Professional Documents
Culture Documents
ICC Các Năm
ICC Các Năm
Khái niệm ICC : Là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối
với đối tượng bảo hiểm (hàng hoá) về các mặt: Rủi ro tổn thất, thời gian, không gian - hay chính
là sự khoanh vùng các rủi ro bảo hiểm.
Chủ thể quy định : Do Uỷ ban kỹ thuật và điều khoản (Technical and clauses committee)
thuộc Học hội những người bảo hiểm London (Institute of London Underwriters - ILU) soạn
thảo. Các điều kiện bảo hiểm được gọi tắt là các ICC (Institute Cargo Clauses) và được áp dụng
rộng rãi trong hoạt động thương mại quốc tế
Mục đích chủ yếu của ICC: Bằng mọi cách, bảo vệ hòa bình cho các xí nghiệp kinh
doanh tư nhân. Đấu tranh để thủ tiêu những trở ngại về kinh tế và chính trị đang kìm hãm việc tự
do lưu thông tư bản, hàng hóa, sức lao động những nhà lãnh đạo ICC, dưới ảnh hưởng trực tiếp
của chủ nghĩa độc quyền quốc tế, đang đưa ra một mô hình về thế giới tư bản chủ nghĩa trong
tương lai như là một liên kết thống nhất trước hết là trong lĩnh vực kinh tế xã hội và sau đó là
trong lĩnh vực chính trị.
1. Nội dung cơ bản của ICC 1 - 1 - 1963
a. Điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất riêng (FPA – Free from Particular Average)
Điều kiện bảo hiểm FPA, trách nhiệm bảo hiểm bao gồm:
- TTTB ( Tổn thất toàn bộ) do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển hoặc dỡ hàng tại cảng
lánh nạn thuộc TTR.
- TTBP ( Tổn thất bộ phận) do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển hoặc dỡ hàng tại cảng
lánh nạn do rủi ro chính đem lại.
- Mất nguyên kiện hàng trong quá trình xếp dỡ, chuyển tải.
+ Chi phí đề phòng, hạn chế tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm do người thứ ba không phải
là người được bảo hiểm hay người làm công của họ gây nên.
+ Chi phí giám định tổn thất nếu tổn thất này do rủi ro được bảo hiểm gây ra.
Để đảm bảo an toàn tài chính tối đa, tuỳ theo tính chất của hàng hoá, người mua bảo hiểm
theo điều kiện bảo hiểm FPA cũng có thể tham gia bảo hiểm các rủi ro phụ: Rách vỡ, chảy, cong,
hở, bẹp, cẩu móc, hấp hơi, lây bẩn, nước mưa, nước biển, han rỉ,…
Ngoài ra, chủ hàng có trách nhiệm chứng minh tổn thất là thuộc rủi ro được bảo hiểm.
b. Điều kiện bảo hiểm tổn thất riêng (WA – With Particular Average)
Theo điều kiện bảo hiểm TTR ( Tổn thất riêng) , DNBH ( Doanh nghiệp bảo hiểm) không
những chịu trách nhiệm về các rủi ro tổn thất và chi phí của điều kiện bảo hiểm FPA mà còn mở
rộng thêm TTBP do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra không giới hạn trong bốn rủi ro chính và khi
dỡ hàng tại cảng lánh nạn. Ngày 01/01/1982, ILU xuất bản các điều kiện bảo hiểm mới thay thế
các điều kiện bảo hiểm cũ. Trong đó các điều kiện bảo hiểm hàng hoá bao gồm:
So với các DNBH đề ra mức miễn thường và giải quyết theo các nguyên tắc sau:
- Không đề cập mức miễn thường tổn thất do rủi ro chính chiến tranh, đình công và các
rủi ro phụ do con người gây ra.
- Không cộng các chi phí để đạt mức miễn thường, chỉ tính tổn thất thực tế.
- Được tính các tổn thất liên tiếp xảy ra để đạt mức miễn thường.
- Mỗi sà lan được coi là một con tàu để tính mức miễn thường.
- Người được bảo hiểm có quyền chọn cỏch tớnh mức miễn thường có lợi nhất cho mình
để được bồi thường nhiều hơn.
Như vậy, so với điều kiện bảo hiểm FPA thì điều kiện bảo hiểm WA có phạm vi bảo
hiểm rộng hơn và có áp dụng mức miễn thường.
Phạm vi bảo hiểm của điều kiện bảo hiểm AR ngoài các rủi ro tổn thất và chi phí của điều
kiện bảo hiểm WA thỡ cũn mở rộng thêm của rủi ro phụ.
Như vậy, trong ba điều kiện bảo hiểm theo ICC 1963, chủ hàng đều có trách nhiệm
chứng minh tổn thất là thuộc rủi ro được bảo hiểm. Nhưng điều kiện bảo hiểm AR có phạm vi
bảo hiểm rộng nhất, vì vậy người mua bảo hiểm không cần tham gia bảo hiểm các rủi ro phụ,
điều kiện bảo hiểm AR không phân biệt TTTB và TTBP như hai điều kiện bảo hiểm FPA và
WA. Chỉ điều kiện bảo hiểm WA có áp dụng mức miễn thường.
Bảng tổng kết 3 điều kiện FPA, WA, AR của ICC 1963
II. Trách nhiệm chứng minh tổn thất NĐBH NĐBH NĐBH
+ Tổn thất hay tổn hại của hàng hoá được bảo hiểm có nguyên nhân hợp lý do cháy hoặc
nổ; tàu bị mắc cạn, chìm đắm, bị lật, đâm va, dỡ hàng tại cảng lánh nạn.
+ TTC.
+ Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản hai tàu đâm va
nhau đều có lỗi.
Các rủi ro loại trừ bao gồm:
+ Tổn thất hay tổn hại do hành vi xấu, cố ý của người dược bảo hiểm.
+ Rò rỉ, hao hụt thông thường về trọng lượng, khối lượng hoặc hao mòn tự nhiên của đối
tượng được bảo hiểm.
+ Tổn thất hoặc tổn hại do đóng gói bao bì không đủ điều kiện, không thích hợp.
+ Tổn thất hoặc tổn hại mà nguyờn nhõn trực tiếp là chậm trễ.
+ Tổn thất hoặc tổn hại do không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chính của chủ tàu,
người quản lý, người thuê tàu hoặc người khai thác tàu.
+ Tổn thất hoặc tổn hại do việc sử dụng bất kỳ một loại vũ khí chiến tranh nào cú dựng
phản ứng hạt nhân, phản ứng hoá học, chất phóng xạ …
+ Thiệt hại cố ý hoặc sự phá hoại cố ý đối tượng được bảo hiểm do hành động phạm pháp
của bất kỳ người nào.
+ Do tàu không đủ khả năng đi biển, hoặc không thích hợp cho việc vận chuyển hàng hoá
mà người được bảo hiểm đó biết tình trạng đó vào lúc hàng hoá được xếp lên phương tiện vận
tải.
+ Tổn thất xảy ra do chiến tranh, nội chiến, bạo loạn, hành động thù địch, tịch thu, bắt
giữ, quản chế, giam cầm…
+ Tổn thất do mìn, thuỷ lôi, bom và các loại vũ khí chiến tranh khác.
+ Tổn thất được gây ra bởi người đỡnh cụng, những người tham gia gây rối loạn lao
động, bạo loạn hoặc nổi loạn.
+ Tổn thất xảy ra do bạo động chính trị, động cơ chính trị.
Trách nhiệm chứng minh tổn thất thuộc về người được bảo hiểm (chủ hàng).
Người bảo hiểm có áp dụng mức miễn thường giống điều kiện bảo hiểm WA (ICC 1963),
nhưng không phân biệt TTTB và TTBP.
Đây là điều kiện bảo hiểm có phạm vi rộng nhất, bảo hiểm tất cả những hư hỏng, mất mát
của hàng hoá, kể cả rủi ro cướp biển, chỉ trừ những rủi ro loại trừ theo quy định và không áp
dụng mức miễn thường.
Trong điều kiện bảo hiểm A, rủi ro cướp biển là phạm vi bảo hiểm rộng hơn điều kiện
bảo hiểm AR (ICC 1963).
Như vậy, ba điều kiện bảo hiểm C, B, A theo ICC 1982 đều không phân biệt TTTB và
TTBP, chủ hàng đều có trách nhiệm chứng minh tổn thất là thuộc rủi ro được bảo hiểm. Nhưng
điều kiện bảo hiểm A có phạm vi bảo hiểm rộng nhất và chỉ điều kiện bảo hiểm B có áp dụng
mức miễn thường.
Các điều kiện bảo hiểm C, B, A có hiệu lực từ ngày 01/04/1983 và hiện nay được áp
dụng rộng rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới.
Theo điều kiện bảo hiểm này, chỉ bảo hiểm cho những mất mát, hư hỏng của hàng hoá
được bảo hiểm do:
- Người đình công, cụng nhõn bị cấm xưởng hoặc những người tham gia gây rối loạn lao
động, bạo động hoặc nổi dậy.
Theo điều kiện bảo hiểm này, người bảo hiểm phải bồi thường những mất mát, hư hỏng
của hàng hoá do:
Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột dân sự xảy ra từ
những biến cố đó hoặc bất kỳ hành động thù địch nào.
Mìn, thuỷ lụi, bom hoặc các vũ khí chiến tranh khác.
Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm đối với rủi ro chiến tranh hẹp hơn các rủi ro
thông thường. Bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực khi hàng hoá được xếp lên tàu biển và kết thúc khi
được dỡ khỏi tàu tại cảng cuối cùng hoặc khi hết hạn 15 ngày. Nếu có chuyển tải, bảo hiểm vẫn
tiếp tục có hiệu lực cho đến khi hết hạn 15 ngày kể từ nửa đêm ngày tàu đến cảng chuyển tải.
Đối với rủi ro do mìn và ngư lôi, trách nhiệm của người bảo hiểm được mở rộng ra cả khi
hàng hoỏ cũn ở trên xà lan để vận chuyển ra tàu hoặc từ tàu vào bờ nhưng không vượt quá 60
ngày kể từ ngày dỡ hàng khỏi tàu, trừ khi có thoả thuận đặc biệt khác.
5. Tổn thất do nước tràn vào tàu hay hầm chứa hàng X X -
II. Những mất mát hư hại cần phải chứng minh lý do:
III. Những mất mát hư hại do rủi ro đặc biệt (B & C có thể A B C
mua thêm )
3. Trộm cắp X - -
4. Cướp biển X - -
5. Các rủi ro đặc biệt khác X - -
I.V.Những điều khoản bảo hiểm phụ(Chiến tranh, đình Mua Mua thêm Mua thêm
công….) thêm
Phạm vi bảo hiểm theo điều kiện C bao gồm mất mát hoặc hư hỏng xảy ra cho đối tượng
được bảo hiểm do:
- Cháy hay nổ
- Tàu hay thuyền bị mắc can, đắm hoặc lật
- Phương tiện vận chuyển đường bộ bị lật đổ hoặc trật bánh
- Tàu, thuyền hay phương tiện vận chuyển đam va hoặc va chạm với bất kỳ vật thể
nào bên ngoài, không kể nước.
- Dỡ hàng tại một cảng nơi tàu gặp nạn
- Hy sinh tổn thất chung, ném hàng khỏi tàu.
- Các chi phí tổn thất chung và cứu hộ đã chi ra nhằm tránh hoặc có liên quan tới
việc tránh khỏi tổn thất
- Tàu đâm va nhau và hai bên cùng có lỗi: Có liên quan tới một tổn thất thuộc phạm
vi bồi thường của bảo hiểm
- Mất mát, hư hỏng hay chi phí được qui cho hành vi xấu cố ý của người được bảo
hiểm
- Ðối tượng được bảo hiểm bị rò chảy thông thường, hao hụt trọng lượng hoặc giảm
thể tích thông thường hoặc hao mòn thông thường
- Mất mát hư hỏng hoặc chi phí gây ra do việc đóng gói hoặc chuẩn bị cho đối
tượng được bảo hiểm chưa đầy đủ hoặc không thích hợp) theo chủ ý ; việc “đóng gói” phải được
coi như bao gồm cả việc xếp hàng vào “container” hoặc “kiện gỗ” nhưng chỉ khi nào việc xếp
hàng đó được thực hiện trước khi hợp đồng bảo hiêm này có hiệu lực hoặc được tiến hành bởi
người được bảo hiểm hoặc những người làm công cho họ)
- Mất mát hư hỏng hay chi phí gây ra bởi khuyết tật vốn có hoặc tính chất riêng của
đối tượng được bảo hiểm.
- Mất mát hư hỏng hay chi phí gây ra bởi chậm trễ ngay cả khi chậm trễ do một rủi
ro được bảo hiểm gây ra (trừ những chi phí được chi trả theo điều 2 kể trên)
- Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh từ tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu
thốn về tài chính của chủ tàu, người quản lý, người thuê hoặc người điều hành tàu.
- Hư hại hoặc phá hủy do cố ý gây ra cho đối tượng bảo hiểm hay một bộ phận bất
kỳ của đối tượng đó do hành động sai trái của bất kỳ người nào.
- Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh từ việc sử dụng bất kỳ một loại vũ khí
chiến tranh gì có sử dụng năng lượng nguyên tử, phân hạt nhân và/ hoặc phản ứng hạt nhân,
phóng xạ hoặc tương tự.
- Mất mát hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi: Tàu hoặc thuyền không đủ khả năng đi
biển hoặc tàu, thuyền, phương tiện vận chuyển container hoặc kiện gỗ không thích hợp cho việc
chuyên chở an toàn đối tượng được bảo hiểm, nếu người được bảo hiểm hoặc những người làm
công cho họ được biết riêng tình trạng không đủ khả năng đi biển hoặc không thích hợp đó vào
thời gian đối tượng được bảo hiểm được xếp vào các phương tiện trên.
- Người bảo hiểm bỏ qua mọi trường hợp vi phạm những cam kết ngụ ý tàu đủ khả
năng đi biển và thích hợp cho việc chuyên chở đối tượng được bảo hiểm tới nơi đến trừ khi
người được bảo hiểm hoặc người làm công cho họ được biết riêng về tình trạng không đủ khả
năng đi biển hay không thích hợp đó.
- Ðiều khoản loại trừ chiến tranh bởi: Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn,
khởi nghĩa hoặc xung đột dân sự phát sinh từ những biến cố đó, hoặc bất kỳ hành động thù địch
nào gây ra hoặc chống lại bên tham chiến ; Bắt giữ, tịch thu, kiềm chế hay cầm giữ và hậu quả
của những sự việc đó hoặc bất kỳ mưu toan nào nhằm thực hiện những hành vi đó; Mìn, thủy lôi,
bom hoặc những vũ khí chiến tranh hoang phế khác.
- Ðiều khoản loại trừ đình công: Gây ra bởi những người đình công, công nhân bị
cấm xưởng hoặc những người tham gia gây rối lao động náo loạn hoặc bạo động dân sự; Hậu
quả của đình công, cấm xưởng, gây rối lao động, náo loạn hoặc bạo động dân sự; Gây ra bởi bất
kỳ kẻ khủng bố hoặc bất kỳ người nào hành động vì động cơ chính trị
b. Điều kiện bảo hiểm B (ICC B)
Rủi ro được bảo hiểm
- Ðộng đất, núi lửa phun hoặc sét đánh
- Nước biển, nước sông hay nước hồ tràn vào tàu, thuyền, hầm hàng, phương tiện
vận chuyển container hoặc nơi chứa hàng.
- Tổn thất toàn bộ bất kỳ kiện hàng nào rơi khỏi tàu hoặc rơi trong khi đang xếp
hàng lên, hay đang dỡ khỏi tàu hoặc thuyền.
c. Điều kiện bảo hiểm A (ICC A)
Rủi ro được bảo hiểm: Loại trừ những rủi ro đã quy định, bảo hiểm này bảo hiểm mọi rủi
ro về mất mát hoặc hư hỏng xảy ra với đối tượng được bảo hiểm.
7. Tổn thất do nước tràn vào tàu hay hầm chứa hàng X X -
II. Những mất mát hư hại cần phải chứng minh lý do:
III. Những mất mát hư hại do rủi ro đặc biệt (B & C có thể A B C
mua thêm )
3. Trộm cắp X - -
4. Cướp biển X - -
5. Tổn thất chung và chi phí cứu hộ X X X
I.V.Những điều khoản bảo hiểm phụ(Chiến tranh, đình Mua Mua thêm Mua thêm
công….) thêm
Ở Việt Nam, nhà nước giao cho một công ty chuyên môn trực thuộc Bộ Tài Chính kinh
doanh đó là công ty Bảo Hiểm Việt Nam nay là Tổng Công ty Bảo Việt Việt Nam (gọi tắt là
Bảo Việt). Được thành lập ngày 17/12/1964 nhưng phải đến giai đoạn 1965-1975 Bảo Việt
mới triển khai ba nhiệm vụ bảo hiểm đối ngoại trong đó có bảo hiểm đối với hàng hóa xuất
nhập khẩu. Từ năm 1975 đến năm 1992, Bảo Việt tiếp tục triển khai them nhiều nghiệp vụ và
mở rộng phạm vi hoạt động từ chỉ quan hệ với các nước XHCN cũ ra lên đến hơn 40 nước.
Năm 1965 khi Bảo Việt đi vào hoạt động, Bộ Tài Chính đã ban hành Quy tắc chung về bảo
hiểm hang hóa vận chuyển bằng đường biển. Để phù hợp với sự phát triển của thương mại và
ngành hang hải của Việt Nam, Bộ Tài Chính đã ban hành bộ quy tắc chung mới – Quy tắc
chung 1990 (QTC 1900), dựa vào các Quy tắc ICC. QTC đã trở thành cơ sở pháp lý chủ yếu
điều chỉnh các vấn đề bảo hiểm hang hóa xuất nhập khẩu ở Việt Nam. Sau này, các công ty
Bảo Việt đã ban hành các phiên bản QTCB 1995, QTCB 1998 và gần đây nhất là QTCB
2004 với 16 chương và được coi là bản đầy đủ hơn cả.
Để rõ hơn về nội dung cụ thể của QTC, hãy cùng xem xét những điểm giống và
khác nhau giữa QTC 2004 (phiên bản mới nhất của bộ quy tắc QTC được công ty Bảo
Việt ban hành) so với các phiên bản của ICC, được trình bày ở phần sau.
Rủi ro cướp biển Được coi là rủi ro chiến Được bảo hiểm nhưng chỉ
tranh nên phải mua bảo ở điều kiện bảo hiểm A.
hiểm riêng
Trong sử dụng So với ICC 1963, các điều kiện bảo hiểm mới từ
ICC1982 trình bày rõ ràng, dễ hiểu hơn. Tên gọi của các
điều kiện bảo hiểm là C, B, A thay cho các tên gọi cũ
FPA, WA, AR nên dễ nhớ, dễ sử dụng hơn.
“Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí do việc đóng gói hay chuẩn bị cho đối
tượng bảo hiểm không đầy đủ hoặc không thích hợp (việc “đóng gói” ở đây bao
gồm cả việc xếp hàng vào container hay liftvan, nhưng chỉ khi việc xếp hàng này
được thực hiện trước khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực hoặc được tiến hành bởi
người được bảo hiểm hay người giúp việc cho người được bảo hiểm)”
Có thể thấy đây là một hạn chế của ICC 1982 và QTC 2004. Nếu xét từ góc
độ của người được bảo hiểm thì điều khoản này là một bất lợi đối với họ. Bởi thực
tế là, kể từ khi được giao cho bên thứ 3 để đóng gói thì hàng hóa đã nằm ngoài tầm
kiểm soát của người được bảo hiểm. Và họ cho rằng những rủi ro đối với hàng
hóa, trong trường hợp này, vẫn nên được bảo hiểm.
“Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí do việc đóng gói hay chuẩn bị cho đối
tượng bảo hiểm không đầy đủ hoặc không thích hợp để chịu được những tai nạn
thông thường trong quá trình vân chuyển đã được bảo hiểm mà việc đóng gói
hay chuẩn bị đó được thực hiện bởi người được bảo hiểm hoặc người làm
công của họ hoặc trước khi được ràng buộc vào hợp đồng bảo hiểm này (việc
“đóng gói” ở đây bao gồm cả việc xếp hàng vào container và “người làm công”
không bao gồm bên thứ ba độc lập)”
Do đó, việc đóng gói được thực hiện bởi bên thứ 3 sẽ không nằm trong điều
khoản loại trừ này. Và thay vào đó, ICC 2009 chỉ giới hạn rủi ro loại trừ do việc
đóng gói hay chuẩn bị hàng không đầy đủ hoặc không phù hợp, khi nó được thực
hiện bởi người được bảo hiểm hoặc người làm công của họ.
ICC 2009 còn đưa ra một tiêu chuẩn để đánh giá thế nào là “đóng gói hay
chuẩn bị hàng không đầy đủ hoặc không phù hợp”. Theo đó, việc đóng gói phải
thích hợp để chống lại được những rủi ro thông thường trong quá trình vận chuyển
đã được bảo hiểm.
Ngoài ra, điều khoản 4.3 của ICC 2009 còn có một số thay đổi trong việc sử
dụng các thuật ngữ, đó là:
i) Người được bảo hiểm hay người làm công của họ phải tự chịu trách nhiệm
nếu thực hiện việc đóng gói hay chuẩn bị hàng thiếu, không phù hợp; hoặc
ii) Việc đóng gói hay chuẩn bị hàng được thực hiện trước khi hợp đồng bảo
hiểm có hiệu lực
2. Rủi ro loại trừ do giao hàng chậm trễ
ICC 1982 quy định :
“loss damage or expense proximately caused by delay, even though the delay be
caused by a risk insured against (except expenses payable under Clause 2 above).”
“Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí mà nguyên nhân trực tiếp là chậm chễ cho dù chậm
chễ là do một rủi ro được bảo hiểm gây nên”.
“Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí mà nguyên nhân là chậm chễ cho dù chậm chễ là do
một rủi ro được bảo hiểm gây nên”.
Điểm khác biệt duy nhất trong điều khoản 4.5 của ICC 2009 so với của ICC 1982 là
từ “proximately” (trực tiếp) đã bị loại bỏ. Thay đổi này nhằm mục đích tránh mọi tranh cãi
phát sinh từ ý nghĩa của cụm từ “nguyên nhân trực tiếp” (proximate cause). Theo nhận định
của các chuyên gia, từ “proximately” có thể là nguồn gốc gây nên sự nhầm lẫn.
Ví dụ: Những mối nguy cơ được bảo hiểm có phải là nguyên nhân trực tiếp không,
hay là sự chậm trễ là nguyên nhân trực tiếp. Vì thế, sự loại trừ giờ đây trở nên rộng hơn và
liên quan đến những thiệt hại về mặt vật chất cũng như tài chính, phát sinh từ sự chậm trễ.
“Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí do tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu thốn về
mặt tài chính của chủ tàu, người quản lý tàu, người thuê tàu hoặc người khai thác tàu”.
Như vậy, theo ICC 1982 và QTC 2004, bất kể người được bảo hiểm có biết đến tình
trạng thiếu thốn về mặt tài chính của người chuyên chở hay không, thì người bảo hiểm sẽ
không đền bù cho những tổn thất phát sinh từ rủi ro đó.
“Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí do tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu thốn về
mặt tài chính của chủ tàu, người quản lý tàu, người thuê tàu hoặc người khai thác tàu nếu
như vào thời điểm trước hoặc cùng lúc đối tượng bảo hiểm được xếp lên tàu, người
được bảo hiểm đã biết, hoặc trong quá trình kinh doanh thông thường cần phải biết
rằng, tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu thốn về mặt tài chính của chủ tàu, người
quản lý tàu, người thuê tàu hoặc người khai thác tàu có thể gây cản trở đến tiến trình
thông thường của hành trình đường biển. Loại trừ này sẽ không có hiệu lực khi hợp đồng
bảo hiểm được nhượng lại với bên thứ ba người đã mua và chấp nhận đối tượng được bảo
hiểm mà đã được ràng buộc bởi hợp đồng”
Sự cải tiến của ICC 2009 đã tiếp tục bảo vệ cho quyền lợi của người được bảo hiểm
và chỉ rõ trách nhiệm của người được bảo hiểm trong việc phát hiện ra rủi ro không có khả
năng thanh toán của người chuyên chở. ICC 2009 cũng quy định thêm, trong trường hợp có
bên thứ 3 được quyền hưởng bảo hiểm thông qua việc mua hay chấp nhận mua đối tượng bảo
hiểm (đã được ràng buộc bởi hợp đồng) thì loại trừ này không có hiệu lực.
4. Rủi ro miễn trừ do việc sử dụng vũ khí nguyên tử, hạt nhân hoặc các chất phóng xạ
ICC 1982 quy định:
“loss damage or expense arising from the use of any weapon of war employing
atomic or nuclear fission and/or fusion or other like reaction or radioactive force or matter.”
“Mất mát hay thiệt hại về chi phí phát sinh từ việc sử dụng bất kì loại vũ khí chiến
tranh nào có sử dụng năng lượng nguyên tử, phản ứng phân hạch và/hoặc phản ứng tổng hợp
hạt nhân hoặc phản ứng khác tương tự hoặc năng lượng và chất phóng xạ”
“Mất mát hay thiệt hại chi phí trực tiếp hoặc gián tiếp bị gây ra bởi việc sử dụng bất
kì loại vũ khí hay thiết bị nào có sử dụng năng lượng nguyên tử, phản ứng phân hạch
và/hoặc phản ứng tổng hợp hạt nhân hoặc phản ứng khác tương tự hoặc năng lượng và chất
phóng xạ”
ICC 2009 đã sửa đổi một số ngôn từ được sử dụng trong ICC 1982 và QTC 2004 cho
phù hợp hơn với thực tiễn, cụ thể:
- “Phát sinh từ” (arising from) trong ICC 1982 và chỉ là “rủi ro do việc sử dụng…”
trong QTC 2004 trở thành “trực tiếp hoặc gián tiếp bị gây ra bởi hoặc phát sinh từ” (directly
or indirectly caused by or arising from). ICC 2009 đã nêu rõ những tổn thất trực tiếp hoặc
gián tiếp phát sinh từ rủi ro trên đều được loại trừ. Bởi vũ khí, đặc biệt là vũ khí hạt nhân
không chỉ gây hậu quả trực tiếp mà còn có thể gây hậu quả lâu dài, hậu quả gián tiếp vô cùng
to lớn.
- “Vũ khí chiến tranh” (weapon of war) trong ICC 1982 và QTC 2004 được mở rộng
thành “bất kỳ loại vũ khí hay thiết bị” (any weapon or device). Thay đổi này đã bao quát
rộng hơn, bởi thực tế không chỉ có vũ khí dùng cho mục đích chiến tranh mà còn dùng trong
mục đích phi chiến tranh như khủng bố. Đồng thời, có thể bao gồm một loại vũ khí mới được
gọi là “dirty bomb” (bom bẩn hay thiết bị phát tán chất phóng xạ), có thể được bọn khủng bố
sử dụng để gây nhiễm độc trên diện rộng.
5.2 The Underwriters waive any breach of the implied warranties of seaworthiness of
the ship and fitness of the ship to carry the subjectmatter insured to destination, unless the
Assured or their servants are privy to such unseaworthiness or unfitness.
5.1.2 unfitness of container or conveyance for the safe carriage of the subject-
matter insured, where loading therein or thereon is carried out prior to attachment of this
insurance or bythe Assured or their employees and they are privy to such unfitness at the
time of loading.
5.2 Exclusion 5.1.1 above shall not apply where the contract of insurance has been
assigned tothe party claiming hereunder who has bought or agreed to buy the subject-matter
insured in good faith under a binding contract.
5.3 The Insurers waive any breach of the implied warranties of seaworthiness of the
ship and fitness of the ship to carry the subject-matter insured to destination.
Điều khoản ICC 2009 đã quy định lại một cách rõ ràng hơn so với ICC 1982 và QTC
2004, bằng cách phân tách ra hai trường hợp: thứ nhất, việc tàu không đủ khả năng đi biển
(unseaworthiness) hoặc không phù hợp (unfitness); thứ hai, sự không phù hợp của container
và phương tiện vận tải khác, tại điều 5.1.1 và 5.1.2. Theo đó, loại trừ này có hiệu lực nếu:
Người được bảo hiểm đã biết về tình trạng không đủ khả năng/không phù hợp của tàu
vào lúc xếp hàng lên tàu.
Container hoặc các phương tiện vận chuyển khác không thích hợp cho việc vận
chuyển hàng hóa an toàn và:
a)Việc xếp hàng được thực hiện trước khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực,
hoặc
b)Việc xếp hàng được thực hiện bởi người được bảo hiểm hay người làm công
của họ và họ đã biết về sự không phù hợp đó.
Hơn nữa, ICC 2009 còn có thêm điều khoản mới – điều khoản 5.2 để bảo vệ quyền
lợi hưởng bởi bên thứ 3, kể từ khi được thừa nhận rằng họ không có đủ khả năng để xác
minh về sự phù hợp của tàu hoặc container. Ngoài ra, còn có những thay đổi khác như: thuật
ngữ “liftvan” đã bị loại bỏ, thay “người giúp việc” (servants) bằng “người làm công”
(employees)
7.2 resulting from strikes, lock-outs, labour disturbances, riots or civil commotions
7.3 caused by any terrorist or any person acting from a political motive.
7.2 resulting from strikes, lock-outs, labour disturbances, riots or civil commotions
7.3 caused by any act of terrorism being an act of any person acting on behalf of, or
in connection with, any organisation which carries out activities directed towards the
overthrowing or influencing, by force or violence, of any government whether or not legally
constituted
7.4 caused by any person acting from a political, ideological or religious motive.
ICC 2009 đã được mở rộng điều khoản này hơn để phản ánh sự gia tăng của các hiểm
họa, cũng như sự gia tăng của các động cơ. Theo đó, trong mọi trường hợp bảo hiểm này
không bảo hiểm những mất mát, hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi bất kỳ người nào hành động
nhân danh hoặc có liên quan tới hành vi cưỡng ép hay bạo lực nhằm lật đổ hoặc gây ảnh
hưởng, của bất kỳ tổ chức hay chính quyền nào cho dù nó có được thành lập hợp pháp hay
không.
Như vậy, điều kiện ICC 2009 yêu cầu hành động khủng bố phải được thực hiện nhân
danh một “ tổ chức ” (organisation) chứ không áp dụng đối với hành vi của những kẻ khủng
bố đơn lẻ.
ICC 2009 còn mở rộng hơn ở điều khoản 7.4 để loại trừ những mất mát, hư hỏng hoặc
chi phí gây ra bởi bất kỳ người nào hành động vì động cơ chính trị, tư tưởng, tôn giáo.
Thời điểm chấm dứt hiệu lực của bảo hiểm theo ICC 2009 là lúc hoàn thành việc dỡ
hàng (on completion of unloading) thay vì lúc giao hàng (on delivery to) như trong ICC 1982
và QTC 2004.Việc thay đổi này là hoàn toàn phù hợp với thực tế. Việc dỡ hàng từ phương
tiện vận tải để để lưu kho cũng có rất nhiều rủi ro, như rơi vỡ, va đập…có thể xuất phát từ sự
thiếu kinh nghiệm của người được thuê dỡ hàng từ phương tiện vận tải để lưu kho hoặc sự hư
hỏng của các công cụ bốc dỡ. Vì vậy, ICC 2009 đã mở rộng phạm vi hiệu lực của hợp đồng
bảo hiểm. Đó là, chỉ khi hàng hóa được thực sự xếp xong vào trong kho hoặc nơi lưu trữ cuối
cùng của hành trình chuyên chở thì hợp đồng bảo hiểm mới hết hiệu lực.
Và một điểm mới trong ICC 2009 đã được làm rõ hơn ICC 1982 và QTC 2004 đó là,
bảo hiểm sẽ chấm dứt khi người được bảo hiểm hoặc người làm công của họ quyết định sử
dụng bất kì phương tiện chuyên chở hoặc bất kỳ công cụ vận tải nào khác để xếp hàng vào
kho nằm ngoài những điều khoản ban đầu của hợp đồng bảo hiểm.Cuối cùng là khi hàng hóa
được bảo hiểm mà không được dỡ ra tại đích đến mà được chứa trong các container hoặc
trong/ trên các công cụ vận tải khác, thì hợp đồng bảo hiểm sẽ hết hiệu lực tại thời điểm
trước khi hàng hóa thực sự được bốc dỡ.
Nếu do những tình huống ngoài khả năng kiểm soát của người được bảo hiểm mà hợp
đồng vận chuyển kết thúc tại một cảng hay một nơi không đúng với nơi nhận ghi trên
đơn bảo hiểm hoặc việc vận chuyển được kết thúc theo cách khác trước khi giao hàng
thì hiệu lực bảo hiểm cũng sẽ kết thúc, trừ khi có giấy báo gửi ngay cho người bảo
hiểm yêu cầu tiếp tục bảo hiểm trong khi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực, với điều kiện
người bảo hiểm phải chấp nhận và người được bảo hiểm phải trả thêm phí bảo hiểm
nếu người bảo hiểm yêu cầu, khi :
- Hàng hóa được đem bán hoặc được giao tại cảng hoặc địa điểm đó hoặc trừ khi
có thỏa thuận riêng khác, khi hết hạn 60 ngày sau khi hàng bảo hiểm đến cảng
hay địa điểm đó, tùy theo trường hợp nào đến trước, hoặc
- Nếu hàng hóa được gửi đi trong phạm vi 60 ngày đó (hoặc bất kỳ phạm vi mở
rộng nào đã thỏa thuận) để tới nơi nhận hàng có tên ghi trong đơn bảo hiểm hay
tới bất kỳ nơi nhận hàng nào khác thì cho tới khi kết thúc bảo hiểm.
10.1 Where, after attachment of this insurance, the destination is changed by the
Assured, this must be notified promptly to insurers for rates and terms to be agreed. Should a
loss occur prior to such agreement being obtained cover may be provided but only if cover
would have been available at a reasonable commercial market rate on reasonable market
terms.
10.2 Where the subject-matter insured commences the transit contemplated by this
insurance (in accordance with Clause 8.1), but, without the knowledge of the Assured or
their employees the ship sails for another destination, this insurance will nevertheless be
deemed to have attached at commencement of such transit.
Như vậy, QTCB đã bổ sung thêm so với ICC 1982 là thông báo của người được bảo
hiểm khi có sự thay đổi về nơi đến phải được người bảo hiểm đồng ý thì bảo hiểm mới tiếp
tục có hiệu lực. Ngoài ra QTC 2004 cũng đã chỉ rõ hai trường hợp người được bảo hiểm cần
phải trả phí cho người bảo hiểm nếu họ có yêu cầu.
Tuy nhiên, QTC 2004 vẫn còn một số điểm chưa rõ, được thể hiện trong ICC 2009
như sau:
Người được bảo hiểm có quyền thay đổi nơi đến sau khi hợp đồng bảo hiểm
có hiệu lực;
Người được bảo hiểm phải thông báo cho người bảo hiểm trên cơ sở phí bảo
hiểm và các điều kiện sẽ thỏa thuận.
Nếu tổn thất xảy ra trước khi đạt được thỏa thuận từ hai phía, bảo hiểm chỉ có
thể tiếp tục có hiệu lực khi nó được áp dụng trên cơ sở phí bảo hiểm và các
điều kiện hợp lý của thị trường.
QTC 2004 và ICC 2009 đã quy định rõ ràng hơn so với ICC 1982. Hai bộ quy tắc này
đã tránh việc sử dụng cụm từ “held covered” (vẫn tiếp tục được bảo hiểm) của ICC 1982, và
thay vào đó là chỉ ra một cách rõ ràng những việc mà người được bảo hiểm cần phải làm và
những sự việc khác có liên quan.
Điều khoản 10.2, ICC 2009 được bổ sung thêm so với ICC 1982, nhằm giải quyết các
tình huống liên quan đến “tàu ma”(phantom ship). “Tàu ma” là những con tàu không có giấy
tờ hợp pháp, nhận hàng để chở rồi đưa đến một nơi khác và bán hàng đó đi. Theo đó, bảo
hiểm vẫn được coi là có hiệu lực trong trường hợp điểm đến của phương tiện vận tải bị thay
đổi mà người được bảo hiểm và người làm công của họ không biết về việc thay đổi địa điểm
này. ICC 2009 đã được sửa đổi để phù hợp hơn và bảo vệ quyền của người được bảo hiểm.
Theo đó, bảo hiểm này sẽ không áp dụng đối với những lợi ích của người chuyên chở hay
một bên thứ 3 nào khác làm nhiệm vụ tiếp nhận, bảo quản hàng hóa.
15.1 covers the Assured which includes the person claiming indemnity either as the
person by or onwhose behalf the contract of insurance was effected or as an assignee,
15.2 shall not extend to or otherwise benefit the carrier or other bailee.
ICC 2009 đã quy định một cách cụ thể và rõ ràng hơn về điều này so với ICC 1982 và
QTC 2004. Cụ thể, bảo hiểm này bao gồm người được bảo hiểm là người có thể yêu cầu bồi
thường hoặc một người khác đại diện đứng tên trên hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực, hay
còn gọi là người được ủy quyền. Và bảo hiểm này sẽ không mở rộng đến những lợi ích khác
của người chuyên chở hay một bên nào khác làm nhiệm vụ tiếp nhận, bảo quản hàng hóa.