tiếp.

2.3. Đặc điểm văn hóa trong phương tiện giao tiếp không lời

Ngôn ngữ không lời là một bộ phận gắn bó chặt chẽ với ngôn ngữ bằng lời. Không có cộng
đồng ngôn ngữ nào không sử dụng ngôn ngữ không lời như: cử chỉ tay chân, nét mặt, điệu bộ
làm cho cuộc nói chuyện trở nên cụ thể, dễ hiểu, sống động và hấp dẫn hơn (Акишина, 2002).
Nhiều khi “cử chỉ, điệu bộ” có thể thay thế cho lời nói và những người tham gia giao tiếp vẫn
hiểu nhau, vì thế các nhà ngôn ngữ gọi đó là ngôn ngữ cử chỉ (жестовый язык). Ví dụ, khi nói
chuyện, đáng lẽ phải nói “Đồng ý”, nhiều khi chúng ta chỉ gật đầu và người cùng đối thoại vẫn
hiểu rằng ta đã đồng ý. Như vậy, về chức năng, ngôn ngữ cử chỉ cũng tương đương với ngôn
ngữ bằng lời. Các nhà ngôn ngữ học gọi những cử chỉ, điệu bộ có hàm chứa ý nghĩa thông báo
đó là ngôn ngữ không lời (Невербальный язык, Non-verbal Language) hay còn gọi là ngôn ngữ câm
(Немой язык, Silent Language).

Ngôn ngữ không lời bao giờ cũng mang dấu ấn của một xã hội, một nền văn hóa dân tộc
nhất định. Cùng một cử chỉ, điệu bộ như nhau, nhưng ở cộng đồng dân tộc này thì được
thừa nhận và coi là bình thường, nhưng ở cộng đồng dân tộc khác lại không được thừa nhận
và coi là thiếu văn hoá (Леонтьев, 1985). Nếu không nắm được nội dung thông báo hàm ẩn
trong ngôn ngữ không lời thông qua điệu bộ , cử chỉ của người cùng đối thoại, nhiều khi học
sinh không hiểu hoặc hiểu không đúng ý của người nói. Để giúp người nước ngoài học tiếng
Nga có kết quả, các nhà giáo học pháp Nga biên soạn một cuốn Từ điển ngôn ngữ đất nước học,
trong đó các tác giả miêu tả cụ thể và giải thích ý nghĩa của từng điệu bộ, cử chỉ mà người Nga
thường dùng kèm theo lời nói trong quá trình giao tiếp. Ví dụ, cử chỉ ôm hôn khi gặp nhau
được miêu tả như sau: Hai môi khẽ chạm vào má hoặc trán của người cùng đối thoại. Theo truyền
thống của người Nga, thì môi khẽ chạm vào má người cùng đối thoại ba lần. Cử chỉ ôm hôn biểu đạt
tình cảm bạn bè thân mật khi gặp nhau, khi chia tay, biểu đạt lòng biết ơn, chúc mừng hoặc
chia sẻ chuyện buồn (Акишина, 1991, tr. 38). Khi so sánh, đối chiếu cử chỉ, điệu bộ kèm theo
lời nói trong giao tiếp của những người thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau, các nhà giáo học
pháp thấy có bốn nhóm cơ bản sau:

Nhóm một, gồm những cử chỉ, điệu bộ giống hệt nhau cả về hình thức thể hiện và nội dung
ý nghĩa. Ví dụ, người Việt Nam, người Nga, người Anh - Mĩ đều gật đầu để tỏ ý tán thành,
đồng ý; lắc đầu để biểu đạt sự phản đối, không đồng ý; đưa ngón tay trỏ dọc sát hai môi chụm lại
để biểu đạt ý yêu cầu im lặng, giữ trật tự; đưa ngón tay trỏ chỉ vào cổ tay trái để biểu đạt ý đến
giờ rồi, chú ý thời gian; khi gặp nhau, hai người khẽ gật đầu thay cho lời chào v.v...

Nhóm hai, gồm những cử chỉ giống nhau về hình thức thể hiện, nhưng khác nhau về ý
nghĩa biểu đạt. Ví dụ, gật đầu đối với người Nga, người Anh và Việt Nam đều có nghĩa là
đồng ý, nhưng đối với người Bungari, đồng ý tương đương với lắc đầu, còn gật đầu lại có
nghĩa là phản đối, không đồng ý. Chính sự khác biệt về ý nghĩa của cử chỉ (gật đầu và lắc đầu)
giữa người Nga và người Bungari đã gây ra nhiều chuyện rắc rối. Chuyện kể rằng, trong cuộc tại trong
chiến tranh Nga - Thổ (1877-1878), khi hành quân qua Bungari, những người lính Nga, không
những không làm phiền, mà còn hết lòng giúp đỡ người dân Bungari ổn định cuộc sống.
Nhưng làm gì, nói gì người dân Bungari cũng lắc đầu. Điều đó làm những người lính Nga hết
sức lúng túng, khó xử. Nếu người lính Nga biết rằng, lắc đầu đối với người Bungari có nghĩa là
đồng ý, chắc chắn họ sẽ không cảm thấy khó xử, mà ngược lại còn rất vui (Верещагин, 1990).
Khi giao tiếp, vào mùa khô, nếu ai đó vô tình liếm môi, đối với người Việt Nam đó là chuyện
bình thường, nhưng trong văn hoá Anh - Mĩ cử chỉ này bị coi là bất nhã, vì đối với họ cử chỉ
liếm môi có nghĩa là: Tôi muốn được làm tình (Phạm Đăng Bình, 2002, tr. 165). Một thực tập sinh
người Anh học ở Nga muốn gọi tắc xi đi cùng chiều trên đường quốc lộ, anh ta nắm chặt bàn
tay chỉ để một ngón cái chìa ra vuông góc với nắm tay và giơ lên gọi tắc xi. Chàng thực tập sinh
người Anh bực bội, vì gọi mãi không xe nào đỗ. Càng bực, anh ta càng khuơ tay mạnh hơn,
bằng cách đó anh ta nghĩ thế nào cũng có xe đỗ, nhưng ngược lại, các lái xe tắc xi người Nga
khi thấy cử chỉ đó của anh thanh niên nước ngoài càng phóng nhanh hơn. Chàng sinh viên
người Anh bực bội thốt lên:“Người Nga thật bất lịch sự!”. Nhưng anh ta có biết đâu rằng, cử chỉ
nắm tay và để ngón cái chìa ra đối với cộng đồng người Nga lại có nghĩa động viên, khen ngợi.
Trông thấy cử chỉ đó, các lái xe người Nga nghĩ anh thanh niên nước ngoài đang khích lệ:“Khá
lắm, phóng nhanh hơn nữa”, nên không những không dừng xe, mà còn phóng nhanh hơn. Đối
với người Nga, nếu muốn dừng xe tắc xi, phải xoè bàn tay ra, năm ngón tay khép lại và đưa
thẳng về phía trước, vuông góc với hướng đi của tắc xi (Верещагин, 1990; Акишина, 1991).
Để tránh hiện tượng sử dụng ngôn ngữ cử chỉ không chuẩn dẫn đến tình trạng khó xử đối với
người nước ngoài như những câu chuyện vừa kể trên, các nhà giáo học pháp Nga đã tập hợp
những cử chỉ, điệu bộ người Nga thường sử dụng trong giao tiếp viết thành cuốn sách “Những
cử chỉ, nét mặt biểu cảm kèm theo lời nói Nga” (Акишина, 1991).

Nhóm ba, gồm những cử chỉ có ý nghĩa giống nhau, nhưng hình thức thể hiện khác nhau.
Khi chia tay, người Nga, người Anh, người Việt đều vẫy tay, nhưng người Nga để lòng bàn
tay hướng về phía trước và vẫy vẫy, người Anh khua tay sang hai bên, người Việt vừa vẫy
vẫy, vừa khua tay sang hai bên. Trong trường hợp này, người Ý lại để lòng bàn tay hướng về
phía sau và vẫy vẫy. Cử chỉ này của người Ý đối với người Việt Nam có nghĩa là “Lại đây, lại
đây!”. Người Việt Nam và người Nga đều có thói quen dùng các ngón tay để hỗ trợ cho việc
đếm nhẩm. Nhưng người Việt Nam đếm bằng cách bấm đốt ngón tay, còn người Nga thì xoè
một bàn tay ra rồi lấy tay kia gập từng ngón lại lần lượt theo thứ tự từ ngón út đến ngón cái.

Nhóm bốn, gồm những cử chỉ điệu bộ chỉ có ở cộng đồng dân tộc này, nhưng không có
ở cộng đồng dân tộc khác. Ví dụ, ở Nhật người ta thường cúi gập người xuống để chào, nhất
là khi chào người lớn tuổi, nhưng người châu Âu không làm như vậy. Đối với người Mĩ việc
sinh viên ăn kẹo trong lớp hoặc ở hội trường là chuyện bình thường, nhưng đối với người Việt
Nam cử chỉ đó là bất lịch sự, là coi thường giảng viên. Người Nga cho rằng, khi khởi hành, ra
đường mà gặp người xách xô rỗng thì xúi quẩy, còn người Việt Nam, trong trường hợp này lại
kiêng gặp phụ nữ, vì gặp phụ nữ sẽ không may mắn. Đối với người Nga, khi giao tiếp với phụ
nữ, ít khi hỏi về tuổi tác, vì như thế là khiếm nhã, làm người phụ nữ được hỏi khó xử, nhưng
đối với Việt Nam, đó là chuyện bình thường.
Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi chỉ đưa ra một vài ví dụ về những nét khác biệt trong
văn hóa của người Việt với người Nga và người Anh để chứng minh tầm quan trọng của
chúng trong giao tiếp. Vấn đề không phải để người học tuân thủ theo người nước ngoài, mà
chủ yếu là giúp giáo viên tìm ra phương pháp và những thủ thuật dạy học thích hợp nhằm
cung cấp cho học sinh những hiểu biết cần thiết về đặc điểm văn hóa của nước mà các em học tại trong
tiếng để các em tránh không có những cử chỉ điệu bộ vi phạm qui tắc ứng xử của người bản
ngữ làm ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình giao tiếp.
Tuần 5

Những khác biệt thú vị giữa thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt

Vì sao mỗi ngôn ngữ lại sở hữu những thành ngữ rất ‘độc’ mà không thể dịch từng từ một (word
by word) sang ngôn ngữ khác? Thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt có điểm gì chung và riêng?
Một hướng đi đúng để trả lời hai câu hỏi trên chính là lần theo mối quan hệ giữa đặc trưng văn
hóa giữa hai nước. Trong bài này, chúng ta cùng thảo luận về khác biệt về văn hóa ảnh hưởng
đến thành ngữ thế nào nhé.

1. Về cách ứng xử

Do văn hóa phương Đông và ảnh hưởng của Nho giáo, người Việt thường cư xử nhún nhường,
hiếu hòa, linh hoạt trong giao tiếp tùy theo ngôi thứ. Đi vào thành ngữ là những lời dạy
như: xưng khiêm hô tôn, học ăn học nói học gói học mở, lạt mềm buộc chặt

Người Anh đề cao sự lịch sự, bặt thiệp và thẳng thắn: : as stiff/ straight as a ramrod, as straight
as a die, as straight as an arrow

2. Cái tôi - cái ta

Người Việt chú trọng sự cộng cảm trong cộng đồng. Thành ngữ Việt đề cao sự đoàn kết, đồng
cam cộng khổ: tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ. Mặt
trái của việc đồng nhất cộng đồng cũng được nhắc đến: cha chung không ai khóc, mũ ni che tai,
ghen ăn tức ở, khôn độc không bằng ngốc đàn. Khi nhắc tới tính cá nhân, thành ngữ Việt Nam
nhìn nhận theo hướng tiêu cực: bè ai nấy chống, đàn anh kẻ cả, kim chỉ có đầu.

Người Anh là đề cao tính cá thể, coi trọng độc lập của cá nhân nên không có nhiều những thành
ngữ về cộng đồng như vậy. Thành ngữ Anh đề cao trách nhiệm cá nhân: Words bind men.

 3. Tôn giáo trong thành ngữ


Do gốc văn hóa nông nghiệp người Việt thờ động thực vật, thờ ông bà, tổ tiên, gần gũi với đạo
Phật. Có một hệ thống những thành ngữ về con vật thiêng, Phật, Bụt, hồn vía như: con Lạc cháu
Hồng, vị thần nể cây đa, dữ như ông beo,  ma thiêng nước độc, nhân nào quả ấy

Thành ngữ Anh có một số lượng lớn thành ngữ có nguồn gốc trong Kinh thánh, vì ¾ người dân
theo đạo. Phổ biến là những thành ngữ: as old as Adams, as sure as God make little apples,
Everyone must carry his own cross, for Christ's sake

4. Nền văn hóa nông nghiệp - công nghiệp

Người Việt thể hiện nền văn hóa nông nghiệp với các yếu tố chủ yếu là thực vật thông qua thành
ngữ: cơm tẻ mẹ ruột, có nếp có tẻ, anh hùng rơm, Ăn cháo đá bát, Ăn cây táo, rào cây sung

Người Anh thiên về sản phẩm của động vật như: be your beef and butter, crying over spilt milk

Tuần 6

Câu hỏi ôn tập! 

Chào các bạn Chúng ta đã kết thúc tuần thứ 4 của khóa học. Ở tuần này các bạn dành thời gian
ôn lại kiến thức các bài vừa qua. Hãy cùng ôn lại kiến thức đã học qua một số câu hỏi sau:

1- Văn hóa là gì?

2- Hãy nêu các biểu hiện bên trong và biểu hiện bên ngoài của mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
văn hoá.

3- Vì sao nói “Ngôn ngữ là một trong những đặc trưng nhất của bất cứ nền văn hoá - dân tộc
nào”?

4- Hãy nêu một số ví dụ chứng minh ngôn ngữ Việt phản ánh đậm nét nền văn minh lúa nước?

5- Hãy so sánh điểm giống nhau và khác giữa thành ngữ và tục ng trong tiếng Việt? Chúc các
bạn ôn tập thuận lợi và cùng chia sẻ ý kiến của mình lên diễn đàn của lớp nhé!

Tuần 7

Bài tham khảo: Sử dụng kính ngữ trong email công việc!
Bởi ThS. Nguyễn Thị Toàn - Thứ bảy, 5/06/2021, 10:14 AM
 

Viết email là một nhiệm vụ mà gần như mọi công việc đều yêu cầu. Ngay từ khi chúng ta nộp
CV xin việc, trả lời mail vòng phỏng vấn cho tới lúc chính thức vào công ty, nhiệm vụ ấy cực kỳ
quan trọng, thậm chí đánh giá được phần nào phẩm chất của mỗi nhân viên.
Có vô vàn những yêu cầu tối thiểu cho một email chuyên nghiệp, ví dụ như câu chữ lễ phép,
xưng hô đàng hoàng, có chữ ký rõ ràng, tiêu đề mail không được bỏ qua, phải biết nói lời cảm
ơn... Trong đó đặc biệt là vấn đề câu chữ lễ phép. 

Chúng ta cùng thử đọc email dưới đây và xem xét việc sử dụng kính ngữ có gây ra tác dụng
ngược nào không nhé:

Em chào anh chị!

Em là Nguyễn Thị A, nhân viên phòng hành chính pháp lý của công ty Y ạ. Hôm nay em viết
mail này với mục đích gửi quý công ty bản hợp đồng giữa hai bên ạ. Bản trình bày này dựa trên
thỏa thuận đôi bên hôm thứ Hai vừa rồi ạ.

Anh/chị có thể xem qua giúp em bản hợp đồng được không ạ? Em rất lấy làm vinh hạnh vì được
hợp tác cùng quý công ty ạ. Em mong sẽ sớm nhận được phản hồi ạ.

Một lần nữa em xin cảm ơn ạ.

Faithfully,

Nguyễn Thị A."

Tổng cộng có đến 7 từ "ạ" trong một đoạn email ngắn như trên và nó làm cho email trở nên thiếu
chuyên nghiệp!

Sở dĩ không nên cho quá nhiều từ "ạ" vào trong email là vì 3 lý do chính dưới đây

1. Thứ nhất, "ạ" mang phong cách văn nói, không hợp với văn viết

Văn nói là lời ăn tiếng nói hàng ngày, là khẩu ngữ, còn văn viết là câu chữ thể hiện qua giấy tờ,
sách vở... "Ạ" thoạt nghe thì lịch sự nhưng khi sử dụng với tần suất lớn thì nội dung email của
bạn bỗng trở thành văn nói, và như thế là thể hiện sự thiếu tôn trọng với đối phương. Chúng ta
hay đặt nặng vấn đề kính ngữ mà bỏ qua sự chuyên nghiệp. Chuyên nghiệp là khi chúng ta thẳng
thắn bày tỏ vấn đề một cách văn minh, không cần dùng nhiều lời "dạ", "vâng" mà người kia vẫn
cảm thấy mình được tôn trọng.

2. Thứ hai, dùng nhiều từ "ạ" sẽ khiến văn phong nặng nề, bản thân chúng ta bị
hạ thấp

Như trong email ở trên kia, mối quan hệ hai bên là sự ngang hàng đôi bên cùng có lợi. Khi sử
dụng nhiều từ "ạ", văn phong chợt trở nên nặng nề và mang màu sắc "van xin", kiểu như công ty
Y đang phải thiết tha mong bên công ty X thực hiện nhiệm vụ cho mình. Từ "ạ" cho thấy khoảng
cách rất rõ giữa bề trên - bề dưới, trong khi chủ thể của hoạt động của kinh doanh thường là các
mối quan hệ bình đẳng, cùng phát triển.
Thử tưởng tượng đối phương sẽ nghĩ gì khi thấy chúng ta hạ mình quá xuống? Họ sẽ thương cảm
và mủi lòng ư? Không hề, thương trường là chiến trường, vậy nên hãy tỏ ra thật chuyên nghiệp
trong vai trò bình đẳng đôi bên nhé.

3. Thứ ba, dùng nhiều từ "ạ" cũng có thể bị coi là lặp từ, không cần thiết khiến
email dài dòng, lê thê

Có thể khi viết bạn không để ý, nhưng sau khi hoàn thành nội dung email, hãy đọc lại một lần và
bạn sẽ thấy khuyết điểm. Câu chữ kém chuyên nghiệp hơn nhiều, giọng văn từ trang nghiêm thì
thành màu sắc "xin xỏ"... Kéo theo đó là vấn đề về độ dài email.

Ngoài từ "ạ", chị em cũng nên nhớ viết mail không nên thêm quá nhiều "Dạ", "vâng". Hợp lý
nhất là chỉ để từ "ạ" đằng sau câu hỏi "được không". Ví dụ: Anh/chị có thể trả lời email trước 3
giờ chiều nay được không ạ?

 Tuần 8

Hệ số đếm trong một số ngôn ngữ thế giới và hàm ý văn hóa của chúng

Hàng nghìn ngôn ngữ đang được các dân tộc trên thế giới sử dụng với các hệ số đếm như hệ số
thập phân, nhị phân. Đồng thời ngôn ngữ trở thành một hiện tượng hấp dẫn như kính vạn hoa,
phản ánh sự đa dạng và các bước phát triển khác nhau trong khái niệm “hệ số đếm” của con
người. Đó cũng chính là chủ đề chính trong buổi nói chuyện của TS. Eugene Chan, nghiên cứu
viên cao cấp của Viện nghiên cứu MaxPlanck (Leipzig, Đức) trình bày tại trường
ĐHKHXH&NV – ĐHQG-HCM.

Ngữ hệ là một hiện tượng đặc biệt, được lan ra, ngoài ý thức của cộng đồng. Chúng lan ra, vượt
xa tầm với của sử học. Nếu chúng ta nghiên cứu tỉ mỉ một ngữ hệ,ví dụ ngữ hệ Nam Đảo ở Đông
Nam Á và Châu Đại Dương, chúng ta thấy các ngôn ngữ  trong hệ  có những dạng thân thuộc
trong từ vựng, ngữ pháp, âm vị phổ biến đến mức chỉ có một khái niệm về tổ tiên chung,về một
nơi phát sinh chung mới có thể giải thích được chúng (Peter Bellwodd,2010, trang 204). Các ngữ
hệ không giống động vật, không thể được tạo ra từ sự lai ghép những nhóm ngôn ngữ hay loại
vật có nguồn gốc xa lạ. Hệ Nam Đảo có khoảng1000 ngôn ngữ trải hơn nữa vòng trái đất từ đảo
Madagasca đến đảo Phục Sinh. Cókhoảng 350 triệu người sử dụng tiếng Nam Đảo, phần lớn ở
Đông Nam Á, đặt biệt ở Indonesia và Philippines (tiếng Java có 60 triệu người sử dụng). Người
nói tiếng Nam Đảo chủ yếu thuộc chủng Á (Mongoloid), nhưng cũng gồm cả nhiều dân cư thuộc
chủng Melanesia ở tây Thái Bình Dương, thuộc chủng Negritos ở Philippines. Vào thời tiền
thuộc địa, văn hóa của họ rất đa dạng, từ văn hóa của các quốc gia Ấn giáo và Hồi giáo đến văn
hóa các bầy người săn bắt hái lượm. Tuy nhiên theo logic đã trình bày ở trên, hệ Nam Đảo không
hình thành một cách ngẫu nhiên trong không gian và thời gian. Nó có một cội nguồn lịch sử
chung, với một hạt nhân vững chắc về ngôn ngữ và văn hóa, dù phân bố rộng và được các dân
tộc xa lạ tiếp nhận (Peter Bellwodd, 2010, trang 209).
Đây là một khu vực chịu sự giao thoa ngôn ngữ khá lớn nhưng cũng là một khu vực có tính đa
dạng tô ̣c người, đa dạng văn hoá thuô ̣c hàng cao nhất của thế giới. Các nghiên cứu về đồng dạng
ngôn ngữ đã chỉ ra tính khu vực và liên kết vùng khá chặt chẽ của các cộng đồng dân tộc ở khu
vực này. Thế giới có nhiều dân tộc, có các khung văn hóa riêng, ngôn ngữ riêng được định dạng
qua lịch sử và chứa đựng nhiều trí thức quý giá còn chưa được khai thác hết.

Bản đồ mô tả ngữ Nam Đảo

Nguồn:Kwami – Created from info in Ethnologue and other sources on a Wiki Commons map

Toàn cầu hóa đã làm biến đổi kinh tế, văn hóa, tác động làm cho nhiều ngôn ngữ đang có nguy
cơ tuyệt chủng. Nhiều nhà ngôn ngữ học dự đoán một nửa ngôn ngữ thế giới hiện nay có thể biến
mất trong những thập kỷ đến, vì thế hơn 7.105 ngôn ngữ đang tồn tại là một kho tàng văn hóa
lớn của nhân loại đang cần được bảo vê ̣. Nhằm mục tiêu tránh nguy cơ tuyệt chủng ngôn ngữ và
văn hoá, Liên Hiệp Quốc lấy năm 1992 làm “Năm nguy cấp của ngôn ngữ”, và có những hành
động khẩn cấp để cứu ngôn ngữ, tài liệu lưu trữ của một số quốc gia thuộc nhóm có nguy cơ
tuyệt chủng cao.

Hàng nghìn ngôn ngữ được các dân tộc trên thế giới sử dụng, nên việc nghiên cứu đến hệ số đếm
như hệ số thập phân, nhị phân trở thành một hiện tượng hấp dẫn như kính vạn hoa, phản ánh sự
đa dạng và các bước phát triển khác nhau trong khái niệm “hệ số đếm” của conngười. Hệ thống
dữ liệu ngôn ngữ là tài sản vô giá cần được ghi chép lại, ví dụ “hệ số đếm” bản địa của các dân
tộc thiểu số dễ bị thay thế bởi các nước láng giềng có ưu thế về kinh tế và chính trị, trong khi đó
thế hệ trẻ có xu hướng loại bỏ các hệ thống chữ số truyền thống đang rất phổ biến tại khu vực
Melanesia, Polynesia, Micronesia, Trung Nam Mỹ và một số vùng hải đảo củachâu Phi. Hệ số
đếm của một số dân tộc thiểu số chỉ còn được các thành viên lớn tuổi trong cộng đồng sử dụng,
trong khi đó, thế hệ trẻ thì ngược lại, thích thể hiện chữ số bằng tiếng Anh hoặc một số ngôn ngữ
khác chi phối, kết quả là các “hệ số đếm” truyền thống của hầu hết các ngôn ngữ nhỏ nhanh
chóng thay thế bằng những ngôn ngữ chiếm ưu thế. Ngay cả những hệ thống số của các ngôn
ngữ lớn có thể bị ảnh hưởng theo cách này, ví dụ như “chữ số” của Nhật Bản và Thái Lan đã có
sự thay thế phần lớn bởi ngôn ngữ của Trung Quốc (Comrie; 2005).

Các hàm ý văn hóa trong ngôn ngữ Nam Đảo

Ngữ hê ̣ Nam Đảo (là ngôn ngữ được 180 triệu người sử dụng và là ngôn ngữ được sử dụng nhiều
thứ tám trên thế giới), một ngữ hệ phân bố rộng rãi tại các hải đảo Đông Nam Á và Thái Bình
Dương, đảo Madagascar và một phần nhỏ tại đại lục Châu Á (nhóm ngôn ngữ Chăm, Raglai,
Chru, Jarai, Eđê) tại Viê ̣t Nam và nhóm Hoi Hui tại đảo Hải Nam. Về mă ̣t địa lý, ngữ hệ Nam
Đảo phân bố kéo dài từ Madagascar ở ngoài khơi Đông Nam châu Phi đến đảo Phục Sinh ở phía
Đông Nam của Thái Bình Dương.Khoảng hơn hai mươi ngôn ngữ Nam Đảo là ngôn ngữ chính
thức của các quốc gia trong khu vực. Ngữ hệ Nam Đảo và ngữ hê ̣ Nigeria–Congo là hai ngữ hệ
lớn nhất trên thế giới về số lượng ngôn ngữ, mỗi ngữ hệ chiếm khoảng 1/5 tổng số ngôn ngữ
được ước tính trên thế giới. Tiếng Hawaii, tiếng Rapa Nui, và tiếng Malagasy (nói tại
Madagascar) là các ngôn ngữ phân bổ ở những vùng địa lý xa nhất của Ngữ hệ Nam Đảo. Theo
Robert Blust (1999), ngữ hệ Nam Đảo được chia thành một số nhánh chính, theo thuyết phổ biến
nhất hiê ̣n nay đều bắt nguồn từ đảo Đài Loan. Nhóm ngôn ngữ Formosa tại Đài Loan được phân
thành 9 phân nhóm bậc đầu tiên của ngữ hệ Nam Đảo. Toàn bộ các ngôn ngữ Nam Đảo được sử
dụng bên ngoài Đài Loan (bao gồm tiếng Yami ở ngoài khơi của Đài Loan) thuộc nhánh Mã Lai-
Đa Đảo.

Bảnđồ mở rộng phạm vi của Ngữ hệ Nam Đảo. Các thời kỳ dựa trên những nghiên cứu khảocổ
học. Nguồn: Kwami – Createdfrom info in Ethnologue and other sources on a Wiki Commons
map
Nét tương đồng trong ngôn ngữ thể hiện qua mối quan hệ của ngôn ngữ Chăm ở Việt Nam gần
với ngôn ngữ Aceh ở đảo Sumatra của Indonesia, ngôn ngữ Moken ở Thái Lan, đây được xem là
những ngôn ngữ anh em gần gũi nhất, trong đó “hệ số đếm” của các vùng này không có sự khác
biệt nhiều như so với các ngôn ngữ khác thuô ̣c Nam Đảo. Hay một số ngôn ngữ nhóm
Kadai/Kradai ở vùng giáp ranh giữa Việt Nam và TrungQuốc (Vân Nam, Quảng Tây) hiê ̣n còn
được sử dụng, cũng có mối liên hệ mâ ̣t thiết với hệ ngôn ngữ Nam Đảo.

Sự đồng dạng hoă ̣c tương đồng do cùng nguồn gốc của hê ̣ thống số đếm trải rô ̣ng qua các ngôn
ngữ Nam Đảo tại Thái Bình Dương, Đông Nam Á, Nam Trung Hoa và Madagascar. Đă ̣c biê ̣t,
theo nghiên cứu này, số 5 thường được các dân tô ̣c Nam Đảo giữ được gốc nguyên bản nhất
(lima, lime, ima…) do chúng xuất phát từ việc dùng 5 ngón tay để đếm, do đó, mô ̣t số dân tô ̣c
lấy tên gọi một bàn tay để gọi số 5. Bên cạnh đó, mô ̣t số dân tô ̣c nhánh Mã Lai – Đa Đảo chọn hê ̣
số đếm 5 làm căn bản, số còn lại chọn 10 hay 4 hay 2; tuy vâ ̣y tên gọi số 5 thường cũng rất gần
gũi với nhau. Trong công trình nghiên cứu của mình, TS. Eugene Chan đã thông qua tài liệu điền
dã tại nhiều quốc gia/vùng lãnh thổ khác nhau kể cả những hòn đảo xa xôi hẻo lánh như Kiribati,
Vanuatu Hawaii, đảo Easter – Chile; New Caledonia, Papua New Guinea, Palau, Andaman,
Madagascar… để hệ thống được nét tương đồng về hệ số đếm của các dân tộc theo ngữ hệ Nam
Đảo. (xem bảng đínhkèm)

Nguồn: PeterBellwood 2010: Nguồn gốc của các xã hội nông nghiệp.

Những nhà nông đầu tiên, Nxb. Thế giới.


Không những đường đi của ngữ hệ Nam Đảo đầy lý thú về mặt ngôn ngữ mà còn chứa đựng nét
văn hóa bản địa sâu sắc cùng với vùng ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo. Từ những nghiên cứu về
ngôn ngữ, các nghiên cứu khác đã khám phá thêm những nét tương đồng văn hóa, ngôn ngữ của
các dân tộc ít người khác theo Nam Đảo với bộ tộc Korowai – Indonesia (một bộ tộc có tục ăn
thịt người còn tồn tại đến ngày nay).

Thông qua việc nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới, các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ đã xây dựng được hệ thống dữ liệu ngôn ngữ không những bảo tồn giá trị văn hóa các
dân tộc mà còn bảo tồn tiếng nói của dân tộc mình, giúp cho ngôn ngữ và văn hóa của từng dân
tộc hòa mình vào dòng chảy ngôn ngữ và văn hóa chung của toàn thế giới để cùng nhau phát
triển bền vững.

You might also like