You are on page 1of 4

ĐỀN QUÁN THÁNH

Nằm ở Hồ Tây trong một khuôn viên xinh đẹp rộng lớn, đền Quán Thánh là một trong bốn "Thăng Long
Tứ Trấn" của Thăng Long xưa. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Hà Nội. Nó là một di tích lịch
sử và văn hóa được xây dựng vào thế kỷ thứ 11 để thờ thánh Trấn Vũ - vị thần bảo vệ miền Bắc. Trải
qua các triều đại, đền Quán Thánh đã được trùng tu nhiều lần, nhưng về cơ bản thì không thay đổi nhiều,
và được coi là một quần thể kiến trúc đẹp ngày hôm nay. Đền Quán Thánh là một trong những điểm
tham quan nổi tiếng nhất Hà Nội và chỉ có thể du lịch Hà Nội đến đây du khách mới thấy hết vẻ đẹp về
kiến trúc và lịch sử vẻ vang của nó.

Đền Quán Thánh thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền
thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa (Thăng Long tứ trấn). Bốn ngôi
đền đó là: Đền Bạch Mã (trấn giữ phía Đông kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía Tây
kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía Nam kinh thành); Đền Quán Thánh (trấn giữ phía
Bắc kinh thành). Đền Quán Thánh nằm bên cạnh Hồ Tây, cùng với chùa Kim Liên và chùa
Trấn Quốc tạo nên sự hài hoà trong kiến trúc cảnh quan và trong văn hoá tín ngưỡng đối
với cả khu vực phía Tây Bắc của Hà Nội.

Đền được xây dựng vào đầu thời nhà Lý. Từng trải qua nhiều đợt trùng tu vào các
năm 1618, 1677, 1768, 1836, 1843, 1893, 1941 (các lần trùng tu này được ghi lại trên văn
bia). Đợt trùng tu năm Đinh Tỵ niên hiệu Vĩnh Trị thứ 2 tức đời vua Lê Hy Tông: Trịnh Tạc
ủy cho con là Trịnh Căn chủ trì việc xuất của kho để di tạo Trấn Vũ Quán và pho tượng
Thánh Trấn Vũ. Vị quan trực tiếp chỉ huy đúc tượng Thánh Huyền thiên Trấn Vũ là Vũ
Công Chấn. Ông cho đúc tượng Huyền thiên Trấn Vũ bằng đồng hun, thay cho pho tượng
bằng gỗ trước đó. Năm Cảnh Thịnh 2 (1794) đời vua Quang Toản, viên Đô đốc Tây Sơn là
Lê Văn Ngữ cho đúc chiếc khánh đồng lớn.

Năm 1823, vua Minh Mạng lên ngôi đổi tên đền thành chân Vũ Quán. Đến triều đại của vua
Thiệu Trị năm 1842, nó được đổi tên thành đền Quán Thánh như hiện nay.

Theo truyền thuyết, Trấn Vũ vốn là một vị thần trong hệ thần Đạo giáo Trung Quốc,
sau khi du nhập vào nước ta, hình tượng Trấn Vũ đã được Việt hóa và trở thành vị thần
trấn giữ phương Bắc (trong Thăng Long Tứ trấn), đồng thời được chuyển hóa thành vị
thần chống lụt và trị thủy, thậm chí, Trấn Vũ còn được phong thành Phật... Do vậy, hình
thức tạo tượng Trấn Vũ ở nước ta cũng ít nhiều mang tính hỗn dung để thích nghi với tâm
thức tín ngưỡng dân gian của người Việt. Theo đó, về cơ bản, tượng đã được đúc theo
“Thánh tích” - “mặc áo bào đen, trong hình hài Đạo sĩ” và trở thành một tác phẩm nghệ
thuật có giá trị độc đáo, như một trường hợp “cá biệt” trong dòng chảy nghệ thuật tạo
tượng Việt giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII.
 Cấu trúc

Ngôi chính điện (bái đường) nơi đặt tượng Trấn Vũ có 4 lớp mái (4 hàng hiên).
Chính giữa là bức hoành phi đề "Trấn Vũ Quán". Hai tường hồi có khắc các bài thơ ca ngợi
ngôi đền và pho tượng Trấn Vũ của các tác giả thời nhà Nguyễn như Nguyễn Thượng
Hiền, Vũ Phạm Hàm... Nhà Tiền tế có khám thờ và án thư cùng tượng thờ vị quan đúc
tượng Trấn Vũ là Luân Quận Công Vũ Công Chấn.

Pho tượng Huyền Thiên Trấn Vũ được đúc bằng đồng đen vào khoảng gần cuối thế
kỷ XVII. Văn khắc tại mặt sau bệ tượng Trấn Vũ, thời Thành Thái thứ 5 (1893),  cho
biết: Tượng (đồng) Chân Vũ Đại đế được đúc vào thời Lê, niên hiệu Chí Hòa (Niên hiệu
này khắc nhầm Chính Hòa thành Chí Hòa, vì lịch sử Việt Nam không có niên hiệu Chí
Hòa).Tượng cao 3,47m, chu vi 8m, nặng ước khoảng 4 tấn, tọa trên tảng đá cẩm
thạch cao 1,2m. Tượng Trấn Vũ đền Quán Thánh được cấu thành từ ba khối riêng biệt:
tượng (đúc bằng đồng); bệ trên (chất liệu đá); bệ dưới (xây gạch, ốp đá).
Phần tượng:
Tượng có đầu tròn, đội mũ ni, tai to, khuôn mặt đầy đặn với đôi mắt mở to, mũi
cân phân, miệng ngậm, râu dài… toát lên thần thái của một Đạo sĩ. Trên mình tượng
khoác áo choàng, trong mặc áo giáp, lưng thắt đai hổ phù, xung quanh điểm xuyết hoa
văn hình lá đề, có các hạt tròn bao quanh. Áo choàng gấp nhiều nếp, vạt sau phủ xuống
dưới hông, ống áo thụng, buông xuống khá chùng. Áo giáp với hai vạt trên ngực trang trí
đồ án hoa sen; rồng năm móng ẩn trong những cụm mây, miệng râu cá trê, thân mảnh,
trông khá giữ tợn. Ngoài mảng hoa văn trung tâm này, còn có hoa văn ô vuông khắc nổi,
bên trên điểm xuyết hoa thị 8 cánh. Phía dưới áo giáp và hai đầu gối trang trí hoa văn “tổ
ong”, với bố cục dày và chặt chẽ. Tay trái tượng trong tư thế “bắt ấn”, co ngang rồi khép
trước ngực, tay phải tỳ trên đốc kiếm, mũi kiếm cắm xuống lưng một con rùa. Quấn quanh
kiếm là một con rắn trong tư thế đang lao từ trên xuống. Hai chân tượng để trần, buông
thõng xuống, đặt trên mặt bệ bát giác.

Xét về tổng thể, tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thánh tuy có khá nhiều nét tương đồng
với tượng Trấn Vũ ở đền Cự Linh (quận Long Biên, thành phố Hà Nội) nhưng lại có phong
thái “uy nghi”, “hùng dũng”, có tính áp chế, rất ít gặp trong phong cách tạo tượng của
người Việt vào khoảng thế ký XVII - XVIII.

Phần bệ trên:
Là một khối đá, được tạc khá thô phác, mang hình dáng của một khối đá tự nhiên,
chiều cao 84 cm, mài nhẵn trên mặt, toàn bộ ở trên một bệ lớn hơn có hình khối bát giác.

Phần bệ dưới:
Bệ cao 124cm, là một khối hình bát giác, với 4 cạnh dài, kích thước dao động từ
222 - 224cm và 4 cạnh ngắn, kích thước giao động từ 70 - 71cm. Văn khắc chữ Hán trên
bệ ghi: “Nước Đại Nam, ngày 20 tháng 9 năm Thành Thái thứ 5”. Bài văn khắc này do Phụ
chính Đại thần, hàm Thái tử Thiếu bảo, Vũ Hiển điện Đại học sĩ, chức Khâm sai Bắc Kỳ
Kinh lược Đại sứ, tước Diên Mậu tử, hiệu Thái Xuyên - Hoàng Cao Khải kính soạn. Minh
văn trên cho biết, bệ này được xây thêm qua đợt trùng tu năm 1893.

 Trang trí trên bệ chủ yếu là hoa văn cánh sen, sư tử hý cầu, voi, chim, pháp khí,
đồ thờ tự, vân hóa…, mang phong cách điển hình nghệ thuật giai đoạn cuối thế kỷ XIX.

Nguồn gốc, xuất xứ của tục thờ này có nhiều kiến giải khác nhau, nhưng cốt lõi là
sự phản ánh tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, được cụ thể hóa là sùng bái sao (các vị tinh
tú), sau được bồi đắp bởi tín ngưỡng sùng bái linh vật (rùa kết hợp với rắn), cuối cùng
được lịch sử hóa, nhân cách hóa trở thành một vị thần có hình hài của một con người cụ
thể, có lai lịch rõ ràng, nhưng mang đậm yếu tố huyền ảo và thần bí dân gian.

Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, Trấn Vũ là vị thần chống lụt, trị thủy có liên
quan tới tín ngưỡng nông nghiệp trồng lúa nước.

Ở đền Quán Thánh, một trong Tứ trấn của Thăng Long - Hà Nội xưa thì Trấn Vũ là
vị thần trấn giữ phương Bắc - mối hiểm họa thường xuyên của dân tộc trong suốt dặm dài
lịch sử.

Hiện nay, ngoài tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thánh, tượng Trấn Vũ đền Cự Linh (đã
được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật Quốc gia năm 2015) là những cổ vật
được đúc bằng đồng với kích thước lớn của người Việt còn lại không nhiều. Điểm qua, có
thể kể tới pho tượng A Di Đà ở đảo Cát Hải (Hải Phòng), có kích thước tương đương với
một người trưởng thành, mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVII; một số khẩu súng
thần công được đúc vào cuối thời Lê Trung hưng và thời Nguyễn; bộ Cửu đỉnh (đúc thời
Minh Mạng), hiện đang được đặt trong sân Thế Miếu (Đại nội Huế); tượng Phật chùa Ngũ
Xã (Hà Nội) - được đúc vào khoảng giữa thế kỷ XX. Trong mối tương quan giữa tượng
Trấn Vũ đền Quán Thánh và số cổ vật này, nhận thấy như sau:
- Tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thánh mang nhiều nét khác biệt so với tượng Trấn Vũ
đền Cự Linh và những tượng thờ của người Việt được tạo tác cùng thời (thế kỷ XVII -
XVIII). Có lẽ, vì Trấn Vũ là vị thần có xuất xứ từ phương Bắc, nên các nghệ nhân đúc đồng
xưa đã cố ý tạo tác sao cho tượng gần gũi với phong cách nghệ thuật phương Bắc nhất.

 Công trạng của Trấn Vũ tại Việt Nam


Theo truyền thuyết Việt Nam, Trấn Vũ là vị thần ở núi Sái (nay thuộc làng Thụy Lôi,
huyện Đông Anh) có công giúp An Dương Vương trừ tà ma quấy rối việc xây thành Cổ
Loa. Ông từng du ngoạn Hồ Tây và trừ hồ tinh 9 đuôi lẩn quất ở núi đá bên cạnh Hồ Tây.
Truyền thuyết xưa cũng kể rằng: Huyền Thiên Trấn Vũ là thần cai quản phương Bắc giúp
dân trừ tà ma, yêu quái; trừ rùa thành tinh (đời Hùng Vương 14); trừ cáo chín đuôi ở Tây
Hồ; diệt hồ ly tinh trên sông Hồng đời Vua Lý Thánh Tông...

Cũng theo tài liệu của Ban Quản lý đền, còn một truyền thuyết nữa liên quan đến Huyền
Thiên Trấn Vũ. Theo tài liệu này, vào đời Hùng Vương, tại rừng Thiết Lâm, làng Long
Đỗ có hồ tinh 9 đuôi làm hại dân. Ngọc Hoàng sai thần Huyền Thiên hạ giáng, dùng phép
thuật giết hồ tinh rồi cả khu Thiết Lâm sụp xuống thành hồ (tức là Hồ Tây ngày nay). Vì
thế, Vua Lý Thái Tổ sau khi xây thành Thăng Long cho lập đền thờ Huyền Thiên ở phía
tây bắc thành để trấn yêu quái.

Ngoài ra, câu chuyện tương truyền về việc Vua An Dương Vương xây thành cứ ngày
đắp, đêm lại bị đổ vì yêu ma Bạch Kê Tinh (Tinh Gà Trắng) phá hoại đã không còn xa lạ
với mỗi người Việt chúng ta. Trong câu chuyện này, sử sách chép rằng: “Ngày Tinh Gà
Trắng trú ẩn ở núi Thất Diệu, đêm lại xuất hiện. Vua không có cách nào trừ khử bèn lập
đàn cầu khẩn, được Huyền Thiên Trấn Vũ sai thần Kim Quy (tức sứ Thanh Giang) hiện
ra mách bảo kế giết Bạch Kê Tinh nên thành ốc mới xây xong”. Tưởng nhớ công đức của
Huyền Thiên, Vua đã cho xây đền trên đỉnh núi Thất Diệu để thờ. Đây cũng là nơi Huyền
Thiên đã tu luyện và cũng được gọi là Vũ Đương Sơn.

Lý Thái Tổ sau khi dời đô ra Thăng Long đã đến núi Sái cầu Huyền Thiên và sinh được
hoàng tử. Thấy công đức của Huyền Thiên rất to lớn, Nhà Vua đã cho xây đền Trấn Vũ
(tức đền Quán Thánh) ở phía bắc kinh thành, xin rước hiệu duệ Huyền Thiên về ở đó để
thờ. Đền Quán Thánh được coi như trấn Bắc Thăng Long từ đó.

You might also like