You are on page 1of 18

HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

TÁC PHẨM CHỊ EM THÚY KIỀU – NGUYỄN DU

ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ NGUYỄN DU

I) Giới thiệu tác giả Nguyễn Du

a) Khái quát chung

· Cuộc đời :Tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765),
mất năm Canh Thìn (1820).

· Quê hương: Quê cha ở Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; quê mẹ ở Bắc
Ninh, nhưng ông lại được sinh ra ở Thăng Long. Nhờ đó, Nguyễn Du dễ dàng tiếp
thu tinh hoa của nhiều nền văn hóa; Gia đình: Đại quý tộc, nhiều đời làm quan to,
có truyền thống làm thơ văn và say mê ca; sinh ra và lớn lên trong thời kì lịch sử
đầy biến động dữ dội của xã hội phong kiến.

· Cuộc đời: đầy bi kịch, Nguyễn Du sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải ở với anh trai
là Nguyễn Khản. Gia đình tan tác, bản thân ông cũng đã từng lưu lạc “mười năm
gió bụi” ở quê vợ Thái Bình. Nhưng chính những cơ cực, vất vả đó đã hun đúc cho
ông vốn sống quý giá, và sự am hiểu sâu sắc vốn văn hóa dân gian;Nguyễn Du làm
quan dưới hai triều Lê và Nguyễn. Ông là vị quan thanh liêm, được nhân dân tin
yêu, quý trọng. Sự nghiệp văn học đồ sộ với những kiệt tác ở nhiều thể loại:

· Các tác phẩm văn học của Nguyễn Du: Thơ chữ Hán, Nguyễn Du có 3 tập thơ
(Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục). Thơ chữ Nôm,
Nguyễn Du có hai kiệt tác “Truyện Kiều” và “Văn tế thập loại chúng sinh”.

· Nội dung: Thơ văn Nguyễn Du có giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh chân thực
cuộc đời cơ cực của ông nói riêng, và xã hội đen tối, bất công nói chung. Tác phẩm
của Nguyễn Du chứa chan tinh thần nhân đạo - một chủ nghĩa nhân đạo thống
thiết, luôn hướng tới đồng cảm, bênh vực, ngợi ca và đòi quyền sống cho con
người, đặc biệt là người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh.

· Nghệ thuật:

+) Về thể loại: Nguyễn Du đã đưa hai thể thơ của truyền thống dân tộc đạt đến
trình độ điêu luyện và mẫu mực cổ điển. Nguyễn Du đã tiểu thuyết hóa thể loại
truyện Nôm, với điểm nhìn trần thuật từ bên trong nhân vật, và nghệ thuật miêu tả
tâm lí tinh tế, sâu sắc.
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

+) Về ngôn ngữ: Nguyễn Du đã có đóng góp to lớn, làm cho ngôn ngữ Tiếng Việt
trở nên trong sáng, tinh tế và giàu có. Nguyễn Du đã có những đóng góp to lớn,
thúc đẩy tiến trình phát triển của văn học Việt Nam.

b) Giới thiệu về Truyện Kiều

· Tên gọi: Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới đứt ruột).

· Dung lượng: 3254 câu thơ lục bát. Nguồn gốc: “Truyện Kiều” được sáng tác dựa
theo cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” - tiểu thuyết chương hồi của Thanh Tâm
Tài Nhân (Trung Quốc). Nguyễn Du đã “hoán cốt đoạt thai” tác

phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, và đem lại cho “Truyện Kiều” những sáng tạo
mới mẻ cả về nội dung và nghệ thuật.

· Thể loại: truyện Nôm bác học.

· Tóm tắt:

Giá trị tư tưởng

+ Thể hiện khát vọng về tình yêu tự do và ước mơ công lí.

+ Là tiếng kêu thương đến đứt ruột cho thân phận con người, đặc biệt là người phụ
nữ tài sắc trong xã hội phong kiến.

+ Là bản cáo trạng đanh thép tội ác của các thế lực đen tối trong xã hội cũ. Nguyễn
Du phê phán mạnh mẽ sự “lên ngôi” của thế lực đồng tiền.

+ Là bức chân dung tinh thần tự họa của Nguyễn Du, với “con người mắt trông
thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”, trái tim chan chứa tình yêu
thương con người.

Giá trị nghệ thuật:

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật

+ Nghệ thuật tự sự mới mẻ; thể loại; Ngôn ngữ trong sáng, điêu luyện, giàu sức gợi
tả gợi cảm; ẩn dụ, điển cố,… Giọng điệu cảm thương rất phù hợp với chủ nghĩa
nhân đạo thống thiết của Nguyễn Du.

TÁC PHẨM CHỊ EM THÚY KIỀU


HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

I. Đôi nét về tác phẩm Chị em Thúy Kiều

1. Vị trí đoạn trích

Đoạn trích nằm ở phần mở đầu của phần 1: Gặp gỡ và đính ước

2. Bố cục

- Đoạn 1 (4 câu đầu): giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều

- Đoạn 2 (4 câu tiếp): gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân

- Đoạn 3 (12 câu tiếp): gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều

- Đoạn 4 (4 câu cuối): Nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em

3. Giá trị nội dung

Đoạn trích đã khắc họa rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị em Thúy Kiều, ca ngợi
vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thúy Kiều, đây là
biểu hiện cho cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du

4. Giá trị nghệ thuật

Nghệ thuật nổi bật của đoạn trích là nghệ thuật khắc họa nhân vật lí tưởng bằng bút
pháp ước lệ tượng trưng – lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp của con
người, không miêu tả chi tiết cụ thể mà tả để gợi, sử dụng biện pháp đòn bẩy làm
nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều

II. PHÂN TÍCH

A. Giới thiệu:
1. “Chị em Thúy Kiều” là đoạn trích ở phần mở đầu “Truyện Kiều”, giới thiệu gia
cảnh nhà Vương viên ngoại. Sau bốn câu thơ kể về gia đình họ Vương:
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.
Nguyễn Du dành hai mươi bôn câu thơ để nói về chị em Thúy Kiều, Thúy Vân.
Đoạn thơ gồm 3 phần:
+ Bốn câu đầu: giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều.
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

+ Bốn câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân.


+ Mười sáu câu còn lại: gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều.
Kết cấu như thế là chặt chẽ, thể hiện cách miêu tả nhân vật tinh tế của Nguyễn Du:
từ ấn tượng chung về vẻ đẹp của hai chị em, nhà thơ gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân
làm nền để cực tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.
B. Đọc - Hiểu văn bản:
Bốn câu đầu giới thiệu chung về hai chị em:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Cách giới thiệu thật giản dị, ngắn gọn mà đầy đủ. Hai người con gái đầu lòng của
gia đình họ Vương đều đẹp (hai ả tố nga), chị là Thúy Kiều, em là Thúy Vân. Câu
thơ “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” có hai hình ảnh ước lệ gợi tả vẻ đẹp của hai chị
em: cốt cách duyên dáng, thanh cao như mai và tinh thần trắng trong như tuyết. Cả
hai đều đẹp “mười phân vẹn mười”, nhưng “mỗi người một vẻ”, mỗi người có một
vẻ đẹp riêng.
Vẻ đẹp của Thúy Vân được gợi tả qua bốn câu thơ:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang.
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Câu thơ đầu giới thiệu ấn tượng chung về Thuý Vần, đó là sự “trang trọng khác
vời”, là vẻ đẹp cao sang, quý phái. Những câu thơ tiếp theo lần lượt miêu tả từng
nét đẹp cụ thể. Trong thiên nhiên có bao nhiêu cái đẹp, Nguyễn Du chọn những cái
đẹp nhất để so sánh với vẻ đẹp của Thúy Vân: trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết. Từ
những hình ảnh miêu tả theo bút pháp ước lệ mà cụ thể đến từng chi tiết, có thể
hình dung ra một Thúy Vân với gương mặt đầy đặn, hiền dịu như vầng trăng tròn,
lồng mày sắc nét, đậm như con ngài, mái tóc óng ả mượt hơn mây trời, làn da trắng
hơn tuyết, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong như ngọc... vẻ đẹp của
Thúy Vân là một vẻ đẹp cao sang mà phúc hậu. Bức chân dung ấy ngầm thông báo
về một tính cách hiền dịu, một số phận bình lặng, êm đềm.
3. Vẻ đẹp của Thuỷ Kiều hiện lên qua mười hai câu thơ:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.


Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật: “Kiều càng sắc sảo mặn mà'”, tức là
không chỉ đẹp một cách “sắc sảo mặn mà”, mà còn “sắc sảo” về trí tuệ và “mặn
mà” trong tình cảm. Câu thơ thứ hai làm phép so sánh giữa Thúy Kiều và Thúy
Vân: “So bề tài sắc lại là phần hơn”. Tuy “mỗi người một vè”, nhưng Thúy Kiều
đẹp hơn và có tài hơn Thúy Vân.
Ngòi bút Nguyễn Du tiếp tục sử dụng những hình tượng nghệ thuật ước lệ gợi tả
sắc đẹp tuyệt trần của Kiều, đẹp đến mức “hoa ghen”, “liễu hờn”, “nghiêng nước
nghiêng thành”. Tả Kiều, nhà thơ không liệt kê nhiều chi tiết như khi tả Vân, mà
chỉ tập trung vào đôi mắt: đôi mắt đẹp, trong sáng long lanh như làn nước mùa thu,
lông mày đẹp thanh thoát như nét núi mùa xuân. Phải là đôi mắt, bởi đó là nơi thể
hiện tinh anh của trí tuệ và tâm hồn.
Tả Vân, nhà thơ chỉ gợi tả nhan sắc. Tả Kiều, tác giả dành ba câu thơ để tả sắc đẹp,
lại dành đến sáu câu thơ để nói về tài năng của nàng. Quả là “Sắc đành đòi một tài
đành họa hai”. Kiều thông minh và có tài. Theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến,
một con người có tài năng phải giỏi “cầm, kì, thi, họa” (đánh đàn, chơi cờ, làm thơ,
vẽ tranh). Kiều đã đạt đến mức lí tưởng ấy. Đặc biệt, sở trường hơn người của nàng
là đánh đàn: “Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Nàng giỏi nhạc đến mức
soạn riêng cho mình khúc nhạc “bạc mệnh”. Tài năng âm nhạc bao giờ cũng gắn
với vẻ đẹp tâm hồn. Cung đàn “bạc mệnh” chính là sự thể hiện chân thực của một
trái tim đa sầu, đa cảm.
vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp cả sắc - tài - tình. Từ bức chân dung Thúy Kiều,
người đọc đã có thể dự cảm về một số phận không bình lặng. Nếu sắc đẹp của
Thúy Vân tạo sự hòa hợp, êm đềm với chung quanh {mây thua, tuyết nhường) thì
vẻ đẹp của Thúy Kiều lại khiến cho tạo hóa phải ghét ghen {hoa ghen, liễu hờn).
“Tạo hóa đố hồng nhan”, số’ phận Kiều sẽ gặp nhiều trái ngang, đau khổ.
Tổng kết:
Đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả đặc sắc của ngòi bút Nguyễn Du trong
“Truyện Kiều”, cho thấy đặc trưng của bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển: lấy vẻ
đẹp thiền nhiên để miêu tả vẻ đẹp con người. Đây cũng là một đoạn thơ giàu chất
nhân văn, thể hiện ở thái độ trân trọng, đề cao, ca ngợi vẻ đẹp của con người.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
“... Cũng như các thiếu nữ khác trong thi ca cổ điển, Thúy Kiều tượng trưng cho
nhan sắc nữ giới theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến. Quan niệm này dẫn đến
khuynh hướng lí tưởng hóa hình thức của nhân vật chính diện. Giống như Nhụy
Châu trong “Song tinh bất dạ”, Quỳnh Như trong “Sơ kính tân trang”, Bạch Hoa
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

trong “Lí công”, Thúy Kiều là một giai nhân với “làn thu thủy, nét xuân sơn”...
kiều diễm vô song. Khác với Trương Chi “người thì thậm xấu, hát thì thậm hay”,
khác với Sọ Dừa có một tiền thân quái dị, những nhân vật chính diện trong
“Truyện Kiều” - Thúy Kiều, Thúy Vân, Đạm Tiên, Kim Trọng... đều phải là “nam
thanh nữ tú” cả.
Là mẫu giai nhân lí tưởng, Thúy Kiều có dung mạo hoàn toàn giống với những bè
bạn khác của nàng như công chúa Nam Việt “môi son mắt phượng, má đào tốt
tươi” (“Hoàng Trừu”), như Ngọc Hoa “má đào mặt ngọc, tóc mây rườm rà”
(“Phạm Tải Ngọc Hoa”)... Tuy nhiên, trong “Truyện Kiều” cũng đã xuất hiện một
bức “chân dung thiếu nữ” có thể đã khiến cho bao thế hệ nhà nho bôi rối [...].
Người phụ nữ phong kiến lí tưởng phải là con người “công, dung, ngồn, hạnh”
toàn vẹn, và cũng chỉ cần có như vậy. Ý thức hệ phong kiến không khẳng định khả
năng lao động sáng tạo nói chung và khả năng trí tuệ nói riêng của người phụ nữ.
Chữ “tài”, chữ “trí” chỉ gắn liền với người quân tử, kẻ trượng phu. “Phụ nhân nan
hóa” (đàn bà khó cải hóa, khó giáo dục). Và từ nghìn năm qua, cửa Khổng sân
Trình - học đường phong kiến, đã đóng chặt cửa đối với nữ giới. Sự bồi dưỡng
“cầm, thi” trong một số gia đình quý tộc [...] chỉ là những hoa lá để trang trí cuộc
sống gia đình, để thực hiện tốt đẹp đạo “tam tòng” của người phụ nữ. Những
phương diện bồi dưỡng ấy không có gì khác biệt với mọi nữ công nữ xảo khác:
Thập tam năng chức tố,
Thập tứ thiện tài y.
(Mười ba tuổi biết dệt lụa,
Mười bốn tuổi tliạo cắt áo)
Nguyễn Du, ngược lại, đã thốt lên lời tiếc hận cho một tài năng sớm bị vùi dập khi
Thúy Kiều tự vẫn ở sông Tiền Đường:
Đành thân cát dập sóng vùi,
Tiếc công cha mẹ thiệt đời thông minh.
Khái quát về Thúy Kiều, Nguyễn Du thường hay viết “kiếp đoạn trường”, “phận
hồng nhan” và đồng thời cũng viết:
... Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
... Anh hoa phát tiết ra ngoài
... Tiếc công cha mẹ thiệt đời thông minh
“Đời thông minh”, “đời tài hoa” ! Biết bao trân trọng cảm thông và cũng biết bao
phát hiện mới mẻ trong một xã hội mà quan niệm “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô”, “Khôn ngoan cũng dễ đàn bà - Dầu rằng vụng dại cũng là đàn ông” hầu như
đã trở thành một chân lí bất khả xâm phạm ! Quan điểm phong kiến chính thông
chỉ có thể ngợi ca nhan sắc và đức hạnh chứ không thể khẳng định tài năng trí tuệ
của người phụ nữ. Điều đó xuất phát từ quan điểm áp bức và quan điểm hưởng thụ
của giai cấp phong kiến ! Ngược lại, trong các truyện nôm, nhiều nhân vật phụ nữ
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

đồng thời là những trí tuệ kiệt xuất [...]. Cùng dòng tư tưởng, Nguyễn Du đã thể
hiện nhận thức khẳng định tài hoa, trí tuệ có tính chất sáng tạo của người phụ nữ
thông qua hình tượng Thúy Kiều. Tài đàn có sức chinh phục tuyệt đối của nàng
dựa trên sự rung cảm có tính chất sáng tạo của người nghệ sĩ đứng trước mọi tình
huống của cảnh giới và tâm giới [...].
Trong một thời đại có cả một khuynh hướng đề cao khả năng người phụ nữ trong
văn học và ngoài cuộc đời, [...], hình tượng Thúy Kiều với tài hoa rực rỡ, trí tuệ
thông minh như vậy mang một ý nghĩa lãng mạn đẹp đẽ, đồng thời cũng là sự biểu
hiện một nhận thức đi ngược lại với quan điểm chính thống...”.

III. Dàn ý phân tích Chị em Thúy Kiều

1. Mở bài

- Giới thiệu những nét khái quát cơ bản về tác giả Nguyễn Du: một đại thi hào lớn
không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của toàn thế giới, đại thi hào đã để lại
những tác phẩm văn chương nghệ thuật độc đáo cho đời

- Giới thiệu về Truyện Kiều và đoạn trích Chị em Thúy Kiều: Truyện Kiều có thể
nói là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Du, đoạn trích Chị em Thúy Kiều là một
đoạn trích tiêu biểu khắc họa rõ nét vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của Thúy Vân, Thúy
Kiều

2. Thân bài

a. Bốn câu thơ đầu: giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều

- Chỉ với hai câu thơ lục bát ngắn ngủi, tác giả đã giới thiệu được hai nhân vật và
vị trí của hai người một cách đầy tự nhiên: “Đầu lòng hai ả tố nga- Thúy Kiều là
chị em là Thúy Vân”

- “Mai cốt cách tuyết tinh thần”: bút pháp ước lệ gợi vẻ thanh cao duyên dáng,
trong trắng của hai chị em thiếu nữ, đó là cốt cách như mai, tinh thần như tuyết

- “Mối người một vẻ mười phân vẹn mười”: Mỗi người mang nét riêng nhưng cả
hai đều tài đều sắc

b. Bốn câu tiếp theo: gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân

- Câu thơ mở đầu khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân, “trang trọng” gợi vẻ cao sang,
quý phái
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

- Vẻ đẹp của Thúy Vân được so sánh với những thứ đẹp nhất trên đời: trăng, hoa,
mây, tuyết, ngọc

- Chân dung Thúy Vân được miêu tả toàn vẹn từ mái tóc đến nụ cười, giọng nói,
phong thái ứng xử nghiêm trang: khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, lông mày sắc nét
như ngài, miệng tươi như hoa, đoạn trang như ngọc,...

- Chân dung dự đoán số phận: “mây thua”, “tuyết nhường” ⇒ số phận êm đềm

c. 12 câu tiếp: Gợi tả vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của Thúy Kiều

- “Kiều càng sắc sảo mặn mà”: khái quát đặc điểm của nhân vật

- Tác giả sử dụng những hình ảnh ước lệ “thu thủy”, “xuân sơn” : gợi đôi mắt đẹp
trong sáng, long lanh, linh hoạt như nước mùa thu , lông mày thanh tú như nét núi
mùa xuân ⇒ phẩm chất tinh anh của tâm hồn, trí tuệ

- “Hoa ghen... kém xanh”: Vẻ đẹp khiến thiên nhiên nổi giận ⇒ dự báo cuộc đời
lắm truân chuyên

- Không chỉ tả nhan sắc, Nguyễn Du còn nhấn mạnh vào sự tài năng của Thúy
Kiều “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”: Kiều thông minh và đa tài

+ Tài năng của đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến: hội tụ đủ
cầm kì thi họa “pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”

+ “Cung thương làu bậc...một trương”: Tác giả nhấn mạnh tài đàn của Kiều

+ “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”: Kiều còn giỏi sáng tác, khúc bạc mệnh
của Kiều phải chăng là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm

⇒ Thúy Kiều là một nhân vật hiện lên với sự toàn tài

d. 4 câu cuối: Nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em

- “Phong lưu rất mực hồng quần”: Gợi hoàn cảnh sống của hai chị em thúy Kiều,
họ sống trong phong lưu của mọt gia đình gia giáo

- Hai chị em luôn sống theo khuôn phép, đức hạnh, theo đúng khuôn khổ của lễ
giáo phong kiến. Tuy cả hai đều “đến tuần cập kê” nhưng vẫn “êm đềm trướng rủ
màn che- tường đông ong bướm đi về mặc ai”
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

3. Kết bài

- Khái quát về giá trị nghệ thuật làm nên thành công của đoạn trích: ước lệ tượng
trưng, bút pháp gợi tả...

- Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều

MỘT SỐ BÀI PHÂN TÍCH

ĐỀ BÀI 1: Phân tích nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

Hình ảnh người phụ nữ từ lâu đã đi vào thi ca nhạc họa nuôi một nguồn cảm hứng
dồi dào, bất tận. Mặc dù trong xã hội phong kiến "trọng nam khinh nữ", người phụ
nữ ít có cơ hội xuất hiện trong các tác phẩm văn học nhưng đến thế kỉ XVI trở đi,
người phụ nữ đã bước chân vào nền văn học trung đại Việt Nam một cách rất tự
nhiên, rất chân thực. Chúng ta có thể kể đến một số tác phẩm như: "Truyền kì mạn
lục" của Nguyễn Dữ, "Truyền kì tân phả" của Đoàn Thị Điểm, "Chinh phụ ngâm
khúc" của Đặng Trần Côn...

Tất cả các nhà văn, nhà thơ đều tập trung làm nổi bật lên phẩm chất tốt đẹp, số
phận bi kịch, cuộc đời bất hạnh của người phụ nữ nhưng lại ít quan tâm tới việc
khắc họa vẻ đẹp nhan sắc, tài năng độc đáo của nhân vật nữ giới. Tuy nhiên, đến
với những trang thơ của Nguyễn Du qua tác phẩm "Truyện Kiều", mặc dù cũng
khai thác đề tài bất hạnh của người phụ nữ đương thời nhưng Nguyễn Du vẫn đặc
biệt chú trọng miêu tả khắc họa vẻ đẹp chân dung, nhan sắc, tài năng con người
nhân vật. Và chính bút pháp tả người ấy đã góp phần không nhỏ tạo nên sự thành
công của tác phẩm. Điều này được thể hiện qua hình tượng nhân vật Thúy kiều
trong đoạn trích "Chị em Thúy Kiều". Trước hết, bốn câu thơ đầu tiên, nhà thơ giới
thiệu khái quát về vị trí, xuất thân và vẻ đẹp của Thúy Kiều:

Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân Mai cốt cách tuyết tinh
thần, Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Đó là Thúy Kiều sinh ra trong một gia đình họ Vương, nàng là chị cả trong gia
đình. Để giới thiệu về vẻ đẹp của nàng, nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ và ẩn
dụ rất giàu sức gợi: cốt cách thì duyên dáng, yêu kiều, thanh tao như cây mai;
phong thái tinh thần thì trong trắng, tinh khôi như tuyết. Đó là vẻ đẹp hoàn mĩ, toàn
diện từ trong ra ngoài, từ dáng vẻ tới tâm hồn "mười phân vẹn mười". Như vậy, chỉ
bằng bốn câu thơ đầu ngắn gọn, tác giả đã khái quát được những thông tin cần thiết
của nhân vật, đồng thời làm nổi bật lên vẻ đẹp của Thúy Kiều. Từ đó, mở ra cảm
xúc cho toàn bài, người đọc thấy được cảm hứng ngợi ca con người trong đoạn thơ.
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

Sau khi dựng lên chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân, nhà thơ tập trung bút
lực vào miêu tả vẻ đẹp của Kiều trong sự đối sánh với vẻ đẹp của Vân:

Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn

Vẻ đẹp của Kiều khác và hơn hẳn Vân cả về tài lẫn sắc. Đó là sự "sắc sảo" về trí
tuệ; "mặn mà" về tầm hồn. Trước hết là vẻ đẹp nhan sắc – ngoại hình của Kiều.
Vẫn tiếp tục sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm
thước đo cho vẻ đẹp của con người qua một loạt các hình ảnh: thu thủy, xuân sơn,
hoa, liễu, Nguyễn Du đã làm hiện vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt mĩ. Nhưng
khi miêu tả Kiều, tác giả không miêu tả cụ thể chi tiết như ở Vân mà ngược lại, tác

giả tập trung vào một điểm nhìn là đôi mắt “Làn thu thủy nét xuân sơn”: Đôi mắt
sáng trong và sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh thoát như nét
núi mùa xuân.

Đây chính là lối vẽ "điểm nhãn" cho nhân vật. Bởi đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn
con người. Và qua đôi mắt đó của Kiều, ta thấy được tâm hồn trong sáng, sâu thẳm
và cuốn hút lạ thường của nhân vật. Vẻ đẹp nhan sắc của Kiều là vẻ đẹp vượt ra
khỏi chuẩn mực của tự nhiên và khuôn khổ của người phụ nữ phong kiến nên:
“Hoa ghen – liễu hờn” và thậm chí là nghiêng ngả cả thành quách, đất nước:

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Nghệ thuật nhân hóa (hoa ghen – liễu hờn) kết hợp với nghệ thuật nói quá (thành
ngữ: Nghiêng nước nghiêng thành) vừa có tác dụng gợi tả vẻ đẹp của Kiều ; lại vừa
có tác dụng dự đoán về số phận, cuộc đời của nàng. Bởi vẻ đẹp đó gợi lên mâu
thuẫn, không hài hòa (khác với Vân: thua – nhường: hài hòa, bình yên) nên chắc
chắn cuộc đời nàng sẽ truân chuyên, trắc trở: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần".

Tiếp đến là vẻ đẹp tài năng của Kiều. Nếu như khi tả Vân, nhà thơ chỉ chú trọng
vào khắc họa vẻ đẹp nhan sắc mà không chú trọng tới miêu tả tài năng và tâm hồn
thì khi tả Kiều, nhà thơ chỉ tả sắc một phần, còn lại dành phần nhiều vào tài năng:
Sắc đành đòi một tài đành họa hai. Chỉ một câu thơ mà nhà thơ đã nêu được cả sắc
lẫn tài. Nếu như về sắc thì Kiều là số một thì về tài không ai dám đứng hàng thứ
hai trước nàng. Tài năng của Kiều có thể nói là có một chứ không có hai trên đời.
Vì được trời phú cho tính thông minh nên ở lĩnh vực nghệ thuật nào Kiều cũng
toàn tài: cầm – kì – thi – họa.

Tất cả đều đạt đến mức lí tưởng hóa theo quan niệm thẩm mĩ của lễ giáo phong
kiến: “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. Đặc biệt tài năng của Kiều được nhấn
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

mạnh ở tài đàn: “Cung thương lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một
trương”: nàng thuộc lòng các cung bậc và đánh đàn Hồ cầm (đàn cổ) thành thạo.
Hơn thế, nàng còn giỏi sáng tác nhạc nữa: “Khúc nhà tay lựa nên chương/Một
thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Mỗi nàng lần đánh đàn, nàng lại cất lên bài hát
“Bạc mệnh” làm cho người nghe phải đau khổ, sầu não. Bài hát chính là tâm hồn,

là bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều, biểu hiện một trái tim đa sầu đa cảm và cuộc
đời éo le, bất hạnh.

Như vậy, qua việc phân tích ở trên, người đọc thấy được chân dung của nhân vật
Thúy Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp
khác người nên làm cho thiên nhiên phải ghen tị “Trời xanh quen thói má hồng
đánh ghen”; tài năng của Kiều vượt trội hơn người nên chắc chắn theo một qui luật
thông thường của định mệnh “Chữ tài đi với chữ tai một vần” hay “Chữ tài chữ
mệnh khéo là ghét nhau” nên cuộc đời Kiều là cuộc đời của một kiếp hồng nhan
bạc mệnh, éo le và nghiệt ngã.

Đến đây chúng ta thấy được tài năng độc đáo của Nguyễn Du trong việc khắc họa
chân dung nhân vật. Từ vẻ đẹp chân dung, nhà thơ thể hiện những dự cảm về tính
cách, cuộc đời, số phận của nhân vật. Và mặc dù, ở đầu đoạn trích, tác giả giới
thiệu Thúy kiều là chị, em là Thúy Vân nhưng sau đó, nhà thơ lại miêu tả chân
dung nhân vật Vân trước, Kiều sau. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ trong
việc tạo ra thủ pháp "đòn bẩy". Điều đó có tác dụng nhấn mạnh và làm nổi bật
được vẻ đẹp độc đáo, vượt trội về cả sắc lẫn tài và tình của nhân vật Thúy Kiều.

Vì thế, tuy cùng sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng khi miêu tả hai nhân vật
nhưng chúng ta thấy được mức độ đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Nhà thơ chỉ
dùng bốn câu để tả Vân, còn lại dành tận mười hai câu để tả Kiều; tác giả khi tả
Vân chỉ tập trung tả nhan sắc nhưng khi tả Kiều thì "sắc đành đòi một, tài đành họa
hai". Mặc dù vậy nhưng ở nhân vật nào cũng hiện lên rất sống động, cụ thể, chân
thực, mang vẻ đẹp, tính cách, số phận khác nhau. Khép lại đoạn thơ, Nguyễn Du
dùng những lời lẽ đẹp để gợi ca cuộc sống của nàng:

Phong lưu rất mực hồng quần Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ
màn che Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Thúy Kiều sống trong một gia đình phong lưu, rất gia giáo và nàng đang đến cái
tuổi búi tóc cài trâm, được phép thành gia, lập thất "tới tuần cập kê". Thành ngữ
“Trướng rủ màn che” gợi tả một lối sống kín đáo, rất khuôn phép của con nhà gia
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

giáo đàng hoàng . Vì thế, đối với những người đàn ông “ong bướm” (chỉ những
người đàn ông tán tỉnh phụ nữ không có mục đích tốt đẹp) thì Thúy Kiều không
bao giờ để tâm tới. Hai câu kết trong sáng, đằm thắm như che chở, bao bọc cho
nàng. Nàng hiện lên như một bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh "êm đềm",
chưa một lần tỏa hương vì ai đó.

Qua chân dung vẻ đẹp nhan sắc, tài năng của Thúy Kiều, chúng ta thấy được
Nguyễn Du thực sự rất trân trọng, đề cao những giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ.
Những dự cảm về kiếp người tài hoa nhưng bạc mệnh là sự xuất phát từ tấm lòng
cảm thông, xót thương con người của nhà thơ. Đó là vẻ đẹp nhân văn sáng ngời
trong ngòi bút tài hoa của Đại thi hào dân tộc – Nguyễn Du.

ĐỀ BÀI 2: Phân tích tác phẩm chị em Thúy Kiều

Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du không chỉ là kiệt tác bất hủ của nền văn
học trung đại mà còn là của cả nền văn học Việt Nam. Với những giá trị nội dung tư
tưởng lớn, mang tính hiện thực sâu sắc, phản ánh, lên án sự bất công, tàn ác của chế
độ phong kiến và số phận bất hạnh của người phụ nữ.

Đồng thời thể hiện tư tưởng nhân đạo, cảm thương sâu sắc cho số phận con người,
đặc biệt là phận nhi nữ, trân trọng những vẻ đẹp của người phụ nữ dưới chế độ cũ.
Có thể nói rằng dẫu là con người của chế độ phong kiến, nhưng thông qua Truyện
Kiều ta có thể nhận ra tư tưởng và suy nghĩ của Nguyễn Du đã vượt trước thời đại
cả hàng trăm năm, để lại cho nền văn học một tác phẩm kinh điển có ảnh hưởng sâu
rộng trong văn hóa của người Việt.

Truyện Kiều tựa như một nguồn cảm hứng lớn, một khởi điểm cho nhiều các loại
hình văn hóa khác như bói Kiều, lẩy Kiều, trò Kiều, tranh Kiều, vịnh Kiều, … thậm
chí trở thành đề tài cho nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu, âm nhạc, hội họa,…
Không chỉ vậy Truyện Kiều còn trở thành tác phẩm hiếm hoi của văn học Việt Nam
được dịch và cho xuất bản ở trên 20 quốc gia.

Sự thành công của Truyện Kiều, không chỉ đến từ nội dung hiện thực và nhân đạo
mà còn đến từ những giá trị nghệ thuật, thể hiện tuyệt tài cầm bút của Nguyễn Du.
Bao gồm việc sử dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát của dân tộc, nghệ thuật tả cảnh
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

ngụ tình, nghệ thuật tả cảnh, tả người bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, linh hoạt,
gợi nhiều hơn tả,… Đoạn trích Chị em Thúy Kiều là một trong những trích đoạn thể
hiện rất đặc sắc biệt tài dùng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp con
người của Nguyễn Du.

Thúy Kiều, nhân vật chính của tác phẩm xuất thân là con nhà danh giá, khuê các,
“êm đềm trướng rủ màn che”, đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần đầu “Gặp
gỡ và đính ước” của tác phẩm, giới thiệu về bối cảnh gia đình Kiều và mối duyên
định mệnh của nàng với chàng Kim Trọng.

Hai câu đầu của đoạn trích “Đầu lòng hai ả tố nga/Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”
giới thiệu thân phận của hai chị em là hai cô con gái lớn của gia đình Vương viên
ngoại, trong đó Thúy Kiều là chị cả, còn Thúy Vân là con thứ. Vẻ đẹp chung nhất
của hai chị em được Nguyễn Du tóm gọn bằng một câu “Mai cốt cách, tuyết tinh
thần”, tiêu biểu cho phong cách ước lệ gợi tả của tác giả.

“Cốt cách” tức chỉ phẩm chất, tính cách của hai cô gái, được ví với cây hoa mai –
một trong Tứ quân tử, tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, phú quý, sự bền bỉ, kiên trì
trong cuộc sống. Lại lấy tuyết, một thứ vừa mỏng manh, vừa trong trẻo, nhẹ nhàng
để chỉ “tinh thần” ngụ ý diễn tả tâm hồn trong sáng, thanh khiết của Kiều và Vân,
những cô gái mới ngấp nghé tuổi cập kê, hồng trần chưa chạm.

Tuy có những vẻ đẹp chung nhất như thế nhưng Kiều và Vân vẫn có riêng cho mình
những vẻ đẹp riêng đến từ ngoại hình, khí chất và tâm hồn được Nguyễn Du chỉ ra
trong câu thơ “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”, muốn nói rằng khó có thể
phân bì được tài sắc của hai chị em, dẫu rằng Kiều là nhân vật chính nên có phần nổi
trội hơn.

Để làm nổi bật cái vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã rất tinh tế và khéo léo khi
chọn miêu tả cô em là Thúy Vân trước. Điều này cũng khá tương tự với việc lựa
chọn trong giới thời trang khi để vedette là người catwalk cuối cùng, nổi bật hẳn so
với những người diễn mở màn. Phân đoạn miêu tả Thúy Vân ngắn gọn gồm 4 câu
thơ:
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

“Vân xem trang trọng khác vời


Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Có thể nhận xét chung rằng vẻ đẹp của Thúy Vân là một vẻ đẹp mang tính tiêu chuẩn
trong xã hội phong kiến, là tiêu biểu cho vẻ ngoài của những con người có phúc
tướng, số phận an nhàn, hiền hòa cuộc đời không chịu nhiều sóng gió. Có lẽ số phận
Vân đã gắn với việc trở thành phu nhân quyền quý, thế nên Nguyễn Du mới miêu tả
thần thái của nàng bằng mấy chữ “trang trọng khác vời” đó là vẻ kiêu sa, sang trọng
mà không phải cô gái nào cũng có được.

“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”, có lẽ rằng ngày nay người có khuôn mặt
trong không phải là kiểu mặt được ưa thích thế nhưng trong quan niệm thẩm mỹ cũ,
người có khuôn mặt tròn đầy như Thúy Vân lại là người có phúc khí, không chỉ vậy
hình ảnh ước lệ “trăng” là ngụ ý chỉ sự thanh khiết, hiền hòa và nhã nhặn của người
con gái.

Bên cạnh khuôn mặt tròn, phúc hậu, Thúy Vân còn may mắn có được “nét ngài nở
nang” là đôi chân mày đậm nét, rõ ràng và cách xa nhau, vốn là nét đẹp và cũng thể
hiện tướng phúc trên khuôn mặt, cho thấy rằng Vân là người hiểu lễ nghĩa, rộng
lượng và hiền hòa trong cuộc sống. Đó là về khuôn mặt và đôi mày, đối với nụ cười
và giọng nói của Thúy Vân Nguyễn Du cũng dành cho nàng những cụm từ rất mỹ
miều và thanh nhã “Hoa cười ngọc thốt đoan trang”.

Nụ cười của nàng Vân tươi tựa như hoa nở, mang cảm giác vui mừng, sáng sủa, và
dịu dàng. Còn giọng nói thì trong sáng, vừa thanh vừa ấm như ngọc, bởi thế có người
nói rằng người con gái đẹp thì chắc chắn có giọng nói hay, nếu ứng với Thúy Vân
thì quả thực chẳng thể nào sai. Và tổng kết lại với điệu cười, giọng nói ấy dành cho
Thúy Vân hai chữ “đoan trang” quả thật là rất xứng.

Vẻ đẹp của Thúy Vân tiếp tục được diễn tả bằng câu “Mây thua nước tóc tuyết
nhường màu da”, tóc tựa mây, là mái tóc dài, dài và đen nhánh, từ đó ta cũng có thể
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

phần nào suy ra được tính cách của nàng Vân mặc dù Nguyễn Du không đề cập đến.
Đó là biểu trưng cho người con gái hiền dịu, tính tình bình đạm, trọng tình nghĩa, và
rất mực chung thủy. Còn ý “tuyết nhường màu da” thì có lẽ không cần phải bàn cãi,
lấy màu tuyết để chỉ màu da, da trắng như tuyết, đó là vẻ đẹp tuyệt mỹ sánh ngang
với thiên nhiên tạo hóa, là cái phúc của nàng Vân.

Chung quy qua bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã dùng bút
pháp ước lệ tượng trưng thông qua các hình ảnh rất nhã nhặn, dịu dàng như trăng,
hoa, ngọc, mây, tuyết để gợi ra nét đẹp của một người con gái có vẻ đẹp quý phái,
không quá sắc sảo, nhưng khiến người ta dễ chịu và quý mến, điều này gợi ý cho
người đọc, cũng như dự đoán trước về cuộc đời bình đạm và êm ấm của nàng Vân.

Khác với Thúy Vân, khi tả Thúy Kiều Nguyễn Du dùng đến tám câu thơ mới diễn
đạt được cái vẻ đẹp của nàng, từ lượng câu thơ gấp đôi ta có thể thấy rằng vẻ đẹp
của Kiều là vẻ đẹp hiếm thấy và tuyệt mĩ, bởi so với Thúy Vân người con gái vốn
đã xinh đẹp nhưng chỉ bốn câu thơ là đã khái quát gọn thì Thúy Kiều rõ ràng đã ở
một tầm nhan sắc khác.

Ta có thể thấy rõ được ngụ ý này của Nguyễn Du qua hai câu thơ chuyển “Kiều
càng sắc sảo mặn mà/So bề tài sắc lại là phần hơn”.
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”
So với Thúy Vân, thì đến Thúy Kiều dường như Nguyễn Du lại càng vận dụng triệt
để cải thủ pháp ước lệ tượng trưng. Nếu như ở Vân tác giả còn chỉ rõ vẻ đẹp của
từng bộ phận trên cơ thể, rồi đem ví với thiên nhiên, thì ở Thúy Kiều, hầu như
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

Nguyễn Du chỉ gợi nhẹ, dùng bút pháp chấm phá để người đọc tự liên tưởng ra bức
tranh Thúy Kiều.

“Làn thu thủy” tức là nói đến đôi mắt trong như nước mùa thu, với những rung động
nhẹ nhàng, mà nói đến đôi mắt mang màu nước, lại còn là mùa thu thì đó lại gợi cho
ta một vẻ đẹp tuyệt trần, yếu đuối, và vô cùng lãng mạn. Nhưng cũng đồng thời chỉ
ra rằng người có đôi mắt ấy lại là người đa sầu, đa cảm và cũng là người có số kiếp
truân chuyên, vận mệnh đào hoa.

Tương tự “nét xuân sơn”, tức là chỉ đôi mày đẹp như núi mùa xuân, khiến người ta
liên tưởng đến đôi mày liễu, gọn mảnh, cong, mang đến vẻ đẹp xuân sắc cho cả
khuôn mặt, đó cũng là một nét đẹp tuyệt hiếm có, biểu lộ tính cách nhu thuận, dịu
dàng của người phụ nữ. Thế nhưng Nguyễn Du tại sao không so với những sự vật
khác mà lại gợi ra đôi mày của Kiều bằng hình ảnh núi non, điều này cũng làm ta
phải suy nghĩ.

Có thể giải thích rằng đó cũng lại là một ngụ ý nữa về cuộc đời của Kiều, cũng gập
ghềnh trắc trở y như dáng núi, hết lên lại xuống, khó có được ngày hiền hòa yên
giấc. Đó là nói về đôi mắt, để nói về vẻ đẹp của Kiều Nguyễn Du còn có câu “Hoa
ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, dẫu chưa phân tích thế nhưng từ bề mặt chữ ta
cũng có thể dễ dàng nhận thấy Thúy Kiều là một cô gái có vẻ đẹp rất sắc sảo, mặn
mà khác hẳn với cái vẻ đẹp trang nhã, nhẹ nhàng của cô em Thúy Vân.

So với “Làn thu thủy, nét xuân sơn” thì câu thơ này lại càng mơ hồ không rõ là
Nguyễn Du muốn phiếm chỉ vẻ đẹp nào của Thúy Kiều. Thế nhưng từ chữ “thắm”
có lẽ là tác giả muốn miêu tả nét môi nàng Kiều, môi đỏ như son, đến loài hoa cũng
phải ghen tị vì chẳng tươi được bằng đôi môi của nàng. Một cách hiểu khác, có thể
“thắm” ở đây là chỉ vẻ đẹp thiên tiên, tuyệt trần, đằm thắm của Thúy Kiều mà không
một loài hoa nào có thể sánh ngang được.

Cách hiểu này khiến ta liên tưởng đến một trong bốn tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa
cổ đại, nàng Dương Qúy phi với vẻ đẹp “tu hoa”, đến hoa cũng phải xấu hổ vì không
sánh bằng. Ý “liễu hờn kém xanh” lại càng đặc sắc trong nghệ thuật gợi tả ước lệ
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

của Nguyễn Du, ai cũng biết rằng loài liễu là loài nức danh với bản tính mềm mại,
dịu dàng, thế nhưng khi so với Kiều thì lại phải hờn vì “kém xanh”.

Ở đây xanh tức là chỉ sức sống, sự dẻo dai, cũng đồng nghĩa với việc gợi ra cái dáng
hình lả lướt, mềm mại, uyển chuyển tuyệt thế so với liễu chỉ có hơn chứ không kém
của Thúy Kiều. Như vậy so với Thúy Vân, thì vẻ đẹp của Thúy Kiều còn được gợi
ra thông qua dáng hình mềm mại, yếu đuối, mà có lẽ nghĩ sâu hơn ta có thể tưởng
tượng được thân hình tuyệt thế của nàng.

Tuy không đặc tả Kiều một cách rõ nét như Thúy Vân nhưng Nguyễn Du đã dành
hai câu thơ để nhấn mạnh nhan sắc Kiều rằng “Một hai nghiêng nước nghiêng
thành/Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, ý chỉ vẻ đẹp của Kiều có lẽ cũng chẳng
khác gì những Tây Thi, Điêu Thuyền thuở xưa, hồng nhan thì họa thủy, nghiêng
nước nghiêng thành là có thật. Và thực sự, Kiều cũng khiến một nam nhân như Từ
Hải rời bỏ một cõi, rồi cuối cùng rơi vào kết cục không thể vãn hồi.

Đặc biệt Thúy Kiều có vẻ đẹp nổi trội hơn không chỉ ở nhan sắc mà nó còn thể hiện
ở tài năng của nàng, thiết nghĩ Nguyễn Du tuy có tư tưởng tiến bộ, nhưng vẫn còn
chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho học cho rằng phụ nữ không cần quá xuất sắc
thì mới có thể hạnh phúc và tiêu biểu cho hình mẫu này là Thúy Vân, còn ngược lại
phụ nữ mà vừa có nhan sắc, lại còn có tài thì thường bạc mệnh.

Thế nên Nguyễn Du mới xây dựng hình tượng Kiều vừa có nhan sắc tuyệt diễm, lại
thêm là bậc kỳ tài trong thi, ca, nhạc, họa. Nàng là người con gái thông minh, học
một biết mười, đặc biệt với món đàn tỳ bà thì lại càng là tay nghề trác tuyệt. “cung
thương làu bậc ngũ âm”, nàng có thể tự phổ nhạc, sáng tác nên các khúc đàn hay,
thế nhưng có lẽ như một điềm báo về kiếp hồng nhan bạc mệnh, từ việc tinh thông
tỳ bà – thứ đàn vốn hay xuất hiện ở chốn phong trần, âm vực rộng rãi, cầm phổ chủ
yếu là những nốt buồn bã thê lương.

Cho đến việc bản thân Kiều cũng viết bản “Bạc mệnh”, buồn thương, não nề đã phần
nào thể hiện được cuộc đời đầy sóng gió của một trang giai nhân tuyệt sắc.
HỌC VĂN CÔ NGỌC EVY

“Phong lưu rất mực hồng quần


Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Những câu thơ cuối lại quay về miêu tả hoàn cảnh sống của hai chị em, cả hai nàng
xuất thân con viên ngoại nên cuộc sống cũng được xem là khá giả, “phong lưu”,
sống trong lụa là gấm vóc. Kiều và Vân đã sắp tới tuổi cập kê, gần tuổi xuất giá,
trước khi sóng gió ập đến thì chị em “êm đềm trướng rủ màn che”, cuộc đời trôi qua
yên ả, vui vầy. Dẫu cũng đã trưởng thành, nhưng cả hai nàng đều còn rất thanh thuần,
tinh khiết, bao nhiêu thứ ái tình “ong bướm”, Kiều Vân cũng chưa từng nếm trải,
giữ gìn nền nếp gia phong một phép.

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều là phân đoạn thể hiện rõ nét tài năng bậc thầy của
Nguyễn Du trong việc miêu tả người thông qua bút pháp ước lệ tượng trưng, chỉ gợi,
vẽ vào một nét bút chấm phá, để người đọc tự khai phá ra bức tranh nhân vật.

Đồng thời đoạn trích còn thể hiện tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du khi rất mực
trân trọng và tinh tế, tỉ mỉ trước vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. Đặc biệt là ở nhân vật
Kiều, ông không chỉ khai thác nhan sắc hiếm có mà còn tô vẽ nàng thông qua vẻ đẹp
tài năng, trí tuệ, cốt cách ở bên trong, để làm nổi bật bức tranh người con gái tài sắc
vẹn toàn nhưng bạc mệnh.

You might also like