Professional Documents
Culture Documents
Kiến trúc
1.1. Kiến trúc thành Thăng Long
Thăng Long được chia làm 2 khu vực riêng biệt: Hoàng thành (là nơi vua ở và triều đình làm việc) và
Kinh thành (bao bọc Hoàng thành, là nơi quân đội và nhân dân ở); phía giữa Hoàng thành còn có Cấm
thành (là nơi vua, hoàng hậu, cung tần mỹ nữ ở…) Trải qua suốt hai thế kỷ tồn tại của triều Lý, kinh đô
Thăng Long được mở mang, càng ngày càng rộng. Các cung điện, lầu gác, đình tạ, chùa tháp, kho
trạm, cầu cống, chợ búa, … được dựng lên và tu bổ liên tục. Hầu như không năm nào là không có
chuyện tu tạo. Các công trình này, phần lớn là những cơ sở vật chất nhằm phục vụ cho mọi sinh hoạt
của bộ máy Nhà nước phong kiến. Khu kinh thành rộng lớn hơn Hoàng thành nên được xây dựng rất
nhiều. ở đây, ngoài các khu nhà cửa của nhân dân, còn là khu tập trung những dinh thự của các tầng
lớp quan lại, những lầu gác của kẻ giàu có và cả doanh trại của quân đội.
Bao quanh Kinh thành là thành Đại La cao rộng, bằng đất, có nhiều cửa thông ra ngoài và đặc biệt,
phía đông được xây dựng bằng gạch để có điều kiện chống chọi với nước sông Hồng trong những
ngày lũ lụt. Ngoài Thăng Long ra, những kiến trúc chủ yếu như dinh thự, điện đường thuộc thái ấp của
các công hầu, khanh tướng cũng được xây dựng ở một số địa phương
b. Chùa
- Nhà Lý chia các chùa trong nước làm ba loại là Đại – Trung và
Tiểu danh lam, dựa trên cơ sở số ruộng và số người giúp việc nhàchùa, song dưới
góc độ nghệ thuật có thể chia làm bốn loại:
- Chùa dựng trên một cột: Sử cũ cho hay Thăng Long có " Lầu chuông một cột, sáu
cạnh, hình hoa sen " trong điện Linh Quang, chùa Linh Xứng (Thanh Hoá) có toà
sen trối lên mặt nước, trong có tượng Ngũ Trí Như Lai sắc vàng rực rỡ". Đặc biệt
chùa Một Cột tức Diên Hựu tự được bia và sử cũ miêu tả: chùa được dựng giữa hai lần hồ, có hành
lang bao quanh và cầu cong đi vào, riêng cây cột đã cao tới mười
trượng chạm đủ ngàn cách sen. Đỉnh cột dựng ngôi chùa mang hình bông sen là " y
theo mưu mới, lại đưa vào dấu tích xưa". Dấu tích xưa là là kiểu nhà mái tròn khắc
trên trống đồng Đông Sơn, là cây hương dựng trên đầu trụ, là cái chòi trên cành
cây ... Trên cơ sở đó đã sáng tạo theo mưu mới là giấc mơ cảu vua Lý Thái Tông
được Quan Âm dắt lên đài sen. Truyền rằng riêng cây cột đá đã cao hơn 20m, vậy
ngôi chùa trên đó phải lớn và toàn cảnh rất rộng.
Chùa một cột
- Chùa kiêm hành cung: loại chùa này gắn với hoàng gia, thường được nhà vua ghé
thăm, để lên chùa, tổ chức cùng quân thần đối cảnh làm thơ. Được xây ở nơi thắng
cảnh, gần với núi sông ngoạn mục, chiếm cả vạt núi, đồng thời cũng hay có tháp
phật để trải rộng lại vươn cao.Hình điêu khắc ở những chùa này phổ biến là rồng
để vừa gợi nguồn nước vừa tượng trưng cho vua. Tiêu biểu là các chùa Phật Tích,
Tường long, Long Đọi, Chương Sơn.
- Chùa làng: dựng ở cùng quê hẻo xóm núi ít người qua lại ( như chùa Chèo ở Bắc
Giang, chùa Kim Hoàng ở Hà Tây), quy mô nhỏ, dấu vết còn lại hiếm hoi, không
được thư tịch đề cập. Có thể lúc đầu đây chỉ là thảo am hay mái đá. Đôi khi có sự
tham gia cảu quy tộc nhưng ở miền núi khuất nẻo.
2. Điêu khắc
Bia chùa Phân Tích cho biết tại đây năm 1057 vua Lý Thánh Tông dựng cây tháp
cao ngàn trượng trong tháp có pho tượng bằng đá thếp vàng cao 6 thước, trước
thềm bày mười con thú cũng bằng đá. Một số chùa thời Lý cũng có bia đề cập tới
tượng tròn và chạm khắc trang trí.
d. Tượng thú
Nếu ở bệ tượng Phật thường có tượng sư tử đội toà sen mà dân gian gọi là " ông
Sấm", thì ở thềm tầng bậc thứ 2 cảu chùa Phật Tích có 5 cặp tượng thú dàn thành
một hành ngang hai bên cửa đối nhau.
ông Sấm ở chùa Bà Tấm chỉ có phần đầu, hai con đội chung một toà sen, ở thế nằm
cao 1m, rộng 1m36, còn ở chùa Hương Lãng (Hưng Yên) chỉ có một con chạm cả
phần đuôi, dài 2m30 còn phần đầu như ở chùa Bà Tấm. Hình dáng là con sư tử phủ
phục đội toà sen, trán có chữ Vương là chúa rừng xanh. Ngoài những lông xù cuộn
xoáy, dọc chân và quanh mép còn có hang hoa văn dấu hỏi tựa nhau, quang miệng
có những bông hoa nhiều cánh, phần đuôi được trang trí rất kỹ, có lẽ do sư tử gầm
như tiếng sấm, lại cũng do ước vọng cần mưa nên địa phương gọi sư tử là " ông Sấm"
Còn 5 cặp tượng thú chùa Phật Tích, từ giữa toả ra là sư tử – voi – trâu – tê giác –
ngựa, tất cả đều to bằng trâu ngựa thực và đều nằm trên toà sen, là những con vật
thiêng cảu thế giới nhà Phật.
Tượng và bệ liền khối đá. Trang trí phần bệ đáng chú ý hơn cả là con vật thần thoại
gần giống như người nhưng đươi lại uốn lượn như mình rồng, chạm tinh tế, thống
nhất phong cách nghệ thuật Lý. Song phần tượng, cả 5 loại thú đề là những con vật
thực, từ con vật rất thân thuộc ( trâu) đến những con vật hầu như không có ở Việt
Nam ( sư tử) nhưng đều được chạm rất thực, khối hình to mập, dáng khoẻ chắc,
cso phần xa với phong cách Lý mà đến thời Trần mới phát triển
b. Nhạc công và vũ nữ
Chùa Phật Tích có một số chân tảng đá kê cột cảu thời Lý được dừng lại, mặt trên
chạm thành bông sen nở xoè nhiều cánh, còn bốn mắt bên là bốn dàn nhạc giống
nhau.
Mỗi mặt chân cột là một băng ngang dài 73cm cao 13cm, người xưa tạo ra một
khung hình cách mép gần 1cm, trong đó viền hai bên và phái trên là dải dấu móc
tựa lưng nhau như cách hoa, còn viền phía dưới là dải song hai loại chồng chất như
ở bệ tượng Phật, giành ra khoang giữa dài 70cm cao 9,5cm để chạm dàn nhạc :
chính giữa là một vòng sáng lá đề bên trong có vài bông hoa như hoa cúc, tất cả
được đặt trên một bông sen, hẳn là hình tượng trưng cho đức Phật. Hai bên có
mười nhạc công chia đôi, dàn thành hàng ngang múa tiến vào vòng sáng, động tác
múa thống nhất nhưng tay lại biểu diễn những nhạc cụ khác nhau, từng cặp từ hai
đầu vào giữa là trống cơm và trống da, đàn nguyệt và nhị, tiêu và sáo, đàn tranh và
đàn thập lục, cặp phách nở và chập. Từng người đều chân thấp chân cao, mình uốn
vặn ba khúc, từ búi tóc cao và cổ chân còn toát ra nhưng dải lụa bay lượn nhịp
nhàng, phục trang đẹp gọn làm nổi các đường lượn của thân thể tròn lẳn.
Bức chạm đông người mà không che khuất nhau, ai cũng ở chính diện với độ lớn
bằng nhau, ở đây như có cả tính dân chủ công đồng làng xã.
Đề tài vũ nữ còn được thể hiện ở tay vịn thành bậc cửa tháp Chương Sơn, cả 2 mặt
giống nhau : lớp trên chạm bảy vũ nữ, lớp dưới chạm băng hoa. Băng hoa mặt
trong chia ra các ô tam giác vuông cân để ứng với các đầu bậc thì để trơn, và do đó
bức chạm phải để dốc 450 hình người mới đứng. Băng hình vũ nữ cao 0m27 và dài
2m15, từng hình đều to, rõ và dáng chung như các nhạc công Phật Tích nhưng hai
tay đaư lên cao dâng hiến, tay trước cầm cả hoa và lá sen cuộn tròn.
c. Hình hoa lá
Trên nhiều mặt phẳng cảu kiến trúc và của bệ tượng người xưa thường chạm hoa lá
theo từng băng dài, phần lớp là cúc sen đan xen nhau. Dây hoa với nhữg lá nhỏ toả
về hai bên là chung cho cả hai thứ hoa, uốn lượn bao lấy từng bông hoa tròn. Hoa
được cách điệu nhưng có thể nhận ra sen và cúc, có khi chỉ là hoa cúc nhưng nhìn
góc độ khác nhau, đều lớn như nhau. Hai loại hoa này thường được gán cho hai
tính chất thanh cao ( sen) và ẩn sĩ ( cúc), song trong văn hoá tâm linh nó còn mang
ý nghĩa sâu sắc hơn. Nhà thơ Trần Nguyên Đán ở thời Trần đã nhận ra ở hoa cúc có
khí mạnh và tài năng cảu trời đất, nó coi thường cả uy của sương và sự lấn của uyết.
Cúc còn tượng trưng cho mặt trời để đôi rồng chầu vào, là biểu hiện của khí
dương. Còn sen ở nước,cả trong Phật thoại và triết lý dân gian đều xem là dấu hiệu
yếu tố âm, gợi hình mặt trăng. Hình chạm hai thứ hoa này đan xen nhau còn là sự
hoà hợp âm dương để tạo phúc cho cuộc sống cả xã hội, và do đó gắn với cuống
hoa thường có hình người bé tí trèo sống động
tượng lá đề
3. Hội họa
Trang thời Lý cách ngày nay rất xa, thường vẽ trên tường vách cảu công trình kiến
trúc, một số tranh độc lập có thể vẽ trên gỗ hoặc giấy, vải nên rất khó bảo quản và
bảo dưỡng. Tường đổ, nhà cháy, nấm mốc, nắng mưa .... do con người và thời tiết
gây ra đã cướp đi tất cả. Tuy nhiên, qua thư tịch có thể chút ít về tranh, và một
phần hình vẽ trên gốm có thể cho biết thêm yếu tố hội hoạ đương thời.
Thư tịch xưa cho hay các vua Lý " ở trên lầu bốn tầng .... Tất cả cung điện ở Thăng
Long đều sơn son, cột vẽ rồng, hạc và tiên nữ". Các chùa lại càng hay dùng tranh
vẽ để trang trí và giáo dục Phật tử. Chùa Phật Tích có " cung sơn điện vẽ san sát
trong núi" có " cung Quảng vẽ hoạ nhi hồng" có " góc cao vẽ sao ngưu và sao đẩu
sáng láng". Nếu những hình vẽ trên chủ yếu để trang trí, thì ở một số chùa khác lại
mang rõ ý nghĩa giáo dục, chẳng hạn bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn ( Thanh
Hoá) dựng khi khánh thành chùa cho biết: " Quang tường thuê vẽ dung nghi đẹp đẽ
của cực quả mười phương, cùng với mọi hình tướng biến hoá muôn hình vạn trạng
không sao kể xiết".
Với nho giáo, Nhà nước ngay khi xây Văn Miếu đã cho vẽ chân dung 72 người học
trò ngoan và giỏi của Khổng Tử để các sĩ tử noi theo. Chữ Hán với bố cục khối
vuông, được viết đẹp cũng là những bức trang chữ thuộc loại " thư hoạ". Thư tịch
cho biết vua Lý Nhân Tông " viết bút lông rất khéo, chữ như rồng múa phượng
lượn, phép theo tay nghọc của ngài như chim loan vòng, chim thước nhảy". Trong
thời gian ở ngôi, nhà vua đã nhiều lần đi thăm các chùa và viết chữ ban cho để
khắc vào bia.
Nhưng hình vẽ trên đều đã mất, nhưng trên gốm men ngọc của thời này còn giữ
được một số hình khắc chìm, tức vẽ bằng vật cứng khi xương gốm mới làm xong,
sau đó tô men và nung. Những hình vẽ này thường chỉ là hoa lá, đôi khi có cả
chuồn chuồn, ong, bướm và em bé nữa, chưa thành bức tranh, nhưng cho thấy các
yếu tố hội hoạ, nó bắt nguồn từ cuộc sống và được thể hiện một cách hiện thực.
Mặc dù nhà Lý quản lý đất nước sau khi thoát khỏi Bắc thuộc đã hơn 70 năm, sog hầu như không
được thừa hưởng thành quả mỹ thuật của các triều Ngô - Đinh –
Tiền Lê. Nhưng mỹ thuật Lý vừa xuất hiện đã đạt được vẻ đẹp cổ điển chuẩn mực,
nó là biểu hiện cảu ý thức muốn xây dựng một quốc gia đàng hoàng có nền văn
hoá riêng, nên trên cái nền xã hội thái bình thịnh trị, được Phật giáo gợi hứng đã
biết sáng tạo trên cơ sở sự hứng khởi của đất nước, khai thác yếu tố thích hợp từ
trong vốn cổ Đông Sơn và qua giao lưu lại tiếp nhận một phần thành quả của các
nền văn hoá láng giềng. Đó là hướng đi đúng, tạo phẩm chất nghệ thuật cao cho
mỹ thuật Lý