You are on page 1of 61

Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI


TRUNG TÂM ĐÀO TẠO E-LEARNING
------------------------------------
BÀI 2

Môi trường kinh doanh quốc tế

3.1. Môi trường thương mại quốc tế

3.1.1. Khái niệm, lợi ích và đặc điểm của thương mại quốc tế

Thương mại quốc tế là một trong những hình thức chủ yếu của hoạt động kinh
doanh quốc tế. Đó là hoạt động mua bán, hoặc trao đổi hàng hóa và dịch vụ vượt
qua biên giới các quốc gia. Thương mại quốc tế khác với nội thương - hoạt động
trao đổi diễn ra giữa các vùng, các địa phương, hoặc các thành phố trong phạm vi
một nước. Thương mại quốc tế bao gồm hai hoạt động cơ bản là xuất khẩu và nhập
khẩu. Xét dưới giác độ một quốc gia thì xuất khẩu là hoạt động bán những hàng
hóa và dịch vụ được sản xuất ở quốc gia đó tới các nước khác, còn nhập khẩu là
hoạt động mua hàng hóa và dịch vụ từ các nước khác.

Thương mại quốc tế mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Nó
không chỉ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống, tạo công ăn việc
làm, và nói chung là nâng cao chất lượng cuộc sống của các quốc gia tham gia, mà
còn giúp cải thiện quan hệ, giảm bớt tình trạng căng thẳng, đối đầu trên trên toàn
thế giới. Nhờ có thương mại quốc tế mà mà người dân ở các nước có cơ hội lựa
chọn lớn hơn đối với các hàng hóa và dịch vụ, và có thể có được những hàng hóa
và dịch vụ đó với giá cả thấp hơn.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 1


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Thương mại quốc tế mở ra những cơ hội kinh doanh mới cho tất cả các doanh
nghiệp ở các quốc gia trên thế giới, nhất là trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa
thị trường và toàn cầu hóa sản xuất diễn ra với quy mô ngày càng lớn, phạm vi
ngày càng rộng và cường độ ngày càng cao. Thông qua thương mại quốc tế mà các
doanh nghiệp có thể bán sản phẩm của mình trên thị trường nước ngoài, mua bán
thành phẩm hoặc các đầu vào cần thiết khác để tiến hành các hoạt động sản xuất,
gia công, lắp ráp sản phẩm phục vụ cho thị trường trong nước và thị trường nước
ngoài.

Thương mại quốc tế là lĩnh vực ra đời sớm nhất và cho đến nay vẫn giữ vị trí
trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Theo số liệu thống kê của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), xuất khẩu hàng hóa của toàn thế giới trong năm 2005
đạt mức cao kỷ lục là 10121 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2004 (8907 tỷ USD).
Sự gia tăng quy mô của thương mại quốc tế càng trở nên hết sức ấn tượng nếu như
có sự so sánh với thời điểm năm 1970, khi tổng xuất khẩu hàng hóa của toàn thế
giới mới chỉ đạt 314 tỷ USD.

Thương mại và sản xuất quốc tế luôn vận động cùng chiều. Điều này có thể
giải thích bởi sự phụ thuộc của xuất khẩu vào biến động của sản lượng. Khi sản
xuất của thế giới suy giảm thì thương mại quốc tế cũng có chiều hướng đi xuống,
và ngược lại khi sản lượng tăng thì thương mại cũng gia tăng. Thương mại có
chiều hướng giảm sút vào các giai đoạn suy thoái kinh tế vì khi đó cầu đối với
hàng hóa trong nước và nước ngoài giảm đi. Một lý do khác dẫn đến sự vận động
cùng chiều của sản lượng và thương mại quốc tế là ở chỗ đồng tiền của quốc gia
đang trong tình trạng suy thoái thường yếu hơn so với các đồng tiền của các quốc

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 2


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

gia khác. Điều này khiến cho hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt hơn so với hàng hóa
sản xuất trong nước.

Chiếm tỷ trọng chủ yếu trong thương mại hàng hóa quốc tế là các mặt hàng chế
tạo. Trong năm 2004 các mặt hàng chế tạo chiếm tới 74% xuất khẩu hàng hóa của
thế giới. Trong số các mặt hàng sơ chế thì nhiên liệu chiếm tỷ trọng lớn nhất
(11,1%), tiếp đến là lương thực (7%). Xuất khẩu nguyên liệu thô, quặng sắt và kim
loại màu chiếm khoảng 5%. Trong số các mặt hàng chế tạo, máy móc và thiết bị
vận tải chiếm tới 39%. Các mặt hàng chế tạo quan trọng khác là sản phẩm hóa chất
(11%), dệt may và các mặt hàng tiêu dùng khác (21%). Có xu hướng giảm mạnh tỷ
trọng các mặt hàng sơ chế. Nếu như vào năm 1980 nhiên liệu chiếm tới 23% tổng
xuất khẩu của thế giới thì đến năm 2004 tỷ trọng này chỉ là 11%. Đối với mặt hàng
lương thực thì số liệu tương ứng giảm từ 11% xuống còn 7%. Tổng cộng tỷ trọng
hàng sơ chế trong xuất khẩu của thế giới giảm từ 42% trong năm 1980 xuống còn
26% vào năm 2004.

Giữ vị thế thống trị trong thương mại quốc tế là các nước công nghiệp phát
triển chiếm. Trong năm 2005 các nước Mỹ, EU 25, Nhật Bản và Canada chiếm tới
57,8% xuất khẩu và 63,8% nhập khẩu hàng hóa của thế giới (Bảng 5.3). Cũng
trong năm 2005 chỉ riêng 10 nước xuất khẩu lớn nhất đã chiếm tới 54,6% tổng xuất
khẩu hàng hóa của toàn thế giới, trong đó Đức dẫn đầu với tỷ trọng 9,3%, tiếp đến
là Mỹ 8,7%, Trung Quốc 7,3%, Nhật Bản 5,7%, và Pháp 4,4%. Đặc biệt sự trỗi
dậy của Trung Quốc để trở thành một trong những cường quốc thương mại của thế
giới là hết sức ấn tượng: từ chỗ chiếm tỷ trọng không đáng kể trong thương mại
quốc tế vào cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20, đến năm 2004 trở đi Trung Quốc đã
vươn lên trở thành nước xuất khẩu lớn thứ ba trên thế giới. Nếu tốc độ tăng trưởng

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 3


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

xuất khẩu cao như hiện nay tiếp tục được duy trì thì Trung Quốc sẽ trở thành nước
xuất khẩu lớn nhất thế giới vào đầu thập kỷ tới.

Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á là những thị trường xuất khẩu chủ yếu trên thế
giới. Điều này đặc biệt thể hiện rõ qua số liệu về thương mại trong nội bộ từng khu
vực nói trên. Trong năm 2004 xuất khẩu giữa các nước châu Âu chiếm tới gần
74% tổng xuất khẩu của châu lục này. Số liệu tương ứng của Bắc Mỹ và châu Á là
56% và 50%.

3.1.2. Lý thuyết thương mại quốc tế

Thương mại quốc tế đã ra đời cách đây hàng ngàn năm. Nhưng phải đến thế kỷ 15
thì mới xuất hiện những nỗ lực đầu tiên nhằm giải thích nguồn gốc và lợi ích từ
thương mại quốc tế. Hình 5.1 tóm tắt quá trình phát triển của các lý thuyết chủ yếu
về thương mại quốc tế. Ngày nay, những nỗ lực nhằm hoàn chỉnh và phát triển các
lý thuyết về thương mại quốc tế vẫn đang được tiếp tục. Lý thuyết trọng thương

Nghiên cứu kinh tế học nói chung và lý thuyết thương mại quốc tế nói riêng, được
coi là khởi đầu từ thế kỷ 15 ở châu Âu với sự xuất hiện của lý thuyết trọng thương
về thương mại quốc tế. Lý thuyết này cho rằng các quốc gia cần tích lũy nguồn của
cải tài chính, thường là bằng vàng, bằng cách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế
nhập khẩu. Tư tưởng cơ bản của trường phái trọng thương về thương mại quốc tế
được thể hiện qua các lập luận chủ yếu sau đây. Thứ nhất, các quốc gia có thể tăng
lượng của cải của mình bằng cách duy trì mức thặng dư thương mại - tức khi giá
trị xuất khẩu của một quốc gia lớn hơn giá trị nhập khẩu của quốc gia đó. Thặng
dư thương mại có nghĩa là quốc gia thu được nhiều vàng hơn từ xuất khẩu so với
lượng vàng phải thanh toán cho nhập khẩu. Ngược lại thâm hụt thương mại là
trường hợp khi nhập khẩu của một quốc gia lớn hơn xuất khẩu của quốc gia đó.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 4


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Theo quan điểm trọng thương thì quốc gia cần phải tránh tình trạng thâm hụt
thương mại bằng mọi giá.

Thứ hai, chính phủ phải tích cực can thiệp vào thương mại quốc tế để duy trì
mức thặng dư thương mại. Quá trình tích lũy của cải phụ thuộc vào việc gia tăng
mức thặng dư thương mại, chứ không nhất thiết phải dựa vào việc mở rộng quy mô
hoặc gia tăng giá trị thương mại. Chính phủ có thể đạt được mục tiêu này bằng
cách cấm nhập khẩu một số mặt hàng, hoặc áp đặt các công cụ hạn chế nhập khẩu
như thuế quan và hạn ngạch. Đồng thời, các ngành công nghiệp trong nước được
trợ cấp để có thể đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Chính phủ cũng thường áp dụng
biện pháp cấm vận chuyển vàng bạc tới các nước khác.

Thứ ba, các quốc gia trọng thương tìm cách biến các vùng lãnh thổ kém phát
triển (các thuộc địa) thành nơi cung cấp nguồn nguyên liệu thô, và đồng thời thành
thị trường tiêu thụ các thành phẩm (các mặt hàng chế tạo) với giá cao. Các nước
thuộc địa chỉ nhận được mức giá thấp khi bán các sản phẩm nguyên liệu thô,
nhưng phải trả giá cao khi mua các mặt hàng chế tạo từ các chính quốc.

Lợi thế tuyệt đối

Nhà kinh tế học người Scốtlen Adam Smith là người đã đưa ra lý thuyết thương
mại dựa trên khái niệm lợi thế tuyệt đối vào năm 1776. Một quốc gia được coi là
có lợi thế tuyệt đối về một sản phẩm nếu có thể sản xuất và bán sản phẩm đó với
chi phí thấp hơn so với bất kỳ quốc gia nào khác, hoặc là quốc gia duy nhất có thể
sản xuất được sản phẩm đó. A. Smith lập luận rằng một nước không nhất thiết phải
sản xuất tất cả các mặt hàng tiêu dùng trong nước, mà ngược lại mỗi nước có thể
tập trung sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối, và sau đó buôn
bán với các nước khác để đổi lấy những mặt hàng mà mình không sản xuất.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 5


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Trên thực tế có thể lấy nhiều ví dụ minh họa cho lợi thế tuyệt đối. Chẳng hạn,
Việt Nam là nước có lợi thế tuyệt đối về sản xuất nhiều mặt hàng nông sản như
gạo, cà phê, hạt điều, chuối, ... trong khi đó Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất
máy bay phản lực chở khách và nhiều mặt hàng công nghệ cao khác. Khí hậu ở Mỹ
không thích hợp với việc trồng cà phê, trong khi Việt Nam không có khả năng
công nghệ cần thiết để sản xuất máy bay. Cả hai nước sẽ có lợi khi khi thực hiện
chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi các sản phẩm với nhau.

Lợi thế so sánh

Mặc dầu chỉ ra được thương mại quốc tế mang lại lợi ích cho các nước tham gia,
nhưng lý thuyết lợi thế tuyệt đối không trả lời được câu hỏi là điều gì xảy ra nếu
một nước không có được lợi thế tuyệt đối về bất kỳ mặt hàng nào. Vào năm 1817,
nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã xây dựng lý thuyết về lợi thế so sánh,
theo đó nếu một nước (trong ví dụ về thế giới bao gồm hai quốc gia như ở trên) có
lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai mặt hàng thì chuyên môn hóa sản xuất và
thương mại vẫn có thể diễn ra và mang lại lợi ích cho cả hai nước. Một nước vẫn
có lợi thế so sánh khi nước đó không có được khả năng sản xuất cả hai mặt hàng
có hiệu quả hơn so với nước kia. Mặt hàng mà nước đó có lợi thế so sánh là mặt
hàng được sản xuất một cách có hiệu quả hơn trong tương quan với mặt hàng kia.
Nói cách khác, thương mại vẫn mang lại lợi ích ngay cả khi một nước kém hiệu
quả hơn trong sản xuất cả hai mặt hàng, nhưng vẫn có thể xác định được mặt hàng
co mức độ kém hiệu quả thấp hơn so với mặt hàng kia.

Lý thuyết tỷ lệ các yếu tố (lý thuyết Heckscher - Ohlin)

Vào đầu thế kỷ 20, một lý thuyết thương mại mới xuất hiện với trọng tâm đề cập
đến mức độ trang bị nguồn lực ở các quốc gia. Hai nhà kinh tế học người Thụy

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 6


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Điển là Eli Heckscher (1919) và Bertil Ohlin (1933) đã đưa ra cách giải thích khác
về lợi thế so sánh. Họ lập luận rằng nguồn gốc dẫn đến lợi thế so sánh là sự khác
biệt về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất - những yếu tố cần thiết cho quá
trình sản xuất như đất đai, lao động và tư bản. Các quốc gia khác nhau có mức độ
sẵn có về các yếu tố sản xuất khác nhau và chính sự khác nhau này tạo ra sự khác
biệt về chi phí sản xuất. Yếu tố sản xuất càng dồi dào thì chi phí sản xuất càng
thấp, và ngược lại yếu tố sản xuất càng khan hiếm thì chi phí sản xuất càng cao. Lý
thuyết tỷ lệ các yếu tố phát biểu rằng các quốc gia sẽ sản xuất và xuất khẩu những
mặt hàng đòi hỏi sử dụng nhiều nguồn lực (yếu tố) dồi dào, và nhập khẩu những
mặt hàng đòi hỏi sử dụng nhiều nguồn lực khan hiếm của các quốc gia đó.

Lý thuyết tỷ lệ các yếu tố có sự khác biệt quan trọng so với lý thuyết lợi thế so
sánh. Theo lý thuyết lợi thế so sánh thì mỗi quốc gia thực hiện chuyên môn hóa
sản xuất mặt hàng mà mình có thể sản xuất có hiệu quả hơn so với các mặt hàng
khác. Như vậy, lý thuyết này (và cả lý thuyết lợi thế tuyệt đối) nhấn mạnh đến
năng suất của quá trình sản xuất một mặt hàng cụ thể nào đó. Ngược lại, lý thuyết
tỷ lệ các yếu tố cho rằng một nước thực hiện chuyên môn hóa sản xuất và xuất
khẩu mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố sản xuất dồi dào nhất, và do đó rẻ nhất, chứ
không phải mặt hàng mà nước đó có năng suất cao nhất. Chẳng hạn, Việt Nam là
nước dồi dào về lao động nên có thể tập trung sản xuất các mặt hàng sử dụng nhiều
lao động như quần áo, giày dép. Mỹ là nước dồi dào về vốn nên sẽ tập trung vào
các ngành sản xuất những mặt hàng có hàm lượng vốn cao như máy móc thiết bị,
máy bay, ô tô. Australia là nước giàu tài nguyên đất nên xuất khẩu nhiều các mặt
hàng như khoáng sản, ngũ cốc, thịt cừu.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 7


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Lý thuyết chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm

Vào giữa những năm 60 của thế kỷ 20, Raymond Vernon đã đưa ra lý thuyết chu
kỳ sống quốc tế của sản phẩm để giải thích thương mại quốc tế đối với các mặt
hàng chế biến. Lý thuyết chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm phát biểu rằng một
công ty sẽ bắt đầu xuất khẩu sản phẩm của mình và sau đó tiến hành đầu tư trực
tiếp nước ngoài khi sản phẩm trải qua các giai đoạn thuộc chu kỳ sống của nó.

Trong giai đoạn đầu tiên (giai đoạn sản phẩm mới), công ty sẽ chỉ sản xuất với
số lượng nhỏ và chủ yếu tiêu thụ ở thị trường trong nước (do chi phí sản xuất cao
và mức cầu trên thị trường nội địa chưa định hình). Việc tổ chức sản xuất và hoạt
động nghiên cứu và phát triển ở trong nước, cùng với việc duy trì mối liên hệ gần
gũi với khách hàng sẽ cho phép công ty theo sát thị hiếu và có những cải tiến cần
thiết đối với sản phẩm. Vào cuối giai đoạn sản phẩm mới, mặt hàng mới này bắt
đầu được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.

Sang giai đoạn thứ hai (giai đoạn sản phẩm chín muồi), sự tồn tại và những lợi
ích của sản phẩm mới trên thị trường trong và ngoài nước mới được bắt đầu nhận
thức một cách đầy đủ. Mức cầu đối với sản phẩm mới tăng lên và được duy trì
trong một thời gian tương đối dài. Một khi xuất khẩu bắt đầu chiếm tỷ trọng ngày
càng tăng trong tổng doanh số bán thì công ty phát minh bắt đầu tổ chức sản xuất ở
những nước có mức cầu cao nhất. Gần cuối giai đoạn chín muồi, sản phẩm bắt đầu
được bán sang các nước đang phát triển, và quá trình sản xuất cũng có thể được bắt
đầu tổ chức ở các nước này.

Vào giai đoạn thứ ba (giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa), áp lực cạnh tranh buộc
công ty phải giảm giá để duy trì lượng bán. Một khi thị trường tỏ ra nhạy cảm hơn
đối với giá cả, công ty bắt đầu tích cực tìm kiếm các cơ sở sản xuất với chi phí

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 8


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

thấp ở các nước đang phát triển để cung ứng cho toàn thị trường thế giới. Hơn nữa,
khi phần lớn sản xuất được tiến hành ngoài phạm vi nước phát minh thì nhu cầu ở
nước này bắt đầu được đáp ứng bởi nhập khẩu từ các nước đang phát triển và các
nước công nghiệp khác. Vào cuối giai đoạn này, sản xuất trong nước cũng có thể
chấm dứt hoàn toàn. 3.1.3. Can thiệp của chính phủ vào thương mại

Lý do can thiệp

Các lý do về văn hóa

Các quốc gia có thể áp đặt những hạn chế đối với hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu
vì những mục tiêu văn hóa như bảo vệ bản sắc và truyền thống dân tộc. Thực tế
cho thấy văn hóa của mỗi quốc gia có thể dần thay đổi bởi sự hiện diện của con
người và sản phẩm từ các nền văn hóa khác. Những tác động ngoài mong muốn
đối với nền văn hóa dân tộc có thể buộc chính phủ phải ngăn cản việc nhập khẩu
những sản phẩm được coi là có hại.

Các lý do về chính trị

Các chính phủ thường đưa ra những quyết định liên quan đến thương mại dựa trên
các lý do về chính trị. Các động cơ chính trị chủ yếu nằm sau sự can thiệp vào
thương mại của chính phủ bao gồm việc bảo vệ việc làm, giữ gìn an ninh quốc gia,
đáp lại hành vi buôn bán không công bằng, và tạo lập ảnh hưởng đối với các quốc
gia khác.

Bảo vệ việc làm - Trên thực tế tất cả các chính phủ đều can thiệp vào thương
mại quốc tế khi tình trạng công ăn việc làm trong nước bị đe dọa. Chẳng hạn, một
vị tổng thống ở Nam Mỹ đã kêu gọi các công dân của mình mua hàng nội địa thay
cho hàng nhập khẩu, và đề nghị những người nhập khẩu hãy hành động “như

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 9


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

những nhà ái quốc và không mua về những gì không cần thiết để tránh làm hại đến
các sản phẩm sản xuất trong nước".

Bảo vệ an ninh quốc gia - Các ngành công nghiệp được coi là thiết yếu đối với
an ninh quốc gia thường nhận được sự bảo hộ của chính phủ. Thực tế này diễn ra
đối với cả nhập khẩu lẫn xuất khẩu. Nhiều quốc gia (đặc biệt là Mỹ) tiếp tục tìm
kiếm dầu mỏ trong lãnh thổ mình nhằm đề phòng trường hợp nguồn cung cấp dầu
từ bên ngoài bị cắt đứt vì những lý do khác nhau. Nông nghiệp cũng thường được
bảo hộ với lý do an ninh quốc gia bởi vì một quốc gia nhập khẩu lương thực có thể
bị nạn đói đe dọa khi xảy ra chiến tranh.

Trả đũa các hoạt động thương mại không công bằng - Có nhiều ý kiến cho
rằng việc một quốc gia theo đuổi thương mại tự do sẽ là vô nghĩa nếu các quốc gia
khác lại tích cực bảo hộ các ngành công nghiệp của mình. Vì vậy, nếu một quốc
gia cho rằng các quốc gia khác đang thực hiện những biện pháp không công bằng
trong thương mại thì quốc gia đó có thể có quyền trả đũa bằng cách áp dụng những
biện pháp tương tự.

Tạo lập ảnh hưởng - Chính phủ của những nước lớn trên thế giới có thể can
thiệp vào thương mại nhằm gây dựng ảnh hưởng tới các nước nhỏ hơn. Ví dụ Nhật
Bản là nước có ảnh hưởng nhất định ở Châu Á. Buôn bán với Nhật Bản chiếm tỷ
trọng lớn trong ngoại thương của nhiều nước Châu Á và Đông Nam Á. Nhật Bản
cũng đã cung cấp những khoản cho vay lớn để giúp các nước trong khu vực khắc
phục hậu quả của khủng hoảng tài chính trong những năm qua. Rõ ràng động cơ
của việc làm đó là để tạo thiện cảm từ phía các nước láng giềng.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 10


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Các lý do về kinh tế

Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ - Theo lập luận về ngành công nghiệp non
trẻ thì chính phủ cần bảo vệ những ngành công nghiệp mới có tiềm năng của đất
nước để giúp chúng lớn mạnh và trưởng thành, có được khả năng sáng tạo, tự đổi
mới, và sức cạnh tranh cao. Các công cụ bảo hộ mà chính phủ có thể sử dụng là
thuế quan, hạn ngạch hoặc các trở ngại khác đối với nhập khẩu.

Theo đuổi chính sách thương mại chiến lược - Như đã đề cập ở trên, lý thuyết
thương mại mới cho rằng sự can thiệp của chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp
khai thác được tính kinh tế theo quy mô và trở thành người đến trước trong các
ngành sản xuất. Lợi thế của người đến trước có được là do tính kinh tế theo quy
mô có tác dụng hạn chế số lượng các doanh nghiệp muốn gia nhập một ngành sản
xuất nào đó. Những người ủng hộ chính sách thương mại chiến lược cho rằng
chính sách đó sẽ giúp gia tăng thu nhập quốc dân. Các doanh nghiệp sẽ có được lợi
nhuận cao nếu có được lợi thế của người đến trước và củng cố vững chắc vị trí của
mình trên các thị trường trên toàn thế giới.

3.1.4. Công cụ hạn chế thương mại

Thuế quan

Thuế xuất nhập khẩu là khoản tiền mà chính phủ đánh vào mặt hàng được chuyển
vào hay đưa ra khỏi một nước. Thuế có thể được chia thành 3 loại. Thứ nhất, thuế
do chính phủ đánh vào hàng hóa xuất khẩu được gọi là thuế xuất khẩu. Các nước
thường áp dụng thuế xuất khẩu khi cho rằng giá xuất khẩu của mặt hàng nào đó
thấp hơn so với mức giá thực tế trên thị trường. Để bảo vệ nguồn tài nguyên thiên
nhiên của mình, các nước đang phát triển cũng thường đánh thuế xuất khẩu các

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 11


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

mặt hàng đó. Thứ hai, thuế mà chính phủ một nước đánh vào những hàng hóa
được chuyển ngang qua lãnh thổ nước đó trước khi đến đích cuối cùng gọi là thuế
quá cảnh. Hiện nay thì loại thuế này hầu như xóa bỏ hoàn toàn trên cơ sở những
thỏa thuận quốc tế đã đạt được. Thứ ba, thuế mà chính phủ một nước áp dụng đối
với hàng hóa nhập khẩu vào nước đó được gọi là thuế nhập khẩu. Đây là hình thức
thuế được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới hiện nay.

Thuế nhập khẩu có thể được áp dụng dưới các hình thức khác nhau tùy thuộc
vào cách tính thuế. Thuế tính theo giá trị được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm
nhất định đối với mức giá mặt hàng nhập khẩu. Thuế tính theo số lượng là một
khoản tiền nhất định mà người nhập khẩu phải trả khi nhập khẩu một đơn vị (tính
theo số lượng, trọng lượng, mét khối...) hàng hóa. Hàng hóa nhập khẩu có thể được
tính thuế bằng cách kết hợp hai loại thuế nói trên.

Các quốc gia đánh thuế nhập khẩu vì hai lý do chính. Thứ nhất là nhằm bảo vệ
các nhà sản xuất trong nước. Do thuế nhập khẩu làm tăng chi phí của hàng hóa
nhập khẩu cho nên hàng hóa trong nước trở nên hấp dẫn hơn đối với người mua.
Như vậy thuế nhập khẩu tạo ra hàng rào bảo hộ giúp các nhà sản xuất trong nước
chống lại nhập khẩu từ bên ngoài. Tuy nhiên, mặc dầu những người sản xuất trong
nước có thể có được ưu thế về giá, nhưng bảo hộ qua thuế sẽ làm giảm hiệu quả
xét trong dài hạn. Thứ hai, việc đánh thuế tạo ra nguồn thu cho ngân sách của
chính phủ. Điều này đặc biệt phổ biến đối với các nước kém phát triển - nơi việc
thu các loại thuế khác là hết sức khó khăn.

Từ hai lý do chủ yếu nói trên có thể thấy được những đối tượng hưởng lợi từ
thuế nhập khẩu. Trước hết, những người sản xuất trong nước có lợi vì họ có thể gia
tăng sản xuất để bù đắp lượng nhập khẩu giảm sút do giá hàng nhập khẩu tăng lên.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 12


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Thuế nhập khẩu giúp cho chính phủ gia tăng nguồn thu ngân sách. Ngược lại,
người tiêu dùng bị thiệt hại vì họ phải trả giá cao hơn đối với hàng nhập khẩu. Xét
về tổng thể thì tác động của thuế nhập khẩu tới nền kinh tế là phức tạp hơn nhiều,
và vấn đề này được đề cập một cách chi tiết hơn trong các giáo trình Kinh tế học
quốc tế.

Các công cụ phi thuế

Hạn ngạch

Hạn ngạch là biện pháp quy định số lượng hàng hóa được đưa vào hay đưa ra khỏi
một nước trong một quãng thời gian nhất định. Đây là công cụ hạn chế thương mại
phổ biến thứ hai sau thuế. Chính phủ thường cấp hạn ngạch cho các doanh nghiệp
trong nước hoặc cho chính phủ nước ngoài (trường hợp hạn ngạch nhập khẩu), và
cho các nhà sản xuất trong nước (hạn ngạch xuất khẩu).

Chính phủ áp dụng hạn ngạch nhập khẩu vì hai nguyên nhân. Thứ nhất, chính
phủ có thể bảo vệ các nhà sản xuất trong nước bằng cách hạn chế số lượng hàng
hóa nhập khẩu từ bên ngoài vào. Điều này giúp các nhà sản xuất trong nước duy trì
được thị phần và giá bán của mình do cạnh tranh từ bên ngoài bị hạn chế. Người
tiêu dùng bị thiệt hại vì phải trả giá cao hơn, trong khi cơ hội lựa chọn lại ít đi. Hạn
ngạch nhập khẩu còn gây thiệt hại cho những người sản xuất trong nước có sử
dụng đến những yếu tố đầu vào nhập khẩu thuộc diện kiểm soát bằng hạn ngạch.
Thứ hai, chính phủ có thể áp dụng hạn ngạch nhằm mục đích tạo ra sự cạnh tranh
giữa các nhà xuất khẩu nước ngoài. Để duy trì thị phần, các nhà cung cấp nước
ngoài có thể lựa chọn giải pháp giảm giá, từ đó gây thiệt hại cho những người sản
xuất trong nước, trong khi người tiêu dùng lại được hưởng lợi.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 13


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Tương tự, hạn ngạch xuất khẩu có thể được sử dụng vì hai lý do chủ yếu sau
đây. Thứ nhất, chính phủ có thể quy định hạn ngạch xuất khẩu nhằm duy trì mức
cung thích hợp đối với thị trường trong nước. Đây là động cơ phổ biến nhất liên
quan đến xuất khẩu những mặt hàng tài nguyên có tầm quan trọng đặc biệt đối với
sản xuất trong nước. Thứ hai, hạn chế xuất khẩu bằng hạn ngạch có thể làm giảm
cung trên thị trường thế giới, đẩy giá bán tăng lên, từ đó mang lại lợi nhuận lớn
hơn cho quốc gia xuất khẩu.

Một dạng biến tướng của hạn ngạch xuất khẩu là biện pháp hạn chế xuất khẩu
tự nguyện - hạn ngạch do nước xuất khẩu tự nguyện áp đặt đối với xuất khẩu của
mình theo yêu cầu của nước nhập khẩu. Biện pháp này thường được nước xuất
khẩu áp dụng khi khi nước nhập khẩu đe dọa sử dụng hạn ngạch nhập khẩu hoặc
cấm hoàn toàn việc nhập khẩu mặt hàng nào đó. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện tác
động đến lợi ích của các nhóm khác nhau trong xã hội. Chẳng hạn, người tiêu dùng
ở nước xuất khẩu có lợi vì mức cung trong nước tăng lên sẽ làm cho giá cả có xu
hướng hạ xuống (với điều kiện những người sản xuất trong nước không cắt giảm
sản xuất). Những người sản xuất ở nước nhập khẩu cũng có lợi vì khi nhập khẩu từ
bên ngoài giảm xuống thì họ có thể tăng giá bán lên. Ngược lại những đối tượng bị
thiệt hại là người tiêu dùng ở nước nhập khẩu và các nhà sản xuất ở nước xuất
khẩu.

Thuế quan và hạn ngạch có thể kết hợp với nhau để hình thành công cụ hạn
ngạch thuế. Đây là công cụ được sử dụng phổ biến trong thương mại quốc tế hàng
nông sản. Bản chất của công cụ này là ở chỗ nước nhập khẩu có thể đề ra mức hạn
ngạch nhất định và áp dụng mức thuế thấp đối với lượng hàng hóa nhập khẩu thấp

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 14


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

hơn mức hạn ngạch đó. Nếu lượng nhập khẩu vượt quá mức hạn ngạch đã đặt ra
thì thuế quan nhập khẩu cao hơn sẽ được áp dụng.

Yêu cầu nội địa hóa

Một quốc gia có thể hạn chế nhập khẩu bằng cách quy định rằng một mặt hàng nào
đó chỉ có thể được bán trên thị trường trong nước nếu như một phần nhất định của
mặt hàng đó được cung cấp bởi các nhà sản xuất nội địa. Mục đích của quy định
này là nhằm buộc các doanh nghiệp nước ngoài phải sử dụng tới nguồn lực của
nước sở tại, đặc biệt là lao động, trong quá trình sản xuất của mình. Điều này sẽ
giúp bảo vệ các nhà sản xuất trong nước trước ưu thế về giá của các doanh nghiệp
đặt cơ sở ở những nước có mức chi phí sản xuất thấp. Để đáp ứng yêu cầu về nội
địa hóa, các doanh nghiệp nước ngoài có thể tổ chức sản xuất tại nước sở tại thay
vì sản xuất ở các nước khác.

Luật chống bán phá giá

Trong thương mại quốc tế, bán phá giá được xác định như là hành vi bán hàng hóa
trên thị trường nước ngoài với với mức giá thấp hơn so với giá bán trên thị trường
trong nước (hoặc thậm chí thấp hơn cả chi phí sản xuất). Động cơ bán phá giá của
một công ty có thể là nhằm giành giật khách hàng và loại trừ đối thủ cạnh tranh ra
khỏi thị trường, hoặc giải quyết tình trạng dư thừa hàng hóa. Cũng có khi để phát
triển thị trường xuất khẩu mới, chính phủ trợ cấp cho một số ngành sản xuất trong
nước để các doanh nghiệp có thể bán hàng hóa ra nước ngoài với giá thấp hơn chi
phí sản xuất. Để chống lại hành vi bán phá giá của các công ty nước ngoài, các
quốc gia thường ban hành luật chống bán phá giá, theo đó nếu các công ty nước
ngoài bị cáo buộc bán phá giá thì chính phủ có thể áp đặt mức thuế chống bán phá
giá đối với hàng hóa của các công ty đó. Hầu hết các nước công nghiệp phát triển

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 15


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

đều có luật chống bán phá giá, và mặc dù có những khác biệt nhất định, nhưng
nhìn chung các luật đó đều giống với luật chống bán phá giá của Mỹ.

Các công cụ khác

Ngoài các công cụ nêu trên, các quốc gia có thể tạo trở ngại đối với nhập khẩu từ
bên ngoài bằng cách đề ra vô số những quy định về thủ tục hành chính, tiêu chuẩn
kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ, bảo vệ môi trường, và kiểm soát ngoại hối. Những quy
định đó có thể làm phát sinh chi phí cao đối với những người sản xuất nước ngoài,
cũng như đối với những người nhập khẩu trong nước, từ đó buộc họ phải cân nhắc
lại các quyết định kinh doanh của mình.

3.1.5. Công cụ thúc đẩy thương mại

Trợ cấp

Sự hỗ trợ tài chính dành cho các nhà sản xuất trong nước dưới hình thức tiền mặt,
cho vay với lãi suất thấp, miễn giảm thuế, trợ giá,... được gọi là trợ cấp. Mục đích
của công cụ này là giúp các doanh nghiệp trong nước gia tăng khả năng cạnh tranh
trên các thị trường trong và ngoài nước. Do trợ cấp có thể được sử dụng dưới
nhiều hình thức khác nhau nên việc tính toán quy mô trợ cấp mà mỗi quốc gia
dành cho các nhà sản xuất trong nước hầu như không thể thực hiện được. Trên
thực tế việc điều tra về tính công bằng của các khoản trợ cấp mà một quốc gia
dành cho các doanh nghiệp trong nước thường kéo dài và gặp rất nhiều khó khăn.

Trợ cấp có những mặt hạn chế nhất định. Có lập luận cho rằng trợ cấp sẽ kích
thích hoạt động sản xuất không hiệu quả và tâm lý ỷ lại của các nhà sản xuất trong
nước. Người tiêu dùng bị thiệt hại vì một phần thuế mà họ phải đóng được chính
phủ sử dụng để trả cho người sản xuất. Có ý kiến khác cho rằng trợ cấp của chính

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 16


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

phủ có thể dẫn tới tình trạng sử dụng một cách lãng phí nguồn lực của đất nước.
Chẳng hạn, các nước đang phát triển hàng năm phải bỏ ra 230 tỷ USD, số tiền gấp
4 lần khoản hỗ trợ tài chính mà các nước đó nhận được, để trợ cấp cho ngành sản
xuất năng lượng. Sự chi tiêu lãng phí như vậy đã làm cạn kiệt những nguồn lực mà
lẽ ra có thể được sử dụng một cách hiệu quả hơn, chẳng hạn như đầu tư vào sản
xuất những dạng năng lượng khác thích hợp hơn.

Tài trợ xuất khẩu

Chính phủ các nước thường thúc đẩy xuất khẩu bằng cách giúp các doanh nghiệp
tài trợ cho hoạt động xuất khẩu của mình. Cụ thể là chính phủ có thể cung cấp các
khoản cho vay với lãi suất thấp, hoặc thực hiện bảo lãnh đối với các khoản vay của
doanh nghiệp. Việc nhận được nguồn tài trợ của chính phủ là đặc biệt quan trọng
đối với những doanh nghiệp nhỏ mới bắt đầu tham gia xuất khẩu.

Tuy nhiên, các chương trình tài trợ xuất khẩu cũng đã trở thành chủ đề gây
tranh cãi ở nhiều nước. Chẳng hạn ở Mỹ có rất ít người phản đối việc chính phủ
giúp đỡ hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ, nhưng việc hỗ trợ cho các
công ty xuyên quốc gia lớn thường bị chỉ trích rằng điều đó chỉ mang lại lợi ích
cho các công ty, còn những người đóng thuế phải chịu thiệt hại. Hơn nữa, dưới áp
lực của các công ty lớn, chính phủ còn tài trợ cho hoạt động xuất khẩu những mặt
hàng có tỷ lệ nội địa hóa thấp, và do vậy mâu thuẫn với mục tiêu tạo công ăn việc
làm trong nước.

Khu thương mại tự do

Trong thương mại quốc tế, thuế quan và các thủ tục hải quan là những nhân tố làm
tăng chi phí sản xuất hàng hóa và thời gian để hàng hóa thâm nhập thị trường. Một

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 17


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

quốc gia có thể đẩy mạnh trao đổi thương mại với các quốc gia khác thông qua
việc thành lập các khu thương mại tự do - những khu vực địa lý được lựa chọn với
đặc tính là hàng hóa được đưa vào hay đưa ra khỏi các khu vực đó chỉ phải chịu
mức thuế quan thấp và/hoặc với những thủ tục hải quan đơn giản. Tổ chức hoạt
động sản xuất trong các khu vực thương mại tự do sẽ giúp các doanh nghiệp cắt
giảm được chi phí và thời gian sản xuất. Trên thực tế nhiều doanh nghiệp thường
tổ chức hoạt động lắp ráp sản phẩm cuối cùng trong các khu như vậy.

Việc thành lập các khu mậu dịch tự do mang lại nhiều lợi ích cho nhiều nước
trên thế giới. Mexico là một trường hợp điển hình. Vào đầu những năm 60 nước
này đã thành lập một khu mậu dịch tự do dọc theo biên giới với Mỹ. Các doanh
nghiệp hoạt động trong khu này được nhập khẩu miễn thuế nguyên vật liệu hoặc
bán thành phẩm từ Mỹ, thực hiện gia công, và sau đó xuất khẩu trở lại Mỹ. Hàng
năm các doanh nghiệp trong khu mậu dịch tự do này sử dụng tới hơn 860.000 nhân
công và đạt giá trị xuất khẩu tới hơn 40 tỷ USD.

Các tổ chức chuyên trách của chính phủ

Chính phủ của phần lớn các quốc gia trên thế giới đều thành lập những tổ chức
chuyên trách nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Hoạt động của các tổ chức này
là đặc biệt có ích đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguồn tài chính hạn hẹp
trong việc tìm kiếm hợp đồng với các bạn hàng nước ngoài. Để thúc đẩy hoạt động
của quốc gia, các tổ chức xúc tiến thương mại của chính phủ thường xuyên tổ chức
các chuyến khảo sát thị trường nước ngoài cho các quan chức thương mại và các
doanh nghiệp trong nước, thiết lập các văn phòng thương mại ở nước ngoài để giới
thiệu các doanh nghiệp trong nước với các bạn hàng tiềm năng ở nước ngoài,
quảng cáo về hàng hóa và doanh nghiệp trong nước trên thị trường nước ngoài,

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 18


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước những thông tin về tình hình thị trường,
về chính sách thương mại của các nước khác.

Chính phủ không chỉ thúc đẩy xuất khẩu mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho
việc nhập khẩu những mặt hàng mà quốc gia không sản xuất, hoặc không thể sản
xuất được. Các tổ chức xúc tiến của chính phủ có thể tiếp cận với các doanh
nghiệp nước ngoài, tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa các doanh nghiệp đó với các
doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trong nước, giúp đỡ các doanh nghiệp nước
ngoài tìm kiếm địa điểm thích hợp để đặt các văn phòng đại diện.

3.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

3.2.1. Khái niệm FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các doanh nghiệp đầu tư các nguồn lực và tài
sản (hữu hình và vô hình) ra thị trường nước ngoài để tooe chức sản xuất kinh
doanh. Tài sản – nguồn lực đó có thể gồm tiền vốn, công nghệ, bí quyết, kỹ năng,
thương hiệu...

Có thể phân biệt 2 loại hình FDI là FDI theo chiều ngang - đầu tư trực tiếp vào
một ngành kinh doanh ở nước ngoài giống như ngành kinh doanh của công ty ở
trong nước, và FDI theo chiều dọc – doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động phía
thượng nguồn chuỗi giá trị để cung cấp đầu vào cho hoạt động trong nước (FDI
ngược dòng), hoặc đầu tư vào hoạt động phía hạ nguồn chuỗi giá trị để tiêu thụ đầu
ra của hoạt động trong nước.

3.2.2. Tác động của FDI đối với nước tiếp nhận

Trong chương này chúng ta nghiên cứu 4 lợi ích chính của FDI đối với nước chủ
nhà: lợi ích trong chuyển giao nguồn lực, tạo việc làm, hiệu quả trong cán cân

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 19


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

thanh toán và lợi ích đối với cạnh tranh, tăng trưởng kinh tế. Trong chương tiếp
theo chúng ta sẽ nghiên cứu những phí tổn của FDI đối với nước chủ nhà. Những
nhà nghiên cứu kinh tế đồng ý với quan điểm thị trường tự do tranh luận rằng lợi
ích của FDI đối với nước chủ nhà quá lớn so với phí tổn nên Pragmatic
Nationalism chỉ là một chính sách sai lầm. Theo quan điểm thị trường tự do, trong
thế giới hiện đại thì chính sách tốt nhất cho tất cả các nước là từ bỏ việc lưỡng lự
trong quyết định đầu tư của các công ty đa quốc gia.

Tác động tích cực

Lợi ích trong chuyển giao nguồn lực.

FDI có đóng góp tích cực đối với nền kinh tế nước chủ nhà bằng việc cung cấp tư
bản, công nghệ và quản trị nguồn lực. Điều này đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh
tế của một quốc gia tăng vọt một cách nhanh chóng. Phần tiêu điểm quốc gia sau
đây sẽ mô tả cách thức chính phủ nước Venezuelan khuyến khích FDI vào nghành
công nghiệp xăng dầu với nỗ lực thu lợi ích từ việc chuyển giao nguồn lực.

Vốn - Nhiều công ty đa quốc gia với ưu thế về quy mô lớn và sức mạnh tài
chính đã tiếp cận nguồn tài chính không có sẵn đối với các hãng của nước chủ nhà.
Những quỹ này có thể có sẵn trong các công ty nội địa hoặc do danh tiếng mà các
công ty đa quốc gia lớn này luôn có ưu thế trong việc vay vốn từ các thị trường tư
bản hơn là các công ty của nước chủ nhà. Điều này chính là một nhân tố quyết
định của chính phủ Venezuelan trong việc thu hút các công ty dầu khí của nước
ngoài tham gia vào các công ty liên doanh với PDVSA, công ty dâu khí quốc gia
để phát triển ngành dầu khí của Venezuelan.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 20


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Công nghệ - Tiến bộ công nghệ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh
tế ngày càng được chấp nhận rộng rãi. Công nghệ có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế phát triể và công nghiệp hoá. Nó tồn tại dưới hai hình thức. Công nghệ có thể
được kết hợp với một quá trình sản xuất (ví dụ công nghệ khai thác và chế biến
dầu) hoặc có thể được kết hợp trong một sản phẩm (ví dụ máy tính cá nhân ) tuy
nhiên rất nhiều quốc gia thiếu việc nghiên cứu, triển khai và các kỹ năng cần thiết
để phát triển các ngành nghệ truyền thống và cải tiến công nghệ. Điều này luôn
đúng đối với các quốc gia kém phát triển trên thế giới. Những nước đó phải dựa
vào công nghệ của các quốc gia công nghiệp tiên tiến để kích thích kinh tế phát
triển, và FDI chính là nguồn cung cấp. FDI không phải là con đường duy nhất để
tiếp cận các công nghệ tiên tiến. Một cách khác việc chuyển giao các công nghệ từ
các công ty đa quốc gia. Chính phủ Nhật Bản nói riêng từ lâu đã rất quan tâm đến
chiến dịch này, họ tin rằng với FDI công nghệ vẫn bị quản lý chặt chẽ bởi các công
ty đa quốc gia. Do vậy các công ty Nhật Bản luôn thấy khó khăn để phát triển công
nghệ bởi vì họ bị từ chối chuyển giao các công nghệ then chốt. Với ý tưởng này,
chính phủ Nhật Bản luôn khẳng định rằng công nghệ được chuyển giao vào Nhật
Bản thông qua các hợp đồng cấp phép hơn là thông qua FDI. Điều thuận lợi là bên
cạnh việc hoàn trả chi phí bản quyền, các công ty nước chủ nhà được tiếp nhận các
công nghệ tiên tiến, tuy nhiên các công ty đa quốc gia nói chung không thích sự
lưạ chọn này. Bằng việc chuyển giao các công nghệ ra nước ngoài, một công ty đa
quốc gia có thể có nguy cơ có nhiều đối thủ cạnh tranh hơn trong tương lai. Đây là
điều mà các công ty của Mỹ học được từ Nhật Bản.

Quản lý - Các kỹ năng quản lý nước ngoài có được thông qua FDI cũng tạo ra
nhiều thuận lợi cho nước chủ nhà. Ngoài ra còn có một số lợi ích khác khi nhân

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 21


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

viên quản lý nhân sự địa phương –người được đào tạo để quản lý công nghệ tài
chính tại các chi nhánh của công ty đa quốc gia – rời công ty và giúp đỡ việc thiết
lập các công ty địa phương. Nguồn lợi tương đương cũng được tăng lên nếu kỹ
năng quản lý của công ty đa quốc gia kích thích được các nhà cung cấp địa
phương, nhà phân phối, và các đối thủ cạnh tranh để nâng cao các kỹ năng quản lý.

Việc làm - Hiệu quả tạo ra việc làm đã khẳng định FDI mang đến nhiều công
việc cho nước chủ nhà. Như chúng ta đã xem xét trong phần Toyota ở Pháp hiệu
quả tạo ra việc làm vừa trực tiếp vừa gián tiếp. Hiệu quả trực tiếp là khi một công
ty đa quốc gia thuê một lượng công dân của nước chủ nhà.

Có một số người cho rằng không phải tất cả các việc làm mới được tạo ra nhờ
đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự tăng lên thuần tuý trong việc làm. Tuỳ trường hợp
đầu tư trực tiếp nước ngoài của các hãng ô tô Nhật Bản vào Mỹ, một số người cho
rằng những việc làm được tạo ra bởi sự đầu tư này phần nhiều là sự bù đắp cho sự
thất nghiệp trong các công ty ô tô của Mỹ – hãng mà đã mất thị phần cho các đối
thủ cạnh tranh người Nhật. Hậu quả của tác động này, số lượng ròng các viẹc làm
mới được tạo ra bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài không lớn như khẳng định ban đầu
của các công ty đa quốc gia.Vì vậy, việc làm đã trở thành một vấn đề đàm phán
chính giữa các tập đoàn muốn đi đầu tư và chính phủ của nước sở tại. Tác động
đến cán cân thanh toán

Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài lên cán cân thanh toán quốc gia trong
bảng cân đối kế toán là một trong những vấn đề vô cùng quan trọng đối với chính
phủ của nước sở tại. Để hiểu được vấn đề này trước hết chúng ta hãy tìm hiểu thế
nào là cán cân thanh toán.

Cán cân thanh toán quốc gia

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 22


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Chính phủ thường lo lắng chừng nào các khoản nợ vẫn còn trong Cán cân thanh
toán, ở tài khoản hiện hành. Khi một đất nước vẫn còn các khoản nợ đó thì tiền sẽ
chảy sang nước khác, sau đó các nước này sẽ dùng tiền để mua tài sản ở các nước
bị nợ. Do vậy khi Mỹ nợ Nhật, Nhật sẽ sử dụng số tiền thu được từ phía người tiều
dùng của nước Mỹ để mua tài sản như là cổ phần, trái phiếu và những thứ tương
tự. Nói cách khác khoản nợ trong tài khoản vãng lai sẽ được xoá dần bằng cách
bán tài sản cho các nước khác. Do vậy, các khoản nợ trong tài khoản vãng lai của
Mỹ được xoá dần bằng cách bán các tài sản như cổ phần, trái phiếu, bất động sản
hoặc là cả một tập đoàn cho các nước khá . Những nước vẫn còn tồn tại khoản nợ
trong tài khoản vãng lai trở thành con nợ thật sự. Ví dụ : Kết quả của việc xoá dần
các khoản nợ trong tài khoản vãng lai thông qua việc bán tài sản, Mỹ đã chuyển
nhượng khoản thanh toán đó lại cho các nhà buôn bán trái phiếu nước ngoài, các
thương gia nước ngoài sẽ nhượng lại lợi tức cổ phần cho các cổ đông nước ngoài.
Các khoản thanh toán như thế này sẽ làm cạn kiệt nguồn lực trong nước và hạn chế
việc đầu tư trong nước. Vì đầu tư trong nước rất cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nên các khoản nợ dai dẳng trong tài khoản vãng lai có thể kìm nén sự tăng
trưởng kinh tế của đất nưởc trong tương lai. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và cân
bằng thanh toán

Vì lo lắng về các khoản nợ trong tài khoản hiện hành nên tác động đến cán cân
thanh toán của đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành vấn đề rất quan trọng của
nước chủ nhà. Có ba khả năng của cán cân thanh toán do tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Thứ nhất, khi một công ty đa quốc gia thành lập một chi nhánh ở
nước ngoài, tài khoản vốn của nước sở tại được lợi từ khoản vốn đầu tư ban đầu
(Nước đi đầu tư sẽ bị ghi một khoản nợ ở tài khoản vốn) vì vốn đã chảy sang nược

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 23


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

được nhận đầu tư (Tuy nhiên điều này sảy ra một lần ). Ngược lại, tiền lãi sẽ chảy
vào các công ty mẹ, số lãi này sẽ được lưu vào cột Bên nợ ở tài khoản vãng lai của
nước sở tại. Thứ hai, nếu đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự thay thế cho việc nhập
khẩu hàng hoá dịch vụ thì nó có thể cải thiện được tài khỏan vãng lai của nước
chủ nhà. Ví dụ: Phần lớn việc đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty sản xuất
ôtô của Nhật Bản vào thị trường Mỹ, Anh đều được xem như là một sự thay thế
cho việc nhập khẩu từ Nhật Bản. Do vậy tài khỏan vãng lai của Mỹ phần nào được
cải thiện bởi vì bây giờ nhiều công ty Nhật Bản đang cung cấp cho thị trường Mỹ
những sản phẩm được sản xuất ngay trên đất Mỹ. Gần đây Mỹ giảm dần nhu cầu
xoá nợ trong tài khoản vãng lai thông qua việc bán tài sản cho người nước ngoài.
Thứ ba, đối với việc thanh toán của nước nhận đầu tư là vị trí của nước đó sẽ lên
cao khi các công ty đa quốc gia xuất khẩu hàng hoá dịch vụ sang các nước khác
thông qua công ty hoặc chi nhánh tại nước đó.

Tác động đến cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế.

Các học thuyết kinh tế cho thấy hiệu quả hoạt động của thị trường phụ thuộc vào
mức độ cạnh tranh giữa các nhà sản xuất. Bằng cách nâng cao sự lựa chọn của
khách hàng, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần nâng cao sức cạnh tranh ở thị
trường trong nước. Do đó kéo gía cả xuống thấp đồng thời đẩy lợi ích kinh tế của
người tiêu dùng lên cao. Cạnh tranh tăng có xu hướng thúc đẩy các hãng đầu tư
vốn vào xí nghiệp, nhà xưởng, trang thiết bị sản xuất và các hoạt động nghiên cứu
và phát triển nhằm đạt được nhiều lợi thế hơn các đối thủ cạnh tranh. Hiệu quả lâu
dài do việc đầu tư này mang lại là sự tăng năng suất, sự đổi mới quá trình sản xuất
cũng như sản phẩm và dẫn tới việc tạo ra sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn. Tác
động của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong cạnh tranh ở thị trường trong nước, đặc

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 24


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

biệt quan trọng trong ngành dịch vụ như trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, thị
trường bán lẻ, và nhiều dịch vụ tài chính khác nơi mà xuất khẩu không phải là sự
lựa chọn bởi vì dịch vụ phải được tạo ra ở nơi cần được cung cấp.

Tác động tiêu cực của FDI đến nước tiếp nhập

Tác động tiêu cực đến cạnh tranh

Mặc dù như đã trình bày trong phần trước, FDI có thể thúc đẩy cạnh tranh như thế
nào, nhưng đôi khi nước chủ nhà vẫn lo các công ty nước ngoài có tiềm lực mạnh
hơn các công ty trong nước. Nếu công ty nước ngoài này lại là chi nhánh của tổ
chức quốc tế nào đó thì nó sẽ dễ dàng vay tiền từ các tổ chức này để hỗ trợ cho
việc cạnh tranh gía trên thị trường, khiến các công ty trong nước phá sản, từ đó cho
phép các công ty nước ngoài này chiếm thế độc quyền trên thị trường (Một khi thị
trường đã bị độc quyền, các công ty nước ngoài sẽ tăng giá bán vì nó đã thắng thế
trên thị trường. Điều này rất bất lợi cho phúc lợi của nước chủ nhà).

Biến thể khác của cạnh tranh là mối quan tâm về một ngành công nghiệp non trẻ
mà chúng tôi đã đề cập trong chương 6. Chúng tôi đã giải thích rằng việc kiểm soát
nhập khẩu là để phát triển ngành công nghiệp địa phương đến mức có thể cạnh
tranh được trong thị trường thế giới tương tự đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bị hạn
chế nếu một quốc gia với lợi thế so sánh, tiềm năng trong một ngành cụ thể mà cho
phép đầu tư trực tiếp nước ngoài thì các công ty trong nước sẽ không có cơ hội để
phát triển.

Trên thực tế, những lý thuyết trên đây chỉ áp dụng với các công ty nội địa kém
phát triểN. Các công ty này ra sức vận động chính phủ hạn chế tiếp nhận FDI từ
các công ty nước ngoài. Dù chính phủ nước sở tại có thể tuyên bố một cách đại

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 25


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

chúng trong các trường hợp như thế nào thì đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ có
những hạn chế nhằm bảo vệ các công ty trong nước.

Tác động tiêu cực đến cán cân thanh toán

Những bất lợi có khả năng xảy ra đối với cán cân thanh toán của nước sở tại phải
được bàn từ trước.Có hai vấn đề đáng lưu ý trong cán cân thanh toán. Thứ nhất,
như đã đề cập từ trước, dòng vốn ban đầu của FDI sẽ đem đến lợi nhuận cho các
công ty mẹ và các công ty con. Số lợi nhuận này được ghi vào Bên nợ trong tài
khoản vốn của nước nhận đầu tư. Một số chính phủ nước nhận đầu tư tỏ ra phản
ứng với số tiền lợi nhuận bằng cách hạn chế không cho khoản này chuyển về nước
đi đầu tư.

Điều lo lắng thứ hai là khi các chi nhánh công ty nước ngoài nhập khẩu đầu
vào từ nước ngoài, điều này có nghĩa là một khoản nợ sẽ được ghi vào trong Cán
cân thanh toán ở tài khoản vãng lai của nước nhận đầu tư. Ví dụ: người ta đánh giá
rằng các phụ tùng để lắp ráp ôtô Nhật Bản ở Mỹ đều được nhập khẩu từ Nhật sang.
Chính vì điều này, tác động của việc đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện trong Cán
cân thanh toán của Mỹ ở tài khoản vãng lai không lớn như giả định ban đầu. Các
công ty sản xuất ôtô Nhật Bản đáp lại những ý kiến trên bằng cách mua đến 75%
phụ tùng từ công ty đóng trụ sở tại Mỹ (nhưng không nhất thiết phải là các công ty
của chính nước Mỹ ). Trong trường hợp Nissan đầu tư vào Anh, Nissan có thể đáp
lại sự lo lắng bằng cách nâng tỷ lệ thị phần trong nước lên 60% và bằng cách sau
này nâng tỷ lệ đó lên 80%

Chủ quyền quốc gia

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 26


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Chính phủ nước nhận đầu tư lo lắng rằng FDI thường kèm với việc mất đi độc lâp
về kinh tế. Điều này chính là nhân tố chi phối nền kinh tế nước nhà. Một phần tư
thế kỷ trước đây, các nước châu Âu đã rất lo sợ FDI từ các tập đoàn lớn của Mỹ sẽ
đe doạ chủ quyền quốc gia của họ. Nỗi lo sợ tương tự bây giờ đang hướng về phía
Mỹ đối với vấn đề FDI của Nhật và châu Âu. Mỹ lo ngại rằng người nước ngoài sở
hữu nhiều tài sản ở Mỹ, do đó họ có thể "nắm được đất nước " nhằm yêu sách đặc
quyền kinh tế. 25 năm trước đây, các quan chức chính phủ Pháp đã đưa ra lời phàn
nàn tương tự về phía Mỹ, nhưng các chính trị gia người Mỹ bác bỏ nó và coi đó
như là một điều ngu ngốc. Bây giờ đặt mình trong tình huống nào đó, các chính trị
gia người Mỹ không còn cho quan điểm đó là ngu ngốc nữa. Tuy nhiên, phần lớn
các nhà kinh tế vẫn bài bác cái nỗi lo về mất chủ quyền quốc gia là không có cơ sở
và phi lí. Gần đây nhà nghiên cứu chính trị Robert Reich phát biểu rằng sự lo lắng
đó chẳng qua chỉ là suy nghĩ lỗi thời, bởi vì họ không thể giải thích được sự phụ
thuộc lẫn nhau của nền kinh tế thế giới ngày càng tăng lên. Những công ty lớn của
các nước phát triển đang ngày càng tăng đầu tư vào thì trường nội địa của nhau, vì
vậy nước này không thể "nắm giữ nước kia"để yêu sách đặc quyền kinh tế.

3.2.3. Tác động của FDI đối với nước đi đầu tư

FDI cũng có thể phát sinh ra nhiều chi phí hoặc mang lại nhiều lợi ích cho nước
đầu tư. Liệu kinh tế Mỹ được hay mất khi đầu tư sang thị trường nước ngoài, kinh
tế Nhật thu được lợi nhuận hay không từ việc đầu tư trực tiếp của hãng Toyota tại
Pháp. Một số ý kiến cho rằng không phải lúc nào FDI cũng đem lại lợi ích cho
nước đầu tư và FDI cũng nên được hạn chế, số khác lại chỉ ra rằng với bất cứ sự
hạn chế nào trong đầu tư đều đi ngược lại với lợi ích quốc gia. Để hiểu tại sao mỗi

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 27


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

nhóm người lại có quan điểm khác nhau như vậy, ta cũng xem xét phần "lợi ích và
chi phí đối với nước đầu tư".

Lợi ích của FDI đối với nước đầu tư

Lợi ích của FDI đến từ ba nguồn. Thứ nhất, có lẽ là quan trọng nhất, tài khoản vốn
của Cán cân thanh toán nước chủ nhà thặng dư từ dòng chảy về của lượng tiền
kiếm được ở nước ngoài. Do vậy một lợi ích đối với Nhật là khi Toyota đầu tư tại
Pháp là số tiền lãi được chuyển từ Pháp về Nhật. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng
có thể mang lại lợi ích cho việc cân bằng cán cân thanh toán trong tài khoản vãng
lai của nước đầu tư. Nếu các chi nhánh công ty ở nước ngoài thực hiện được việc
kích cầu tiêu dùng để nước mình xuất khẩu được các trang thiết bị nhà xưởng như
máy móc, các sản phẩm trung gian, các sản phẩm bổ sung và tương tự thế. Thứ
hai, nước đầu tư sẽ có lợi khi đầu tư trực tiếp nước ngoài nhìn ở góc độ việc làm.
Trong Cán cân thanh toán, chỉ số việc làm (+ ) sẽ tăng lên khi các công ty chi
nhánh ở nước ngoài kích cầu tiêu dùng nhằm tiêu thụ sản phẩm như trang thiết bị
nhà xưởng, máy móc, thiết bị, các sản phẩm trung gian, các sản phẩm bổ sung và
tương tự như thế (đại loại như thế) Khi Toyota đầu tư sản xuất ôtô tại Châu Âu đã
giải quyết được hai vấn đề. Cân bằng cán cân thanh toán và việc làm ở Nhật. Bớỉ
vì Toyota đã nhập trực tiếp từ Nhật về một số phụ tùng lắp ráp cho các hãng lắp
ráp ôtô ở Châu Âu. Lợi ích thứ ba, của FDI là các công ty của nước đầu tư có cơ
hội học hỏi được nhiều kỹ năng kinh nghiệm từ thực tế của nước ngoài. Điều này
được coi như là một "hiệu quả chuyển giao hai chiều" . Thông qua thực tế của các
công ty nước ngoài, thì có thể học hỏi thêm được nhiều kỹ năng quản lý và công
nghệ chế tạo sản phẩm cao cấp. Ba lợi ích này sau này sẽ được mang về đất nước
của họ, nhằm đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế nước nhà. Ví dụ, lý do hãng

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 28


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

General Motor và Ford đầu tư vào công ty sản xuất ôtô Nhật (General Motor sở
hữu một phần hãng Isuzu và Ford sở hữu một phần hãng Mazda) là để học hỏi về
quá trình sản xuất của Nhật. Nếu General Motor và Ford thành công trong việc
chuyển giao những hiểu biết về quá trình sản xuâts ôtô Nhật về Mỹ, thì thành công
này có thể nói rằng đã đóng góp rất nhiều cho sự tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ.

Tác động tiêu cực của FDI đối với nước đầu tư

Ngoài lợi ích của FDI ra còn phải kể đến chi phí của nó đối với nước đầu tư. Mối
quan tâm chủ yếu nhất là tập trung vào lợi ích của cân bằng cán cân thanh toánvà
hiệu quả cuả việc làm nhờ đầu tư trực tiếp. Có thể trong cán cân thanh toán của
nước đầu tư sé phải chịu thiệt ba thứ. Thứ nhất, tài khoản vốn trong cán cân thanh
toán phải chịu thiệt do phải xuất nguồn vốn ban đầu để hỗ trợ cho hoạt động FDI.
Tuy nhiên, hiệu quả của việc này là sẽ thu lại được khoản lợi nhuận ngoại tệ về sau
này. Thứ hai, tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán phải chịu thiệt nếu mục
đích của đầu tư nước ngoài là nhằm tìm một khu vực để sản xuất với chi phí lao
động thấp hơn. Thứ ba, tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán phải thiệt nếu
FDI chỉ là một sự thay thế cho hoạt động nhập khẩu trực tiếp. Do vậy nếu hoạt
động lắp ráp ôttô của Toyota ở Mỹ có ý định thay thế cho hoạt động xuất khẩu trực
tiếp từ Nhật thì tài khoản vãng lai của Nhật sẽ suy giảm.

Khi xem xét "hiệu quả việc làm " thì điều lo ngại nhất là FDI bị coi như là sụ thay
thế của những sản phẩm nội địa. Đây là trường hợp đầu tư của Toyota tại Châu
Âu. Một kết quả rõ ràng cho FDI kiểu như thế này là việc làm trong nước bị cắt
giảm xuống. Nếu tỷ lệ thất nghiệp ở thị trường lao động trong nước thấp(như
trường hợp nước Nhật và Mỹ trong suốt những năm 80 ) thì vấn đề không đáng lo
ngại. Nhưng nếu tỷ lệ thất nghiệp trong nước cao thì nước đó sẽ phải tìm cách xuất

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 29


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

khẩu lao động. Ví dụ, một nhà lãnh đạo Đảng lao động của Mỹ thường đưa ra
những đánh giá về ảnh hưởng của thị trường lao động tự do giữa Mỹ, Mexico và
Canada (xem tiếp chương sau). Mỹ đã đánh mất hàng trăm ngàn việc làm khi các
công ty Mỹ dầu tư vào Mexico nhằm tìm kiếm nguồn nhân công rẻ mạt hơn, rồi
sau đó lại xuất khẩu hàng hoá về Mỹ.

3.2.4. Chính sách của nước đi đầu tư

Thông qua hàng loạt các chính sách nước đi đầu tư có thể khuyến khích hoặc hạn
chế các công ty trong nước thực hiện FDI. Trước tiên, chúng ta cùng xem xét
những chính sách khuyến khich FDI. Bao gồm : bảo hiểm rủi ro nước ngoài, hỗ trợ
vốn, ưu đãi thuế, và áp lực chính trị. Sau đó chúng ta sẽ nói đến các chính sách hạn
chế FDI.

Chính sách khuyến khích FDI

Nhiều nhà đầu tư yêu cầu chính phủ quay trở lại với chính sách bảo hiểm rủi ro để
bao quát được những rủi ro kinh tế có khả năng xảy ra ở nước ngoài. Rủi ro gồm
các loại như: bị quốc hữu hoá tài sản, mất mát do chiến tranh, và nguy cơ không
thể chuyển lợi nhuận về nước. Chính sách khuyến khích như thế này đặc biệt quan
trọng với những nước có nền kinh tế chính trị ổn định.

Để khuyến khích các công ty trong nước thực hiện FDI, nhiều nước đã xoá cả hai ''
thuế thu nhập'' Ví dụ, thuế thu nhập của cả nước đi đầu tư và nước nhận đầu tư.
Cuối cùng và cũng là quan trọng nhất, các nhà đầu tư đặc biệt là Mỹ có thể dùng
ảnh hưởng chính trị của họ để thuyết phục nước sở tại nới lỏng hạn chế đối với
hoạt động FDI, do áp lực chính trị của Mỹ, Nhật đã phải nới lỏng nhiều điểm hạn
chế trong thập niên 80. Còn bây giờ Nhật cũng đang nới lỏng hàng rào thương

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 30


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

mại đối với hoạt động đầu tư của Mỹ. Một trong điều đáng chú ý của xu hướng
này là việc cho phépp bày bán trò chơi chữ " R" của Mỹ vào tháng 12/1991 tại
Nhật. Đây là một kết quả của 5 năm liên tục vận động từ phía các quan chức chính
phủ và các công ty của Mỹ, Cuối năm 1997 đã có đến 51 cửa hàng bán trò chơi
"R" tại Nhật.

Chính sách hạn chế FDI

Hầu như toàn bộ các nước đầu tư, bao gồm cả Mỹ, thỉnh thoảng vẫn thi hành một
số điều hạn chế FDI. Chính sách thông thường là hạn chế việc tiêu tốn tư bản
không có lợi cho cán cân thanh toán của đất nước đó. Ví dụ: Từ đầu thập niên 60
tới năm 1979, nước Anh đã thay đổi những luật lệ giới hạn nhằm hạn chế luợng tư
bản mà một công ty đầu tư ra khỏi quốc gia đó. Mặc dù nội dung chính của những
chính sách đó là nhằm cải tiến cán cân thanh toán của nước Anh. Nhưng nội dung
quan trọng tiếp theo là gây thêm trở ngại cho các công ty của Anh tham gia vào
FDI

Ngoài ra, các nước cũng hiếm khi thay đổi chính sách thuế khoá để khuyến
khích ccác công ty của họ đầu tư tại nước mình. Mục đích đằng sau những chính
sách đó là nhằm tạo việc làm tại nước mình hơn là tại các nước khác. Một thời
gian nước Anh cũng thi hành chính sách này. Nước Anh đã đưa ra hệ thống thuế
cho các công ty ở Anh, thuế thu nhập ở những công ty nước ngoài thì cao hơn các
công ty trong nước. Luật thuế này tạo ra là nhằm khuyến khích các công ty ở Anh
đầu tư vào trong nước.

Cuối cùng một số đất nước đã cấm các công ty hoạt động đầu tư với lý do
chính trị quốc gia. Đó là những hạn chế chính thức hoặc không chính thức. Ví dụ
như luật lệ chính thức hạn chế các hãng kinh doanh Mỹ trong đầu tư ở một số

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 31


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

nước như là Cuba, Libya, Iran mà có tư tưởng chính trị và hành động xét thấy trái
ngược với lợi ích của Mỹ. Cũng như vậy, trong suốt những năm 1980 những quy
định không chính thức đã tạo ra sức ép ngăn cản các công ty của Mỹ trong hoạt
động đầu tư ở Nam Mỹ. Trong trường hợp này, mục tiêu là tạo áp lực lên các nước
Nam Mỹ để thay đổi luật phân biệt chủng tộc của họ, mà đã xuất hiện từ đầu
những năm 90. Vì thế chính sách này đã thành công.

3.2.5. Chính sách của nước tiếp nhận đầu tư

Nước chủ nhà có các chính sách, vừa khuyến khích vừa hạn chế việc tiếp nhận
FDI. Điều cần chú ý trong chương này là, hệ tư tưởng chính trị sẽ quyết định loại
và mục đíchcủa các chính sách. Trong những thập kỷ cuối cùng thế kỷ thứ 20,
chúng ta dường như chuyển động nhanh hơn từ tình trạng mà một vài đất nước đã
giữ vững thái độ lập trường quan điểm chính trị rõ ràng, và ngăn cản FDI nhiều
hơn hướng tới nơi mà thị trường tự do và chủ nghĩa thực dụng dường như là chiếm
lĩnh.

Chính sách khuyến khích FDI

Sự khuyến khích của chính phủ đối với các nhà đầu tư nước ngoài thường gia tăng
khi các hãng nước ngoài đầu tư vào nước họ. Có một số kiểu khuyến khích, kiểu
khuyến khích thông dụng nhất đó là khuyến khích về thuế đất, lãi vay, trợ cấp hoặc
tiền trợ cấp. Những khuyến khích này đã được thúc đẩy với mong ước dành được
sự chuyển giao nguồn lực và hiệu quả tạo việc làm của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chúng cũng được thúc đẩy để giành được FDI từ các nước chủ nhà tiềm năng
khác. Ví dụ cũng như chúng ta đã xem trong phần mở đầu, chính phủ Anh và Pháp
đã cạnh tranh bằng các biện pháp khuyến khích tạo cơ hội cho Toyota đầu tư ở
riêng những nước đó. Ví dụ, Thỗ Nhĩ Kỳ đã tạo cơ hội cho Toyota bằng cách

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 32


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

khuyến khích trọn gói trị giá 112 triệu đô la để thuyết phục nó có kế hoạch xây
dựng nhà máy lắp ráp ôtô ở đó. Khuyến khích trọn gói đó bao gồm cắt giảm thuế,
chi tiêu mới của chính phủ trong cơ sở hạ tầng và những khoản vay với lãi suất
thấp.

Chính sách hạn chế FDI

Chính phủ nước sở tại có rất nhiều những công cụ kiểm soát để hạn chế FDI bằng
cách này hay cách khác. Có hai cách thông thường nhất là : hạn chế trong lĩnh vực
đầu tư và các yêu cầu cụ thể. Hạn chế về lĩnh vực đầu tư được thể hiện theo một số
hình thức, như ở một số nước các công ty nước ngoài không được phép đẩu tư vào
một số lĩnh vực cụ thể. Ví dụ như ở Thuỵ Điển các công ty nước ngoài không được
đầu tư vào sản xuất thuốc lá, chính phủ Braxin, Ba Lan và Morocco thì không cho
phép các công ty nước ngoài đầu tư vào ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên. ở
một số nghành công nghiệp khác, quyền sở hữu cuả các công ty nước ngoài vẫn
được công nhận. Mặc dù một tỷ lệ đáng kể cổ phần trong các công ty nước ngoài
là do các công ty trong nước sở hữu. Ví dụ , trong ngành công nghiệp máy bay ở
Mỹ, sở hữu cổ phần của các công ty nước ngoài bị khống chế từ 25% trở xuống.

Lý do cơ bản dẫn đến việc xíêt chặt quyền sở hữu có hai nguyên nhân. Thứ nhất,
các công ty nước ngoài không được phép đầu tư vào một số lĩnh vực cụ thể vì lý
do an ninh quốc gia hoặc vì cạnh tranh. Đặc biệt là ở các nước kém phát triển, các
công ty trong nước sẽ không có cơ hội phát triển nếu các công ty nước ngoài
không bhị hạn chế bởi thuế nhập khẩu và bị kiểm soát trong việc đầu tư. Thực sự
đây là một biến thể của ngành công nghiệp non trẻ mà chúng ta đã thảo luận trong
chương 5. Thứ hai, việc hạn chế quyền sở hữu dựa trên niềm tin rằng các nhà lãnh
đạo địa phương có thể giúp để tối đa lợi ích trong việc chuyển giao nguồn lực và

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 33


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

tạo việc làm của FDI cho nước chủ nhà. Cho đến đầu những năm 1980, chính phủ
Nhật vẫn còn ngăn cản FDI nhưng cho phép các công ty liên doanh hoạt động giữa
hãng, công ty của Nhật với các công ty đa quốc gia của nước ngoài nếu những
công ty đa quốc gia có các công nghệ cao. Chính phủ Nhật tin rằng sẽ tăng tốc
được kinh tế của Nhật thông qua công nghệ của các công ty đa quốc gia. Những
yêu cầu trong thực hiện cũng được áp dụng ở một số trường hợp. Những yêu cầu
này là những sự kiểm soát đối với hành vi của các chi nhánh địa phương của các
công ty đa quốc gia. Những yêu cầu phổ biến nhất được đặt ra với những khía
cạnh địa phương, xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, và sự tham gia của địa
phương trong bộ máy quản trị cấp cao. Với sự hạn chế sở hữu , những yêu cầu này
chính là những quy định để tối đa hoá lợi ích và tối thiểu hóa chi phí của đầu tư
trực tiếp nước ngoài đối với nước chủ nhà. Hầu hết các quốc gia áp dụng một vài
phương thức của những yêu cầu trong thực hiện khi nó phù hợp với mục tiêu của
họ. Tuy nhiên những yêu cầu này có xu hướng phổ biến trong những nước kém
phát triển hơn là trong những nước công nghiệp tiên tiến. Ví dụ, một nghiên cứu
cho thấy khoảng 30% trong các công ty đa quốc gia Mỹ ở những nước kém phát
triển là đối tượng của những yêu cầu trong hoạt động trong khi chỉ 6% của những
nước tiên tiến phải đối mặt với những yêu cầu này

3.3. Hội nhập kinh tế khu vực

Quá trình hợp tác của các quốc gia trong một khu vực địa lý nhằm giảm bớt hay
xóa bỏ các trở ngại đối với dòng vận động của hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn
giữa các quốc gia đó được gọi là hội nhập kinh tế khu vực.

3.3.1. Các cấp độ hội nhập kinh tế khu vực

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 34


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Khu vực mậu dịch tự do

Khu vực mậu dịch tự do là hình thức hội nhập kinh tế theo đó tất cả các trở ngại
đối với quan hệ thương mại giữa các nước thành viên được xóa bỏ, nhưng mỗi
nước thành viên vẫn có quyền áp dụng chính sách thương mại riêng của mình đối
với các nước nằm ngoài khối. Khu vực mậu dịch tự do là cấp độ liên kết kinh tế
thấp nhất có thể có giữa hai hay nhiều quốc gia. Các quốc gia thành viên của một
khu vực mậu dịch tự do có nghĩa vụ xóa bỏ tất cả các mức thuế quan và các trở
ngại phi thuế quan như hạn ngạch và trợ cấp đối với thương mại hàng hóa và dịch
vụ. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có thể duy trì bất cứ chính sách nào mà quốc gia đó
cho là phù hợp trong quan hệ với các nước nằm ngoài khối, và vì vậy những chính
sách đó có thể rất khác nhau giữa các quốc gia. Các quốc gia thành viên trong một
khu vực mậu dịch tự do thường thỏa thuận thiết lập một cơ chế giải quyết các tranh
chấp thương mại có thể phát sinh.

Liên minh thuế quan

Liên minh thuế quan là hình thức liên kết kinh tế theo đó các quốc gia thành viên
xóa bỏ tất cả các trở ngại đối với quan hệ thương mại trong nội bộ khối, đồng thời
xây dựng chính sách thương mại chung đối với các quốc gia không phải là thành
viên. Như vậy, về thực chất liên minh thuế quan cũng là một khu vực mậu dịch tự
do, nhưng sự khác biệt cơ bản giữa chúng là ở chỗ các thành viên của liên minh
thuế quan phải thống nhất chính sách thương mại đối với các quốc gia ngoài khối.
Ngoài ra, các quốc gia thuộc liên minh thuế quan được phép tiến hành đàm phán
với các tổ chức siêu quốc gia như WTO với tư cách là một chủ thể duy nhất.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 35


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Thị trường chung

Thị trường chung là hình thức liên kết kinh tế trong đó các quốc gia thực hiện xóa
bỏ tất cả các trở ngại đối với thương mại và dòng vận động của lao động và vốn
trong nội bộ khối, nhưng áp dụng một chính sách thương mại chung đối với các
quốc gia không phải là thành viên. Như vậy, thị trường chung bao gồm những
nhân tố của khu vực mậu dịch tự do và liên minh thuế quan, ngoài ra còn bổ sung
thêm sự di chuyển tự do của các yếu tố sản xuất quan trọng là lao động và vốn. Do
thị trường chung đòi hỏi phải có một sự hợp tác nhất định về chính sách kinh tế và
lao động nên việc đạt được cấp độ liên kết này là rất khó khăn. Hơn nữa, lợi ích
mà các quốc gia được hưởng có thể không đồng đều do lao động có tay nghề có
thể di chuyển tới những quốc gia có mức lương cao hơn, và vốn đầu tư sẽ chảy đến
những nơi có mức lợi nhuận lớn hơn.

Liên minh kinh tế

Liên minh kinh tế là hình thức liên kết kinh tế theo đó các quốc gia xóa bỏ tất cả
các trở ngại đối với thương mại, dòng vận động của lao động, và của vốn trong nội
bộ khối; áp dụng chính sách thương mại chung đối với các quốc gia không phải là
thành viên; thống nhất các thể chế kinh tế và phối hợp các chính sách kinh tế. Liên
minh kinh tế cao hơn thị trường chung ở chỗ, ngoài việc đòi hỏi các quốc gia thành
viên phải kết hợp hài hòa các chính sách thuế, chính sách tiền tệ và tài khóa, nó
còn dẫn tới hình thành những thể chế mang tính siêu quốc gia - nơi đưa ra những
quyết định có tính bắt buộc đối với các quốc gia thành viên. Khi một liên minh
kinh tế sử dụng một đồng tiền chung thì nó còn được gọi là một liên minh tiền tệ.
Khi tham gia liên minh kinh tế các quốc gia thành viên phải chấp nhận hy sinh một
phần đáng kể chủ quyền quốc gia của mình.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 36


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Quá trình tiến tới liên minh kinh tế đòi hỏi sự phối hợp có hiệu quả bộ máy
quản lý và điều hành ở các quốc gia thành viên. Thực tế cho thấy những mục tiêu
liên kết về mặt kinh tế khó có thể đạt được một cách đầy đủ nếu thiếu sự phối hợp
về lĩnh vực chính trị và chính sách đối ngoại giữa các quốc gia thành viên. Vì vậy
liên minh kinh tế có xu hướng dẫn đến sự hình thành liên minh chính trị - quá trình
phối hợp tất cả các lĩnh vực của hệ thống kinh tế và chính trị của các quốc gia
thành viên. Một liên minh chính trị đòi hỏi các quốc gia thành viên phải thống nhất
các chính sách về kinh tế, chính trị và đối ngoại với các quốc gia ngoài khối. Tuy
nhiên, trong một chừng mực nào đó thì các nước thành viên vẫn có quyền hoạch
định các chính sách về kinh tế và chính trị trong phạm vi quốc gia mình. Các quốc
gia thuộc Liên minh châu Âu (EU) hiện đang trong quá trình liên kết theo hướng
này.

3.3.2. Một số điển hình về hội nhập kinh tế khu vực trên thế giới

Liên minh Châu Âu

Hiện nay EU là một thị trường rộng lớn, với dân số 500 triệu và GDP đạt khoảng
17,4 nghìn tỷ USD vào năm 2013, chiếm khoảng 1/4 GDP của toàn thế giới. Có
được vị thế đó là nhờ những nỗ lực hội nhập không ngừng của các quốc gia Châu
Âu trong suốt hơn một nửa thế kỷ qua. Quá trình hội nhập kinh tế ở Châu Âu đã
trải qua các giai đoạn và mốc thời gian cơ bản sau đây.

Giai đoạn 1951-1956 - Vào thời kỳ sau chiến tranh, để thực hiện tái thiết Châu
Âu, loại trừ nguy cơ bùng nổ các cuộc xung đột vũ trang, và có được khả năng
cạnh tranh với nước Mỹ đang ngày càng trở nên hùng mạnh, các nước Châu Âu đã
bắt đầu đi những bước đầu tiên của quá trình liên kết kinh tế. Vào năm 1951, sáu
quốc gia là Bỉ, Pháp, Tây Đức, Italia, Lucxambua và Hà Lan đã ký vào hiệp định

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 37


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

thành lập Cộng đồng than và thép Châu Âu (European Coal and Steel Community)
theo đó tất cả các trở ngại đối với việc buôn bán các mặt hàng than, sắt, thép giữa
các quốc gia thành viên sẽ được dỡ bỏ.

Giai đoạn 1957-1986 – Vào năm 1957, các thành viên của Cộng đồng than và
thép Châu Âu đã ký Hiệp ước Rome và hình thành Cộng đồng kinh tế Châu Âu
(European Economic Community – EEC). Hiệp ước Rome là một bước tiến quan
trọng trong quá trình hình thành một thị trường chung trong tương lai. Vì vậy, hiệp
ước Rome không chỉ quy định việc loại bỏ hàng rào thuế quan giữa các quốc gia
thành viên và thiết lập một biểu thuế chung đối với các quốc gia khác, mà còn kêu
gọi thực hiện di chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn trong nội bộ
khối. Vào năm 1967, phạm vi của EEC được mở rộng với việc bổ sung thêm một
số ngành mới, trong đó đáng chú ý nhất là ngành năng lượng nguyên tử, và khối
này được đổi tên thành Cộng đồng Châu Âu (European Community – EC). Quy
mô của EC được mở rộng với sự gia nhập của các nước thành viên mới là Anh, Ai
len và Đan Mạch (1973), Hy Lạp (1981), Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha (1986).

Giai đoạn 1987-1991 - Cho đến đầu những năm 1980, các quốc gia thành viên
EC cảm thấy thất vọng vì quá trình liên kết không đạt được những gì mà họ mong
đợi. Những mục tiêu quan trọng hàng đầu như việc dỡ bỏ các rào cản đối với dòng
hàng hóa và vốn đầu tư trong khối, thiết lập hệ thống tiêu chuẩn thống nhất đối với
sản phẩm, các quy định về thuế đều không thực hiện được. “Luật chơi” giữa các
nước thành viên còn có sự khác biệt lớn, gây trở ngại cho việc hình thành một thị
trường thống nhất. Tình trạng bảo hộ vẫn còn phổ biến ở các quốc gia thành viên
dưới nhiều hình thức khác nhau.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 38


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Giai đoạn từ 1992 trở đi -Trong thời gian trước khi SEA hết hiệu lực, một số
thành viên EC đã bày tỏ quan điểm muốn đưa quá trình liên kết Châu Âu tiến xa
hơn nữa. Vào năm 1991, các nước thành viên EC đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh
tại Maastricht, Hà Lan, để bàn về kế hoạch cho những giai đoạn liên kết cao hơn.
Kết quả là Hiệp ước Maastricht Treaty) đã được các nước thành viên EC ký kết,
dẫn tới sự ra đời của Liên minh Châu Âu (European Union – EU) kể từ năm 1994.
Các cuộc trưng cầu dân ý ở một số nước Châu Âu dẫn tới kết quả có thêm 3 nước
là Áo, Thụy Điển và Phần Lan gia nhập EU vào năm 1995. Hiệp ước Maastricht là
một bước tiến trong quá trình hội nhập kinh tế ở Châu Âu.

Hiện nay, quá trình hội nhập ở EU đang gặp phải những thách thức nghiêm
trọng. Khủng hoảng nợ công bùng nổ ở Hy Lạp vào những năm 2009-2010 do
trong một thời gian dài quốc gia này vay mượn những khoản tiền lớn trên thị
trường vốn quốc tế để bù đắp thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách. Nguy
cơ khủng hoảng sau đó lan sang một số các quốc gia khác thuộc khu vực đồng euro
là Ai-len, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Italy. Để tránh nguy cơ vỡ nợ, Hy Lạp,
Ai-len, Bồ Đào Nha và Síp đã nhận được các gói “cứu trợ” từ EU và Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF). Một số biện pháp đặc biệt khác được EU triển khai để ngăn chặn
sự lây lan của cuộc khủng hoảng nợ công. Từ cuối năm 2012, khủng hoảng khu
vực đồng euro đã phần nào hạ nhiệt, và một số quốc gia thành viên đã ngừng nhận
sự hỗ trợ tài chính từ EU và IMF. Tuy nhiên, theo kiến các chuyên gia thì khu vực
đồng euro vẫn đang ở trong tình trạng bất ổn do phải vật lộn với tình trạng giảm
phát, và nhiều quốc gia thành viên phải đối mặt với tình trạng tăng trưởng kinh tế
yếu ớt và nạn thất nghiệp cao.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 39


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ

Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) là khối liên kết kinh tế quan
trọng nhất ở Châu Mỹ, bao gồm 3 quốc gia thành viên là Mỹ, Canada và Mexico.
Đây là một khối liên kết tuy có số nước tham gia ít, song có quy mô thương mại và
GDP thuộc diện lớn nhất thế giới – năm 2013 GDP của NAFTA là 19,9 nghìn tỷ
USD. Chỉ riêng thương mại giữa hai nước Mỹ và Canada đã có quy mô rất lớn, và
mỗi nước là bạn hàng thương mại lớn nhất của nước kia. Mỹ và Canada đã từng ký
kết các hiệp định thương mại trong một số lĩnh vực công nghiệp, trong đó có
ngành sản xuất ô tô. Nhưng mãi đến năm 1987 thì ý tưởng về việc ký kết một hiệp
định thương mại tự do toàn diện giữa hai quốc gia mới được đề xướng.

Mục tiêu của NAFTA là dỡ bỏ phần lớn hàng rào thuế quan và phi thuế quan
đối với hầu hết hàng hóa được sản xuất trong khu vực Bắc Mỹ vào năm 2008. Hiệp
định còn đưa ra các quy định mang tính tự do đối với hoạt động đầu tư trực tiếp
trong phạm vi khối, mua sắm của chính phủ, thực hiện trợ cấp, và việc áp dụng
thuế trợ giá. Các điều khoản khác của hiệp định liên quan đến các vấn đề như
thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, và các tiêu chuẩn về sức khỏe, an toàn và
môi trường.

Hội nhập kinh tế trong khuôn khổ NAFTA được đánh giá là khá thành công.
Nền kinh tế của 3 nước thành viên ngày càng liên kết với nhau chặt chẽ hơn, thể
hiện ở sự gia tăng thương mại rất ấn tượng trong khối. Canada và Mexico lần lượt
là bạn hàng thương mại lớn thứ nhất và thứ hai của Mỹ. Trong giai đoạn 1993-
2005, tỷ trọng xuất khẩu tới các thành viên khác trong khối trong tổng xuất khẩu
của mỗi nước thành viên có sự gia tăng đáng kể, cụ thể con số này ở Mỹ là từ 25%
lên 33%, Canada từ 70 lên trên 80%, và Mexico từ 66 lên 80%. Năng suất lao động

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 40


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

ở mỗi nước đều tăng mạnh, đặc biệt là ở Mexico mức tăng này là 50% kể từ năm
1993.

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và Khu vực thương mại tự do ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN - Association of Southeast
Asian Nations) được thành lập vào năm 1967, với 5 quốc gia thành viên đầu tiên là
Indonesia, Malaysia, Philippin, Singapore và Thái Lan. Sau đó hiệp hội được mở
rộng với sự tham gia của các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á là Brunei
(1984), Việt Nam (1995), Lào và Myanmar (1997), và Campuchia (1998). Hiện
nay ASEAN đang xem xét kết nạp Timor Leste làm thành viên mới của khối.

Các quốc gia trong hiệp hội tạo thành một thị trường với trên 600 triệu dân
và tổng sản phẩm quốc nội lên tới gần hơn 2000 tỷ USD. Ba mục tiêu chính của
khối liên kết này là:

• Thúc đẩy sự phát triển về kinh tế, văn hóa và xã hội trong khu vực.

• Bảo vệ sự ổn định về kinh tế và chính trị trong khu vực.

• Thiết lập diễn đàn để giải quyết các bất đồng một cách công bằng và hòa

bình.

Bên cạnh đó, để đẩy mạnh sự hội nhập của ASEAN vào nền kinh tế toàn
cầu, ASEAN đang triển khai các thoả thuận liên kết kinh tế ở khu vực Đông Á, với
6 Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do (FTAs) đã được ký với các đối tác quan trọng
là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và Niu Di-lân, và đang
trong quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP)
hướng đến hình thành một không gian kinh tế mở toàn Đông Á vào năm 2015, với
GDP chiếm 1/3 tổng GDP toàn cầu và quy mô thị trường chiếm ½ dân số thế giới

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 41


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Hiệp định Hợp tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương

Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement – TPP) là một hiệp định thương mại tự
do được ký kết vào năm 2005 với 4 nước thành viên ban đầu là Brunei, Chile, New
Zealand và Singapore. Sau đó vào năm 2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP với tư
cách là một bên cùng đàm phán với 4 nước nói trên về một hiệp định FTA hoàn
toàn mới, nhưng vẫn giữ tên gọi là Hiệp định TPP. Cũng trong năm 2008, có thêm
3 quốc gia tham gia đàm phán là Australia, Peru, và Việt Nam. Với sự tham gia
của 4 nước tiếp theo là Malaysia (2010), Canada và Mexico (2012) và Nhật Bản
(2013), cho đến nay TPP bao gồm 12 quốc gia thành viên, với dân số 790 triệu
người, chiếm 40% GDP và 1/3 thương mại toàn cầu.

TPP được coi là một hình mẫu mới về hợp tác kinh tế khu vực, tạo thuận lợi
tối đa cho các hoạt động thương mại, đầu tư, và có thể TPP sẽ trở thành hạt nhân
cho việc hình thành một FTA chung cho toàn khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
trong tương lai. Khác với nhiều hiệp định thương mại khu vực khác, phạm vi điều
chỉnh của TPP rất rộng, bao gồm các thỏa thuận về trao đổi hàng hóa, đầu tư, các
quy định về xuất xứ, can thiệp của chính phủ, rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ, sở
hữu trí tuệ, các chính sách của chính phủ về môi trường, lao động, doanh nghiệp
nhà nước, các vấn đề về chống tham nhũng, nhân quyền… Một điểm khác biệt cơ
bản của TPP so với WTO là ở chỗ TPP là hiệp định có đi có lại, các nước thành
viên phải mở cửa thị trường cho nhau một cách tương xứng. Với những đặc điểm
như vây, TPP được dự báo là sẽ có những tác động rất sâu sắc đến các nước thành
viên trên nhiều lĩnh vực, từ thương mại, đầu tư cho đến các vấn đề liên quan đến

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 42


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

chính sách và thể chế. 3.3.3. Tác động của hội nhập kinh tế khu vực đến các
quốc gia và doanh nghiệp

Tác động của hội nhập kinh tế khu vực đến các quốc gia

Tác động tích cực

Gia tăng quy mô sản xuất, thương mại và tiêu dùng ở các quốc gia thành viên

Việc xóa bỏ các trở ngại đối với thương mại và/hoặc đầu tư trong khuôn khổ
hội nhập kinh tế khu vực sẽ mở rộng quy mô thị trường, thúc đẩy sản xuất, trao đổi
thương mại và tiêu dùng ở các quốc gia thành viên. Cơ cấu kinh tế của các nước
thành viên sẽ có sự chuyển dịch theo hướng mỗi nước sẽ tập trung phát triển
những ngành mà mình có lợi thế so sánh. Quy mô thị trường được mở rộng sẽ kích
thích đầu tư từ các nguồn trong và ngoài khối, tạo cơ hội để các doanh nghiệp
trong khối liên kết tích tụ sản xuất, khai thác kinh tế quy mô, gia tăng hiệu quả sử
dụng các yếu tố sản xuất.

Sự gia tăng quy mô thương mại trong các khối thương mại khu vực thường
được gắn với hiện tượng tạo lập mậu dịch (Trade Creation). Tạo lập mậu dịch là
hiện tượng xảy ra khi sản xuất kém hiệu quả của một quốc gia thành viên nào đó
trong khối liên kết được thay thế bằng nhập khẩu với chi phí thấp từ một quốc gia
thành viên khác có hiệu quả sản xuất cao hơn. Tạo lập mậu dịch được coi là tác
động tích cực vì nó gắn liền với việc phân bổ và sử dụng nguồn lực một cách hiệu
quả hơn trong phạm vi khối liên kết dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh.

Sự đồng thuận và mức độ hợp tác chính trị cao hơn

Hoạt động của các định chế quốc tế như GATT và WTO có mục tiêu là giảm
bớt các trở ngại đối với thương mại và đầu tư trên quy mô toàn cầu, với sự tham

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 43


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

gia của một số lượng lớn các quốc gia trên thế giới. Trong khi đó nỗ lực hội nhập
kinh tế khu vực thường có sự tham gia của một số ít các quốc gia. Do đó một lợi
ích khác của hội nhập kinh tế khu vực là việc đạt tới sự nhất trí giữa một số lượng
nhỏ các quốc gia thành viên sẽ dễ dàng hơn nhiều so với trường hợp có nhiều quốc
gia liên quan (đạt sự đồng thuận giữa 159 thành viên WTO là công việc rất khó
khăn).

Hội nhập kinh tế khu vực còn mang lại nhiều lợi ích về chính trị. Một nhóm
quốc gia có thể có tiếng nói chính trị có trọng lượng hơn trên trường quốc tế so với
từng quốc gia riêng rẽ. Vì vậy, các quốc gia sẽ có được vị thế mạnh hơn khi đàm
phán với các quốc gia khác tại các diễn đàn như WTO hoặc Liên hợp quốc. Quá
trình hội nhập gắn liền với sự gia tăng hợp tác chính trị có thể làm giảm khả năng
xảy ra xung đột quân sự giữa các quốc gia thành viên.

Trên thực tế thì hòa bình đã được coi là mục tiêu trọng tâm của những nỗ lực
liên kết ở Châu Âu trong những năm 50 của thế kỷ 20. Hậu quả tàn khốc của hai
cuộc chiến tranh thế giới trong nửa đầu thế kỷ 20 đã buộc Châu Âu phải dựa vào
hội nhập kinh tế như là một cách thức để ngăn ngừa xung đột, duy trì hòa bình trên
châu lục này.

Các lợi ích khác

Ngoài những tác động tích cực nêu trên, hội nhập kinh tế khu vực còn mang
lại cho các nước thành viên những lợi ích khác như tiết kiệm được chi phí quản lý
(chi phí liên quan đến việc xây dựng, vận hành và quản lý hệ thống thuế xuất khẩu,
hoạt động của các cơ quan hải quan, hoạt động chống buôn lậu…), cải thiện điều
kiện thương mại của cả khối liên kết với phần còn lại của thế giới, giảm bớt hoặc
xóa bỏ tình trạng độc quyền trên thị trường liên kết, gia tăng mức độ cạnh tranh…

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 44


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Tất cả các yếu tố này đều làm cho môi trường kinh doanh trên thị trường liên kết
trở nên hấp dẫn với các doanh nghiệp trong khối.

Trên đây là những lợi ích cơ bản của hội nhập kinh tế khu vực. Tuy nhiên,
các quốc gia cần nhận thức được rằng sự thành công của hội nhập kinh tế phụ
thuộc vào việc các yếu tố như mức độ tương đồng về kinh tế, chính trị, văn hóa, sự
gần gũi về mặt địa lý giữa các quốc gia thành viên được khai thác như thế nào. Có
thể nói yếu tố quan trọng nhất đảm bảo thành công của hội nhập kinh tế là các
quốc gia thành viên phải phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc xây dựng và thực
thi những thể chế và chính sách thích hợp. Nói một cách khác, quá trình hội nhập
phải được diễn ra dựa trên cách tiếp cận chủ động.

Mặt trái của hội nhập kinh tế khu vực

Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, quá trình hội nhập kinh tế khu
vực có thể dẫn đến những tác động tiêu cực nhất định về kinh tế, chính trị, và xã
hội đối với các quốc gia thành viên.

Chuyển hướng mậu dịch

Việc hình thành các khối liên kết kinh tế khu vực có thể dẫn đến hiện tượng
chuyển hướng mậu dịch (Trade Diversion) - sự gia tăng quy mô thương mại giữa
các quốc gia thành viên trong khối liên kết đi liền với sự giảm sút quy mô thương
mại giữa các thành viên trong khối với các quốc gia ngoài khối. Một cách cụ thể
hơn, chuyển hướng mậu dịch xảy ra khi nhập khẩu của một quốc gia thành viên từ
một quốc gia ngoài khối (có hiệu quả sản xuất cao) được thay thế bằng nhập khẩu
từ một quốc gia thành viên khác trong khối (có hiệu quả sản xuất thấp hơn quốc
gia ngoài khối). Tuy quốc gia thành viên có hiệu quả sản xuất thấp hơn, nhưng do

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 45


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

thuế quan được dỡ bỏ nên hàng hóa của quốc gia này trở nên rẻ hơn so với mặt
hàng tương tự của quốc gia ngoài khối. Nhìn chung, tác động chuyển hướng mậu
dịch được coi là tiêu cực do nó có thể làm giảm phúc lợi của khối liên kết khu vực,
và gây tổn hại cho thương mại quốc tế nói chung.

Gia tăng rào cản trong thương mại quốc tế

Tuy hội nhập kinh tế khu vực dẫn đến việc giảm bớt hay xóa bỏ rào cản
thương mại giữa các thành viên trong khối liên kết, nhưng khi đạt tới cập độ cao,
cụ thể từ liên minh thuế quan trở lên thì hội nhập kinh tế có thể dẫn tới xu hướng
ngược lại. Đó là trường hợp khối liên kết có thể quy định mức thuế thống nhất của
cả khối đối với các nước ngoài khối cao hơn so với mức thuế mà từng thành viên
riêng rẽ áp đặt trước khi gia nhập khối. Chẳng hạn, khi chưa gia nhập EU, thuế
suất đối với giày thể thao nhập khẩu vào Anh là 10%. Tuy nhiên, khi Anh gia nhập
EU và khối này chuyển thành một thị trường chung, với mức thuế chung của cả
khối đối với giày thể thao thập khẩu được ấn định là 20% thì trên thực tế thuế nhập
khẩu của Anh sẽ tăng lên.

Việc một khối liên kết kinh tế khu vực áp đặt thuế quan cao với các nước
ngoài khối có thể bảo vệ các doanh nghiệp trong khối, nhưng lại gây thiệt hại cho
người tiêu dùng trong khối (do phải trả giá cao hơn cho hàng hóa mua từ bên
ngoài) và các doanh nghiệp ở ngoài khối (do xuất khẩu vào khối liên kết bị hạn
chế). Điều này trái ngược với quy luật lợi thế so sánh, và có thể dẫn đến tổn thất
kinh tế ròng đối với tất cả thành viên trong khối liên kết nói riêng, và các quốc gia
trên thế giới nói chung. Trên thực tế, thuế quan đối với hàng nông sản do EU áp
đặt dẫn đến việc người dân EU phải mua nông sản với giá cao, trong khi nông dân

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 46


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

ở Châu Á, Châu Phi lại trong tình trạng nghèo đói do không tiêu thụ được sản
phẩm của mình.

Tác động đến việc làm

Việc hình thành các khối liên kết kinh tế khu vực có thể dẫn đến tình trạng
mất việc làm ở các nước thành viên do các doanh nghiệp trong khối thực hiện tái
cơ cấu để đáp lại áp lực cạnh tranh, thông qua việc sa thải nhân công, thu hẹp quy
mô sản xuất – kinh doanh, hoặc di chuyển cơ sở sản xuất tới những quốc gia khác.
Chẳng hạn, sự ra đời của MERCOSUR đã dẫn tới việc ngành công nghiệp ô tô
Argentina sa thải hàng nghìn công nhân do linh kiện ô tô rẻ từ các nhà máy của
Brazil tràn ngập các nước thành viên MERCOSUR. Hoặc do tác động trực tiếp của
NAFTA, cho đến cuối năm 1997 nhiều ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành dệt
may ở Mỹ và Canada đã mất một số lượng lớn việc làm. Nhiều doanh nghiệp từ
hai nước này đã chuyển hoạt động sản xuất tới Mexico để khai thác chi phí nhân
công rẻ ở đây, từ đó duy trì cạnh tranh trên thị trường trong nước

Tuy nhiên, tác động tới việc làm có lẽ là chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất khi
bàn tới tác động của hội nhập kinh tế khu vực. Có nhiều ý kiến cho rằng đối với
mỗi quốc gia thì hội nhập có thể tác động tiêu cực đến một số ngành công nghiệp,
nhưng nếu đó là những ngành kém hiệu quả và không có khả năng cạnh tranh thì
việc thu hẹp quy mô của chúng là cần thiết. Hơn nữa, hội nhập sẽ thúc đẩy sự phát
triển những ngành có ưu thế cạnh tranh, từ đó tạo ra nhiều việc làm mới. Số liệu
thống kê cho thấy cho đến cuối năm 1997 việc gia tăng xuất khẩu sang Mexico đã
giúp tạo thêm từ 90.000 đến 160.000 việc làm mới ở Mỹ. Nhìn chung, các hiệp
định thương mại khu vực có xu hướng dẫn đến sự chuyển dịch trên thị trường lao

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 47


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

động – việc làm trong một số ngành có thể bị giảm, nhưng việc làm mới lại được
tạo ra ở những ngành khác.

Tác động đến chủ quyền quốc gia

Hội nhập kinh tế đòi hỏi các quốc gia thành viên phải có sự hy sinh một
phần chủ quyền của mình. Mức độ hy sinh chủ quyền là thấp nhất trong khu vực
mậu dịch tự do. Các nước thành viên có quyền áp đặt rào cản thương mại riêng với
các quốc gia ngoài khối. Mức độ hy sinh chủ quyền tăng dần ở các cấp độ hội nhập
cao hơn. Mức độ hy sinh chủ quyền là lớn nhất khi các quốc gia hình thành một
liên minh kinh tế, đồng thời có xu hướng liên minh chặt chẽ hơn về mặt chính trị.
Khi đó, các quốc gia thành viên phải chấp nhận áp dụng chính sách đối ngoại
chung đối với các quốc gia không phải là thành viên, và thậm chí các chính sách
về kinh tế, chính trị trong từng quốc gia, trong chừng mực nào đó, cũng có thể bị
chi phối bởi chính sách chung của cả khối.

Tác động đến truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc

Có những ý kiến cho rằng hội nhập kinh tế dẫn đến sự lan truyền các giá trị
văn hóa giữa các nước thành viên, và trong nhiều trường hợp có thể gây tác hại,
làm xói mòn truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc của các quốc gia thành viên
trong khối liên kết. Vì vậy, các quốc gia thành viên thường bảo lưu quyền bảo vệ
một số ngành nhất định liên quan đến khía cạnh này. Chẳng hạn, nhằm chống ảnh
hưởng của công nghiệp điện ảnh và truyền hình Mỹ, Canada đã dựa trên những
điều khoản ngoại lệ được quy định trong hiệp định NAFTA để áp đặt những biện
pháp hạn chế các nhà sản xuất phim và chương trình truyền hình Mỹ đầu tư vào thị
trường phim ảnh của mình.

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 48


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Tác động của hội nhập kinh tế khu vực đến các doanh nghiệp

Cơ hội đối với các doanh nghiệp

Trước hết, việc hình thành một thị trường thống nhất trong khối liên kết
mang lại cơ hội mở rộng và thâm nhập thị trường cho các doanh nghiệp trong và
ngoài khối. Những thị trường quốc gia riêng rẽ được bảo hộ chặt chẽ trước đây thì
nay mở cửa, cho phép cạnh tranh từ bên ngoài dưới các hình thức xuất khẩu và đầu
tư trực tiếp. Bên cạnh đó việc tổ chức kinh doanh trên một thị trường thống nhất,
thay vì kinh doanh ở nhiều thị trường quốc gia riêng rẽ, sẽ giúp giảm thiểu chi phí
kinh doanh. Một thị trường lớn thống nhất, trong đó hàng hóa được di chuyển tự
do, các tiêu chuẩn đối với sản phẩm được áp dụng thống nhất, các hệ thống thuế
đơn giản và có hiệu lực, v.v... sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tổ chức sản
xuất hàng loạt trên quy mô lớn và khai thác tính kinh tế theo quy mô. Tuy nhiên để
khai thác triệt để những cơ hội này thì các doanh nghiệp ngoài khối sẽ buộc phải
thiết lập những chi nhánh và cơ sở của mình trong khối liên kết.

Thách thức đối với các doanh nghiệp

Bên cạnh các cơ hội thì liên kết kinh tế khu vực cũng tạo ra nhiều thách thức
đối với các doanh nghiệp, cả trong và ngoài khối liên kết. Đầu tiên phải kể đến
mức độ cạnh tranh gia tăng trên phạm vi thị trường liên kết. Việc giảm bớt các trở
ngại đối với thương mại và đầu tư giữa các quốc gia thành viên sẽ làm tăng mức
độ cạnh tranh bằng giá trong khối. Sự chênh lệch mức giá đối với từng loại sản
phẩm khi chưa hình thành khối liên kết sẽ biến mất khi thị trường trở nên thống
nhất. Điều này tạo ra mối đe dọa trực tiếp đối với bất kỳ doanh nghiệp nào đang và
sẽ kinh doanh trên thị trường liên kết, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp có chi
phí sản xuất cao. Để tồn tại được trong môi trường kinh doanh khắc nghiệt hơn

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 49


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

như vậy thì các doanh nghiệp phải tìm mọi cách tận dụng những cơ hội do quá
trình liên kết tạo ra để tối ưu hóa hoạt động sản xuất và cắt giảm chi phí. Một nguy
cơ khác đối với các doanh nghiệp nằm ngoài khối liên kết là có sự gia tăng khả
năng cạnh tranh trong dài hạn của các doanh nghiệp nằm trong khối. Dưới tác
động của liên kết, các doanh nghiệp trong khối buộc phải có những nỗ lực lớn để
cắt giảm chi phí và hợp lý hóa sản xuất, từ đó có được vị thế cạnh tranh ngày càng
lớn trong tương quan đối với các doanh nghiệp ngoài khối. Các doanh nghiệp này
có thể chọn giải pháp sáp nhập, thôn tính hoặc mua lại. Khi đó các doanh nghiệp
ngoài khối cũng sẽ buộc phải đáp lại bằng cách thức tương tự, nghĩa là cũng sẽ
phải tìm mọi cách để điều chỉnh lại cơ cấu chi phí và hợp lý hóa sản xuất. Các
doanh nghiệp ngoài khối cũng có thể thông qua con đường liên kết, sáp nhập với
nhau hoặc với các doanh nghiệp trong khối liên kết để gia tăng khả năng cạnh
tranh của mình.

3.4. Thị trường tài chính quốc tế

3.4.1. Thị trường vốn quốc tế

Khái niệm thị trường vốn quốc tế

Thị trường vốn quốc tế (International Capital Market) là một mạng lưới bao
gồm các cá nhân, các công ty, các thể chế tài chính và các chính phủ tiến hành đầu
tư hay vay tiền vượt qua các biên giới quốc gia. Thị trường vốn quốc tế hoạt động
với tư cánh như là mạng lưới kết nối các thị trường vốn quốc gia, đồng thời như là
thị trường độc lập nằm ngoài quyền tài phán của bất kỳ một quốc gia nào. Trên thị
trường vốn quốc tế các giao dịch có thể được thực hiện tại các sở giao dịch chính
thức, nơi nhà đầu tư và người đi vay gặp nhau để mua bán các công cụ tài chính (ví

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 50


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

dụ như sở giao dịch chứng khoán) hoặc thông qua mạng điện tử. Những lợi ích
của thị trường vốn quốc tế

• Gia tăng nguồn cung ứng vốn cho những người đi vay: Thị trường vốn quốc

tế là chiếc cầu nối giữa những người đi vay và những người cho vay trên các thị
trường vốn quốc gia khác nhau. Nếu một công ty không thể huy động được vốn từ
những người đầu tư trong nước thì vẫn có thể tiếp cận được nguồn vốn từ những
người đầu tư ở các nước khác thông qua thị trường vốn quốc tế.

• Giảm chi phí đối với những người đi vay: Khi nguồn cung vốn được mở

rộng thì chi phí vay mượn sẽ giảm đi. Cũng giống như giá cả của hàng hoá, “giá”
của vốn được xác định bởi tương quan giữa cung và cầu. Nếu mức cung vốn tăng
lên thì “giá” của vốn - tức lãi suất, sẽ giảm xuống.

• Giảm rủi ro đối với người cho vay: Thị trường tài chính quốc tế gia tăng các

cơ hội cho vay, và từ đó làm giảm rủi ro đối với người cho vay (người đầu tư) theo
hai giác độ sau đây. Thứ nhất, những người đầu tư có nhiều cơ hội lựa chọn hơn,
và như vậy giảm bớt rủi ro đầu tư nhờ phân tán nguồn vốn của mình. Thứ hai, đầu
tư vào các chứng khoán quốc tế giúp giảm bớt rủi ro đối với người đầu tư vì giá cả
của chứng khoán ở các nước khác nhau biến động một cách độc lập với nhau.

Các bộ phận cấu thành thị trường vốn quốc tế

Thị trường trái phiếu quốc tế

Thị trường trái phiếu quốc tế bao gồm tất cả các trái phiếu do các chủ thể
như công ty, chính phủ và những chủ thể khác phát hành và bán ra ngoài phạm vi
nước họ. Những chủ thể thực hiện việc phát hành và bán trái phiếu là. Những
người mua chủ yếu là các ngân hàng có quy mô lớn và vừa, các quỹ hưu trí và quỹ

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 51


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

tương hỗ. Chính phủ cũng tham gia mua trái phiếu quốc tế khi có nguồn dự trữ tài
chính dư thừa.

Thị trường trái phiếu quốc tế có thể chia thành thị trường trái phiếu nước
ngoài (Foreign Bond Market) và thị trường trái phiếu Châu Âu (Eurobond
Market). Trái phiếu nước ngoài là trái phiếu được các cá nhân và tổ chức phát
hành tại nước ngoài với giá trị tính bằng đồng tiền của nước đó, ví dụ như trái
phiếu của tất cả các công ty và tổ chức nước ngoài phát hành bằng USD tại Mỹ
(còn được gọi là trái phiếu Yankee); trái phiếu nước ngoài phát hành bằng yên tại
Nhật Bản (trái phiếu Samurai), trái phiếu nước ngoài phát hành bằng bảng tại Anh
(trái phiếu bulldogs). Thị trường trái phiếu nước ngoài lớn nhất là thị trường trái
phiếu Mỹ và thị trường trái phiếu Nhật Bản.

Trái phiếu Châu Âu là trái phiếu được phát hành bên ngoài nước có đồng
tiền ghi trên trái phiếu. Ví dụ: một công ty Đức phát hành trái phiếu bằng USD tại
Nhật Bản (trái phiếu đô la Châu Âu); một tổ chức tài chính phát hành trái phiếu
bằng bảng Anh tại Mỹ (trái phiếu bảng Châu Âu). Trái phiếu Châu Âu thường
được phát hành đồng thời ở thị trường vốn của một vài quốc gia, ngoại trừ thị
trường vốn của quốc gia có đồng tiền ghi trên trái phiếu. Trái phiếu Châu Âu
thường chiếm tỷ trọng lớn trong lượng trái phiếu quốc tế được phát hành (75-
80%), nhưng đến nay thì tỷ trọng trái phiếu nước ngoài ngày càng có xu hướng gia
tăng.

Thị trường cổ phiếu quốc tế

Thị trường cổ phiếu quốc tế (International Equity Market) là nơi diễn ra các
giao dịch mua bán cổ phiếu ngoài phạm vi quốc gia của người phát hành cổ phiếu.
Các công ty và chính phủ thường xuyên bán cổ phiếu trên thị trường cổ phiếu quốc

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 52


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

tế. Những người mua là các công ty, ngân hàng, các quỹ tương hỗ, quỹ hưu trí và
các cá nhân. Các sở giao dịch chứng khoán có số công ty nước ngoài tham gia
đông nhất là Frankfurt, London và New York.

Thị trường cổ phiếu quốc tế bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp là nơi phát hành cổ phiếu cho những người mua đầu tiên, còn thị
trường thứ cấp là nơi mua bán lại những cổ phiếu đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp có thể được tổ chức dưới những hình thức khác
nhau nhằm tạo điều kiện cho việc mua bán cổ phiếu diễn ra có hiệu quả.

Trên thị trường kinh doanh (Dealer Market), các nhà đầu tư không mua bán
cổ phiếu trực tiếp với nhau mà thông qua người môi giới là các nhà tạo lập thị
trường (Dealer Makers). Trên thị trường đại lý (Agency Market), người môi giới
nhận lệnh của khách hàng thông qua người đại lý - người thực hiện khớp lệnh mua
bán trên thị trường. Có thể xem đại lý chính là môi giới của người môi giới, hay
còn gọi là môi giới trung tâm.

Ngoài thị trường chính thức (qua sở giao dịch), cổ phiếu còn được mua bán
trên thị trường mua bán thẳng (OTC). Những công ty nhỏ hoặc công ty không đủ
điều kiện trở thành thành viên trên sở giao dịch thì có thể tham gia mua bán trên
thị trường OTC.

3.4.2. Thị trường ngoại hối

Khái niệm và chức năng của thị trường ngoại hối

Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra việc mua bán các đồng tiền và là nơi giá
cả của các đồng tiền (tỷ giá hối đoái) được xác định. Tỷ giá hối đoái là mức tỷ giá
theo đó một đồng tiền được trao đổi với một đồng tiền khác. Về thực chất thì thị

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 53


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

trường ngoại hối không phải là nguồn cung cấp vốn cho các công ty và các chủ thể
khác, mà vai trò của nó là phục vụ cho các hoạt động tài chính của các công ty nói
riêng và các giao dịch quốc tế nói chung. Các nhà đầu tư thường tham gia vào thị
trường ngoại hối vì các lý do sau đây.

• Chuyển đổi tiền tệ. Các công ty thường có nhu cầu chuyển đổi đồng tiền này

sang đồng tiền khác để phục vụ cho các hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư.
Chẳng hạn, một công ty cần đổi nội tệ thành ngoại tệ để chi trả cho hàng hóa nhập
khẩu từ nước ngoài; hoặc khi công ty đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì cần đổi
nguồn vốn của mình thành đồng tiền của nước tiếp nhận, và ngược lại khi công ty
muốn chuyển lợi nhuận thu được về nước thì phải chuyển đổi đồng bản tệ thành
đồng tiền của nước mình. Ngoài ra, các chủ thể khác cũng có nhu cầu chuyển đổi
tiền tệ, chẳng hạn như các cá nhân khi đi du lịch ở nước ngoài, hoặc khi chính phủ
muốn thay đổi cơ cấu nguồn dự trữ ngoại tệ của mình hoặc muốn can thiệp vào thị
trường hối đoái để tác động tới tỷ giá hối đoái.

• Bảo hiểm rủi ro hối đoái. Việc áp dụng những giao dịch nhằm ngăn ngừa

thất thoát vốn do biến động tỷ giá bất lợi gây ra gọi là biện pháp bảo hiểm rủi ro
hối đoái. Các công ty quốc tế thường sử dụng biện pháp này nhằm giảm bớt rủi ro
phát sinh khi thực hiện chuyển giao nguồn vốn trên phạm vi quốc tế hoặc khi thực
hiện thanh toán hoặc nhận thanh toán có kỳ hạn trong các hợp đồng xuất nhập
khẩu.

• Thực hiện nghiệp vụ Arbitrage hối đoái. Nghiệp vụ arbitrage hối đoái là giao

dịch mua và bán đồng thời một đồng tiền nào đó trên các thị trường khác nhau
nhằm mục đích thu lợi nhuận. Cơ sở để thực hiện nghiệp vụ này là có sự chênh
lệch tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối và mức chênh lệch đó đủ lớn để không

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 54


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

những trang trải được chi phí giao dịch mà còn mang lại thu nhập. Chẳng hạn, nếu
một người kinh doanh ngoại hối ở New York nhận thấy rằng giá phrăng Pháp ở
Tokyo đắt hơn so với ở New York thì người đó sẽ mua phrăng ở Tokyo và bán lại
trên thị trường ngoại hối ở New York để hưởng lợi nhuận dưới dạng chênh lệch tỷ
giá. Tuy nhiên, trên thực tế thì nghiệp vụ arbitrage hối đoái phức tạp hơn nhiều.
Nhà kinh doanh ngoại hối có thể mua yên bằng đô la ở New York, dùng số yên đó
để mua phrăng Pháp ở Tokyo, và sau đó bán lại số phrăng đó ở New York để thu
đô la về. Việc áp dụng công nghệ thông tin cho phép tất cả các giao dịch trên diễn
ra chỉ trong vòng vài giây.

Ngoài ra, các công ty còn thực hiện nghiệp vụ arbitrage lãi suất - giao dịch
mua và bán các loại chứng khoán mang lại thu nhập bằng lãi suất được định giá
bằng các đồng tiền khác nhau. Các chứng khoán đó có thể là hối phiếu kho bạc của
chính phủ, trái phiếu của công ty và chính phủ, và thậm chí cả các khoản tiền gửi
ngân hàng. Chẳng hạn nếu một nhà kinh doanh nhận thấy mức lãi suất đối với tiền
gửi ngân hàng ở Singapo cao hơn so với ở Pháp thì người đó sẽ đổi phrăng Pháp
thành đô la Singapo và gửi vào tài khoản ngân hàng ở Singapo với thời hạn nhất
định, chẳng hạn 1 năm. Khi đến hạn, nhà kinh doanh sẽ rút tiền ra và chuyển thành
phrăng Pháp để hưởng mức chênh lệch lãi suất. Tuy nhiên, nếu đồng đô la Singapo
giảm giá so với phrăng Pháp thì lợi nhuận của nhà kinh doanh có thể giảm xuống
hoặc biến mất, hoặc thậm chí người đó có thể bị lỗ.

• Đầu cơ tiền tệ. Đầu cơ tiền tệ là việc mua hoặc bán các đồng tiền với dự tính

rằng giá trị của chúng sẽ thay đổi và đem lại lợi nhuận. Sự biến động về giá trị của
một đồng tiền có thể xảy ra tức thời hoặc trong một khoảng thời gian dài. Người
kinh doanh ngoại hối có thể đặt cược rằng giá của một đồng tiền nào đó sẽ tăng lên

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 55


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

hay giảm xuống trong tương lai, từ đó sẽ quyết là mua hay bán đồng tiền đó.
Chẳng hạn, nếu một người kinh doanh ngoại hối ở Luân Đôn tin rằng giá yên sẽ
tăng trong vòng 3 tháng tới, thì người đó có thể mua yên theo tỷ giá hiện tại để rồi
bán đi sau 3 tháng. Nếu giá yên tăng lên trong quãng thời gian đó thì giao dịch trên
mang lại lợi nhuận. Ngược lại, nếu giá yên giảm thì người kinh doanh ngoại hối sẽ
bị lỗ. So với giao dịch arbitrage thì đầu cơ tiền tệ mang tính rủi ro hơn nhiều do giá
trị của các đồng tiền thường xuyên biến động dưới tác động của nhiều yếu tố.

Đặc điểm của thị trường ngoại hối

Thị trường ngoại hối về thực chất là một mạng lưới điện tử nối liền các trung
tâm tài chính chủ chốt của thế giới với nhau. Về phần mình, mỗi trung tâm này lại
là một mạng lưới gồm các nhà kinh doanh ngoại tệ, các ngân hàng và các công ty
đầu tư. Thị trường ngoại hối tăng trưởng nhanh chóng và chủ yếu tập trung vào
một số trung tâm buôn bán và một vài đồng tiền chủ yếu.

Quy mô của thị trường ngoại hối

Trung bình trong một ngày, tổng khối lượng mua bán trên thị trường ngoại
hối (bao gồm các giao dịch hoán đổi, hợp đồng giao ngay và có kỳ hạn) đạt tới 1,2
nghìn tỷ USD (tương đương với tổng sản phẩm quốc gia của Italia trong một năm).
So với các giao dịch giao ngay thì các giao dịch kỳ hạn có tốc độ tăng nhanh gấp
hai lần và ngày càng chiếm ưu thế so với các giao dịch giao ngay.

Thương mại thế giới được coi là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của thị trường
ngoại hối, nhưng tốc độ tăng trưởng của nó vẫn chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng
trưởng của thị trường ngoại hối. Vì vậy, ngoài thương mại thế giới còn có những
yếu tố khác thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường ngoại hối. Trong số đó phải kể

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 56


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

đến hai yếu tố là tiến bộ công nghệ và phi điều tiết hoá thị trường tài chính. Những
hệ thống liên lạc điện tử hiện đại giúp cho việc chuyển đổi các đồng tiền trở nên
nhanh chóng hơn, dễ dàng hơn và với chi phí thấp hơn trên phạm vi toàn thế giới.
Ngoài ra việc giảm bớt các thủ tục hành chính quan liêu và các quy định điều tiết
hoạt động ngân hàng cũng tạo thuận lợi cho việc chuyển đổi tiền tệ trên phạm vi
quốc tế.

Các trung tâm giao dịch

Hiện nay, các trung tâm giao dịch mua bán tiền tệ quan trọng nhất trên thế
giới là Luân Đôn, New York và Tokyo. Vào tháng 4 năm 1995, quy mô giao dịch
trong một ngày trên thị trường ngoại hối Luân Đôn là hơn 450 tỷ USD, ở New
York là 240 tỷ, và ở Tokyo là 150 tỷ USD.

Luân Đôn chiếm ưu thế trên thị trường ngoại hối là do những yếu tố lịch sử
và địa lý. Vương quốc Anh đã một thời là nước buôn bán lớn nhất thế giới, và
Luân Đôn trở thành trung tâm buôn bán tài chính của thế giới. Do điều kiện thuận
lợi về mặt địa lý (nằm giữa Bắc Mỹ và Châu á) nên Luân Đôn rất nhanh chóng
chiếm vị thế thống trị trên thị trường ngoại hối, và cho đến nay vẫn duy trì được vị
thế đó. Hơn nữa, do có sự khác nhau về múi giờ nên thị trường Luân Đôn mở cửa
giao dịch vào lúc các thị trường ở Châu á đóng cửa. Sau khi thị trường New York
mở cửa vào buổi sáng thì thị trường Luân Đôn vẫn còn tiếp tục hoạt động thêm vài
giờ nữa.

Các đồng tiền quan trọng

Mặc dù Anh là địa điểm chính đối với hoạt động mua bán ngoại hối, nhưng
đồng đô la Mỹ mới là đồng tiền thống trị trên thị trường ngoại hối. Do được sử

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 57


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

dụng hết sức rộng rãi trong thương mại thế giới nên đồng đô la Mỹ được coi là
đồng tiền trung chuyển (vehicle curency) - đồng tiền sử dụng như một công cụ
trung gian để chuyển đổi giữa hai đồng tiền khác. Các đồng tiền được sử dụng
nhiều nhất trong các giao dịch ngoại tệ theo thứ tự là USD, DEM, JPY, GBP và
FRF.

Đồng đô la Mỹ trở thành đồng tiền trung chuyển vì hai lý do. Thứ nhất, vì
Mỹ là nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới nên nhiều ngân hàng và công
ty quốc tế chọn nắm giữ tiền gửi bằng đôla để có thể dễ dàng chuyển đổi sang các
đồng tiền khác. Thứ hai, kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các đồng
tiền khác trên thế giới đều được gắn một cách gián tiếp với đồng đôla bởi vì đây là
đồng tiền ổn định nhất.

Cấu trúc của thị trường ngoại hối

Có 3 bộ phận cấu thành nên thị trường ngoại hối là thị trường liên ngân
hàng, sở giao dịch ngoại hối và thị trường giao dịch phi tập trung.

Thị trường liên ngân hàng: là thị trường trong đó các ngân hàng lớn trên thế
giới trao đổi các đồng tiền theo tỷ giá giao ngay và tỷ giá có kỳ hạn. Thị trường
liên ngân hàng là trung tâm của thị trường ngoại hối. Phần lớn các giao dịch mua
bán tiền tệ được thực hiện trên thị trường này. Thị trường liên ngân hàng là một thị
trường bán buôn với sự tham gia của các ngân hàng chủ chốt. Thị trường liên ngân
hàng không có địa điểm cụ thể mà là một mạng lưới thông tin liên lạc liên ngân
hàng nối mạng điện tử với nhau và liên kết ngân hàng với những người môi giới
ngoại hối (foreign exchange broker).

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 58


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

Các công ty được cung cấp dịch vụ ngoại hối từ những ngân hàng có quan
hệ kinh doanh với mình. Mỗi ngân hàng đáp ứng yêu cầu từ phía khách hàng của
mình thông qua việc mua bán ngoại tệ với các ngân hàng khác tham gia trên thị
trường liên ngân hàng. Đối với những đồng tiền được trao đổi phổ biến thì những
ngân hàng lớn thường có đủ lượng dự trữ trong tay để thực hiện giao dịch. Tuy
nhiên, đối với đồng tiền ít được trao đổi thì các ngân hàng thường phải mua từ
những ngân hàng khác thông qua những người môi giới ngoại hối.

Như vậy, trên thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng hoạt động như là đại
lý cho khách hàng của mình. Ngoài việc chuyển đổi tiền tệ, các ngân hàng còn thực
hiện tư vấn cho khách hàng về chiến lược giao dịch, cung cấp nhiều loại công cụ
tiền tệ khác nhau và các dịch vụ quản trị rủi ro khác. Các ngân hàng còn giúp
khách hàng kiểm soát rủi ro tỷ giá hối đoái bằng cách cung cấp thông tin về những
quy định điều tiết ngoại hối trên khắp thế giới.

Các ngân hàng lớn trên thị trường liên ngân hàng có quyền lực lớn trên thị
trường và chúng thường sử dụng ảnh hưởng của mình để có được tỷ giá trao đổi có
lợi hơn so với các ngân hàng nhỏ khác. Điều này đươcng nhiên cũng có lợi cho các
khách hàng vì khi đó các ngân hàng có thể áp dụng mức phí gaio dịch thấp hơn đối
với họ. Tuy nhiên, các công ty nhỏ ít khi được hưởng mức tỷ giá có lợi từ phía
ngân hàng do thường tiến hành các giao dịch với quy mô nhỏ.

Yếu tố quan trọng nhất trên thị trường liên ngân hàng là cơ chế thanh toán
bù trừ (clearing mechanism). Các ngân hàng liên tục tiến hành giao dịch ngoại hối
với các ngân hàng khác, cũng như với các nhà môi giới ngoại tệ. Việc tất toán
không được thực hiện ngay sau mỗi một giao dịch đối với từng đồng tiền, mà
thường diễn ra sau khi nhiều giao dịch đã được thực hiện. Quá trình tổng hợp tất cả

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 59


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

các khoản tiền mà một ngân hàng nợ những ngân hàng khác và sau đó thực hiện
giao dịch được gọi là thanh toán bù trừ. Trước đây thanh toán bù trừ thường được
tiến hành mỗi ngày một lần hay hai ngày một lần và gắn liền với việc vận chuyển
tiền trên thực tế từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Hiện nay thanh toán bù trừ
được tiến hành thường xuyên hơn thông qua hệ thống thanh toán bù trừ đã được
máy tính hoá.

Sở giao dịch: là nơi chuyên tiến hành các giao dịch ngoại hối giao sau
(curency futures) và quyền chọn ngoại hối (curency option). Việc mua bán tiền tệ
trên các sở giao dịch này phải thông qua các nhà môi giới chứng khoán, những
người tạo điều kiện cho các giao dịch vận hành tốt hơn bằng cách chuyển và thực
hiện các đặt hàng của khách hàng. Các giao dịch trên sở giao dịch ngoại hối
thường có quy mô nhỏ hơn rất nhiều so với các giao dịch trên thị trường liên ngân
hàng và quy mô đó cũng khác nhau tuỳ theo loại tiền tệ. Chicago Mercantile
Exchange (CME) là một sở giao dịch quan trọng - vè thực chất đây là một công ty
phi lợi nhuận với 2725 thành viên, hầu hết là các ngân hàng, công ty đầu tư, các
nhà môi giới và những nhà kinh doanh ngoại hối độc lập. CME là nơi thực hiện
nhiều loại hợp đồng tài chính giao sau, trong đó có các hợp đồng giao sau đối với
hầu hết các đồng tiền chủ yếu. Đây là sở giao dịch chứng ngoại hối giao sau lớn
thứ hai trên thế giới, sau Chicago Board of Trade (CBT).

Sở giao dịch lớn thứ ba trên thế giới là LIFFE (Luân Đôn International
Financial Futures Exchange). Vào tháng 9 năm1996, sở giao dịch này hợp nhất với
Sở giao dịch hàng hóa Luân Đôn (London Commodities Exchange - LCE). Tại
LIFFE, các hợp đồng giao sau và các quyền chọn được thực hiện đối với bảy đồng
tiền chủ chốt. Nhờ có việc hợp nhất nói trên mà hiện nay các hợp đồng giao sau

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 60


Trung tâm Đào tạo E- Learning Cơ hội học tập cho mọi người

của LIFFE có thể đwocj mua bán trên CBT. Việc mua bán quyền chọn của Mỹ chỉ
được tiến hành ở sở giao dịch Philadelphia (PSE) - sở giao dịch quyền chọn hàng
đầu thế giới. PSE hoạt động trên cả các quyền chọn tiêu chuẩn hoá cũng như các
quyền chọn tuỳ biến, cho phép có một sự linh hoạt đối với các nhà đầu tư trong
việc thảo ra các hợp đồng quyền chọn tiền tệ.

Thị trường phi tập trung (OTC): là thị trường nơi các bên tham gia mua
bán thẳng với nhau thông qua mạng máy tính toàn cầu. Tất cả các giao dịch ngoại
hối đều có thể diễn ra trên thị trường OTC. Những chủ thể chính tham gia vào thị
trường này là các tổ chức tài chính lớn và các ngân hàng đầu tư.

Thị trường phi tập trung tăng trưởng nhanh chóng trong những năm gần đây
do mang lại nhiều lợi ích cho hoạt động kinh doanh. Trước hết nó cho phép các
doanh nghiệp có thể tự do tìm kiếm tổ chức nào chào giá tốt nhất (thấp nhất) khi
tiến hành giao dịch. Thứ hai, nó tạo cơ hội thực hiện các giao dịch có tính linh hoạt
theo yêu cầu của khách hàng

Quản trị kinh doanh quốc tế - Bài 3 Trang 61

You might also like