Professional Documents
Culture Documents
Phong Thi Nghim Ca Nha Qung Cao
Phong Thi Nghim Ca Nha Qung Cao
Hopkins
Biên dịch: Hạo Nhiên và nhóm dịch
1
Claude C. Hopkins
là quyển sách làm thay đổi cuộc đời mình. Bản thân Công ty
TNHH Ecoblader cũng phát triển các đầu sách của mình
theo những ý tƣởng mà Hopkins đã viết ra trong quyển sách
này.
Do bối cảnh những năm 1920 ở Mỹ so với Việt Nam
ngày nay có nhiều điểm khác biệt, nên ngƣời dịch đã chú
dẫn những thông tin cần thiết để bạn đọc có thể hiểu rõ ý
tƣởng của Hopkins hơn, từ những thông tin về thƣơng hiệu
không còn tồn tại ngày nay, cho đến những chiến dịch
quảng cáo phổ biến nhất vào thời kì đó.
Ngoài ra, ở đầu và cuối mỗi chƣơng, ngƣời dịch cũng
thêm vào phần giới thiệu, cũng nhƣ tóm tắt và bình luận về
nội dung chƣơng để bạn đọc có thể hệ thống hóa lại những
kiến thức đã đƣợc Hopkins trình bày chi tiết. Bạn đọc có thể
xem phần tổng kết cuối mỗi chƣơng là một dàn bài tóm gọn
để tiện tra cứu về sau.
Vì Hopkins chủ trƣơng không trình bày quá nhiều ví dụ
cá biệt, mà tập trung vào các nguyên lí chung, nên ngƣời
dịch cũng ghi chú một số thông tin và ví dụ ở các quyển
sách khác, nhằm giúp độc giả có thể tìm hiểu thêm về cách
vận dụng các nguyên lí vào thực tế của Hopkins (cũng nhƣ
một số chuyên gia khác). Danh sách sách đƣợc nhắc đến
trong phần nội dung, bạn đọc có thể xem chi tiết tại phần
Phụ lục.
Chúc các bạn rút ra đƣợc nhiều kinh nghiệm cho chính
mình. Mọi liên hệ về nội dung quyển sách, bạn có thể gửi về
contact[at]ecoblader.com.
Hạo Nhiên
2
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
MỤC LỤC
Lời nói đầu .......................................................................................... 1
3
Claude C. Hopkins
CHƢƠNG 15: Chiến dịch thử nghiệm: Đánh trận giả ............. 131
4
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
CHƢƠNG 1
Sự hình thành của các nguyên lí quảng cáo
* *
1 Agency là công ty trung gian nhận thực hiện một phần các công việc cụ
thể cho khách hàng (ở đây là công việc quảng cáo). Từ “agency” hiện nay khá
phổ biến, thƣờng đƣợc dùng để chỉ các công ty cung cấp các dịch vụ liên
quan đến marketing (đặc biệt là truyền thông). Do vậy, nhóm dịch sẽ giữ
nguyên cách gọi này.
5
Claude C. Hopkins
6
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
quảng cáo đã qua của mình. Kết quả phân tích đƣợc lƣu lại
và tóm tắt thành các bài học, các nguyên lí cho những thế hệ
sau.
Các agency nhƣ vậy có rất nhiều nhân tài. Chỉ những
ngƣời có đủ khả năng và kinh nghiệm mới có thể thực hiện
các chƣơng trình quảng cáo mang tầm cỡ quốc gia. Trải qua
quá trình làm việc, học hỏi lẫn nhau, cũng nhƣ thông qua
những trải nghiệm mới, nhóm nhân tài này đã phát triển
thành các chuyên gia quảng cáo.
Mỗi cá nhân có thể rời bỏ tổ chức, nhƣng tất cả đều để
lại nơi họ đã ra đi những bài học, dữ liệu và ý tƣởng đầy giá
trị. Những bài học này lại hóa thành công cụ của tổ chức, và
giúp cho những ngƣời đi sau có thêm kinh nghiệm. Qua
hàng thập kỉ, những agency này dần trở thành những kho
lƣu trữ kinh nghiệm về ngành quảng cáo cực lớn, với những
nguyên lí và phƣơng pháp hiệu quả đã đƣợc kiểm chứng kĩ
càng qua bao năm tháng.
Mặt khác, những agency lớn cũng có cơ hội làm việc với
nhiều chuyên gia trong nhiều ngành kinh doanh khác nhau.
Những agency này có nhiều khách là doanh nghiệp đầu
ngành. Nhờ vào đó, agency có thể thấy hiệu quả của từng
phƣơng pháp và chính sách trong các môi trƣờng khác
nhau. Agency dần trở thành một nơi giải quyết mọi vấn đề
liên quan đến kinh doanh. Hầu nhƣ tất cả các câu hỏi về
lĩnh vực bán hàng trong bất kì ngành nào, giờ đây, có thể
đƣợc giải quyết chính xác nhờ vào nguồn kinh nghiệm to
lớn của các agency quảng cáo.
Nhờ vào những tác nhân trên, trong quá trình tồn tại lâu
dài của mình, quảng cáo và bán hàng đã trở thành khoa học.
7
Claude C. Hopkins
2 Truy dấu là sử dụng công cụ theo dõi từng quảng cáo và khách hàng, để
thống kê hiệu quả từng quảng cáo. Ví dụ, một công ty quảng cáo trên kênh A
và kênh B cùng lúc, nếu không sử dụng các công cụ truy dấu, thì họ sẽ không
biết khách hàng của mình đến từ kênh quảng cáo nào. Tuy nhiên, nếu họ cho
khách hàng ở kênh A sử dụng phiếu khuyến mãi có mã X, kênh B có mã Y,
thì khi khách hàng sử dụng mã khuyến mãi, họ sẽ biết ngay khách này đến từ
đâu. Nhƣ vậy, mã khuyến mãi đó chính là một công cụ truy dấu. Ngày nay,
trên internet có nhiều công cụ truy dấu và thống kê hiệu quả hơn nhiều, ví dụ
nhƣ Facebook có các loại Facebook pixel, giúp theo dõi và xác định đƣợc hầu
nhƣ từng hành vi của khách hàng, thậm chí cả những ngƣời chƣa mua hàng.
Các quảng cáo có đính công cụ truy dấu đƣợc Hopkins gọi là “keyed ad.”
3 Mail order advertising, tức là loại hình quảng cáo qua các kênh truyền
thông, sau đó khách đặt hàng qua thƣ và sản phẩm đƣợc gửi qua đƣờng bƣu
điện. Thời nay, quảng cáo bán hàng qua Facebook cũng là một dạng quảng
cáo đặt hàng (chỉ khác là thời trƣớc dùng thƣ, thời nay dùng internet và các
phƣơng tiện truyền thông khác).
8
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
Mỗi quảng cáo sẽ đƣợc so sánh với các quảng cáo khác.
Mỗi phƣơng pháp cũng đều đƣợc so sánh với các phƣơng
pháp khác. Tiêu đề, cách trình bày, cỡ chữ, luận điểm, hình
ảnh... tất cả đều đƣợc các chuyên gia so sánh với nhau.
Giảm đƣợc chi phí thậm chí chỉ 1% thôi cũng đã rất có ý
nghĩa trong quảng cáo đặt hàng. Do đó, ngƣời làm quảng
cáo không đƣợc phép đoán mò. Họ phải biết rõ cách nào là
tốt nhất. Đó là lí do khiến quảng cáo đặt hàng trở thành lĩnh
vực đặt nền tảng cho rất nhiều nguyên lí cơ bản có giá trị
vƣợt thời gian.
Trong những trƣờng hợp không thể đo lƣờng trực tiếp
hiệu quả, các quảng cáo gia thƣờng so sánh chỉ số tại các địa
phƣơng khác nhau. Hiệu quả từng phƣơng pháp có thể so
sánh theo cách này, dựa vào tiêu chí chi phí trên doanh số4
là chủ yếu.
Tuy nhiên, cách đo lƣờng hiệu quả nhất là sử dụng
phiếu khuyến mãi (coupon). Các nhà quảng cáo thƣờng tặng
mẫu dùng thử, sách, một gói sản phẩm miễn phí, hoặc một
thứ gì đó tƣơng tự kích thích khách hàng phản hồi ngay để
thu thập thông tin. Từ cách này, họ có thể biết ngay tỉ lệ
phản hồi phân theo các tiêu chí của mỗi quảng cáo.
Những con số này không phải là con số cuối cùng đƣợc
sử dụng để phân tích. Một quảng cáo tuy thu lại nhiều phản
hồi vẫn có khả năng vô dụng, bởi có những phản hồi không
có ý nghĩa. Do đó, kết luận cuối cùng của ngƣời làm quảng
cáo luôn đƣợc suy ra từ chỉ số chi phí cho mỗi khách hàng,5
hoặc chi phí cho mỗi đồng doanh thu.6
4 Cost of sales
5 Cost per customer.
6 Cost per dollar of sale.
9
Claude C. Hopkins
10
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
ngành quảng cáo không đƣợc đánh giá cao. Mỗi nhà quảng
cáo đều có phƣơng pháp làm việc riêng. Những kiến thức
trong quá khứ luôn bị từng ngƣời giữ khƣ khƣ, ai cũng cố
gắng tự xây cả một hệ thống to lớn mà không hề để mắt tìm
hiểu tới những thứ ngƣời khác đã làm trƣớc đó. Kiểu nhƣ ai
cũng muốn trở thành Columbus, tìm ra cả một châu lục mà
không cần bản đồ vậy.
Thế là vì không có đƣờng đi với những nguyên lí rõ
ràng, các nhà quảng cáo thƣờng bị ảnh hƣởng nhiều bởi các
ý tƣởng mông lung bất chợt, rồi từ đó đi lang thang, lòng
vòng và ít khi đến đƣợc đích đã định. Giả nhƣ họ có đến
nơi, thì cũng là bằng một con đƣờng dài đằng đẵng và lòng
vòng không đáng.
Đối với ngành quảng cáo trong quá khứ, mỗi thuyền
trƣởng đều tự vẽ bản đồ hành trình: không biểu đồ của
ngƣời đi trƣớc, không hải đăng, không có cả phao chỉ
đƣờng. Không có sách vở hay tài liệu ghi chú những đoạn
gập ghềnh hay có đá ngầm gây ra những vụ đắm tàu trong
quá khứ, thế là lại có vô số con tàu chìm ngay chính những
vùng nguy hiểm ấy.
Ngành quảng cáo lúc ấy chẳng khác nào một trò chơi
may rủi, kẻ nào cũng đoán và lên kế hoạch chiến thắng,
nhƣng kết quả lại hoàn toàn dựa vào vị thần may mắn.
Không có ai làm hoa tiêu, bởi rất ít ngƣời có thể lặp lại cuộc
hành trình nguy hiểm ấy lần thứ hai.
Giờ đây, mọi thứ đã đƣợc điều chỉnh lại. Rủi ro giờ chỉ
còn nằm ở con ngƣời và sản phẩm, chứ phƣơng pháp không
còn là vấn đề nữa. Thứ khó khăn nhất đối với các nhà quảng
cáo chỉ là làm sao lƣợng hóa đƣợc tính cách, sự ƣu tiên hay
11
Claude C. Hopkins
định kiến của khách hàng, chứ không phải là loay hoay lần
mò chọn lựa phƣơng pháp quảng cáo nhƣ lúc trƣớc. Ngƣời
ta không thể dự đoán trƣớc rằng sản phẩm nào đó có bán
chạy hay không, nhƣng đã có thể biết chính xác cách thức
bán hàng nào là hiệu quả nhất cho sản phẩm ấy.
Các công ty có thể thành công, có thể thất bại, nhƣng sự
thất bại lúc đó sẽ không còn là thảm họa, bởi tổn thất khi
thất bại không còn quá lớn. Và nguyên nhân thất bại chủ
yếu chắc chắn sẽ không còn là do sự mơ màng về phƣơng
pháp lên kế hoạch và thực thi các chƣơng trình quảng cáo
nhƣ lúc trƣớc.
Ngành quảng cáo đã thăng hoa cùng những nghiên cứu
này. Ngành đã phát triển cả về kích cỡ thị trƣờng, về độ uy
tín cũng nhƣ đã đƣợc ngƣời đời coi trọng. Nhƣng nên chú ý
rằng, kéo theo đó, sự nguy hiểm cũng tăng lên gấp bội. Chỉ
đơn giản biến một trò cờ bạc thành một môn khoa học sẽ
không thể khiến những kẻ tay mơ liều mạng trong quảng
cáo bỗng dƣng trở thành một quảng cáo gia đại tài!
Phải nhìn rõ sự thật này: Quảng cáo không phải là vùng
đất của những lí thuyết lê thê vô bổ, cũng không phải là nơi
những ảo vọng đƣợc phép đâm chồi. Kẻ mù mờ dẫn đƣờng
cho kẻ mù mờ thì thật là ngớ ngẩn. Trong một ngành có quá
nhiều khả năng có thể xảy ra nhƣ quảng cáo, thì cách làm đó
thật vô nghĩa. Khi đó, thành công sẽ hiếm, thành công cực
độ thì gần nhƣ không thể xảy ra; trừ khi chúng ta làm theo
các quy luật cứng của ngành, còn không thì tất cả vẫn chỉ là
một trò đỏ đen không hơn không kém.
Do vậy, mục đích cuối cùng của tôi là đƣa ra đƣợc
những quy luật sống còn, để quý độc giả có thể tìm đƣợc
12
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
7 Có nhiều phƣơng án giải quyết cá biệt rất hay cho một trƣờng hợp cá
biệt, tuy nhiên không thể áp dụng đại trà. Việc trình bày một phương án giải
quyết cá biệt như một hình mẫu sẽ khiến người học nhầm lẫn rằng đó là phương án
chuẩn mực có thể áp dụng cho trường hợp của bản thân mình. Hopkins không
muốn ngƣời đọc sách mình hiểu sai và áp dụng những phƣơng án giải quyết
có vẻ hay nhƣng không phù hợp với họ, nên ông chỉ trình bày những phƣơng
án, hiểu biết đã đƣợc ông thử nghiệm nhiều lần ở nhiều ngành và có thể áp
dụng đƣợc trong hầu hết các ngành mà thôi.
13
Claude C. Hopkins
14
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
1. Quảng cáo trong quá khứ đƣợc thực hiện dựa trên
cảm hứng bất chợt và kinh nghiệm của từng nhà quảng cáo
riêng lẻ. Mọi ngƣời không học hỏi, kế thừa lẫn nhau, cũng
nhƣ không có phƣơng pháp cụ thể.
2. Dân làm quảng cáo hiện đại nghiên cứu bằng cách thử
nghiệm lặp đi lặp lại, sau đó phân tích hiệu quả-chi phí và
tổng hợp thành nguyên lí. Trong đó, vấn đề quan trọng nhất
là truy dấu: nếu quảng cáo đƣợc thực hiện mà không có
công cụ truy dấu, thì ngƣời làm quảng cáo sẽ hoàn toàn
không biết quảng cáo của mình hiệu quả đến đâu.
3. Quảng cáo trở thành khoa học là nhờ sự xuất hiện các
agency lớn. Vai trò của các agency:
- Là nơi lƣu trữ thông tin về các quảng cáo đã thực hiện, giúp
so sánh, đối chiếu, phân tích và tổng hợp ra nguyên lí.
- Là nơi tích lũy các sáng kiến, khám phá của các nhân tài đã
làm việc tại agency.
- Là nơi tiếp cận vấn đề ở đa dạng ngành nghề, giúp thấy đƣợc
cái nhìn tổng quan nhất.
Ở đây ta thấy vai trò của một hệ thống quản trị tri thức
trong sự phát triển của ngành. Các agency quảng cáo có ƣu
15
Claude C. Hopkins
thế trong các ngành là nhờ các hệ thống tích lũy kiến thức
nhƣ thế này, lƣu trữ thông tin về các chiến dịch đã qua, các
phƣơng pháp đã thực hiện và hiệu quả của từng chiến dịch.
4. Ƣu điểm lớn nhất của một agency so với client (khách
hàng) nằm ở chỗ agency có cơ hội thử nghiệm rất nhiều lần.
Nếu bạn đang quản lí một agency, việc không xây dựng một
hệ thống quản trị tri thức để lƣu lại các thử nghiệm đã qua ở
các chiến dịch trƣớc rõ ràng sẽ làm mất đi ƣu điểm lớn nhất
của bạn so với khách hàng. Khi đó, ở mỗi chiến dịch, bạn và
khách hàng lại quay về xuất phát điểm giống nhau, khiến
bạn mất đi đa phần lợi thế của agency!
Ví dụ một số thông tin có ích cho các agency khi có hệ
thống quản trị tri thức:
- Hiệu quả của các kĩ thuật cho từng mục đích: Kĩ thuật nào để
tăng doanh số cho ngành bán lẻ sản phẩm may mặc? Kĩ thuật nào
giúp tăng độ phủ tốt nhất? Chi phí cho mỗi kĩ thuật là bao nhiêu?
- Các kênh khai triển chiến dịch cho từng đối tƣợng khách
hàng: Tiếp cận khách hàng bình dân ở kênh nào là tốt nhất? Chi
phí bao nhiêu? Kênh phát tờ rơi hiệu quả nhất cho ngành nào?...
- ...
16
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
không cao. Tất cả là nhờ thử nghiệm: hầu hết thất bại sẽ
đƣợc phát hiện ngay từ khi thử nghiệm, hạn chế tối đa mất
mát không đáng có.
5. Tác giả không phân tích các yếu tố chi li chỉ đặc trƣng
cho một vài tình huống cá biệt vì có nhiều phƣơng án giải
quyết cá biệt rất hay cho một trƣờng hợp cá biệt, tuy nhiên
không thể áp dụng đại trà. Việc trình bày một phƣơng án
giải quyết cá biệt nhƣ một hình mẫu sẽ khiến ngƣời học
nhầm lẫn rằng đó là phƣơng án chuẩn mực có thể áp dụng
cho trƣờng hợp của bản thân mình.
Các ví dụ cụ thể về các chiến dịch của Hopkins các bạn
có thể xem trong quyển Đời quảng cáo của tác giả. Với mỗi
nguyên lí mà tác giả nhắc đến, ngƣời dịch sẽ ghi chú những
chiến dịch ông đã thực hiện liên quan đến nguyên lí ấy để
bạn đọc có thể tiện tham khảo.
17
Claude C. Hopkins
CHƢƠNG 2
Bán hàng trực tiếp
Sau khi trình bày quá trình phát triển của ngành khoa học
quảng cáo, cũng như tư tưởng chung của sách, tác giả tiếp tục
trình bày triết lí cơ bản nhất làm nền tảng lí luận của ông: Quảng
cáo về bản chất chính là bán hàng.
Đây có thể nói là chương quan trọng nhất quyển sách này.
*
* *
18
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
8 Dĩ nhiên vẫn có quảng cáo có mục tiêu là xây dựng thƣơng hiệu hay
tăng độ phủ thƣơng hiệu, tuy nhiên phải thấy rằng thƣơng hiệu thực ra
cũng chỉ là công cụ trung gian để đạt đến mục đích cuối cùng là doanh
thu và lợi nhuận. Nhƣ vậy, về bản chất, quảng cáo là để bán đƣợc hàng.
(Ở đây không nói đến các trƣờng hợp đặc biệt nhƣ các chiến dịch
marketing xã hội.)
19
Claude C. Hopkins
hơn. Một anh nhân viên bán hàng tầm thƣờng có thể ảnh
hƣởng một ít đến công ty. Một chiến dịch quảng cáo tầm
thƣờng thì có thể làm suy sụp cả hệ thống.
Nhiều ngƣời hay nghĩ rằng làm quảng cáo đơn giản là
viết-quảng-cáo theo nghĩa đen. Các bằng cấp văn chƣơng
trong quảng cáo cũng chỉ đóng vai trò tƣơng đƣơng tài
hùng biện trong bán hàng mà thôi, cả hai đều chẳng quan
trọng lắm. Dĩ nhiên, ngƣời làm quảng cáo phải biết cách
truyền tải thông điệp ngắn gọn, rõ ràng và thuyết phục nhƣ
một ngƣời bán hàng chuyên nghiệp vậy. Thế nhƣng, viết
nắn nót quá lại chính là bất lợi.9 Phong cách văn vẻ quá đặc
biệt cũng vậy. Những thứ quá hào nhoáng thu hút sự chú ý
của ngƣời xem khỏi chủ đề quảng cáo đang hƣớng tới. Và
những quảng cáo nhƣ vậy sẽ dễ lộ. Các thí nghiệm sử dụng
những yếu tố trên để hút khách đều cho kết quả là dễ lộ và
không thể khiến khách chịu tháo lớp vỏ phòng thủ để tiếp
nhận thông điệp.
Bán hàng trực tiếp hay bán hàng bằng quảng cáo qua
phƣơng tiện truyền thông10 cũng nhƣ nhau cả. Ngƣời nói tốt
chƣa hẳn bán hàng giỏi. Những ngƣời hay dựa dẫm vào tài
9 Ở thời của Hopkins, một lƣợng lớn quảng cáo cũng nhƣ thƣ từ đƣợc viết
bằng tay. Nhiều ngƣời ƣu tiên hình thức, tập trung chỉ vào việc viết chữ đẹp
(fine writing), khiến ngƣời đọc bị xao nhãng khỏi chủ đề chính, nên Hopkins
phê bình tƣ tƣởng này. Bản thân Hopkins thời trẻ cũng phải học viết chữ đẹp,
và không hề thích. Tuy hiện nay chữ viết tay ít đƣợc sử dụng, tuy nhiên tƣ
tƣởng của Hopkins cũng có thể áp dụng trong việc thiết kế thƣ từ, hồ sơ và
quảng cáo.
10 Hopkins dùng từ “salesmanship-in-print,” dịch nôm na là “bán hàng
trên giấy” (đăng quảng cáo trên báo giấy). Do kể từ thời Hopkins, có rất
nhiều kênh quảng cáo khác phát triển ngoài báo giấy, nên nhóm dịch chuyển
lại thành “quảng cáo qua phƣơng tiện truyền thông” để phù hợp hơn với thời
đại.
20
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
ăn nói của mình thƣờng khiến ngƣời tiêu dùng cảm thấy bị
ảnh hƣởng, sợ bị thao túng và thấy mình bị lép vế. Khách
hàng sẽ nghi ngờ ngƣời bán, vì họ nghĩ rằng đối phƣơng
đang cố gắng lừa mình.
Những ngƣời bán hàng thành công nhất ít khi thuyết
trình giỏi. Họ cũng không giỏi nói nhiều. Họ thƣờng nói rất
đơn giản và chân thành, hiểu rõ khách hàng và biết mình
đang nói gì. Trong quảng cáo cũng vậy thôi. Nhiều nhà
quảng cáo thành công lại thƣờng từng là nhân viên bán
hàng. Những ngƣời giỏi nhất mà tôi biết là những ngƣời
bán hàng tận nhà. Có thể họ không giỏi về ngữ pháp, diễn
thuyết kém, nhƣng lại biết rõ cách dùng đúng từ ngữ để
thuyết phục khách hàng.
Chỉ có một cách đơn giản để trả lời các câu hỏi phức tạp
về quảng cáo. Hãy tự hỏi: “Quảng cáo thế này có giúp hàng
bán chạy hơn không?” “Quảng cáo thế này có khiến mình
bán hàng nhanh hơn khi đƣợc gặp trực tiếp khách hàng
không?” Tự hỏi và trả lời thành thật với chính mình sẽ giúp
ta tránh đƣợc vô số sai lầm chủ quan không đáng có. Khi
một ngƣời quyết định chạy một quảng cáo chỉ để chứng tỏ
bản thân, để mình cảm thấy tự hào, thì nhiều khả năng là
quảng cáo đó chẳng đem về nhiều lợi nhuận cho công ty.
Nhiều ngƣời thích chú tâm vào slogan,11 ngƣời thì thích
tạo ra những hình ảnh ẩn dụ thâm sâu. Nhƣng thôi đi, hãy
tự nghĩ lại, liệu khi thuyết phục trực tiếp khách hàng, bạn có
dùng những thứ đầy ẩn ý đã viết trong quảng cáo không.
Tƣởng tƣợng thử, liệu có khách hàng nào ấn tƣợng với
11Slogan là các câu nói ngắn thƣờng đi kèm với sản phẩm để thể hiện một
ý tƣởng hay đặc trƣng nổi bật của sản phẩm.
21
Claude C. Hopkins
Đây là tiêu chuẩn ở Mỹ thời của Hopkins. Thời nay, đặc điểm của các
12
trang nội dung đã thay đổi, tuy nhiên quý độc giả có thể thấy, quảng cáo
đang có xu hƣớng “ngụy trang” sao cho gần giống với nội dung chính của
báo hoặc trang web nhất (native advertising).
22
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
13Dĩ nhiên vẫn có những quảng cáo mang tính giải trí cao, nhƣng
cũng là để phục vụ việc bán hàng.
23
Claude C. Hopkins
con ngƣời bình thƣờng và là một anh bán hàng giỏi, ta sẽ trở
thành ngƣời viết kế hoạch quảng cáo rất tốt.
Đừng nghĩ về khách hàng chung chung, vì cách làm này
sẽ khiến ta mờ mịt, chẳng biết nên thuyết phục họ nhƣ thế
nào. Hãy nghĩ về một con ngƣời cụ thể, ngƣời có nhiều khả
năng mua hàng của ta nhất. Đừng cố diễn trò. Tiền chi
quảng cáo thì phải nghiêm túc tập trung phục vụ mục tiêu.
Đừng khoác lác, ngƣời ta rất ghét. Đừng thể hiện. Đừng làm
màu. Chỉ tập trung làm những thứ mà ta nghĩ một anh bán
hàng giỏi sẽ làm với một ngƣời khách hàng cụ thể đứng
trƣớc mặt mình.
Nhiều ngƣời viết quảng cáo nghiêm túc sẽ tự mình đi
bán hàng trƣớc khi đặt bút viết. Một số ngƣời thậm chí còn
bỏ hẳn vài ba tuần mang sản phẩm đi bán trực tiếp. Từ kinh
nghiệm tích lũy đƣợc trong quá trình bán hàng, họ có thể
biết đƣợc phản ứng của khách đối với mỗi cách thuyết phục
hay tiếp cận. Họ có thể hiểu rõ yếu tố nào là then chốt trong
quyết định mua hàng, và yếu tố nào tƣởng quan trọng
nhƣng lại chẳng ảnh hƣởng gì lắm. Có ngƣời còn trực tiếp
đi phỏng vấn hàng trăm khách. Có ngƣời lại gửi bảng câu
hỏi để tìm hiểu thái độ của ngƣời mua hàng. Tóm lại, bằng
cách này hay cách khác, ngƣời làm quảng cáo cần tiếp cận
thực tế. Ngồi nhà đoán mò sẽ tiêu tốn khá nhiều chi phí.
Ngƣời viết quảng cáo thƣờng sẽ hiểu rõ vấn đề từ góc
nhìn của nhà sản xuất, và thƣờng họ cũng hiểu quan điểm
của đại lí. Tuy nhiên, chính những hiểu biết ấy lại khiến họ
sa lầy khi nhìn từ góc độ khách hàng. Lúc này, những điều
mà ngƣời viết quảng cáo quan tâm lại chƣa hẳn là điều
khách hàng chú ý. Ngƣời viết quảng cáo luôn phải thực sự
nhập tâm vào vai diễn khách hàng, và đứng nhìn mọi thứ ở
24
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
góc nhìn này. Thành công hay thất bại phụ thuộc rất lớn vào
việc họ có hiểu khách hàng hay không.
Đây có lẽ là chƣơng quan trọng nhất trong quyển sách
này. Lí do thất bại cơ bản nhất của việc làm quảng cáo đó là
cố gắng bán cho ngƣời khác thứ mà họ không cần. Và lí do
thứ hai chính là thiếu đi tinh thần của một nhân viên bán
hàng chuyên nghiệp.
Quảng cáo thƣờng đƣợc viết với cách tiếp cận hoàn toàn
sai lầm. Các chiến dịch thƣờng đƣợc ra đời để làm các sếp
mát lòng mát dạ, và bỏ quên đi cảm nhận của ngƣời mua.
Chẳng ai có thể bán bất kì thứ gì, một khi vẫn còn giữ cái
quan điểm thiển cận này.
25
Claude C. Hopkins
26
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
hoa mỹ. Quá hoa mỹ và hoàn hảo sẽ khiến khách hàng đề phòng
hoặc xao nhãng khỏi sản phẩm.
- Quảng cáo nên ngắn hay dài? Không quan trọng, chỉ cần đủ
thông tin khách hàng cần và thu hút đƣợc họ.
- Quảng cáo nên dùng cỡ chữ nào? Nên dùng cỡ chữ mà độc
giả/khách hàng đã quen thuộc, càng quen thuộc càng tốt.
- Quảng cáo nên ồn ã, rầm rộ hay không? Bình thƣờng là đƣợc,
không nên làm quá lố để thu hút sự chú ý, sẽ dễ gây mất thiện cảm
và xao nhãng.
- Quảng cáo có nên độc và khác ngƣời? Không nên “dị” quá
mức, sẽ khiến khách hàng có ấn tƣợng xấu.
27
Claude C. Hopkins
PHỤ LỤC
Các tài liệu được nhắc đến trong sách
28
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
CHỈ MỤC TỪ
Chỉ mục từ (index) là phần nằm trong các sách khoa học,
giúp bạn có thể tra cứu các chủ đề, nhân vật, nội dung bạn
muốn một cách nhanh chóng, rất tiện nếu bạn muốn xem lại
một nội dung nào đó về sau. Ví dụ, khi bạn đang tìm hiểu
về Pepsodent và muốn tìm thông tin về thƣơng hiệu này,
bạn chỉ cần tra mục từ “Pepsodent” sau mỗi quyển sách là
tìm ngay đƣợc phần nói về Pepsodent.
Tên ngƣời sẽ đƣợc xếp thứ tự theo họ. Ví dụ, Claude C.
Hopkins sẽ đƣợc xếp ở “Hopkins, Claude C.”
Trong quyển sách này, các nội dung quan trọng nhất về
quảng cáo đƣợc liệt kê trong các mục từ bắt đầu bằng
“quảng cáo” với nội dung cụ thể đƣợc ghi chú ngay đằng
sau dấu phẩy.
Chúc các bạn nghiên cứu và ứng dụng hiệu quả!
29
Claude C. Hopkins
30
Phòng thí nghiệm của nhà quảng cáo
31
PHÒNG THÍ NGHIỆM CỦA NHÀ QUẢNG CÁO
Tác giả
Claude C. Hopkins
Biên dịch
Hạo Nhiên – Quang Vũ – Minh Châu – Anh Nhật – Tường Vy
Biên tập
Lê Thị Diệu Phương
Sửa bản in
Trương Thị Thu Nga
Mã số ISBN
978-604-922-523-9
In 2000 cuốn, khổ 14.5 x 20.5 cm tại Công ty Cổ Phần In Khuyến Học
Phía Nam, 128/7/7 Trần Quốc Thảo, Phƣờng 7, Quận 3, TP. Hồ Chí
Minh; nhà máy in: Lô B5-8 đƣờng D4, KCN Tân Phú Trung, Củ Chi, TP.
Hồ Chí Minh. Số xác nhận đăng kí xuất bản: 2125-2017/CXBIPH/3-
13/KTTPHCM. Quyết định số: 67/QĐ-NXBKTTPHCM cấp ngày
18/7/2017. In xong và nộp lƣu chiểu Quý 4/2017.