You are on page 1of 37

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ


----------

BÀI THẢO LUẬN


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI 2: SINH VIÊN ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ
TƯỞNG ĐẠO ĐỨC, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn: Ngô Thị Minh Nguyệt

Lớp học phần: 2021HCMI0111

Nhóm thực hiện: 2

Hà Nội, 2021

DANH SÁCH NHÓM


Đánh
STT Họ và tên MSV Công việc Ý thức tham gia
giá

Nhóm
Nguyễn Thị Kim Tích cực tham gia,
11 19D130215 trưởng, nội Tốt
Cúc nộp bài đúng hạn
dung

Có tinh thần trách


Nội dung,
12 Trần Thị Cúc 19D130006 nhiệm, nộp bài đúng Tốt
Powerpoit
hạn

Tích cực tham gia,


13 Nguyễn Thế Cường 19D130076 Nội dung Tốt
nọp bài đúng hạn

Đóng góp ý kiến, nộp


14 Vũ Trung Đức 18D220130 Nội dung Tốt
bài đúng hạn

Nguyễn Thị Thùy Tích cực tham gia,


15 19D130077 Nội dung Tốt
Dung nộp bài đúng hạn

Có tinh thần trách


16 Hoàng Trung Dũng 19D130147 Nội dung nhiệm, nộp bài đúng Tốt
hạn

Nguyễn Thị Ánh Có trách nhiệm, nộp


17 19D130007 Nội dung Tốt
Dương bài đúng hạn

Nguyễn Thị Thùy Nội dung, Tích cực tham gia,


18 19D130078 Tốt
Dương Powerpoit nộp bài đúng hạn

Thư ký, nội Tích cực tham gia,


19 Nguyễn Thị Giang 19D130008 Tốt
dung nộp bài đúng hạn

Tích cực tham gia,


20 Nguyễn Thị Giang 19D130218 Nội dung Tốt
nộp bài đúng hạn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
BIÊN BẢN HỌP NHÓM THẢO LUẬN
Nhóm: 02            Lớp: 2121HCMI0111
I. Thời gian và địa điểm
1. Thời gian: 10/04/2021
2. Địa điểm: Canteen Đại học Thương Mại
II. Thành phần tham dự

11. Nguyễn Thị Kim Cúc - NT 16. Hoàng Trung Dũng

12. Trần Thị Cúc 17. Nguyễn Thị Ánh Dương

13. Nguyễn Thế Cường 18. Nguyễn Thị Thùy Dung

14. Vũ Trung Đức 19. Nguyễn Thị Giang - TK

15. Nguyễn Thị Thùy Dung 20. Nguyễn Thị Giang

III. Nội dung buổi họp


- Kiểm tra, chỉnh sửa, tóm tắt lại phần công việc đã hoàn thành
- Nhắc nhở một số vấn đề liên quan
IV. Đánh giá chung
- Buổi họp diễn ra sôi nổi, mọi người tham gia đóng góp ý kiến nhiệt tình. 
- Nhóm làm việc tốt, có tính tự giác cao và có tinh thần trách nhiệm với công việc của
nhóm

Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2021


Thư ký Nhóm trưởng
Nguyễn Thị Giang Nguyễn Thị Kim Cúc

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT..........................................................................................2
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức..............................................................................2
1.1 Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức cạnh mạng...................................2
1.2 Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng............................................4
1.3. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng so với đạo
đức truyền thống..........................................................................................................7
1.4. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng..........................12
2. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.............................................................................18
PHẦN II: THỰC TRẠNG SINH VIÊN ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HỌC TẬP VÀ LÀM
THEO TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH................23
1. Ưu điểm.....................................................................................................................23
2. Hạn chế...................................................................................................................... 25
PHẦN III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THƯƠNG MẠI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...............................................29
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................33
LỜI MỞ ĐẦU

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta và tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân
ta; là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam noi theo. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
là tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại nhưng đồng thời
cũng là tấm gương đạo đức của một người chân chính, bình thường, gần gũi, ai cũng có
thể học theo, làm theo, để trở thành một người công dân tốt hơn trong xã hội.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp
để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tiêu cực về đạo đức, lối sống. Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán
bộ, đảng viên, mỗi người Việt Nam chúng ta. Thế hệ thanh niên ngày nay cần nhận thức
được rằng học tập tư tưởng đạo đức phong cách HCM là cách giúp chúng ta hoàn thiện
bản thân, giúp chúng ta sống tốt hơn, đẹp hơn. Học tập tư tưởng phong cách của Bác là cả
quá trình lâu dài và mãi mãi. Vì vậy mà chúng em chọn đề tài: Sinh viên ĐH Thương Mại
học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay làm đề tài thảo luận để thấy được thực trạng và đưa ra những giải pháp nhằm
nâng cao đạo đức cho sinh viên Thương Mại trong giai đoạn hiện nay.
Do tầm hiểu biết còn chưa được sâu rộng vì vậy mà bài thảo luận không tránh khỏi
những sai sót. Em hy vọng rằng sẽ nhận được những đóng góp và nhận xét của quý thầy
cô và các bạn.

1
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1 Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức cạnh mạng
a. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của
cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Người từng nói “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài
người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình
đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”.
Đạo đức là sức mạnh của con người. Làm cách mạng là một việc lớn nên càng phải
có sức mạnh.  Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một
sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất
phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang”.
Theo Hồ Chí Minh, có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần, thì sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình cũng
không tiếc. Có đạo đức cách mạng thì gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần
gian khổ, chất phác khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm
vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu,
không kiêu ngạo, không hủ hóa. Hồ Chí Minh chỉ rõ "tuy năng lực và công việc của mỗi
người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều
là người cao thượng".
Trên cơ sở xác định vai trò to lớn của đạo đức cách mạng, Người yêu cầu mỗi cán
bộ đảng viên phải không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức. Theo Người, yêu
cầu đạo đức người cán bộ cần có là trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư; thương yêu con người, sống có tình nghĩa; tinh thần quốc tế trong sáng.
Người đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy

2
tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa
xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Đạo đức là một đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa, là sức mạnh trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Xác định
được vai trò to lớn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh
cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm cho toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc  những nội dung cơ bản và giá trị to lớn
của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách
của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, vì Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
b. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội không phải ở lý tưởng cao xa
nào, mà trước hết, cụ thể và trực tiếp là ở những người cộng sản ưu tú bằng tấm gương
sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó thành hiện thực. Củng cố hay làm
suy giảm niềm tin của quần chúng vào tương lai của chủ nghĩa xã hội không phải ở những
sai lầm và thất bại tạm thời, mà chủ yếu là ở sự sa sút thoái hóa của những người được
mệnh danh là “những chiến sĩ tiên phong” của cách mạng.
Nhận thức được vai trò và sức mạnh của sự nêu gương, Hồ Chí Minh thường xuyên
nhắc đến tấm gương đạo đức của V.I.Lênin: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà
chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản
dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân
tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”.
Hồ Chí Minh cho rằng, đã là cán bộ, đảng viên thì trước hết phải trở thành một công
dân mẫu mực, làm nòng cốt cho giữ gìn phẩm chất đạo đức và kỷ cương xã hội. Sự mực
thước, nêu gương của người cán bộ, đảng viên trước nhân dân là vô cùng cần thiết.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai
chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách
đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng là theo lý tưởng cộng sản
chủ nghĩa. Đặc trưng của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là tính nhân đạo chân chính, với
phương châm “tất cả vì con người, vì hạnh phúc của con người”. Sự thỏa mãn toàn diện

3
và triệt để nhu cầu vật chất và tinh thần của con người khiến lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
mang giá trị đạo đức, văn minh.
Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn Đảng ta “chủ nghĩa cộng sản là mục đích cuối
cùng của Đảng ta. Đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản là lẽ sống của người đảng viên...,
mỗi đảng viên nâng cao quyết tâm phấn đấu suốt đời cho lý tưởng cộng sản..., cần luôn
luôn ghi nhớ: Người cộng sản chúng ta không được phút nào quên lý tưởng cao cả của
mình là: suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, làm cho chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ quốc ta và trên thế giới”.
Đảng xác định mục tiêu của mình là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người, xây dựng một xã hội mới văn minh tiến bộ - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Chính vì vậy, Đảng đại diện cho lực lượng tiên tiến, là bộ phận tinh hoa của xã hội, là một
tập thể đại diện cho văn minh, tiến bộ.
Đạo đức cách mạng là gốc của Đảng cách mạng. Gốc có vững bền, nền mới chắc.
Không có đạo đức cách mạng, Đảng không có sức mạnh, không hoàn thành được sứ
mệnh lịch sử trước giai cấp và dân tộc.
Muốn biết Đảng đó như thế nào hãy nhìn vào đội ngũ đảng viên. Đảng viên tốt, thì
Đảng mạnh. Theo Hồ Chí Minh: “Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc
kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân
dân. Những người mà: “Giàu sang không thể quyến rũ/Nghèo khó không thể chuyển
lay/Uy lực không thể khuất phục”.
Đảng là một tập thể bao gồm hầu hết những đảng viên vững vàng về chính trị, giỏi
về chuyên môn, tài đức vẹn toàn, kết thành một tổ chức có năng lực trí tuệ cao, có trình
độ văn hóa, có lý luận tiên phong đủ sức dẫn đường cho quần chúng trong các giai đoạn
phát triển của lịch sử.
1.2 Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
a) Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi
phối các phẩm chất khác.
Tư tưởng này của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị yêu nước truyền thống
của dân tộc mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó.
Hồ Chí Minh sử dụng hai khái niệm: “trung”, “hiếu” với nội hàm mới, trong đó
trung với nước bằng yêu nước, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, trung thành với sự
4
nghiệp dựng nước và giữ nước suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng, làm dân
giàu, nước mạnh. Còn hiếu với dân bằng thương dân, tin dân, học dân, kính dân, lấy dân
làm gốc, hết lòng phụng sự nhân dân và phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân.
b) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó
là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người, là đại cương đạo
đức Hồ Chí Minh.
Đây là một biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất “trung với nước, hiếu với
dân”. Không chỉ vậy, đây còn là những khái niệm đạo đức cũ được Hồ Chí Minh tiếp thu,
chọn lọc, đưa vào những nội dung mới phù hợp với yêu cầu cách mạng, trong đó:
“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”. “Muốn cho chữ Cần có nhiều
kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc”. Cần tức là lao động cần cù, siêng
năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh
sinh, không lười biếng.
“Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân,
của nước, của bản thân mình, không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu
bù. “Tiết kiệm không phải bủn xỉn. Khi không tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên
tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc thì dù bao nhiêu công,
tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là tiết kiệm. Việc đáng tiêu mà
không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là tiết kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa
xỉ”. Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. Hồ Chí Minh yêu
cầu “Phải cần kiệm xây dựng nước nhà”.
Liêm “là trong sạch, không tham lam”; là liêm khiết “luôn luôn tôn trọng giữ gìn
của công, của dân”,”Liêm là không tham địa vị, tiền tài, sung sướng. Không ham tâng bốc
mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là
ham học, ham làm, ham tiến bộ”. “Chữ liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Có Kiệm mới có
LIêm được”
“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Chính được thể hiện rõ
trong ba mối quan hệ: “Đối với mình- chớ tự kiêu, tự đại”. “Đối với người …Chớ nịnh
hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn,… Phải

5
thực hành chữ Bác- Ái”. “Đối với việc: Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư,
việc nhà”, “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.
“Chí công vô tư” là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công
bằng, không chút thiên tư, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân,
của dân tộc lên trên hết, trước hết. Chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tạp thể, chống chủ
nghĩa cá nhân.
c) Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Quan niệm của Bác về con người rất toàn diện và độc đáo. Bác xác định tình yêu
thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Bác dành tình yêu
thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột, Bác
viết: “tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”.
Tình yêu thương của Bác còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm.
Với tấm lòng bao dung của một người cha, Bác căn dặn, chúng ta: “Mỗi con người đều có
thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như
hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với
những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải
giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người này nở để đẩy lùi phần
ác, chứ không phải đập cho tơi bời”.
Trong Di chúc, Bác căn dặn Đảng: phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc
nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người.
d) Tinh thần quốc tế trong sáng
Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một mệnh
đề “bốn phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức,
với nhân dân lao động các nước mà Bác đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng
thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của dân tộc, là tinh thần đoàn
kết của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới vì hòa bình, công
lý và tiến bộ xã hội, vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội, là tinh
thần hợp tác và hữu nghị.

6
1.3. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng so với đạo
đức truyền thống
a. Trung với nước, hiếu với dân
Hồ Chí Minh cho rằng phẩm chất đạo đức quan trọng và bao trùm nhất của con
người Việt Nam là trung với nước, hiếu với dân. Trong tư tưởng đạo đức truyền thống
Việt Nam và Phương Đông, trung và hiếu là những khái niệm quen thuộc, giữ vai trò chủ
đạo trong đời sống tinh thần của cá nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, Người đưa vào
những nội dung mới.
Theo quan điểm truyền thống, trung là trung quân, là trung thành với vua mà trung
thành với vua là trung thành với nước. Ở đây vua với nước là một. Nói về chữ “trung”
trong chế độ phong kiến nước ta, GS Trần Văn Giàu viết: “Chúng ta chú ý rằng, suốt
trong một thời gian dài, bao gồm từ Lê tới Nguyễn, Nho giáo chính thống chỉ nói trung
quân mà không hề nói đến ái quốc, chỉ nói đến quan hệ vua tôi mà không hề nói đến quan
hệ nước dân. Nho giáo không dạy tư tưởng yêu nước mà chỉ dạy tư tưởng trung quân.
Điều này gây nên một đám mây mù bao phủ tâm trí rất đông người”. Hiếu có nghĩa là
con, cháu hiếu thảo với ông bà cha mẹ, ông bà, chữ hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia
đình. Ca dao Việt Nam có câu: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không chỉ đã kế thừa được
những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống mà còn vượt qua được hạn chế của
truyền thống đó. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Nước ở đây là nước của nhân dân, nhân dân là người chủ của đất nước. Hồ Chí Minh luôn
xác định “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Đảng và
Chính phủ là “đầy tớ của nhân dân, chứ không phải là “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ
nhân dân”. Về chữ hiếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người cho rằng hiếu là hiếu với
dân. Hiếu với dân không chỉ là hiếu với cha mẹ mình như người xưa vẫn nói, mà là hiếu
với nhân dân, với toàn dân tộc, vì “nước lấy dân làm gốc”, dân là “gốc” của nước. Bác chỉ
ra rằng: “Người kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình, chí hiếu nhất. Vì sao?
Nếu không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hàng chục triệu bố mẹ người
khác cũng bị đế quốc phong kiến giày vò. Mình không những cứu bố mẹ mình mà còn
cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước nữa… Chữ tình, chữ hiếu, cũng phải hiểu một
cách rộng và hiểu như thế mới là đúng”. Như vậy quan niệm trung với nước hiếu với dân

7
trong Tư tưởng Hồ chí Minh đã khác so với trước. Điều này đã làm cho Tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng ‘’điều chủ chốt nhất’’ của đạo đức
cách mạng là ‘’tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân’’, là ‘’trung với nước, hiếu
với dân’’, hơn nữa phải là ‘’tận trung, tận hiếu’’ thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo,
vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng hiếu với dân không còn dừng lại ở
chỗ thương dân mà còn phải phục vụ hết lòng vì dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với
dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh
đạo, phải nắm vững dân tình. Hiểu rõ dân tâm, phải thường xuyên quan tâm đến việc cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất
nước. Có như vậy người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Hồ Chí Minh chỉ rõ “cần, kiệm, liêm, chính” là yêu cầu nhất thiết phải có, là “tứ
đức” cơ bản làm nên “gốc” của người cách mạng. Là một nhà macxit nhưng rất am tường
về Nho giáo, Hồ Chí Minh đã dùng các phạm trù đạo đức Nho giáo như Cần, Kiệm,
Liêm, Chính để nói về đạo đức cách mạng. Tuy nhiên, năng lực cách tân đã làm tư tưởng
của Người có những nét đặc sắc riêng biệt.
Khi nói về đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh chữ CẦN nhất và trước hết bởi sự
siêng năng, cần cù là nguồn gốc của văn minh và tiến bộ xã hội. Đã bao đời nay nhân loại
nói về sự cần cù, siêng năng nhưng chữ CẦN của Hồ Chí Minh có nội dung mới. Nếu
người xưa chỉ chú trọng sự cần cù trong lao động sản xuất và trong học tập thì Hồ Chí
Minh cho rằng chúng ta còn phải cần cù, kiên trì cả trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Khi
người nói “chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa” thì đó
chính là sắc thái mới của chữ Cần trong thời đại chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực
dân.
Chữ Kiệm của Hồ Chí Minh cũng hết sức mới mẻ. Nếu trong văn hóa truyền thống,
Kiệm là hà tiện, căn cơ để làm giàu (Buôn thuyền bán bè không bằng ăn dè, hà tiện) thì
với Hồ Chí Minh, Kiệm không phải là bủn xỉn, hà tiện mà là chi tiêu hợp lý để làm lợi
cho dân. Đặc biệt hơn nữa, Hồ Chí Minh đã mở rộng tối đa nội dung của Kiệm. Đó không
chỉ là kiệm của cải, vật chất mà còn là kiệm thời gian, kiệm sức dân, kiệm nhân tài, chất
xám. Một thứ kiệm nữa mà Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh là kiệm xương máu của nhân
dân. Với lòng yêu thương con người, khi buộc phải tiến hành các cuộc kháng chiến để
bảo vệ Tổ quốc, Người yêu cầu phải đánh sao cho sự tổn hại ở mức thấp nhất chứ không
8
thể “nhất tướng công thành vạn xác khô”. Cuối cùng, Kiệm đối với Hồ Chí Minh còn là
kiệm lời theo phương châm “nói ít, bắt đầu bằng hành động”. Hồ Chí Minh cũng đưa ra
quan điểm mới về đức Liêm. Nếu trong ngũ thường của Nho giáo (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín)
không có đức Liêm thì với Hồ Chí Minh, Liêm – tức là liêm khiết, không tham lam, vơ
vét của công và của dân – là một phẩm chất không thể thiếu của người cách mạng. Từ lúc
Đảng chưa ra đời, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã yêu cầu người
cách mạng phải “ít lòng ham muốn về vật chất”. Khi Đảng trở thành đảng cầm quyền thì
chữ Liêm càng quan trọng vì nếu thiếu nó thì cán bộ “biến thành sâu mọt của dân”. Chẳng
vậy mà sau cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Chính phủ sau đây phải là
một chính phủ liêm khiết”.
Phẩm chất cuối cùng trong “tứ đức” của Hồ Chí Minh là đức Chính. Trong ngũ
thường của Nho giáo không có đức Chính nhưng Hồ Chí Minh lại luôn yêu cầu người cán
bộ phải “chính tâm và thân dân”. Người có đức Chính là người thẳng thắn, đúng mực
không chỉ trong hành động mà ngay cả trong suy nghĩ thầm kín của mình mà người xưa
gọi là “tư vô tà”. Đặc biệt, người đó phải biết bảo vệ lẽ phải, phụng sự lẽ phải mà với Hồ
Chí Minh, lẽ phải lớn nhất, chân lý lớn nhất là lợi ích của dân nên người có đức Chính
phải là người “vì dân chứ không vì mình”. Như vậy, Hồ Chí Minh đã thổi linh hồn vào
những khái niệm cũ, sáng tạo và gạt bỏ những cái không phù hợp trong những khái niệm
cũ.
Quản Trọng, nhà chính trị, nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc thời Xuân Thu viết
trong sách Quản Tử của mình: “Phong vũ chí công nhi vô tư” nghĩa là “gió mưa rất công
bình và không thiên vị”, nói lên tính khách quan của thế giới tự nhiên. Trong Hán ngữ,
chí công vô tư đồng nghĩa với đại công vô tư. Bản dịch chữ Hán Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh của BCH TW Đảng (Thế giới, Hà Nội, 2008) đều dịch chí công vô tư là đại
công vô tư. Ta có thể hiểu “chí công vô tư/ đại công vô tư” có nghĩa là: Khách quan, công
bình, chính trực; không thiên vị, không tự tư, tự lợi; mọi hành động đều vì đại nghĩa, vì
lợi ích chính đáng của nhân loại, quốc gia, dân tộc, cộng đồng là trên hết.Thấm nhuần tinh
hoa văn hóa Phương Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu sâu sắc giá trị của tinh thần chí
công vô tư để tự rèn luyện cho bản thân mình, đồng thời xem đây là một trong những
phẩm chất quan trọng của đạo đức cách mạng, cần phải giáo dục cho cán bộ, Nhân dân.
Thông qua trí tuệ Hồ Chí Minh, trên tinh thần kế thừa có chọn lọc và phát triển, “chí công
vô tư” có nội dung và ý nghĩa mới, phù hợp với mục tiêu, lý tưởng của cuộc cách mạng
do Người lãnh đạo. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Hồ Chí Minh viết về
cách rèn luyện đạo đức cách mạng, phẩm chất chí công vô tư như sau: “Người đảng viên,
9
người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều
đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào
thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày
càng ít, mà những tính tốt: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm ngày càng tăng thêm”. Như vậy,
quan điểm của Hồ Chí Minh về chí công vô tư rất rộng, trong đó chứa đựng nhiều phẩm
chất tốt đẹp khác. Khi nghiên cứu toàn bộ tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, các nhà nghiên
cứu đã rút ra những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cách mạng mà Người đã đề
cập là: Trung với nước, hiếu với dân; giàu lòng yêu thương con người; cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư; có tinh thần quốc tế vô sản trong sáng. Các phẩm chất của đạo đức
cách mạng này có quan hệ chặt chẽ với nhau, làm tiền đề và là sự thể hiện của nhau.
c. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo.
Nếu như trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất của mỗi con người – công dân
đối với Tổ quốc, đối với Nhân dân, thì yêu thương con người là trách nhiệm của mỗi con
người đối với con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đây là phẩm chất cao đẹp nhất
của con người. Yêu thương con người trước hết là tình cảm dành cho những người bị áp
bức, bóc lột, những người cùng khổ. Yêu thương con người còn được thể hiện trong mối
quan hệ hằng ngày với những người đồng chí xung quanh, trong cuộc sống bình thường.
Phải luôn nghiêm khắc với bản thân, nhưng rộng rãi độ lượng với người khác.
Người từng dạy: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi, đó
là thái độ của người cách mạng”. Điều đặc biệt là ở Người, yêu thương con người luôn
luôn gắn với niềm tin vào con người, tin vào lương tri, tin vào lòng dũng cảm, tin vào sức
sáng tạo của họ trong hành trình con người tự giải phóng lấy mình, để con người làm chủ
xã hội, làm chủ bản thân mình.
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt miền xuôi
hay miền ngược, già hay trẻ, trai hay gái... hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ
trong tấm lòng nhân ái của Người, nhưng trước hết là dành cho những người cùng khổ,
những người lao động bị áp bức, bóc lột. Không có tình yêu thương đó, không có thể nói
đến cách mạng, càng không thể nói đến lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Tình yêu thương đó
gắn liền với thái độ tôn trọng con người, biết cách ngăn đỡ con người, rộng lượng và
khoan dung với người, đồng thời nghiêm khắc với mình.

10
Vì yêu thương vô hạn đối với con người, Hồ Chí Minh coi đấu tranh giải phóng dân
tộc, giành độc lập tự do là con đường để giải phóng con người, coi con người được giải
phóng và được sống trong độc lập, tự do là nguyện vọng sâu xa và hạnh phúc lớn lao của
chính con người.
Yêu thương con người gắn liền với niềm tin tuyệt đối vào khả năng tự giải phóng
của con người, vào năng lực và khát vọng vươn lên tự hoàn thiện mình theo lý tưởng
chân, thiện, mỹ.
Tình yêu thương con người, theo Hồ Chí Minh, còn được thể hiện đối với những
người có sai lầm khuyết điểm, nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai lầm và cố gắng sửa
chữa, kể cả đối với những người lầm đường lạc loi đã hối cải kể cả đối với những kẻ thù
đã bị thương, bị bắt hoặc đã chịu quy hàng. Chính tình yêu thương đó đã đánh thức những
gì tốt đẹp mà Hồ Chí Minh tin rằng trong mỗi người đều có, tuy nhiều ít có khác nhau.
Trong Di chúc , Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Đây chính là điều nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu
thương con người. Đây là tình thương yêu trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một
cách chân thành, nghiêm túc giữa những người cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự
nghiệp chung. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ dĩ hòa vi quý bao che sai lầm khuyết điểm
cho nhau, càng xa lạ với thái độ yêu nên tốt, ghét nên xấu, bè cánh có thể đưa đến những
tổn thất lớn cho Đảng, cho cách mạng.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tinh thần quốc tế trong sáng là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh
đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản đều là anh em”; là tinh thần đoàn kết với
các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun
đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng
của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến
bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại
là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn
nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Tinh thần quốc tế trong sáng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được bắt nguồn
từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, là

11
một phẩm chất quan trọng trong tư tưởng đạo đức của Người. Hồ Chí Minh coi cách
mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, cho nên theo Người:
“Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả. Đã là đồng chí, thì
sung sướng cực khổ phải có nhau”. Đó là cơ sở bền vững để xây dựng tình cảm cách
mạng trong sáng, thuỷ chung giữa các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động trên thế
giới trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, vì nền độc lập của mỗi quốc gia dân tộc và
quyền tự do, hạnh phúc của mỗi con người.
Tinh thần quốc tế trong sáng phải được thể hiện trong việc kết hợp chặt chẽ giữa chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, gắn mục tiêu cách mạng của mỗi
nước với mục tiêu chung của thời đại: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Nhận thức rõ điều đó nên trong quá trình tìm đường cứu nước cũng như sau này trở
thành lãnh tụ của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc giáo dục chủ nghĩa
quốc tế vô sản cho Nhân dân ta. Người nhắc nhở: “Tinh thần yêu nước chân chính khác
với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc
tế”. Tinh thần quốc tế chân chính, trong sáng là yêu cầu và phẩm chất đạo đức mới của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt ra ngoài
quốc gia, dân tộc, xây dựng tình đoàn kết “bốn hương vô sản đều là anh em”, tình đoàn
kết với các dân tộc, với nhân dân các nước, với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì
hòa bình, hữu nghị, công lý và tiến bộ xã hội.
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối
quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc. Không phải đối với bất cứ ai, vào
bất cứ lúc nào cũng thấy được tinh thần quốc tế có hay không, trong sáng hay không trong
sáng, nhưng việc giáo dục của Đảng và việc rèn luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần
quốc tế lại không thể coi nhẹ. Trong vấn đề này, đường lối chính trị của Đảng lãnh đạo và
những chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà nước có ý nghĩa định hướng đúng đắn cho
việc bồi dưỡng tinh thần quốc tế ở mỗi người.
1.4. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng 
Để xây dựng một nền đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc
cơ bản để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng, cũng như cho việc rèn luyện của mỗi
người:

12
a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
Điều này đã được Hồ Chí Minh nói ngay trong Đường Cách mệnh, khi đề cập tư
cách của một người cách mệnh. Trong suốt cuộc đời mình, Người đã giáo dục mọi người
và chính bản thân Người đã thực hiện điều đó một cách nghiêm túc và đầy đủ nhất. Hơn
nữa, chúng ta còn thấy Người nói ít nhưng làm nhiều, có những vấn đề đạo đức Người
làm mà không nói. Phải đi sâu vào hành vi đạo đức của Người, chúng ta mới khám phá ra
được những tầng bản chất sâu xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu quả thiết
thực cho chính bản thân mình và có tác dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều làm ít,
nói mà không làm, hơn nữa nói một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả
phản tác dụng. "Hãy làm theo tôi nói, đừng làm theo tôi làm", thói đạo đức giả ấy là đặc
trưng đạo đức của các giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử của xã hội loài người,
trong mỗi quốc gia dân tộc, nó hoàn toàn xa lạ với đạo đức cách mạng, với nền đạo đức
mới mà chúng ta cần xây dựng. Chúng ta phải phấn đấu để làm sao trong xã hội ta không
còn những kẻ đạo đức giả, càng không cho phép những kẻ đạo đức giả vẫn đi dạy dỗ
người khác về đạo đức Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chủ nghĩa xã hội một
phần quan trọng phụ thuộc vào vấn đề này.
Từ đó, chúng ta cũng thấy rằng không ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại được
đặt ra như trong lĩnh vực đạo đức. Trong gia đình thì đó là tấm gương của bố mẹ đối với
con cái, của anh chị đối với những người em; trong nhà trường thì đó là tấm gương của
thầy cô giáo đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể, Đảng, Nhà nước là tấm gương của
những người phụ trách, lãnh đạo, của cấp lên đối với cấp dưới, trong xã hội thì đó là tấm
gương của người này đối với người khác, những gương "người tốt việc tốt" mà Hồ Chí
Minh đã phát hiện để mọi người học tập noi theo. Một trăm bài diễn văn hay không bằng
một tấm gương sống, điều mà Hồ Chí Minh nói về Lênin, đã đặt ra cho việc xây dựng đạo
đức mới một nguyên tắc rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức. Đó cũng là điều chúng ta
thấy ở Hồ Chí Minh - một tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời của một cuộc đời trọn
vẹn.
Trong xã hội, tấm gương của các thế hệ trước đối với các thế hệ sau là đặc biệt quan
trọng. Mỗi thế hệ đều có trách nhiệm của mình, nhưng thế hệ trước bao giờ cũng có trách
nhiệm rất nặng nề đối với thế hệ sau trong việc giáo dưỡng, nhất là trong việc bồi dưỡng
về đạo đức. Đương nhiên trong cuộc sống không phải bao giờ cũng chỉ diễn ra một chiều

13
ảnh hưởng, tác động như vậy, do đó Hồ Chí Minh cũng đã nói đến việc người già có thể
học tập người trẻ để không ngừng hoàn thiện đạo đức của mình.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã nêu ra một luận điểm quan trọng:
"Trước mặt quần chúng, không phải ta có viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu
mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân
dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước". Luận điểm ấy đã khẳng định rất
rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng đặc biệt  trong đời sống đạo đức, nhất là đối với
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Tấm gương đạo đức của Bác Hồ là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các thế hệ
người Việt Nam mãi mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các anh hùng, chiến sĩ
thi đua, những tấm gương của những người tiêu biểu trong từng ngành, từng tập thể,
những tấm gương "người tốt việc tốt" rất gần gũi trong đời thường, có ở mọi nơi mọi lúc
mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nói: "Từng giọt nước
nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành sông. Biết bao nhiêu
giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả. Một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có cái
nền rất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu
dài mà không chú ý đến cái nền. Như thế chỉ thấy cái ngọn mà quên mất cái gốc.
Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa
tuổi nào cũng có".
Như vậy, những tấm gương đạo đức đã được hiểu theo một nghĩa rộng. Có những
tấm gương chung và riêng, lớn và nhỏ, xa và gần. Một nền đạo đức mới chỉ được xây
dựng trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những phẩm chất đạo đức, những chuẩn
mực đạo đức đã trở thành hành vi đạo đức ngày càng phổ biến trong toàn xã hội, mà
những tấm gương đạo đức của những người tiêu biểu, những người tốt việc tốt có ý nghĩa
thúc đẩy cho quá trình đó.
b. Xây đi đôi với chống
Muốn xây dựng đạo đức mới, muốn bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cách mạng
cho hàng triệu, hàng triệu con người - cán bộ, đảng viên, các công dân trong các giai tầng
khác nhau, thì cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết là
phải chống những biểu hiện sai trái xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới,
những hiện tượng vẫn thường gọi là tệ nạn, tiêu cực, thoái hóa biến chất. Trong đời sống

14
hàng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức vẫn
thường đan xen nhau, đối chọi nhau, thông qua hành vi của những con người khác nhau.
Hơn nữa những đan xen và đối chọi ấy còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi người. Chính
vì vậy việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức hoàn toàn không đơn giản. Xây phải đi
đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những
phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà trường và ngoài xã
hội, nhất là trong những tập thể - nơi mà phần lớn thời gian cuộc đời mỗi người gắn bó
bằng hoạt động thực tiễn của mình. Những phẩm chất chung nhất, cơ bản nhất lại phải
được cụ thể hóa cho sát hợp với từng giai tầng, từng lớp đối tượng khác nhau. Đó là điều
Hồ Chí Minh đã làm trong việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, cho công nhân,
nông dân, phụ nữ, trí thức, văn nghệ sĩ. cho thiếu niên nhi đồng, cho bộ đội, công an, các
tướng lĩnh, v.v...
Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành
mạnh ở mọi người, để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình
và như Hồ Chí Minh đã nói, cảm nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là
việc làm "sung sướng vẻ vang nhất trên đời này". Tiếp nhận sự giáo dục đạo đức là vấn đề
nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi người
còn quan trọng hơn nhiều. Phải chăng sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là khơi dậy sự tự giác của mỗi người nhằm đấu tranh tự loại bỏ cái thấp hèn để
vươn tới cái cao đẹp, loại bỏ cái ác; cái vô đạo đức để vươn tới cái thiện, cái đạo đức.
Chắc chắn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản tương lai càng phải như vậy, và đó cũng
chính là điều mà Hồ Chí Minh nói về niềm vui của việc trau dồi đạo đức phải trở thành
phổ biến trong xã hội .
Trong khi xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mới, phải đồng thời
chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức vẫn thường diễn ra. Điều quan trọng là phải phát
hiện sớm, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch lành mạnh về đạo đức.
Hơn nữa còn phải thấy trước những gì có thể xảy ra để đề phòng, ngăn chặn.
Ngay trong thời kỳ 1925 - 1927, khi bồi dưỡng những lớp cán bộ cách mạng đầu
tiên theo đường lối cách mạng mới, Nguyễn Ái Quốc đã nhắc nhở mọi người không được
hiếu danh, kiêu ngạo, phải ít lòng ham muốn về vật chất. Chỉ hai tháng sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người
đã phát hiện thấy nhiều loại lỗi lầm rất nặng nề của nhiều cán bộ, đảng viên: trái phép, cậy

15
thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Đến tháng 3 - 1947, trong thư gửi các đồng chí
Bắc Bộ, Người chỉ ra hàng chục thứ khuyết điểm cần phải tẩy sạch, đó là: địa phương chủ
nghĩa, bè phái, quân phiệt, quan liêu, hách dịch, hoạnh họe với dân, coi thường cấp trên,
lấn áp cấp dưới, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy vô kỷ luật - kỷ luật
không nghiêm, ích kỷ, hủ hóa, tranh giành địa vị, chỉ lo ăn ngon mặc đẹp, chiếm của công
làm của tư, lợi dụng địa vị công tác để buôn bán phát tài v.v. Trong tác phẩm Sửa đổi lối
làm việc, viết tháng 10/1947, Người lại vạch ra nhiều khuyết điểm sai lầm cụ thể hơn như
bệnh lười biếng, lười học, lười suy nghĩ; bệnh thích người khác tâng bốc, khen ngợi mình;
ưa sai khiến người khác, làm thầy người khác; bệnh tham lam, sinh hoạt xa hoa, tiêu xài
bừa bãi, xoay sở của đồng bào, buôn lậu, bệnh hữu danh vô thực, bệnh cận thị, bệnh ba
hoa nói suông, bệnh "cá nhân" với không biết bao nhiêu biểu hiện rất tệ hại. Đến năm
1952, Người đã quy tụ những tệ nạn cần phải chống vào ba loại chính là tham ô, lãng phí,
quan liêu. Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân, là
bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ "giặc nội xâm", "giặc ở trong lòng", phá
từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của những kẻ tham ô, lãng phí, quan liêu cũng
nặng như tội lỗi "việt gian, mật thám".
Phải kiên quyết chống lại những tệ nạn đó, vừa bằng giáo dục, vừa bằng xử phạt với
những mức độ nặng nhẹ khác nhau.
Tuy nhiên, trong bài nói về Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống
bệnh quan liêu lúc đó, có lẽ đây là lần duy nhất, Người đã trích dẫn khá dài những ý kiến
rất quyết liệt của Lênin về vấn đề này: "Cần phải nêu  những đồng chí đã ăn hối lộ ra để
cho dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng... Phải lập tức đề nghị một đạo
luật để trừng trị những vụ hối lộ (ăn hối lộ, tặng hối lộ, và những cách hối lộ khác), ít nhất
cũng phải phạt 10 năm giam cầm và l0 năm khổ sai". Trước việc Tòa án nhân dân Mạc Tư
Khoa xử nhẹ một vụ ăn hối lộ, Lênin không bằng lòng và viết: "Không xử bắn lũ ăn của
đút lót, mà xử một cách pha trò, mềm mỏng nhẹ nhàng như vậy, đó là một điều xấu hổ
cho những đảng viên cộng sản, cho những người cách mạng".
Đến năm 1958, Người đã vạch rõ nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, đó là chủ nghĩa cá
nhân. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ tệ nạn. Muốn xây dựng đạo đức mới, chung quy
lại là phải chống được chủ nghĩa cá nhân. Một bài báo gần cuối cùng mà Người để lại là
bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân , được công bố vào ngày
3/2/1969, nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng đã mang ý nghĩa xây phải đi đôi
với chống - muốn nâng cao đạo đức cách mạng thì phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

16
Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi, Hồ Chí
Minh đã phát động nhiều phong trào như vậy: Năm 1952, đó là phong trào thi đua thực
hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí - quan liêu; năm 1963, đó là cuộc vận động "nâng
cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế - tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống
tham ô - lãng phí - quan liêu", gọi tắt là cuộc vận động "3 xây, 3 chống". Có phong trào,
có cuộc vận động chung cho toàn Đảng, toàn dân; có phong trào, có cuộc vận động riêng
cho từng ngành, từng giới. Qua đó lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh nhằm xây gì,
chống gì rất cụ thể, rõ ràng, thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân, để mọi người phấn
đấu tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng. Thực tiễn chứng minh,
những cuộc vận động đó đã mang lại kết quả rất lớn.
c. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng
đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đấy cũng là công việc phải làm kiên trì bền bỉ suốt
đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn. Người thường nhắc lại luận điểm "chính
tâm, tu thân...", của Khổng Tử, từ đó rút ra ý nghĩa tích cực để vận dụng vào việc rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng của mỗi người. Người cũng thường nêu lại tấm
gương của người xưa, mỗi tối đều tự kiểm điểm để bỏ đỗ đen, đỗ trắng vào hai cái lọ, để
cứ nhìn vào đó có thể biết mình tốt xấu ra sao. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo
đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, đó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày
mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, ,vàng càng luyện càng
trong". Do không chú ý điều này, nên: Có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái,
trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch, nghĩa là có
công với cách mạng, song đến khi có ít quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ,
phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác mà biến thành người có tội với cách
mạng. Từ đó, Người đi đến một kết luận khái quát: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con
người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai
vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân. Cho nên trong khi ta kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ,
cứu nước, làm cho văn minh chiến thắng bạo tàn thì đồng thời phải loại trừ những cái xấu
xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và trong mỗi con người".
Đó là điều chúng ta vẫn thấy diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Có những người đã
phấn đấu gần hết cuộc đời, có nhiều công lao, nhưng cuối đời lại không giữ được tấm
lòng trong sáng, nên sự nghiệp đã đổ vỡ. Kết luận của Hồ Chí Minh cũng đúng với sự đổ

17
vỡ của một số Đảng ở cuối thế kỷ XX. Điều này cũng đúng như Lênin trước kia đã nhận
định: cái chết về đạo đức nhất định sẽ dẫn tới cái chết về chính trị.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đã là người thì ai cũng có chỗ hay chỗ dở, chỗ
xấu chỗ tất, ai cũng có thiện có ác ở trong bản thân mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào
con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay cái tốt, cái thiện để phát
huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục.
Đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động
thực tiễn, trong đời tư cũng như đời công - sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu; trong
mọi mối quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn - gia đình, nhà trường, xã hội; từ
quan hệ bạn bè, đồng chí, anh em đến quan hệ tập thể, với cấp trên cấp dưới, với Đảng,
với nước, với dân, và cả trong các mối quan hệ quốc tế. Trong cuộc sống, mỗi người có
nhiều cương vị, nhiều vai trò khác nhau đòi hỏi phải điều chỉnh hành vi của mình, và
phẩm chất đạo đức của :mỗi người được thể hiện rất cụ thể, phong phú, đa dạng. Có rèn
luyện công phu như vậy, con người mới có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp, và những
phẩm chất ấy ngày hàng được bồi đắp, nâng cao.
2. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt
Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã đi xa, nhưng để lại cho
chúng ta di sản tinh thần to lớn, những tư tưởng vô giá, những giá trị nhân văn cao cả,
trong đó đặc biệt là tư tưởng đạo đức cách mạng. Cả cuộc đời và sự nghiệp của Người là
tấm gương sáng ngời cho toàn Đảng, toàn dân ta nguyện phấn đấu suốt đời học tập và noi
theo. Người là tấm gương tiêu biểu cho lối sống giản dị và khiêm tốn, trung thực và trong
sáng, bao dung và độ lượng... Đó là những phẩm chất cao quý, tượng trưng cho những gì
tốt đẹp nhất trong tâm hồn, ý chí và nhân cách của người Việt Nam.
 Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong tư tưởng đạo đức “trung với nước, hiếu
với dân”
Đây là phẩm chất đạo đức bao trùm, quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất đạo
đức khác. Trung với nước phải gắn liền hiếu với dân.
Với tư cách là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, vị lãnh tụ của dân tộc, Hồ Chí
Minh luôn nhận thức rõ trách nhiệm cá nhân. Hồ Chí Minh luôn luôn tin ở con người, tin
tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân: dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm
“người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, “người lính vâng lệnh quốc dân, đồng bào
ra mặt trận”. Suốt đời hy sinh phấn đấu vì nước, vì dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ có một
18
mong muốn tột bậc là đất nước ta được hoàn toàn độc lập. dân ta được hưởng tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Người là tấm gương trọn đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người. Đúng như lời Bác đã nói “Mình cũng chẳng thần thánh gì,
cũng như tất cả mọi người thôi. Nhưng với hoàn cảnh đã qua và hiện nay, còn có điều
kiện nào mà nghĩ đến chuyện lập gia đình, không phải vì đạo đức mà là phải chịu đạo đức
đó thôi. Nhưng chưa lo được gia đình nhỏ thì ta hãy lo cho gia đình lớn đã vậy”.
Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng mục tiêu phấn
đấu cho cả cuộc đời mình là vì nước, vì dân. Trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng lâu
dài và gian khổ. Người đã chấp nhận sự hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng
cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện bằng được mục tiêu
đó.
 Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, thiếu
một đức thì không thành người, do đó không được tuyệt đối hóa hay xem nhẹ
đức tính nào
Bác ăn mặc rất giản dị và tiết kiệm "Chỉ có hai bộ áo quần ka-ki, một cái khăn tay
vải to và hai đôi bí tất. Khi ở Pa-ri về người ta thấy Hồ Chủ tịch mặc một bộ ka-ki đã vá.
Có người yêu cầu Chủ tịch thay bộ áo quần khác. Chủ tịch đáp: "Nhiều đồng bào ta, nều
được bộ áo quần như thế này cũng là tốt lắm. Thế thì việc gì tôi phải thay". Đôi dép cao
su của Bác, bộ quần áo ka ki sờn Bác vẫn dùng hàng ngày, khi biết các đồng chí phục vụ
định thay, Bác không đồng ý. Chiếc bút chì mòn vẹt Bác dùng để theo dõi tin tức trên
báo. Những trang bản thảo được Bác viết ở mặt sau của những tờ tin tham khảo của
VNTTX. Chiếc ô tô Bác đi công tác, đi thăm đồng báo chiến sĩ trong cả nước cũng chỉ là
loại xe bình thường, Bác không dùng điều hoà nhiệt độ do các đồng chí cán bộ ngoại giao
đang công tác ở ngoài biếu, mặc dù ngôi nhà Bác đang ở lúc đó (nhà 54, lúc này Bác chưa
chuyển sang nhà sàn) rất nóng. Bác đề nghị chuyển chiếc điều hoà nhiệt độ ấy cho các
đồng chí thương bệnh binh đang điều trị tại các trại điều dưỡng hoặc quân y viện. Trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên chiến khu Việt Bắc, Bác ở trong ngôi nhà sàn
đơn sơ, giản dị và đến khi cách mạng thành công, trở về Thủ đô, Bác cũng chỉ ở trong
ngôi nhà nhỏ của một người thợ điện, sau đó chuyển sang ở nhà sàn, chứ không ở ngôi
nhà to, sang trọng của toàn quyền Đông Dương. Bác dành ngôi nhà sang trọng đó làm nơi
đón tiếp khách của Đảng và Nhà nước. Những bữa ăn thanh đạm của Người "Thường là
dưa cà, đôi khi có thịt".

19
Sự tiết kiệm của Bác không chỉ thể hiện ở tác phong hay lối sống mà còn thể hiện
trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ. Là Chủ tịch nước, nhưng những năm tháng sống trên
chiến khu Việt Bắc, đi theo Bác cũng chỉ là tổ công tác có ít người nhưng kiêm đủ mọi
công việc. Cách mạng tháng Tám thành công, trở về Thủ đô, nhưng các đồng chí phục vụ
Bác ở Phủ chủ tịch cũng rất ít. Những khi đi công tác xa, Bác thường tạo điều kiện để các
đồng chí phục vụ được về thăm gia đình, điều này thể hiện sự quan tâm của Bác và cũng
là một hình thức tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời gian.
Nét nổi bật trong tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là đức tính khiêm tốn. Mặc dù
có công lao rất to lớn, nhưng Người luôn day dứt với một suy nghĩ chưa làm tròn nghĩa
vụ cách mạng với dân, với nước. Là lãnh tụ của dân tộc, có uy tín lớn nhưng không bao
giờ Người coi mình đứng cao hơn nhân dân, không để ai sùng bái cá nhân mình, chỉ tâm
niệm suốt đời là người phục vụ trung thành và tận tụy của nhân dân, “như một người lính
vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đang
tiếp tục tỏa sáng, lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội là minh chứng hùng hồn phản bác tất
cả những lời bịa đặt, xảo trá, thâm độc của những kẻ thù.
"Nói thì phải làm", chỉ với bốn từ đơn giản tưởng chừng như rất dễ thực hiện ấy,
nhưng suốt cả cuộc đời mình Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng phấn đấu làm gương
cho sự thống nhất giữa tư tưởng, lời nói với hành động và hiệu quả. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam quanh vinh và Bác Hồ vĩ đạI, nhân dân ta đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, giành độc lập tự do cho dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Một trong những yếu tố quan trọng làm nên thắng
lợi đó có vai trò to lớn của đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đại đa số
chiến sĩ cách mạng là người có đạo đức: Cả đời hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, sinh
hoạt ngày thường thì làm gương mẫu: gian khổ, chất phác, kính trọng của công... Đạo đức
ấy có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành xã hội mới và xây dựng mỹ tục
thuần phong".Và với bản thân mình, Bác đã làm đúng như khi trả lời các nhà báo nước
ngoài năm 1946 "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành".
 Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người nhân ái, vị tha, khoan
dung, nhân hậu, hết mực vì con người

20
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la với tất cả mọi kiếp người. Người dành tình
thương yêu cho tất cả. Người chia sẻ với mỗi người những nỗi đau. Người nói: “Mỗi
người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của
mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi". Bác luôn luôn đòi hỏi các cán
bộ, đảng viên phải tin yêu, quý trọng con người, phải kính già yêu trẻ và Bác là tấm
gương mẫu mực về tôn trọng con người. Với đồng bào, chiến sĩ cả nước và bạn bè quốc tế
ở khắp năm châu Bác dành trọn vẹn những tình cảm thương yêu, tình đồng chí, tình bạn
và tình người thân thiết. Bác đã từng khẳng định: Lòng thương yêu của tôi đối với nhân
dân và nhân loại không giờ thay đổi.
Thực tế, kể từ khi Đảng ta tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” đến nay, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh có sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội, tạo chuyển biến tích cực từ nhận
thức đến hành động của cán bộ, đảng viên. Trong những năm qua, đã xuất hiện nhiều điển
hình tiêu biểu trên các lĩnh vực, với nhiều hành động, việc làm có ý nghĩa thiết thực;
nhiều đồng chí đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên gương mẫu, đi
đầu trong học tập và làm theo Bác, thực hiện tác phong công tác gần dân, tôn trọng nhân
dân, tận tụy phục vụ nhân dân... Học tập và làm theo Bác đã hướng cán bộ, đảng viên và
mỗi người dân đến những giá trị chân, thiện, mỹ: Đó là tinh thần tự lực cách sinh không
đầu hàng số phận; là sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm;
là thái độ yêu thương con người, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; là tinh thần nguyện
cống hiến hết mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực sự, việc học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đang trở thành công việc tự giác,
thường xuyên của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, tích cực và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, thì việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức cách mạng của Người trở nên hết sức quan trọng. Bởi vì tư tưởng
đạo đức của Hồ Chí Minh luôn là bộ phận quan trọng của nền tảng tinh thần xã hội, là
động lực, nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy nội lực, vượt qua thách thức,
khó khăn để tiến lên. Đặc biệt, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người là một
biện pháp quan trọng để mọi cán bộ đảng viên và tổ chức đảng sửa chữa, khắc phục tình
trạng suy thoái “có tính nghiêm trọng” về đạo đức, lối sống, giữ vững niềm tin của nhân
dân về sự lãnh đạo của Đảng. Xác định việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh là việc làm hết sức thiết thực góp phần nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng,

21
sức chiến đấu của đảng, ý thức tu dưỡng, rèn luyện của bản thân; đặc biệt về nêu cao tinh
thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm.
 Hồ Chí Minh có tinh thần nghị lực to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách,
gian nguy để đạt được mục đích sống. Và đây cũng là một đức tính tốt đáng để
được các thế hệ sau học tập và noi theo
Người luôn kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ dân
tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân của các thế lực thù
địch, cơ hội dù Người đã phải trải qua rất nhiều khó khan, gian khổ, bị tù đầy, tra tấn
nhưng Người vẫn một lòng hướng về đất nước, hướng về người dân Việt Nam. Hết lòng
đấu tranh vì lí tưởng cao đẹp, Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế giới và bạn bè quốc tế
thừa nhận và kính trọng, “hiếm có một vị lãnh đạo nào trong những giờ phút thử thách lại
tỏ ra sáng suốt, bình thản, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường
như vậy”.

22
PHẦN II: THỰC TRẠNG SINH VIÊN ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HỌC TẬP VÀ
LÀM THEO TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1. Ưu điểm
 Về tinh thần trung với nước, hiếu với dân
- Sinh viên Thương Mại chúng ta đều mang tinh thần yêu nước, gắn liền với yêu
CNXH; trung thành với lý tưởng, con đường cách mạng mà đất nước, dân tộc đã
lựa chọn; có trách nhiệm bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
- Sinh viên tích cực tham gia các hoạt động đoàn, đảng, luôn học tập và cố gắng làm
theo tấm gương của Bác, luôn phấn đấu cho “dân giàu, nước mạnh”, cố gắng để có
một thế hệ mai sau phát triển hơn.
- Đa số sinh viên tự nhận thức rõ ràng luôn ý thức được phải trung thành với Tổ
quốc, với Đảng và kiên trì tu dưỡng, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, không
dao động trước khó khăn thử thách. Sinh viên có tinh thần tự cường dân tộc, có ý
chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
- Công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh được Bộ Giáo dục và nhà trường quan
tâm. Các sinh viên học tập tại trường đều được học tập và nghiên cứu sâu sắc tư
tưởng Hồ Chí Minh thông qua các môn học thuộc Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nhà trường treo nhiều biểu ngữ vừa có tác dụng tuyên truyền đạo đức Hồ Chí
Minh, vừa là lời nhắc nhở hằng ngày hướng sinh viên học tập và làm theo lời Bác.
- Đoàn - Hội sinh viên trường và các khoa tổ chức nhiều hoạt động, các cuộc thi tìm
hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền tham gia giao thông có ý thức, thực
hiện các công việc có trách nhiệm.
- Sinh viên Thương Mại đa số đều có ý thức tôn trọng người lớn, học hỏi thêm từ
những người dân những cái hay, cái tốt đẹp. Sinh viên luôn gắn bó với nhân dân,
đồng hành cùng dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng văn minh. 
 Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt
động hàng ngày của sinh viên Thương Mại
- Phần lớn sinh viên vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh: khiêm
tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập: sống có bản lĩnh, có chí lập thân, lập
23
nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đổi mặt với những khó khăn thách thức, dám
chịu trách nhiệm, không ỷ lại, chày lười.
- Kiên trì và cần cù là hai thứ mà sinh viên chúng ta đều đang phải cố gắng để có
được; có được kiên trì, chăm chỉ khi làm việc sẽ giúp chúng ta đạt được mục tiêu
chúng ta mong muốn.
- Đa số sinh viên của trường cũng ý thức được việc cần phải tiết kiệm chi tiêu để bố
mẹ đỡ vất vả vì mình. Một số sinh viên thì luôn cố gắng tiết kiệm thời gian, công
sức của mình để tận dụng thời sinh viên này cho học tập, tham gia tích cực các
hoạt động, làm thêm việc để tích thêm kinh nghiệm, rèn các kĩ năng và tu dưỡng,
hoàn thiện bản thân mình hơn. 
- Có thể thấy sinh viên Thương Mại khá là có ý thức trong việc giữ gìn của công,
không phá hoại các tài sản của nhà trường. Một số bạn sinh viên bị mất đồ họ cũng
tìm lại được.
- “Chính” là yếu tố các bạn sinh viên cần học hỏi, cố gắng làm những điều tốt dù là
nhỏ nhất, loại bỏ cái ác, đẩy lùi những tệ nạn ra khỏi xã hội để đất nước văn minh,
phát triển hơn. Chắc hẳn mỗi sinh viên chúng ta đều đang cố gắng thực hiện những
điều tốt, có ích cho xã hội và bài trừ đi những cái tiêu cực.
- Chí công vô tư - điều này có thể được thể hiện ở trong các nhóm thảo luận của các
môn học. Các bạn nhóm trưởng đa số đều thể hiện là những người công bằng, công
tâm, không thiên vị khi đánh giá các thành viên; luôn cố gắng vì lợi ích chung của
cả nhóm chứ không vì tư lợi, đem lợi ích về mình.
- Đối với mỗi bản thân sinh viên, luôn cố gắng thực hiện nếp sống văn minh, cần
kiệm, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, biết bảo vệ môi trường, không
ngừng học tập, nâng cao hiểu biết, thực hiện “cần, kiệm, liêm, liêm, chính, chí
công vô tư”.
 Thương yêu con người, sống có tình nghĩa đi liền với các hoạt động cụ thể
- Rất nhiều sinh viên tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các phong trào Đoàn-
Hội sinh viên tổ chức như: tri ân những người có công với cách mạng, những
người neo đơn, cơ nhỡ; giúp các bạn sinh viên có thành tích tốt mà có hoàn cảnh
khó khăn; ủng hộ người dân gặp thảm họa, thiên tai (quyên góp cho người dân
vùng lũ ở miền Trung vừa rồi).

24
- Nhà trường luôn có những chính sách học bổng cho các sinh viên có thành tích tốt,
hoạt động tốt; tuyên truyền, giáo dục các sinh viên cần phải luôn yêu thương con
người, sống có tình nghĩa, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn.
 Tinh thần quốc tế trong sáng
- Sinh viên đại học Thương Mại đa số có tinh thần quốc tế trong sáng; biết giữ gìn
truyền thống văn hóa nước nhà và học hỏi, tiếp thu những văn hóa tốt đẹp từ các
nước trên thế giới. Các sinh viên đang hàng ngày cố gắng hoàn thiện bản thân, học
tập để có thể hội nhập, làm việc cùng với các bạn ở nước khác, các công ty đa quốc
gia; luôn cố gắng để hội nhập, trở thành “công dân toàn cầu”.
- Có một số sinh viên đưa ra các phương thức học tập hay chế tạo các mô hình, giải
pháp nâng cao việc học tập và rèn luyện tri thức và đạo đức cho tất cả sinh viên.
Đây chính là sự sáng tạo hợp lý, sáng tạo vì lợi ích tập thể, thể hiện tài trí của thế
hệ trẻ Việt Nam.
- Sinh viên tham gia các cuộc thi về ngoại ngữ, các cuộc thi mang tính quốc tế, cố
gắng đạt được “sinh viên 5 tốt” (một trong những tiêu chí để đạt được danh hiệu
này là hội nhập tốt). Đây cũng là điều thể hiện sinh viên chúng ta đang cố gắng hội
nhập quốc tế tốt hơn.
- Phần lớn sinh viên đều không có thái độ phân biệt chủng tộc, coi thường người
nghèo; luôn coi trọng, học hỏi từ các bạn quốc tế.
2. Hạn chế
 Trung với nước, hiếu với dân
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc giữ gìn
và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống cũng như việc xây dựng hệ giá trị đạo đức
mới ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. Bên cạnh những
hệ giá trị mới được hình thành trong quá trình hội nhập, những cái tiêu cực cũng đang
xâm nhập vào đạo đức, lối sống của nhiều sinh viên. Một bộ phận sinh viên Đại học
Thương Mại đã coi nhẹ, phủ nhận vai trò của truyền thống, lịch sử, văn hóa dân tộc.
Trong số đó, có sinh viên chưa nắm vững hoặc mơ hồ về những kiến thức cơ bản của lịch
sử, văn hóa. Đại đa số sinh viên Đại học Thương Mại có bản lĩnh chính trị vững vàng,
luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi mới đất nước . Tuy nhiên, bên
cạnh đó vẫn còn một số sinh viên có biểu hiện thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào chế độ xã hội chủ nghĩa, thờ ơ với các sự kiện của đất nước và thế giới. Một số sinh
25
viên bị lôi kéo tham gia, tin theo một số đạo không hợp pháp. Có một bộ phận nhỏ sinh
viên bị tác động tiêu cực của văn hoá phương Tây, nên có nhận thức và hành động, phát
ngôn sai trái, phản cảm, nhất là trên mạng xã hội gây mối lo ngại sâu sắc.
 Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Vẫn còn sinh viên chưa có ý thức đúng với tư tưởng “Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư” để chung sức, chung lòng đóng góp sức lực trí tuệ xây dựng cơ quan, đơn vị,
thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước. Một vài biểu hiện không tốt của sinh
viên đại học Thương Mại như sau:
Đối lập với CẦN là thiếu chăm chỉ, thiếu tích cực trong công việc, lười học tập,
nghiên cứu… Một số sinh viên không nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ phân công, thiếu
tâm huyết, tận tuỵ với việc học. Sinh viên thể hiện ngại học tập, tích lũy tri thức, cập nhật
kiến thức mới và lười nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, lười học tập Chủ nghĩa Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Sinh viên chưa sáng tạo phương pháp học phù hợp, vốn chịu ảnh
hưởng của phương pháp học truyền thống là “học thuộc lòng”; chưa có thái độ và tâm lý
học tập đúng đắn nên không tích cực tham gia vào bài giảng của giảng viên, chưa đào sâu
nghiên cứu tài liệu theo yêu cầu của giảng viên đưa ra; chưa đóng góp vào bài giảng của
giảng viên. Trong quá trình học, phần lớn sinh viên còn lệ thuộc vào bài giảng của giảng
viên, chưa tích cực nghiên cứu giáo trình, tài liệu. Do đó trong giờ thảo luận và thực tế,
sinh viên ít tranh luận làm sáng tỏ những vấn đề thực tiễn đặt ra, hoặc ý kiến tranh luận
chưa sâu, cách lập luận giải quyết vấn đề chưa chặt chẽ, thiếu tính lôgic khoa học. Phần
lớn sinh viên thường ở vị trí khách thể, thụ động tiếp thu kiến thức và tìm cách tái hiện
những điều giảng viên đã giảng trên lớp. Thực trạng trên dẫn đến sinh viên nắm thực chất
vấn đề còn hạn chế, chưa chịu khó đào sâu suy nghĩ, thường rập khuôn một chiều theo
thầy và chấp nhận những giải pháp quen thuộc.
Đối lập với KIỆM là xa xỉ, lãng phí. Lãng phí thời gian là căn bệnh hay gặp nhất ở
sinh viên nói chung cũng như sinh viên đại học Thương Mại nói riêng. Đa số sinh viên
sau khi học xong trên trường thì thời gian còn lại không dành nhiều cho việc học.Trong
tiết học sẽ có một bộ phận sinh viên không học mà dành thời gian để ngủ, chơi game...
Lãng phí sức khỏe cũng là điều hay gặp ở các bạn sinh viên, nhưng đa số họ ít quan tâm
về điều này. Việc làm ảnh hưởng đến sức khỏe của sinh viên nhiều nhất, đó là ăn uống
không lành mạnh; sinh hoạt không khoa học, đúng giờ giấc. Sinh viên còn có biểu hiện

26
chi tiêu phung phí, phục vụ cho nhu cầu sống ảo hay sở thích của bản thân mặc dù còn
phụ thuộc vào kinh tế của gia đình.
Đối lập với LIÊM là tham tiền của, điển hình là tệ nạn trộm cắp. Chúng ta vẫn có thể
thấy các bài viết trên hội nhóm của trường Đại học Thương mại về việc sinh viên bị mất
cắp tài sản cá nhân như ví tiền, điện thoại, cặp sách, laptop,..., có trường hợp sinh viên
mất cả vali đồ đạc khi chuẩn bị về nghỉ tết; thậm chí là cả tài sản của các thầy cô giảng
viên. Tình trạng này thường diễn ra tại giảng đường học tập, sân tập thể dục hay khu kí
túc xá. Mặc dù đây chỉ là một bộ phận rất nhỏ sinh viên nhưng thực trạng này đang gây
ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh cũng như môi trường văn hóa của nhà trường.
Đối lập với CHÍNH là thiếu thẳng thắn, không đúng đắn, mờ ám,… Một bộ phận
sinh viên thể hiện chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, chỉ lo thu vén cá nhân,
không quan tâm đến lợi ích tập thể, ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người
khác hơn mình. Cụ thể đó là việc một số sinh viên tham gia hoạt động phong trào chỉ
mang tính hình thức, góp mặt để lấy điểm. Hay như trong việc thảo luận nhóm, phê bình
nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không lên tiếng vì các
thành viên sợ làm mất lòng nhau. Hiện nay việc tự phê bình, nhận khuyết điểm và sửa
chữa sai vẫn chưa được thực hiện tốt. Khi mắc sai lầm thì không dám nhận, không có tinh
thần sửa sai mà còn đổ lỗi cho hoàn cảnh, đổ lỗi cho khách quan. Phần đa sinh viên mới
chỉ dừng lại ở việc nhìn thấy điểm mạnh của mình, của mọi người để phấn đấu mà rất ít
người dám nhìn thẳng vào những điểm yếu để sửa chữa sai lầm. Ví dụ đơn giản như việc
sinh viên phát biểu ý kiến xây dựng bài trên lớp: nhiều sinh viên vì sợ sai mà không dám
đưa lên ý kiến của mình; hoặc sợ mọi người phê bình những điểm yếu, không dám đối
diện với sự thật, dẫu vẫn nhận thức được rằng “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”.
Ngoài ra, trong chữ “Chính” ấy Bác Hồ còn nói “phải để việc công lên trên hết”, về điều
này, ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, bên cạnh phần lớn những sinh viên có suy nghĩ
sau này ra trường sẽ đem kiến thức của mình đóng góp cho sự phát triển của đất nước,
làm giàu vì những mục đích chính đáng, vì bản thân, vì gia đình và vì sự tiến bộ xã
hội...đã có rất nhiều sinh viên có suy nghĩ mang khuynh hướng chủ nghĩa cá nhân, ham
danh vọng, địa vị, chức quyền, bất chấp mọi thủ đoạn để làm giàu.
 Yêu thương con người, sống có tình nghĩa
Cuộc đấu tranh giữa lối sống lành mạnh trung thực, yêu thương con người, sống có
tình nghĩa với lối sống ích kỉ, vô cảm đang diễn ra hàng ngày. Có những bạn sinh viên
hiện nay không biết nói lời “Xin lỗi” khi làm sai hay mắc lỗi và không biết “Cám ơn” khi

27
được giúp đỡ. Hiện tượng vô cảm còn diễn ra với chính bản thân các bạn, vô cảm với
những thành công, thất bại, với niềm vui hay nỗi buồn với kết quả học tập của bản thân.
Có sự vô cảm thụ động dẫn đến sự phủi tay không tham gia vào bất cứ việc gì của lớp,
của trường như: văn nghệ, thể thao, cắm trại …
Bạn bè và việc lựa chọn bạn để kết giao cũng là một vấn đề qua đó xu hướng lối
sống thực dụng được thể hiện. Có những người bạn đến với nhau, kết thân một cách rất
vô tư, nhưng cũng không ngoại lệ trường hợp đến với nhau để mưu cầu lợi ích nào đó.
Khi đó sự sẻ chia trong tình bạn không còn giá trị tốt đẹp, thay vào đó là sự lợi dụng để
đạt được mục đích cá nhân.
 Tinh thần quốc tế trong sáng
Một số sinh viên trong nhà trường vẫn chưa nhận thức rõ về tinh thần quốc tế trong
sáng. Ví dụ như việc thiếu các kiến thức thực tế về các mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết,
hợp tác toàn diện với Việt Nam; du nhập văn hóa tiêu cực; hay như khi trường tổ chức các
buổi tọa đàm, các chương trình giao lưu với khách mời nước ngoài để mở rộng kiến thức
thì sinh viên lại không tích cực tham gia.

28
PHẦN III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THƯƠNG MẠI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Thứ nhất, sinh viên cần luôn ghi nhớ nhiệm vụ “trung với nước, hiếu với dân, suốt
đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giải cấp, giải phóng con
người”.
- Sinh viên cần phải tuyệt đối trung thành với Đảng, tin tưởng vào Đảng và nhà
nước ta. Không nghe, tin theo và tuyên truyền những hình ảnh không tốt, vu
khống, hạ thấp uy tín của Đảng và nhà nước ta. Không tham gia các tổ chức phản
động nhằm phá hoại Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Hiện nay, chúng ta đang sống trong thời bình là nhờ xương máu, sự hy sinh của
các thế hệ ông cha ta. Chúng ta cần phải biết ơn đến những công lao to lớn của các
thế hệ đi trước. Chúng ta sống trong thời bình không có nghĩa là quên  đi nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc, bởi có rất nhiều thế lực thù địch đang hướng đến nước ta nhằm lật
đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Là sinh viên chúng ta cần nhận thức đúng đắn về
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, không nên có những biểu hiện quá
khích, tự phát, lôi kéo mọi người tham gia biểu tình,... gây khó khăn, cản trở trong
quá trình thực hiện các biện pháp đối ngoại của nước ta
- Thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của công nhân như quyền bầu cử,
thực hiện nghĩa vụ quân sự... chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Không vi
phạm các nội quy tại trường lớp, nơi cư trú; bài trừ những tệ nạn xã hội. Chúng ta
nên xây dựng nếp sống văn hóa, kính trên nhường dưới, hiếu thảo với ông bà, cha
mẹ; tôn sư trọng đạo; phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta
Thứ hai, luôn học hỏi, phát huy đạo đức cách mạng, sống thật thà, khiêm tốn, dũng
cảm như lời Bác đã dặn “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” - sống cần cù, tiết kiệm,
thanh liêm. 
- Luôn luôn trung thực trong học tập, thi cử không nhờ người học hộ, thi hộ, không
sử dụng tài liệu khi thi cử,... tích cực học tập, xây dựng bài trên lớp, giúp đỡ bạn bè
cùng nhau học tập. Phải đặt ra mục đích, mục tiêu cho bản thân mình, có tinh thần
tự giác học tập, nghiên cứu khoa học, đi học, làm bài tập đầy đủ và đúng giờ. Luôn
giữ lời hứa, nói phải đi đôi với làm, luôn chủ động trong học tập, nghiên cứu
- Có kế hoạch chi tiêu hợp lý, không chi tiêu hoang phí không có mục đích rõ ràng.
Không ăn chơi đua đòi, chạy đua theo những trào lưu, xu hướng không phù hợp
29
với lứa tuổi, điều kiện và văn hóa. Thường xuyên tự kiểm điểm, đánh giá bản thân
mình để hoàn thiện bản thân mình hơn.
- Nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công
nghệ hiện đại. Hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung
thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Thứ ba, sinh viên phải biết “Thương yêu con người, sống có tình nghĩa”
- Phải biết cách đối nhân xử thế, biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác, phải
có lòng khoan dung, sự độ lượng, vị tha và những chuẩn mực, giá trị đạo đức mà
con người nên sống theo
- Phải sống có tình nghĩa, khuyến khích quyên góp, ủng hộ đồng bào lũ lụt, đồng
bào vùng sâu vùng xa nhằm nâng cao tinh thần “tương thân tương ái”, nâng cao
lòng nhân ái của mỗi sinh viên. Mỗi việc làm của chúng ta tuy nhỏ nhưng nhiều
người làm sẽ tạo kết quả lớn và những việc tưởng chừng bình thường vậy lại tạo
được niềm vui lớn cho những người nhận được tình cảm đó. “Cho đi để được
nhận” mỗi chúng ta hãy sống xứng đáng với lương tâm của mình, học tập và làm
theo tấm gương Bác Hồ dạy thanh thiếu niên
- Luôn tự giác tu dưỡng bản thân, học hỏi điều hay lẽ phải và quyết liệt chống điều
xấu, luôn trau dồi vốn sống và kiến thức qua sách báo, giao lưu để làm đẹp thêm
cho tâm hồn
Thứ tư, sinh viên phải biết sống đoàn kết, phù hợp với tư tưởng “Tinh thần quốc tế
trong sáng” của Hồ Chí Minh. Luôn đoàn kết với nhân dân nhằm xây dựng một xã hội
công bằng, văn minh. Tuyệt đối không được ích kỷ, hẹp hòi, kỳ thị các dân tộc vùng sâu
vùng xa.

30
KẾT LUẬN

Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của Hồ Chí Minh là tài sản
tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào của mỗi người đối với Bác kính yêu - một con
người mà tư tưởng và tầm vóc vĩ đại đã vượt qua mọi không gian và thời gian, trở thành
một biểu tượng đẹp đẽ của văn minh nhân loại: Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân
văn hóa thế giới.
Vấn đề đạo đức cách mạng theo quan niệm của Hồ Chí Minh, là lĩnh vực nhạy cảm
của văn hoá và đồng thời là cái gốc của sự phát triển. Từ trong các bài nói, bài viết của
Hồ Chí Minh, nhất là từ cuộc sống thường nhật của Người, toát lên điều đó. Hình như đó
là cái triết lý sống của Người và cũng có thể gọi đó là triết lý phát triển mà Hồ Chí Minh
đưa ra cho mọi người, mọi dân tộc, mọi cộng đồng dân cư và cho mọi thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận ra sự nguy hiểm của bệnh “ cá nhân”,
đó là điều mà cuộc sống đang đòi hỏi phải làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời
sống đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song. Phải khắc phục các
nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực, càng phải khắc phục các nguyên nhân đã để cho
các tệ nạn đó phát triển.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất
nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng những phẩm chất
đạo đức. Trung với nước, hiếu với dân, thương người, cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư, tinh thần quốc tế trong sáng nêu trong di sản của Người, chúng ta còn phải đấu tranh
quyết liệt chống các tệ nạn xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường đang làm phương
hại đến nền đạo đức cách mạng.
Học tập tư tưởng trong đạo đức Hồ Chí Minh, thì Đảng và Nhà nước tiếp tục cổ
động phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể, cá nhân
có thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”, nêu gương sáng đạo đức
cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước do
Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng những phẩm chất đạo đức.
Trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư, tinh thần quốc tế trong sáng nêu trong đi chúc của Người, chúng ta cần phải đấu tranh

31
quyết liệt chống câc tệ nạn nảy sinh trong nền kinh tế thị trường đang làm phương hại đến
nền đạo đức cách mạng. Đối với trách nhiệm của sinh viên, thì chúng ta lại càng phải noi
gương và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

32
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bản sơ thảo giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2019

33

You might also like