You are on page 1of 16

Văn bản : CHỊ EM THÚY KIỀU

-Nguyễn Du-
I. MỞ BÀI
Trong bài thơ : “Kính gửi cụ Nguyễn Du”. nhà thơ Tố Hữu từng bộc bạch những tình
cảm trân trọng nhất tới đại thi hào của dân tộc ta :
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu,
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày…
Nguyễn Du – nhà thơ thiên tài gắn với những trang Truyện Kiều đã có từ trăm năm
nay. Nhắc tới “Truyện Kiều” trái tim mỗi chúng ta như chậm đi một nhịp để giữ lại kiệt
tác ấy sâu trong lòng mình. Có thể nói “Đoạn trường tâm thanh” đã thể hiện một cách
đầy đủ và sâu sắc về lòng nhân đạo. Chẳng những vậy, áng thơ này còn là một hình mẫu
lí tưởng về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, tả người cũng như tả cảnh. Trích đoạn Chị em
Thúy Kiều với 24 câu thơ lục bát, đại thi hào Nguyễn Du đã đã khắc họa trọn vẹn tài
năng, sắc đẹp và đức hạnh của hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều với tất cả tâm huyết, trân
trọng ẩn sâu trong trái tim một đại tài văn chương.
II. THÂN BÀI
1. Giới thiệu chị em Thúy Kiều
Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm trong phần : “Gặp gỡ và đính ước”, sau phần
giới thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã
sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên làm tiêu
chuẩn vẻ đẹp để gợi, tả, khắc hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai
nhân. Trước hết, Nguyễn Du cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuý Kiều trong
bốn câu đầu:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.
Nhà thơ dùng từ Hán Việt “tố nga” chỉ những người con gái đẹp tinh tế để gọi chung
hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Hai chị em được ví von có cốt cách thanh cao như hoa
mai, có tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. Mỗi người có vẻ đẹp riêng và đều đẹp một
cách toàn diện. Từ cái nhìn bao quát ấy, nhà thơ đi miêu tả từng người.
2. Miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân
Bằng nghệ thuật ước lệ tượng trưng, liệt kê, nhân hoá, tác giả miêu tả vẻ đẹp của
Thuý Vân là vẻ đẹp trang trọng, quý phái, phúc hậu: Sau khi giới thiệu vẻ đẹp chung về
hình thức lẫn tâm hồn của hai chị em bằng bốn câu thơ, Nguyễn Du bắt đầu miêu tả vẻ
đẹp riêng của Thúy Vân :
Vân xem trang trong khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Chỉ vài nét chấm phá, bức chân dung của Thúy Vân hiện lên thật nghiêm trang, đứng
đắn và phúc hậu. Gương mặt của nàng tròn đầy và rạng rỡ như trăng rằm, chân mày của
nàng thanh tú như con bướm tằm. Đuôi mắt ấy đẹp như mắt phượng. miệng của nàng nở
Trang 1
nụ cười tươi như đóa hoa đang khoe sắc, tỏa hương. Tiếng nói trong như ngọc. Những
làn mây trên không trung vẫn không đẹp bằng mái tóc mượt mà của nàng. Tuyết là biểu
tượng của màu trắng khiết nhưng không, nhường màu cho da mịn màng, trắng trẻo của
nàng.
Bằng các thủ pháp so sánh và nhân hóa “khuôn trăng”, “hoa cười”, “ngọc thốt”, “mây
thua”, “tuyết nhường”. Qua đó ta thấy rằng tác giả đã lấy cái đẹp từ thiên nhiên làm
thước đo để từ đó so sánh với vẻ đẹp của Thúy Vân. Cách phối hợp các biện pháp nghệ
thuật ước lệ tượng trưng, ẩn dụ, nhân hóa, liệt kê, đối ngữ và cách dùng các từ láy, từ
Hán Việt một cách điệu luyện như “đầy đặn”, “nở nang”, Nguyễn Du không những miêu
tả được vẻ đẹp ưa nhìn của Thúy Vân mà còn dự báo được tương lai của nàng. Đặc biệt,
các từ "thua", "nhường" cho chúng ta thấy thái độ nhún nhường của thiên nhiên. Chắc
rằng số phận của Thúy Vân sẽ bình lặng như làn nước chảy, êm đềm và suôn sẻ trên
những chặng đường đời.
3. Miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều
Tưởng chừng Thúy Vân – người đẹp được thiên nhiên ưu ái nhường nhịn đã là tuyệt
thế giai nhân nhưng trong những câu thơ tiếp sau đó đã làm người đọc bất ngờ :
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Chỉ qua hai câu thơ ấy, ta đã bước đầu thấm thía vẻ đẹp tuyệt trần của Thúy Kiều. Sự
tinh tế của Nguyễn Du đã đi ngược lại tự nhiên khi miêu tả vẻ đẹp động lòng người của
em xong mới đến người chị bởi dụ ý của ông muốn lấy nhan sắc ngọc ngà, đoan trang
của Thúy Vân để làm bật lên vẻ đẹp mặn mà về nhan sắc và sắc sảo trong tâm hồn của
Thúy Kiều. Nghệ thuật đòn bẩy của Nguyễn Du đã thực sự đạt tới cực đỉnh khi từ “càng”
trở thành điểm tựa để đẩy Thúy Kiều đến một vẻ đẹp hơn cả Thúy Vân – được coi gần
như tuyệt đối.
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Cặp mắt – cửa sổ của tâm hồn, nói cách khác ta có thể hiểu rằng đôi mắt chứng tỏ
cho tâm hồn thanh khiết, trái tim dịu dàng của người phụ nữ. Đặc biệt, trong đôi mắt của
nàng là hình ảnh trong trẻo và long lanh như làn nước mùa thu. Còn lông mày lại thanh
nhẹ, đẹp như nét núi mùa xuân nghiêng nghiêng, duyên dáng. Đó cũng là vẻ đẹp ước lệ,
tượng trưng thường gặp trong thơ văn cổ điển. Những nghệ thuật nhân hóa, so sánh, hoán
dụ, ẩn dụ đã góp phần đưa sắc đẹp của Thúy Kiều đến tuyệt đỉnh, khiến cho :
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
"Hoa" và "liễu" vốn là những loài vô tri, vô giác, vậy mà phải "ghen","hờn", tức giận
trước vẻ đẹp "sắc sảo mạn mà", "mười phân vẹn mười" của nàng. Nhà thơ đã không trực
tiếp miêu tả vẻ đẹp mỹ miều của Thúy Kiều bằng những cụm từ hoa lệ mà ông đã gián
tiếp bộc lộ vẻ đẹp ấy qua sự đố kị, ghen ghét của thiên nhiên. “Nghiêng nước nghiêng
thành” là cách nói sáng tạo để cực tả giai nhân mà tác giả đã đưa vào để khẳng định
rằng vẻ đẹp của Thúy Kiều có chiều sâu, có sức quyến rũ làm mê mẩn lòng người, có sức
mạnh làm khuynh thành đổ nước. Nếu để so sánh giữa hai người, ta dễ dàng nhận thấy sự
khác biệt giữa thái độ của thiên nhiên trước hai vẻ đẹp một chín một mười ấy. Trước
nhan sắc ngọt ngào không kém phần quý phái của Thúy Vân, thiên nhiên hết mực đồng
thuận, nhún nhường. Nhưng ở Thúy Kiều, nhan sắc ấy chỉ nhận lại sự đố kỵ, ghen ghét.
Phải chăng đây chính là dự cảm của người thi sỹ về số phận truân chuyên, sóng gió của
Thúy Kiều ?
Trang 2
Khác với Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều, nhà thơ vừa
miêu tả nhan sắc một phần lại vừa ca ngợi tài năng hai phần:
Sắc đành đòi một , tài đành hoạ hai
Với nghệ thuật khoa trương, ta không thể không khẳng định rằng về sắc thì đành chỉ
có một mình Thúy Kiều về tài thì may ra mới có người thứ hai. Thứ nhất là trí thông
minh sẵn có do tạo hóa ban tặng:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm ,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương .
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.
Ông trời dường như quá ưu ái cho Thúy Kiều. Tài năng của nàng trời sinh xuất
chúng, vậy nên cầm, kì, thi, họa những thú chơi tao nhã trong xã hội phong kiến xưa
nàng đều đạt tới mức xuất sắc.
Đại thi hào đã độc tả tài đàn – tài năng Thúy Kiều vượt xa những người khác. Những
nốt cung, thương, giốc, chũy, vũ trong âm giai của nhạc cổ Trung Hoa và Việt Nam được
nàng phối hợp một cách nhuần nhuyễn, tinh thông, dạt dào cảm xúc. Đặt biệt, một bản
nhạc nhan đề là "Bạc mệnh" – đứa con tinh thần của Thúy Kiều - đã tác động vào cõi sâu
thẳm trong tâm hồn của con người, khiến ai thưởng thức cũng phải sầu não đến rơi lệ,
đến buốt nhói tim. Hơn thế nữa, khúc nhạc ấy chính là tiếng lòng đa sầu đa cảm của
người con gái ấy. Có lẽ "một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân" là nàng cũng tự dự cảm
thấy một số phận nghiệt ngã, vì vậy bản nhạc nàng viết lên mới là một thiên bạc mệnh.
Dường như bản nhạc ấy đã hòa với cuộc đời nàng là một, đi theo số phận nàng như chính
câu nói “Chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Nhìn chung, Nguyễn Du có dụng ý rất rõ trong việc nhấn mạnh tài sắc của Thúy
Kiều, nhà thơ đã cực tả Thúy Vân, tưởng như sắc đạp của Thúy Vân không ai hơn được
nữa, để rồi sau đó, Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân trở thành một cái nền làm tôn sắc
đẹp của Thúy Kiều. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, hình ảnh người phụ nữ
hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện sâu sắc đến thế. Nguyễn Du đã mở
đường cho tư tưởng của mình đi trước thời đại. Bởi lẽ, trong xã hôi phong kiền đầy rẫy
những bất công ấy phụ nữ luôn bị lép vế, “thấp cổ bé họng”.
4. Cuộc sống thường nhật của hai chị em Thúy Kiều
Trong bốn câu kết thúc của trích đoạn Chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã đưa ta vào
cuộc sống phong lưu, êm đềm, khuôn phép, mẫu mực và ngợi ca đức hạnh của hai chị em
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê,
Êm đềm trướng rủ màn che .
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Mặc dù đã đến tuổi búi tóc cài trâm, có thể lấy chồng nhưng Thúy Vân và Thúy Kiều
vẫn sống hòa thuận, vui vẻ trong cảnh trướng rủ màn che, không tơ tưởng đến những tìm
tình yêu thiếu đứng đắn, đi ve vãn con gái như ong bướm tìm hoa. Chính những nét hồn
nhiên, trong sáng, thơ ngây đã nuôi dưỡng, bồi đắp cho sự hình thành, phát triển nhân
cách và ý thức làm người cao cả của hai chị em sau này, đặc biệt là Thúy Kiều.
III. KẾT BÀI
Trang 3
Qua đoạn trích trên, bằng một thế giới ngôn ngữ phong phú, tinh tế, kỳ diệu, bằng
một bút pháp ước lệ tượng trưng điêu luyện, bằng một thiên tài khám phá tuyệt vời kết
hợp với lòng thương yêu của con người, nhất là người phụ nữ, Nguyễn Du đã điểm lên
bức chân dung vừa tao nhã, vừa có sức gợi cảm mãnh liệt của Thúy Vân và Thúy Kiều.
Thúy Kiều đã được gợi tả mang một giá trị tuyệt đối về sắc đẹp lẫn tài năng qua những
vần thơ lục bát đậm bản sắc dân tộc. Có thể nói rằng vẻ đẹp của Thúy Kiều chính là vẻ
đẹp của bài thơ cũng là bức tranh chân dung này. Càng nâng niu, quý trọng truyện Kiều,
chúng ta càng cảm phục tài năng và đức độ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đó là cái
nhìn toàn diện của con người của tấm lòng nhân đạo, ánh sáng chói lọi của văn chương
trung đại.
Văn bản : KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
-Nguyễn Du-
<TÁM CÂU THƠ CUỐI>
I. MỞ BÀI
“Truyện Kiều về mặt mỹ thuật rõ là cực tốt, mà ở trong đựng những vật có chất độc”
(Huỳnh Thúc Kháng)
Trong trái tim mỗi con người đất Việt ta, không ai không kính phục trước một nhân
tài vĩ đại – cụ Nguyễn Du, không ai không thuộc vài đoạn hay vài câu trong “Đoạn
trường tân thanh”. Nguyễn Du quê ở tỉnh Hà Tĩnh, ông sống trong thế kỉ thứ XVIII, đó
là giai đoạn lịch sử có đầy những biến động, thay đổi trong đời sống. Chính từ bối cảnh
khó khăn ấy đã nung nấu tâm hồn người thi sỹ chứa đựng những tình cảm dạt dào, lòng
thương cảm sâu sắc trước số phận con người lầm than trong xã hội đen tối bấy giờ. Có
thể nói “Truyện Kiều” là tâm hồn ngân vang của ông để lại cho đời bởi lẽ nó thể hiện
thành công cuộc đời sóng gió của người phụ nữ qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, thông
qua cảnh thiên nhiên để miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo của ông. Điều đó thể hiện rất rõ
qua 8 dòng thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
II. THÂN BÀI
Đoạn trích trên được trích trong phần thứ hai của Truyện Kiều (Gia biến và lưu lạc).
Khi ở lầu xanh, Kiều bị lừa, bị làm nhục nên nàng rút dao định tự vẫn. Do Tú Bà sợ mất
vốn nên đã dùng lời ngon, tiếng ngọt để đưa nàng đến sống riêng ở lầu Ngưng Bích với
lời hứa chờ có dịp sẽ tìm người đàng hoàng rồi gả cho. Nhưng nói một đằng làm một
nẻo, bà ta bày mưu giam lỏng Kiều ở nơi xa xôi, bốn bề là nước sâu thăm thẳm buộc
Kiều phải tiếp khách. Nhưng ngoài ý muốn, chính ở nơi được coi là“khóa xuân”, trong
cảnh cô độc chỉ có nước với trời, lại là cơ hội để cho nỗi cô đơn của nàng Kiều được thể
hiện mãnh liệt và chân thật nhất qua nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du –tả cảnh ngụ tình

Trang 4
Tám câu thơ ấy có thể coi là bức tranh tứ bình đẹp nhất mà thấm nhuần nỗi đau
buồn, tuyệt vọng đến cực độ của Thúy Kiều. Thiên nhiên và con người như hòa quyện
với nhau. Tám câu thơ ấy được chia thành bốn cặp, mỗi cặp đều mở đầu bằng hai tiếng
“Buồn trông” tạo cho ta một cảm giác buồn man mác đến tê tái tâm hồn. Tuy cảnh có
đẹp như tranh vẽ nhưng qua đôi mắt nặng trĩu những suy tư của Kiều nó gợi một cảm
giác buồn da diết :
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Khơi nguồn của những nỗi nhớ, nàng nhớ về chính quê hương, nơi những con
người nàng yêu thương nhất. Trong không gian xa rộng, quạnh hưu lênh đênh giữa mây
trời càng làm cho thân phận Kiều trở lên nhỏ bé hơn bao giờ hết. Khung cảnh mở ra
trong buổi hoàng hôn. Khi những tia nắng ấm áp cuối cùng đã trà trộn vào những con
sóng để đi xa, bấy giờ là lúc để những nỗi nhớ nhận được sự xúc tác mà tuôn ra hết. May
thay giữa lúc lẻ loi, cô đơn đã có một sự sống hiện diện :
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Thuyền chính là hình ảnh quen thuộc của sự sống con người. Nó là niềm hy vọng
cuối cùng để mang theo tâm hồn Kiều được tự do, bay lượn giữa bầu trời như những
cánh buồm no gió. Dù biết vậy, cánh buồm ấy chỉ là sự mờ ảo, lúc ẩn lúc hiện, nó ở nơi
“xa xa” và “thấp thoáng”. Sự xuất hiện đột ngột của con thuyền ngoài xa ấy không
những không làm cho cảnh vật trở lên gần gũi mà còn gợi cảm giác lẻ loi, đơn độc. Có
thể thấy Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật đối giữa hình ảnh cánh buồm nhỏ bé với cửa
bể rộng lớn kết hợp với những từ láy “xa xa” và “thấp thoáng” đã gợi lên một hành
trình lưu lạc mờ mịt không biết đi về đâu của nàng Kiều.
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Chẳng tìm được một sự ai ủi nào từ phía xa xa kia, Kiều nhìn về một phía khác, ngọn
nước từ trên cao đổ xuống như muốn cuốn trôi cả những cánh “hoa trôi man mác”. Hoa
chính là hình ảnh ẩn dụ của sự mong manh, nhỏ bé. Giữa dòng nước lênh đênh như dòng
đời, cánh hoa kia phải chăng cũng đang gợi nhắc cho Kiều về thân phận cảnh bèo trôi dạt
của mình. Câu hỏi tu từ “biết là về đâu?” như đã xoáy vào tâm can ta một hình ảnh trôi
nổi, không nơi nương tựa. Càng nhìn cảnh mà trái tim càng đau, lệ càng chảy. Đại thi hào
đã khắc họa chân thực trái tim đau đáu, sự lo lắng không biết về đâu của Thúy Kiều qua
từ láy ảm đạm là man mác. Biết chẳng thể nhìn ngắm mãi với dòng nước lạnh lẽo và trôi
nổi, nàng tìm về với cỏ xanh, với đất trời :
Buồn trong nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Vậy mà cỏ cũng nhuốm màu tâm trạng “rầu rầu” của người. Nhìn thế nào cũng
chẳng ra màu cỏ xanh non trong tiết tháng ba khi nàng còn sống trong cảnh “êm đềm
trướng rủ màn che”. Không gian mở ra vô tận nhưng trước sau vẫn là một màu xanh úa
tàn, héo hắt, từ mặt đất đến chân trời chẳng khác nhau là mấy. Nó gợi lên một cảm giác
chán nản trong đôi mắt, tê tái trong tâm hồn. “Nội cỏ rầu rầu” trải dài nơi chân trời mặt
đất gợi một cuộc sống bi thương, vô vọng kéo dài không biết đến khi nào. Kiều nhìn vào
màu xanh mong tìm kiếm chút hy vọng nhỏ nhoi lần nữa, nhưng cũng như những lần
trước, chỉ có nỗi thất vọng ngập tràn trong trái tim trai sạn của nàng. Nàng Kiều đã thật
sự tuyệt vọng, chẳng còn đối cảnh nào khiến nàng thấy muốn níu kéo mình lại. Mọi thứ
Trang 5
đều đưa nàng vào suy nghĩ dằn vặt và đau xót đến đỉnh điểm. Lúc này đây chỉ một âm
thanh vọng lại thôi đã đủ làm cho trái tim đa sầu đa cảm ấy loạn nhịp :
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Trước hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” phải chăng là những con sóng bủa vây số
phận éo le của Thúy Kiều ? Nhịp thơ dường như gấp gáp hơn trước âm thanh dữ dội “ầm
ầm”. Những con sóng cuộn trào, xô đẩy nhau hãi hùng cũng là tiếng gào thét của lòng
người trong hoàn cảnh bẽ bàng của nàng Kiều. Nghe tiếng sóng, trông gió cuốn, Kiều bất
giác nghĩ tới phong ba bão táp của cuộc đời. Mọi thứ thật kinh hoàng, như muốn xé nát
trái tim yếu đuối của người phụ nữ đôi mươi đã phải chịu đựng. Biết đâu tiếng sóng kêu
ầm ầm ngoài kia đang rình rập nàng như ngầm dự báo những cơn sóng gió dữ dội của
cuộc đời lại sắp ập tới với cô gái đáng thương ấy. Quả thật Nguyễn Du không hổ danh là
người thầy của nghệ thuật khi đã lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Cảnh vật được miêu
tả từ xa đến gần, sắc thái từ nhạt nhòa đến đậm đà, âm thanh từ tĩnh lặng đến động trời,
nỗi buồn từ lo âu đến tuyệt vọng và cao trào là sợ hãi.
Bốn cung bậc cảm xúc của nàng Kiều tăng tiến theo bốn bức tranh thiên nhiên.
Điệp từ buồn trông chính là điểm tựa để nâng những tâm trạng dồn nén của Kiều lên đỉnh
điểm. Tất cả đã bộc lộ được tâm trạng nhớ nhung, lo lắng, chán nản và kinh hoàng... của
một con người bất hạnh trong xã hội phong kiến.

III. KẾT BÀI


Không thể không khẳng định rằng, với tài năng nghệ thuật chân chính của mình,
Nguyễn Du đã dựng lên trong lòng mỗi chúng ta những tình cảm trân trọng, thương xót
cho người phụ nữ bạc mệnh ấy. Ta thấy rằng nàng Kiều không còn là một nhân vật trong
những câu truyện được thêu dệt qua những nét chữ nữa, mà là một con người bằng xương
bằng thịt để cho thấy rằng trên đời này vẫn còn những con người khốn khổ với kiếp đời
bất công... họ vẫn phải đấu tranh dưới mọi hình thức để được tự do, công bằng. Cùng hệ
thống từ láy đặc sắc, linh hoạt trong việc sử dụng những điển tích, điển cố, các biện pháp
điệp ngữ, câu hỏi tu từ và đặc biệt là tài năng tả cảnh ngụ tình dạt dào tỉnh cảm, đã góp
phần không nhỏ để bài ca trên mãi mãi trường tồn theo năm tháng. Càng tìm hiểu về
Truyện Kiều ta càng thấm thía nhận định của Tố Hữu: “Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân
Kiều”.
Văn bản : ĐỒNG CHÍ
-Chính Huu-
I. MỞ BÀI
Nếu được hỏi về bức tranh người lính đẹp nhất trong chiến tranh, tôi sẽ không vẽ
cho họ một bức tranh nào cả. Bởi lẽ, những bức tranh dù sinh động đến đâu cũng không
thể khắc họạ được thành công hình ảnh những người lính với tình cảm đồng đội gắn bó
bằng tác phẩm “Đồng chí”. Với những hình ảnh chân thực cùng ngôn ngữ giản dị mà
giàu sức biểu cảm, Chính Hữu đã thể hiện rất rõ về tình cảm đồng đội của những người
lính cách mạng trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp gian khổ. Bản tuyệt tác ấy
được ra đời vào đầu năm 1948, sau khi ông cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc
Trang 6
Thu – Đông 1947. Lần đầu được ra mắt trong tập Đầu súng trăng treo (1966), Đồng chí
đã trở thành tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp.

II. THÂN BÀI


1. Cơ sở hình thành tình đồng chí :
Trước hết, trong 7 câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã lý giải cho chúng ta về cơ sở để hình
thành nên tình cảm đồng đội gắn bó, thắm thiết giữa những người nông dân mặc áo lính.
Trong đó, cơ sở đầu tiên được tác giả nhắc đến đó là sự giống nhau về hoàn cảnh xuất
thân khó khăn của những người lính :
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Mở đầu tác phẩm, hình ảnh những vùng quê xuất hiện cùng những cái đói cái nghèo
bủa vây : nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá. Những thành ngữ dân gian ấy đã gợi
lên hình ảnh của những nơi đất phèn, đất cằn cỗi, khó canh tác. Con người nơi “quê
hương anh” cùng “làng tôi” có những sự tương đồng về hoàn cảnh nghèo khổ, vất vả
hiện lên rất rõ nét qua cấu trúc sóng đôi. Từ chính những nét tương đồng trong hoàn cảnh
khó khăn ấy trở thành niềm đồng cảm giữa những người thanh niên, là cơ sở hình thành
tình đồng chí bền chặt.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, vì cùng có chung một lí tưởng chiến đấu,
những người lính vốn chẳng hẹn mà quen nay về đây cùng chiến đấu, cùng chung sống
không rời. Bằng những tình tương thân tương ái đã có lâu nay giữa những người nông
dân thật thà đã khiến cho anh – tôi vốn riêng biệt nay trở thành những người kề vai sát
cánh bên nhau. Cây súng xưa nay vốn chính là biểu tượng cho lý tưởng chiến đấu, cùng
với đó đầu chính là biểu tượng cho sự đồng lòng, đồng sức. Có thể thấy đó là hình ảnh
tượng trưng rất đẹp, mang ý nghĩa lớn lao trong nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc và lý tưởng cao
đẹp. Bằng những từ ngữ giản dị mà cô đọng; bằng cách xưng hô quen thuộc trong đời
thường : anh – tôi và bằng phép điệp từ súng, đầu, bên, Chính Hữu đã nhấn mạnh về lý
trí chiến đấu cũng như tình cảm ruột thịt trong chiến tranh của những người đồng đội.
Những tình cảm ấy còn được nảy nở qua những đêm đông Việt Bắc :
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Tố Hữu đã từng viết: Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế. Từ những nhận định về thời
tiết ấy của nhà thơ có thể thấy đêm Việt Bắc lạnh buốt, buốt đến tận đáy lòng. Từ chính
những trải nghiệm của bản thân tác giả nơi có khí hậu khắc nghiệt ấy, cùng sự thiếu thốn
về tư trang, ông đã kì công khắc họa lại những hình ảnh đêm rừng Việt Bắc. Nếu có đắp
chăn được phần đầu thì hở phần lưng, đắp đằng trước thì hở đằng sau. Từ chính hoàn
cảnh ấy, trái tim mỗi chiến sĩ như đã được nung nóng, nó có thể làm cho những cơn gió
đông bắc lạnh lẽo ngừng thổi. Cũng chính trong những giây phút ấy mà đôi người xa lạ
nay trở thành đôi tri kỷ. Hai tiếng tri kỷ có lẽ chính là thứ siết chặt hai trái tim ấy lại.
Những hình ảnh giản dị mà sâu sắc chắc chắn được chắt lọc từ chính những cảm xúc
trong tâm hồn chàng thanh niên xung phong năm xưa. Sâu trong tâm khảm mỗi người
quân nhân tự thốt lên hai tiếng : đồng chí. Khép lại đoạn thơ là câu thơ có vị trí vô cùng
Trang 7
đặc biệt, nó đặc biệt không chỉ về hình thức mà sâu sa hơn nó chính là một nốt nhạc ngân
vang, là tiếng goi thân thương giữa những người lính. Hai từ đồng chí mang hơi thở hiện
đại mới của cách mạng, thể hiện sự thiêng liêng trong tình cảm mới mẻ. Thứ tình cảm dạt
dào được kết tinh từ khi còn là những người nông dân xa lạ, họ quen nhau, cùng nhau trải
qua những cung bậc cảm xúc, những hoàn cảnh thiếu thốn nhất để gắn bó với nhau thành
tri kỉ và cao trào khi gọi nhau hai tiếng đồng chí. Cái hay mà Chính Hữu đã thể hiện đó
không phải là phải gì quá xa vời, chỉ qua những từ ngữ hàm súc đã kết lại được một đoạn
thơ đồng thời mở ra mạch thơ mới. Có thể thấy, trong tình đồng chí có sự nhào nặn từ
tình cảm giai cấp giữa những người nghèo, có tình bạn bè tri kỉ và có sự gắn bó giữa con
người cùng chung lý tưởng, chung mục đích chiến đấu vì bảo vệ quê hương, đất nước.
2. Biểu hiện của tình đồng chí :
Nhờ tấm bản lề vững chắc do tác giả đã tạo nên, khổ thơ thứ hai hiện ra một cách vô
cùng tự nhiên :
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Ruộng nương, giếng nước hay gốc đa chính là hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt.
Những thứ vô tri vô giác ấy đã được nhân hóa và ẩn dụ để trở thành những con người hậu
phương mang trong lòng nỗi canh cánh lo âu cho người ở tiền tuyến : là người mẹ già tựa
cửa mong con, là người vợ trẻ son sắc chờ chồng, là đứa con thơ niên ấu vô tri nhớ cha,
…Và có lẽ những nỗi nhớ ấy còn lớn gấp bội ở những nơi bom đạn mịt mù. Chắc rằng
những người chiến sĩ xa nhà rất nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ những bữa cơm gia đình,
nhớ những tình cảm đẹp thủa ấu thơ đến khi trưởng thành. Nhưng không có một cảm xúc
nào khiến họ đau đáu bằng cái cảm giác đất nước nghìn năm của dân tộc ta bị trà đạp. Họ
cương quyết ra đi vì nghĩa lớn, để lại đằng sau ruộng nương cho bạn thân cày, gian nhà
không để cho gió giật. Họ chấp nhận đánh đổi tài sản quý báu nhất của đời người nông
dân – ruộng đất, căn nhà để đổi lại độc lập, tự do cho tổ quốc. Bên cạnh các biện pháp tu
từ, từ mặc kệ cũng chính là một từ ngữ then chốt phần nào nói lên sự dứt khoát của người
lính, ra đi hôm nay để ngày sau gặp lại. Trong thơ ca kháng chiến, nhà thơ Nguyễn Đình
Thi cũng đã từng diễn tả tinh tế hình ảnh người lính ra đi trong cái cảnh thu xơ xác :
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Họ bỏ áo nâu mặc áo xanh đi đến những phương trời mưa bom bão đạn, đó quả thực
là một quyết tâm mãnh liệt. Khép lại ba câu thơ, nổi bật lên là hình tượng đầy khí thế với
ý chí kiên cường, quyết tâm bảo vệ tổ quốc của những người nông dân mặc áo lính thời
kì kháng chiến chống Pháp. Mối tình đồng chí gắn bó không đơn giản chỉ là hiểu nỗi
lòng nhau mà còn là sự sẻ chia những khó khăn, thiếu thốn trong cuộc đời người lính:
Anh với tôi biết từng cơn ơn lạnh
Sốt run người vần trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Qua những từ ngữ chân thật mà đắt giá, Chính Hữu đã đi ngược lại lý trí của thời gian,
đưa chúng ta quay về thời kì đầu kháng chiến chống Pháp tại những chiến khu Việt Bắc
Trang 8
xa xôi, chiếu thẳng vào đôi mắt ta là những hình ảnh thiếu thốn, nhem nhuốc mà những
người lính cụ Hồ phải trải qua. Đó là những cơn sốt rét in đậm trong tâm trí những người
lính. Trên những đám lá rụng ẩm ướt có hàng triệu những con côn trùng lây bệnh, nó
bám vào tứ chi và làm sưng tấy đỏ, nhức buốt gây sốt nóng. Vả lại trong thời kì bấy giờ
lấy đâu ra thuốc men mà chữa trị? Ôi cái đau lẳng lặng trong tim về nỗi niềm dân tộc hòa
vào nỗi đau thể xác như xé nát tâm can mỗi chiến sĩ. Càng không thể không nhắc tới sự
thiếu thốn về trang phục, trong những ngày mùa đông băng giá, chỉ có chiếc áo thu đông
đã chắt vá nhiều lần mỏng manh. Giữa sự khắc nghiệt của thời tiết núi rừng có một nụ
cười buốt giá, đó là tinh thần lạc quan, coi thường thử thách mà vươn lên khó khăn để
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Từ đó ta mới thấm thía những gian lan mà thế hệ ông cha ta
phải trải qua, biết kính yêu và biết ơn những con người bất khuất mà kiên cường của thế
kỉ. Cái cực khổ của hoàn cảnh ấy là sự xúc tác mạnh mẽ để những người lính bộc bạch
tình cảm của mình nắm lấy bàn tay nhau, trao nhau hơi ấm, trao nhau ý chí kiên cường để
vượt qua mọi thử thách, dặn nhau giữ vững tinh thần chiến đấu.
3. Sức mạnh và hình ảnh đẹp của tình đồng chí :
Ba câu thơ khép lại toàn bai là hình ảnh lãng mãn mà chân thực trên nền thời gian và
không gian đặc biệt :
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Trong đêm tối lạnh giá, giữa nơi rừng núi hiểm trở giữa không gian căng thẳng mà
chỉ cần một chiếc lá rơi cũng có thể nghe thấy rõ ấy, có biết bao nguy hiểm đang bủa vây,
dình dập người bộ đội. Giữa đêm khuya ấy, có hai người đồng đội đứng cạnh bên nhau,
đồng cam cộng khổ, chủ động chờ giặc, luôn sẵn sàng nắm chắc tay súng để bảo vệ quê
hương. Và trong cảnh đất trời mịt mù như hòa vào nhau kia, ánh tròn tròn vành vạnh luôn
rọi sáng mọi ngóc ngách trong khu rừng. Ta thực sự bị gây chú ý với từ treo, nó là móc
xích nối ánh trăng xa trên bầu trời với cây súng gần trên bàn tay. Với nhịp thơ 2/2, ta
thấy ánh trăng như được treo lơ lửng trên đầu súng. Đó là hình ảnh biểu tượng chỉ với
bốn chữ mà cực kì đắt giá. Nếu súng ở gần thì trăng ở xa, nếu súng là vũ khí thì trăng là
sự yên bình, nếu súng là đại diện của chiến tranh thì trăng là hiện diện của hòa bình và
nếu súng mang chất của người thi sĩ thì trăng hòa với người thi sỹ là một. Sự hòa quyện
của trăng và súng toát lên tâm hồn người lính vẫn rất thơ mộng, tin tưởng về một tương
lai sáng lạng, vừa nói lên ý nghĩa của việc họ cầm súng chiến đấu để gắn lí tưởng của
mình vào hiện thực của đất nước.
4. Suy nghĩ về tình đồng chí :
Qua những dòng thơ mộc mạc được chắt chiu từ hiện thực, tác giả đã chạm vào trái
tim ta những rung động về tình cảm thiêng liêng giữa những người đồng chí. Đó là mối
tình vượt lên cả tình yêu nồng nàn của trai gái, tình yêu dạt dào với cố hương. Họ vốn từ
những người xa lạ, cách nhau vạn dặm nhưng họ chung hoàn cảnh xuất thân nông dân bị
bần cùng hóa, chung lí tưởng cao đẹp, chia sẻ ngọt bùi với nhau để tạo lên tình bạn tri kỉ.
Cùng với hoàn cảnh ác liệt đã đào tạo mỗi người lính trở nên gắn bó hơn bất kì khi nào.
Cũng nhờ tình cảm đó, họ vượt qua nghịch cảnh khó khăn để viết lên những trang sử hào
hùng của dân tộc ta – Chiến dịch Việt Bắc 1947, đưa dân tộc bước gần tới nền độc lập.
III. KẾT BÀI

Trang 9
Nếu họa sĩ lấy màu sắc để vẽ tranh, nhạc sĩ dùng những nốt nhạc trầm bổng để viết
lên những bài ca, thì nhà thơ lại dùng ngòi bút để tạo nên đứa con tinh thần của chính
miinhf, là chìa khóa mở ra cánh cửa với muôn vàn cảm xúc pha trộn. Qua bản tuyệt tác
Đồng chí của Chính Hữu đã thể hiện rõ nét những giá trị to lớn của thơ ca cách mạng qua
cấu trúc song hành, đối xứng trải dài khắp từng câu thơ, qua các chi tiết và hình ảnh gợi
tả chân thực mà tiêu biểu nhất, qua ngôn từ cô đọng, bình dị mà chứa đong đầy tình cảm.
Một tình cảm cách mạng thiêng liêng, mới lạ đã nảy nở giữa những con người cùng cảnh
ngộ, đó là thứ tình cảm không vật chất, không phô trương chỉ có sự chân thành và đồng
cảm. Bài thơ chính là sự bộc bạch trong tâm khảm tác giả về một tình cảm trong sáng, là
cột mốc quan trọng để đánh dấu sự trưởng thành của khuynh hướng sáng tác thơ hiện đại,
đặc biệt là chủ đề người lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp
Văn bản : BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
-Pham Tiên Duât-
I. MỞ BÀI
Giờ đây nhìn lại những năm 60 của thế kỷ trước, ta bồi hồi và tự hào nhắc lại những
chiến công hiển hách của ông cha ta trong cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ - giải
phóng miền Nam. Trong quá trình đấu tranh đầy gian lao, vất vả ấy có những thứ đã mãi
mãi đọng lại trong trái tim mỗi người từng trải qua. Đó có thể là những kỉ niệm ngọt ngào
như nụ cười mười tám đôi mươi của những nữ thanh niên xung phong nhưng cũng có thể
đau thương như nhát dao cắm vào tim ta. Phạm Tiến Duật – một trong những nhà thơ tiêu
biểu nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã đưa ta quay ngược dòng lịch sử để chứng
kiến những chiếc xe không kính mà gai góc lăn đều trên đoạn đường Trường Sơn và sự
hiên ngang, dũng cảm, lạc quan của những người chiến sĩ lái xe. Chính Phạm Tiến Duật
cũng từng nhận định rằng : “Mỗi trọng điểm là một nghĩa địa ô tô. Xác xe cháy ngổn
ngang lưng đèo, đỉnh núi”.
II. THÂN BÀI
1. Khổ thơ 1:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Mở đầu bài thơ, ta chợt nghĩ đó vốn chỉ là lời kể chuyện mộc mạc giữa người lính về
chiếc xe chiến đấu yêu quý của họ. Xe bình thường vốn có kính, có mui bình thường
nhưng chính những điều thực tế đẩy nó đến sự lạ lùng mà lại khơi gợi được lòng người.
Những chiếc xe không kính trần trụi không ngại gian khổ, súng đạn lao vào chiến trường
như những con tuấn mã căng tràn sức sống. Tác giả đã dùng những lời lẽ phủ định rồi lại
khẳng định cùng với đó là phép điệp từ “không”,“bom” , các động từ với sắc thái mạnh
mẽ giật hay rung vừa để giải thích ngắn gọn mà đầy đủ lí do khiến cho những chiếc xe
không có kính trở nên trần trụi đến thế và cũng là lời tố cáo sự khốc liệt của chiến tranh.
Nó tái hiện rõ nét sự tàn bạo của quân giặc, chúng muốn dùng những thiết bị tối tân nhấ
để tiêu diệt những chiếc xe trở hàng của quân ta. Chính là nó, là chiến tranh dẫn đến
những chiếc xe bị vỡ kính, bị tàn phá đến mức độ khủng khiếp.

Trang 10
Dù cho xe có bị sức ép của bom đạn, dù cho xe có bị méo mó hay xước xát thì nó
cũng chẳng thể làm lung lay được ý chí của những người chiến sỹ mà cũng chẳng khiến
họ phải bận tâm vì xe không kính :
Ung dung buồng lái ta ngồi
Từ Ung dung được đảo vị trí lên đầu đoạn thơ chính là một lựa chọn tinh tế của tác giả
nhằm làm nổi bật tư thế hiên ngang, tự tin, dũng cảm của những tay súng trong buồng lái.
Biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp của con người đất Việt đều hội tụ đủ trong người chiến
sỹ. Khi cầm lái, người chiến sỹ đã nhìn ngắm cảnh vật bên ngoài :
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Với nhịp thơ cân đối 2/2/2 cùng điệp từ nhìn đã bộc lộ những tình cảm khó tả của
người thanh niên đôi mươi còn e ngại. Mỗi cái nhìn là một tâm trạng khác nhau trong trái
tim sắt đá của người thanh niên. Nhìn đất để thêm gắn gắn bó, thương yêu với con đường
mòn quen thuộc này. Nhìn trời để phòng khi giặc thả bom xuống còn mau chạy. Nhìn
thẳng vào con đường Trường Sơn xa xăm, bất tận để khẳng định với lòng mình rằng con
đường ấy dù thế nào cũng cần vượt qua, mau mau đến đích còn biết bao người cầm súng
khác chờ đợi. Bởi thế phải biết tự tin trước nghịch cảnh; đương đầu với gian khổ mà tiến
lên phía trước. Qua những cái nhìn đắm đuối của anh ta thấy anh thật dũng cảm, bất
khuất và trang nghiêm biết bao.
2. Khổ thơ 2: Hình ảnh người lính lái xe
Mỗi ngày, mỗi giờ người chiến sĩ đền gặp những cơn gió phả vào mặt cụ thể nhìn rất
rõ qua biện pháp nhân hóa và điệp từ trong câu thơ :
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
. Người lính ấy không chỉ cảm nhận được cơn gió vào xoa mắt đắng mà nó còn để lại cho
anh những hình ảnh trong đôi mắt trắng dã do nhiều ngày không lái xe không ngừng
nghỉ. Những cơn gió đã giúp anh xoa dịu vị đắng và mỏi nhức đến khó chịu để ngày mai
rồi mai nữa vẫn trắng đêm không ngủ. Có một cảm giác mà chính trong đôi mắt người
chiến sỹ thấy rõ là khi Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Chiếc xe lao vun vút về phía
trước trong khi con đường đã dần thu nhỏ vào máu thịt người chiến sỹ. Hình ảnh ấy đặc
sắc làm nổi bật lên sự bản lĩnh, vượt khó của những tay lái Trường Sơn. Một nơi nào đó
trong tâm hồn lãng mạn, trẻ trung của mình cùng những thi liệu về gió, sao, trời và cánh
chim để để cho tâm hồn người thi sĩ dần chiếm lấy thể xác người chiến sĩ. Trái tim người
lính vẫn luôn luôn dạt dào tình cảm dành cho Tổ Quốc, quê hương chắc chắn rằng con
đường cách mạng anh đang đi là con đường lí tưởng nhất của cuộc đời, là con đường
minh chứng cho tình yêu nước của bản thân.
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Tâm hồn người chiến sỹ vẫn luôn bay bổng theo tiếng gọi của thi vị. Nếu điệp ngữ
nhìn thấy thể hiện rằng đó là sự quan sát có chuẩn bị, chủ động thì từ nhìn và đột ngột chỉ
sự nhanh chóng đến bất ngờ của những ánh sao sáng và những cánh chim đêm. Một cái
nhìn hết sức tinh tế, dù chỉ là những ngôi sao xa xa hay những cánh chim thấp thoáng
cũng đủ làm cho anh chú tâm. Chính nhờ giọng thơ hóm hỉnh và tươi vui cùng vẻ ngang
Trang 11
tàn, lạc quan, coi thường nguy hiểm của những người cầm lái trên tuyến đường Trường
Sơn đã cho ta một cái nhìn mới mẻ về họ. Họ cũng yêu nước, yêu đời, yêu thiên nhiên và
lạc quan, vui vẻ.
3. Khổ thơ 3 + 4: Sự tàn khốc của chiến tranh và tinh thần người lính
Dù biết chiến tranh khó khăn là vậy, những tay lái Trường Sơn vẫn luôn vững tin vào
chiến thắng, hướng về miền Nam, đặc biệt họ luôn lạc quan, tích cực và coi thường nguy
hiểm :
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính, ừ thì ướt áo


Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Bước vào đoạn thơ, Phạm Tiến Duật sử dụng những từ ngữ tự nhiên, câu thơ như văn
xuôi, giọng điệu thản nhiên pha chút ngang tàn của tuổi trẻ cùng các phép điệp cấu trúc
câu dễ nhận thấy như : không có kính ừ thì …, chưa cần...thể hiện sự cứng cỏi, biết biến
những khó khăn thành điều thú vị trong cuộc sống. Trên tuyến đường ngày đêm không
nghỉ ấy, bụi mịt mù trời đất, cách gang tấc chẳng thấy gì mà xe cứ trần trụi không kính,
bụi chui qua mọi ngóc ngách luồn vào xe, bám lên đầu người lính chẳng thể khuất phục
họ - họ là những chiến binh bản lĩnh, không bao giờ lùi bước. Lại phải kể đến gian khổ
giữa những cơn mưa rừng, điệp từ mưa tác giả đưa vào thật dữ dội, như cây chổi quất
thẳng vào mắt người, khiến áo ướt, người lạnh. Nhưng vẫn giữ mãi tinh thần thép họ dứt
khoát chưa cần thay để hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước tin tưởng giao cho –
lái vài trăm cây số đến khi mưa ngừng mới thôi. Qua những từ láy tượng hình, tượng
thanh như phì phèo, haha, mau khô thôi… ta không chỉ thấy dáng vẻ hiên ngang, ngạo
nghễ của những anh thanh niên trên tuyến đường Trường Sơn mà đâu đó nó còn phần
nào át đi tiếng mưa bom bão đạn, át đi những thiếu thốn, khó khăn. Họ chấp nhận mọi
gian khổ, họ xem đó là những thử thách để khẳng định lòng yêu nước, ý chí, lòng lạc
quan của mình. Tiếng cười haha vang lên giữa núi rừng Trường Sơn còn đang bùng cháy,
gợi cho ta cảm giác gì bình thản và nhẹ nhõm hẳn. Hai khổ thơ mở ra trong gian khổ,
khép lại trong lạc quan để rồi bắt gặp những chàng Thạch Sanh của thế kỉ chiến tranh
kiên cường, hiên ngang mà pha chút tinh nghịch của tuổi trẻ.

Bài làm:
“Xe ta quý ta yêu
Ôi chiếc xe đồng chí
Cùng ta lăn sớm chiều
Cùng ta đi đánh Mĩ.”
(“Bài ca lái xe đêm” – Tố Hữu)
Trong cuộc trường chinh chống Mĩ, để giải phóng quê hương, để giành lấy độc lập, để dành lại tự do cho dân tộc,
người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật tiêu biểu, hội tụ những gì cao đẹp nhất. Những chàng trai đó
Trang 12
đã được nhân dân và thế giới khâm phục, ngưỡng mộ. Hình ảnh anh chiến sĩ hào hùng, sôi nổi, trẻ trung đã trở
thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài bất tận cho các nhà thơ, nhà văn sáng tác. Là một nhà thơ phục vụ trong
quân đội, phục vụ trong binh đòan lái xe vận tải, trên con đường máu lửa Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã cảm
nhận sâu sắc cuộc sống người chiến sĩ lái xe trên con đường lịch sử này. Ông đã sáng tác một bài thơ hay, một bài
thơ độc đáo. Đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Phân tích bài thơ, ta mới cảm nhận, hiểu biết đầy đủ hơn
về người lính, đồng thời đó ta cũng sẽ thấy được nét đặc sắc về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ.
Trên con đường rừng Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với tên gọi “đường mòn Hồ Chí Minh”, những chiếc
xe thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường tiếp viện. Những chiếc xe và chiến sĩ lái xe trở thành quen
thuộc, đáng yêu. Nhà thơ viết về họ với phong cách tự nhiên thật độc đáo.
Nguồn cảm hứng của nhà thơ bắt nguồn từ hiện thực”chiếc xe không có kính” và càng bất ngờ hơn, gây ấn tượng
mạnh mẽ hơn là không chỉ có một chiếc xe thôi đâu mà là cả một “ tiểu đội xe không kính”. Hình ảnh những chiếc
xe đó được nhấn mạnh trong câu thơ đầu tiên, một lời giới thiệu khá độc đáo, thân thương:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”.
Câu thơ thoạt nghe như lời kể lể, giải bày. Với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giống như lời nói của người chiến sĩ
giới thiệu chiếc xe yêu quý mà mình đang sử dụng. Xe vốn thường có kính và chiếc xe có kính là điều bình thường,
không có gì đáng nói. Chi tiết tả thực không có kính mới gây sự chú ý, bất ngờ và là một thực tế có sức khơi gợi
mạch thơ, có sức khơi gợi lòng người. Nếu vế đầu của câu thơ đó có tính chất phủ định thì ở vế sau của câu thơ
lại nhằm khẳng định, nhấn mạnh”không phải vì xe không có kính”. À! Thì ra trước kia vẫn nguyên vẹn, lành lặn
với các bộ phận đó chứ đâu phải xe mới ra đời là đã không có kính. Vậy tại sao lại có sự không bình thường ấy
chứ? Vì sao cả một”tiểu đội xe không kính”? Nhà thơ bước vào tư thế, vị trí kiên cường của người chiến sĩ lái xe
để trả lời:
“Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.
Thì ra cái lí do, cái nguyên nhân là vì chiến tranh mà ra cả. Chiến tranh phá hoại chiếc xe, làm cho chiếc xe tàn tạ,
trở thành chiếc xe không mui, không đèn, không thể không xước đi, yếu dần. Điệp từ “bom” kết hợp với các động
từ”giật”,”rung”đã tái hiện lại không khí, tính chất khốc liệt, gay go của cuộc chiến đấu giữa ta và giặc, phơi bày và
tố cáo bản chất hung bạo, ngông cuồng của quân giặc.”Mưa bom bão đạn” của chúng dội xuống Trường Sơn thật là
dữ dội, ác liệt. Bọn chúng định dùng sức mạnh với các vũ khí hiện đại để chặn đường tiếp tế, tiến công của ta, làm
lung lay ý chí, tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ. Sức ép của bom đạn khi nổ, những mảnh bom trúng vào
chiến sĩ, trúng vào chiếc xe khiến cho chiếc xe bị trầy, khiến cho chiếc xe”kính vỡ đi rồi”.Lời thơ vẫn nhẹ nhàng
thể hiện sự bình thản của người cầm lái. Đối lập với thực tế khó khăn, khắc nghiệt về điều kiện bởi những chiếc xe
bị hư hại là thái độ của người chiến sĩ lái xe: ”Ung dung buồng lái ta ngồi”
Từ “ung dung” đặt trong phép đảo ngữ như đang diễn tả thái độ tự tin, bình tĩnh, không một chút nao núng, run sợ
của người chiến sĩ. Bất chấp mọi trở ngại, gian khổ, mặc kệ những hiểm nguy, người lính vẫn vững vàng ngồi vào
buồng lái để làm nhiệm vụ. Thái độ ấy xuất phát từ phẩm chất gan dạ, anh hùng và từ chiếc xe không kính, người
chiến sĩ đã quan sát cảnh vật bên ngoài”Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Câu thơ viết theo nhip hai-hai-hai thật cân đối. Nó thể hiện sự nhịp nhàng, thăng bằng của chiếc xe đang lăn bánh
và nhất là thái độ tự tin, bình tĩnh của người cầm lái. Điệp ngữ“nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ cach quan
sát của người chiến sĩ. Một vẻ đẹp xuất phát từ tâm hồn, tấm lòng của anh. Cách nhìn chăm chú đó biểu lộ niềm
yêu thương của anh với thiên nhiên và cuộc sống, sự quyết tâm vững vàng trong nhiệm vụ. Anh “nhìn đất”để thêm
gắn bó, yêu thương con đường Trường Sơn hào hùng, thân thuộc để dẫn đưa chiếc xe đến chổ, nơi an tòan, mau
mau đến đích. Anh”nhìn trời”để tâm hồn thêm lạc quan, bay bỗng, thêm tin tưởng vào tương lai. Anh”nhìn thẳng”
là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường trước mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian khổ, khó khăn thử
thách của mình để thêm cương quyết, tích cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu với bao hiểm nguy, gian khổ, khó
khăn. Bởi thế, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao.
Chiếc xe của anh không còn bộ phận nào để che chắn nên giờ nay người chiến sĩ đã tiếp xúc trực tiếp với thế gới
bên ngoài khi chiếc xe lao đi, lao đi mà không ngỏanh lại:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”

Cảm giác của người chiến sĩ về cơn gió là cảm giác trực diện. Anh không chỉ cảm thấy cơn gió vào “xoa mắt
đắng” mà đã nhìn thấy cơn gió vô hình. Để làm giảm bớt vị đắng, sự khó chịu nơi con mắt bỡi những ngày đêm
thức trắng để lái xe không nghỉ ngơi, anh đã cho chị gió xoa mắt đắng, xoa nó đi để rồi ngày mai anh đi tiếp, đi tiếp
về tương lai. Cảm giác ấy càng phát triển mạnh mẽ khi anh “nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Sự liên
tưởng ấy thật đẹp và thật độc đáo khi chiếc xe lao tới, con đường lúc ấy như chạy ngược về phía trước. Sự tin
tưởng phù hợp với tấm lòng của người lái, đó là tấm lòng nhiệt tình, hăng say trong nhiệm vụ. Trái tim người
chiến sĩ luôn luôn dạt dào tình yêu Tổ Quốc, quê hương mà đặc biệt là con đường thân thuộc, gần gũi, con đường
hứng chịu bao bom đạn máu lửa. Chiếc xe vẫn cứ lao nhanh, lao xa đi mãi, tiến lên phía trước vì người lính biết rõ
mục đích, lí tưởng công việc cao cả của mình là cống hiến, hoạt độn vì ai, để làm gì?
Trang 13
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Cuộc chiến ấy thật hiểm nguy, thử thách nhưng tâm hồn người chiến sĩ luôn lãng mạn, bay bỗng khi anh quan sát
từ chiếc xe không kính để thấy”sao trời, cánh chim”. Có lẽ, tâm hồn anh phải hân hoan, phơi phới yêu đời nên mới
có được cảm nhận”…mhư sa, như ùa vào buồng lái.”. Nếu điệp ngữ ”nhìn thấy” diễn tả thái độ quan sát chủ động
của người chiến sĩ đối với cảnh vật thì động từ “thấy” lại nhấn mạnh đến sự xuất hiện bất ngờ, mau lẹ, “đột
ngột” của cánh chim đêm. Cách nhìn ấy thật là tinh tế! Một ánh sao, một cánh chim lạc đàn cũng làm anh chú ý,
quan tâm và xao xuyến. Nhịp thơ trở nên nhanh gấp, sôi nổi thể hiện tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên, sự lạc quan
của người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ. Như một bài ca đã từng viết:
“Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào
Dù thân thể thiên nhiên mang đầy thương tích.”

Đối với người chiến sĩ lái xe, chiếc xe “không kính” đem lại những cảm giác khi lao đi trên đường vắng. Nhưng
đó cũng là nguyên nhân gây ra hậu quả:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.”
Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ vẻ lạ lùng, độc đáo của
chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.
Mất đi bộ phận chắn che, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp từ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn
mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của bụi:bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả không gian, cả đất trời trong mỗi lần xe
chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá Đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về
cơn bụi nơi đây, nó vội vã như người lính, ngöôøi chiến binh hào huøng:
“Đòan quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.”
Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ đã ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc tai, đầy khuôn người lính biến thành hình
tượng ngộ nghĩnh, đáng yêu qua cách so sánh của nhà thơ “tóc trắng như người già”. Phải chăng đây chính là
“những con quỷ mắt đen” như Lê Minh Khuê đã diển tả về các cô thanh niên xung phong trên cao điểm Trường
Sơn? Anh chiến sĩ đôi mươi kia, trẻ trung, sôi động giờ đây đã được “hóa trang” thành một con người khác, già đi
gấp bội bởi lớp bụi dày bám lên tóc. Cái gian khổ của anh chiến sĩ lái xe được diễn tả lại sao mà nhẹ nhàng đến
thế. Họ không kêu ca, than vãn mà lại lấy chính cái gian khổ của mình để tự động viên mình bằng cách khôi hài nữa
ấy chứ.
“Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”
Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn “mưa bụi nhiệm màu” thì thái độ “chưa cần rửa”
lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khổ. Gian khổ này dường như không tác động ñeán ý chí, quyết
tâm của anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.
Và thêm một chặng đường là thêm hàng triệu khó khăn chồng chất. Đòan xe phải gặp những trận mưa rừng, gặp
gió bụi Trường Sơn. Thật là khủng khiếp bởi lẽ:
“Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như rõ mình.”
Khi xe không có mui xe che chắn thì thực tế sẽ ra sao? Những hạt mưa rừng như những nhát chổi quất vào mặt
người lính, khó khăm biết bao cho cuộc lái xe! Thế là người lính nếm đủ mùi gian khổ mà thái độ thì vẫn ngang
tàng, phơi phới, lạc quan:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Với cấu trúc được lặp lại “không có kính”,”ừ thì”và ngôn ngữ bình dị, giọng điệu ngang tàng lại một lần nữa thể
hiện thái độ bất chấp của người lính. Chiếc xe không kính ấy đi vào mùa nào, thời tiết nào cũng đều gian khổ cả.
Điệp ngữ “mưa” kết hợp với những từ gợi tả thật đẹp “tuôn, xối” gợi lên những cơn mưa thật dữ dội, khiến
người lính lái xe bị “ướt áo”. Thái độ của người lính được thể hiện dứt khoát “chưa cần thay “. Họ mặc kệ cái ướt
át, lạnh giá để tiếp tục nhiệm vụ “lái trăm cây số nữa”.Lời nói thật giản dị, đơn sơ nhưng thể hiện quyết tâm lớn
của người chiến sĩ: xe phải đến tới đích , ý thức trách nhiệm, đóng góp cho cuộc chiến của họ thật đẹp, thật đáng
quý biết bao! Họ lái xe cho đến khi “mưa ngừng” và trong suy nghĩ của họ cũng thật, bình dị:
“Mưa ngừng, gió lùa thô mau thôi.”
Rõ rằng người lính đã quên mình vì nhiệm vụ và với ý thức tự nguyện đây. Tâm hồn của người chiến sĩ sôi nổi,
yêu đời da diết.

Trang 14
Bản chất của người lính lái xe là đi, nhưng phải có lúc họ phải dừng lại trú quân:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội.”
Câu thơ miêu tả cuộc gặp gỡ vui vầy trong không khí đòan kết, gắn bó, chia sẻ ngọt bùi sau những trân chiến ác
liệt, căng thẳng:
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Chiếc xe không kính kia phải có lúc ngừng chạy. Đó là khi chúng hòan thành xong nhiệm vụ. Ta bắt gặp được một
nét đẹp khác nơi họ. Đó chính là tình đồng đội, đồng chí của những anh lính lái xe. Khác hăn so với hình ảnh của
những anh vệ quốc quân với một nụ cười hòan tòan “buốt giá”, không biết bao giờ mình mới trở lại được quê
hương. Còn anh giải phóng quân giữa chiến trường ác liệt, họ cũng không cảm thấy buồn chán, vì quanh họ còn có
biết đồng đội gần gũi, yêu thương. Trong cuộc hành trình vất vả đó họ đã “gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”,
đem đến cho họ sự vui tươi, than ái. Từ “họp, gặp” diển tả những cuộc hội ngộ của những người lính trẻ trung,
cùng chí hướng thì hình ảnh “bắt tay nhau” thật đẹp đẽ, biểu hiện sự đồng cảm, thân ái, yêu thương của những
người chiến sĩ.
Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng thắm thiết, cảm động hơn khi họ
cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm dã chiến:
“Bếp Hòang Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Họ đã chiến đấu, công tác trên con đường Trường Sơn khi cần nghỉ ngơi họ lại lấy con đường than yêu ấy làm
nhà. Họ trò chuyện, cười đùa với nhau thật thoải mái, than mật. Họ dựng bếp Hòang Cầm giữa trời, “võng mắc
chông chênh”sau những giờ phút căng thăng giữa chiến trường. Hai hình ảnh “Bếp Hòang Cầm” và “võng mắc
chông chênh” là hai nét vẽ hiện thực làm sống lại hiện thực chiến trường. Các anh vừa nấu cơm vừa chợp mắt trên
cái “võng mắc chông chênh”. Bữa cơm chiến trường đơn sơ, giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm vui tình đồng đội:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm xẻ nửa, chăn xui đắp cùng”
(Tố Hữu)
Để rồi từ đây, cái định nghĩa về gia đình của các anh chiến sĩ mới ngộ nghĩnh làm sao!
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Một gia đình vui tươi, trẻ trung gồm những người lính trẻ đã hình thành khi “chung bát đũa”. Nhưng chỉ trong một
thóang chốc để rồi sau đó người chiến sĩ lại tiếp tục hành quân:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Điệp ngữ “lại đi” đã diễn tả một công việc quen thuộc của người lính nhưng đồng thời cũng biểu lộ nhiệt tình, khí
thế khẩn trương sôi nổi của họ. Trước mắt họ, “trời xanh thêm” như báo hiệu một ngày công tác, chiến đấu, nhưng
lại phù hợp với tâm hồn trẻ trung, yêu đời của người lính cũng như niềm lạc quan, tin tưởng của họ vào tương lai,
vào cuộc sống.
Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng nhạc điệu, hình ảnh trong khổ thơ
cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hòan thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe quân sự trên tuyến đường
Trường Sơn trong những năm đánh Mĩ. Bốn dòng thơ dựng lại hai hình ảnh rất thú vị, bất ngờ:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Khổ thơ cuối vốn là ngôn ngữ giản dị, đơn sơ. Điệp ngữ “không có” như nhấn mạnh, làm rõ những khó khăn, trở
ngại dồn dập, liên tiếp. Khi những bộ phận cần thiết của của chiếc xe đã bị bom đạn làm hư hại. Cài “không có” là
kính, la đèn, là mui xe, còn cái “có” lại là “thùng xe có xước”. Thế mà người chiến sĩ vẫn tiếp tục điều khiển cho xe
chạy. “Xe vẫn chạy” chứ không chịu ngừng nghỉ, nằm yên. Điều gì đã thôi thúc người chiến sĩ tận tụy, quên mình
nhiệm vụ, coi thường những gian khổ, khó khăn?
Tất cả là bởi một mục đích, mợt lí tưởng cao cả “vì miền Nam phía trước”. Lòng yêu nước nồng nàn, ý thức căm
thù giặc cao độ đã giúp cho người chiến sĩ sẵn sàng quên mình vì nhiệm vụ. Ước mong cao đẹp nhất là mong muốn
giành được độc lập, tự do cho “Tổ Quốc”, mang lại hòa bình độc lập cho quê hương. Cội nguồn sức mạnh của
người chiến sĩ lái xe, sự dũng cảm kiên cường của người chiến sĩ được diễn tả thật bất ngờ, sâu sắc:
“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Thì ra “ trái tim” cháy bỏng tình yêu thương Tổ Quốc đồng bào miền Nam ruột thịt đã khích lệ, động viên người
chiến sĩ vượt qua bao gian khó, luôn bình tĩnh, tự tin để cầm chắc tay lái đưa xe đi tới đích. Hình ảnh bất ngờ ở câu
cuối đã lí giải được tất cả mọi vấn đề. Câu thơ bình dị như lời nói hằng ngày nhưng lại ẩn chứa một ý tượng sâu
Trang 15
sắc về một chân lí thời đại. Sức mạnh để chiến thắng không phải vũ khí hiện đại, phương tiện tối tân, đầy đủ tiện
nghi mà chính là con người với trái tim nồng nàn yêu thương đất nước nhân dân, sôi sục long căm thù quân giặc. Ý
chí bất khuất kiên cường ấy giúp cho con người lướt thẳng mọi trở ngại, khó khăn.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay, đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Chẳng ngẫu nhiên mà nhà thơ
đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Chất thơ tỏa ra từ thực tế của cuộc chiến đấu, từ
niềm vui của người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ tóat ra từ sự giản dị, đơn sơ của ngôn từ, sự sáng
tạo bất ngờ của các chi tiết, hình ảnh anh lính Cụ Hồ.
Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Cám ơn nhà
thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thơì gian khổ mà hào hùng, đã quên
mình vì quê hương, đất nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha
xưa kia và để hòan thành nhiệm vụ hôm nay. Chúng ta hãy tự hào về họ, những người chiến sĩ Trường Sơn:
“Ôi đất anh hùng dễ mấy mươi
Chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi
Mưa bom bão đạn lòng thanh thản
Nhạt muối vơi cơm miệng vẫn cười.”
(Tố Hữu)

Trang 16

You might also like