Professional Documents
Culture Documents
Giáo trình Thổ nhưỡng học được biên soạn cho sinh viên các
ngành khoa học đất, hoá nông nghiệp, môi trường, quản lý đất đai, cây
trồng, bảo vệ thực vật… làm tài liệu tham khảo cho sinh viên các ngành
khác, học viên cao học, nghiên cứu sinh và cán bộ ngành nông nghiệp.
Với tinh thần đổi mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo và được sự
đồng ý của trường Đại học Nông nghiệp I, bộ môn Khoa học đất tái bản
giáo trình Thổ nhưỡng học (xuất bản năm 2000) có sửa đổi, bổ sung, cập
nhật thông tin, thay đổi cách trình bày và được phân công chịu trách
nhiệm như sau:
PGS.TS. Trần Văn Chính: Chương VIII, IX, X, XV và một phần
chương III.
TS. Cao Việt Hà: Chương VI và VII. TS. Đỗ
Nguyên Hải: Chương XI, XII và XVI ThS.
Hoàng Văn Mùa: Chương I, II và XVII.
PGS. TS. Nguyễn Hữu Thành: Chương IV, V, XIII và XIV.
PGS.TS. Nguyễn Xuân Thành: một phần chương III.
Hiệu đính và chủ biên lần tái bản này: PGS.TS. Trần Văn Chính
Bám sát yêu cầu đào tạo, các tác giả đã tham khảo nhiều tài liệu
trong và ngoài nước, các kết quả nghiên cứu gần đây. Tuy nhiên, do
trình độ và thời gian có hạn nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Mong
nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc.
Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về địa chỉ:
Bộ môn Khoa học đất - Trường Đại học Nông nghiệp I - Gia Lâm -
Hà Nội
Telephone: 04 8769272
Email: khoahocdat@yahoo.com
Bài mở đầu
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THỔ NHƯỠNG
3. Ðất là cơ sở sinh sống và phát triển thực vật, là tư liệu sản xuất cơ
bản của nông nghiệp
Ðặc điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp là tạo ra chất hữu cơ
trong đó có sản xuất thực vật. Trong cuộc sống thực vật cần có đủ 5 yếu
tố là ánh sáng (quang năng), nhiệt lượng (nhiệt năng), không khí (O2 và
CO2), nước và thức ăn khoáng. Trong đó 3 yếu tố đầu do thiên nhiên
cung cấp (yếu tố vũ trụ), nước vừa do thiên nhiên vừa do đất cung cấp,
còn thức ăn khoáng gồm rất nhiều nguyên tố như N, P, K, S, Ca, Mg và
các nguyên tố vi lượng là do đất cung cấp. Như vậy những năm thời tiết
khí hậu bình thường, trong điều kiện cùng một loại giống và trình độ
canh tác tương tự thì năng suất cây trồng trên các loại đất cao hay thấp
nói chung phụ thuộc vào khả năng cung cấp thức ăn của đất. Ngoài ra
đất còn là nơi để cho cây cắm rễ, "bám trụ" không bị nghiêng ngả khi
mưa to gió lớn.
Một loại đất được gọi là tốt phải bảo đảm cho thực vật "ăn no"
(cung cấp kịp thời và đầy đủ thức ăn), "uống đủ" (chế độ nước tốt), "ở
tốt" (chế độ không khí và nhiệt độ thích hợp) và "đứng vững" (rễ cây có
thể mọc rộng và sâu).
Sản xuất nông nghiệp bao gồm 2 nội dung lớn là: sản xuất thực vật
(trồng trọt) và sản xuất động vật (chăn nuôi). Chúng ta biết rằng nếu
không có thực vật hút thức ăn trong đất qua tác dụng quang hợp biến
thành chất hữu cơ thực vật thì động vật không thể có nguồn năng lượng
cần thiết để duy trì cuộc sống của chúng. Bởi vậy đất không những là cơ
sở sản xuất thực vật mà còn là cơ sở để sản xuất động vật. Trồng trọt
phát triển thì chăn nuôi cũng phát triển.
Vỏ Trái Ðất được cấu tạo bởi các loại đá khác nhau, một loại đá
thường được cấu tạo bởi một số khoáng vật nhất định. Ðá và khoáng vật
ở lớp ngoài cùng của vỏ Trái Ðất bị phá huỷ tạo thành mẫu chất, do tác
động của sinh vật mẫu chất biến đổi tạo thành đất. Vậy khoáng vật và đá
là cơ sở vật chất để hình thành nên đất.
1. Khoáng vật
1.1. Khái niệm chung về khoáng vật
Theo địa chất học: khoáng vật là sản phẩm tự nhiên của các quá
trình hoá lý và các quá trình địa chất diễn ra trong vỏ Trái Ðất, có thành
phần tương đối đồng nhất và có những tính chất vật lý, hoá học nhất
định.
Khoáng vật tồn tại ở 3 thể: rắn, lỏng và khí, trong đó chủ yếu ở thể
rắn. Khoáng vật thể rắn hình thành và tồn tại ở 2 dạng cơ bản là kết tinh
tạo thành các tinh thể và vô định hình, hầu hết khoáng vật ở dạng tinh
thể. Hình dạng tinh thể do sự liên kết theo quy luật của các nguyên tử,
ion hoặc phân tử tạo nên các mạng lưới tinh thể.
2. Ðá
2.1. Ðịnh nghĩa và phân loại đá
Ðá là một tập hợp nhiều hoặc một khoáng vật, là thành phần vật chất
chủ yếu cấu tạo nên vỏ Trái Ðất.
Ngành khoa học chuyên nghiên cứu về các loại đá cấu tạo nên vỏ
Trái Ðất gọi là nham thạch hay thạch học.
Theo nhà thạch học lỗi lạc người Ðức Rozenbút thì chỉ có những
tập hợp khoáng vật tạo thành những thể địa chất độc lập mới được gọi là
đá. Một thể địa chất độc lập phải có đủ các điều kiện sau:
- Phân biệt rõ với các khối xung quanh và được thành tạo do những
quá trình địa chất riêng.
- Có thành phần khoáng vật, hoá học xác định và khác với các khối
bao quanh.
- Các thành phần tạo đá có phương thức kết hợp riêng. Ðá do
nhiều loại khoáng vật tạo nên gọi là đá đa khoáng, do một loại khoáng
vật gọi là đá đơn khoáng. Ðá bị phong hoá để tạo thành đất gọi là đá mẹ.
Theo nguồn gốc hình thành, toàn bộ đá cấu tạo nên vỏ Trái Ðất nằm
trong 3 nhóm lớn là: Ðá macma, đá trầm tích và đá biến chất. Trong
từng nhóm chính lại chia ra nhiều nhóm nhỏ hơn. Ví dụ: nhóm đá
macma có các nhóm phụ là macma siêu axit, macma axit, macma trung
tính...
2.2. Ðá macma
a. Ðịnh nghĩa và phân loại đá macma
Ðá macma là những đá được hình thành do sự đông cứng của dung
dịch macma. Nếu dung dịch macma đông cứng dưới sâu (trong vỏ Trái
Ðất) tạo đá macma xâm nhập, ngược lại dung dịch macma phun trào ra
phía ngoài mặt vỏ Trái Ðất rồi đông cứng lại thì tạo nên đá macma phun
trào.
Ðá macma có nhiều loại khoáng vật khác nhau, có kiến trúc và cấu
tạo phức tạp. Trong vỏ Trái Ðất đá nằm ở nhiều thể: tường mạch, nền,
trụ, nấm, lớp phủ, vòm phủ...
Có nhiều cách phân loại đá macma, phương pháp được sử dụng
rộng rãi là dựa vào hàm lượng SiO2 trong đá như ở bảng 1.1.
Bảng 1.1. Phân loại đá macma theo hàm lượng SiO2
Dựa vào màu sắc, các khoáng vật tạo đá macma chia làm hai nhóm
chính:
- Các khoáng vật sáng màu: Fenspat, Mica trắng...
- Các khoáng vật sẫm màu: Amphibon, Ôlivin, Manhêtit...
b. Một số loại đá Macma
Pecmatit
Là loại đá điển hình cho macma siêu axit, hình thành dưới sâu,
nằm ở thể mạch, có kiến trúc toàn tinh hạt lớn.
Các khoáng vật chính tạo đá là Fenspat dạng Octoclaz, Thạch anh,
Mica kết tinh tạo các tinh thể lớn, màu xám trắng hay trắng xám.
Pecmatit là loại đá cứng rắn rất khó bị phá huỷ hoá học. Sản phẩm
phong hoá của đá Pecmatit chủ yếu là các hạt cơ giới có kích thước khác
nhau. Ðất hình thành trên Pecmatit có thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất
mỏng chua và nghèo dinh dưỡng. Việt Nam gặp Pecmatit ở La Phù,
huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ.
Granit
Ðá Granit còn có tên gọi là đá hoa cương, đại diện cho đá macma
axit. Hình thành dưới sâu, rất phổ biến trong vỏ Trái Ðất, màu xám
trắng, xám hoặc hồng. Kiến trúc toàn tinh với các kích thước hạt khác
nhau. Thành phần khoáng vật chủ yếu là Octoclaz, Thạch anh, mica
trắng và đen, Hoocblen. Khoáng vật phụ có Plazoclaz, Apatit, Manhetit.
Các khoáng vật có thể quan sát nhận biết bằng mắt thường.
Dựa vào kích thước và thành phần khoáng vật mà có các tên gọi
như: Granit hạt thô, Granit hạt trung bình, Granit hạt mịn, Granit 2
mica...
Granit có Fenspat kiềm như Anbit, Microlis... thì có màu hồng, đỏ,
đỏ sẫm dùng làm gạch trang trí.
Granit là loại đá cứng rắn, khó bị phong hoá. Ðất hình thành trên
đá Granit nói riêng và Macma axit nói chung có thành phần cơ giới nhẹ,
tầng mỏng, rất chua và nghèo dinh dưỡng.
Ở Việt Nam gặp Granit ở nhiều nơi như Hoàng Liên Sơn (Lào
Cai), Trường Sơn Bắc, Trường Sơn Nam, Ðèo Hải Vân, Thanh Hoá,
Quảng Bình...
Ðá phun trào tương ứng với Granit là Riôlit (còn gọi là Lipazit) có
thành phần khoáng vật giống với Granit nhưng có kiến trúc poocphia,
cấu tạo dòng chảy. Nếu Riôlit không kết tinh được gọi là thuỷ tinh núi
lửa. Dãy núi Tam Ðảo chủ yếu cấu tạo bởi Riolit.
Anđêzit và Poocphia
Là những đá macma trung tính điển hình, hình thành bằng con
đường phun trào.
Anđêzit có màu xám, xám đen, xanh đen, đen. Thành phần khoáng
vật chủ yếu là Plazoclaz, Hoocbles, Ôgít, Pyroxen, Biôtit.
Anđêzit là đá phun trào kiểu mới, Poocphia là đá phun trào cổ.
Ðá xâm nhập tương ứng với Anđêzit là Ðiorit có kiến trúc toàn
tinh, thành phần khoáng vật tương tự Anđêzit. Khi lộ ra ngoài Anđêzit bị
phá huỷ dễ hơn đá macma axit. Ðất hình thành trên loại đá này có thành
phần cơ giới nặng, tầng dày và có nhiều tính chất tốt.
Việt Nam gặp Anđêzit ở Thanh Hoá, Lai Châu, Tây Nguyên.
Ðiorit gặp ở Lào Cai, Kontum...
Bazan, Ðiabaz, Gabrô
Bazan là đá điển hình của Macma bazơ, hình thành bằng con
đường phun trào. Màu xám, xám đen, đen. Thành phần khoáng vật chính
tạo đá là Pyroxen (Ôgít hoặc Ðiopxit) chiếm khoảng 50 %, thứ đến là
Plazoclaz kiềm, khoáng vật phụ là Olivin, hoocblen. Ðá Bazan có kiến
trúc vi tinh hay hạt mịn, mắt thường không phân biệt được các tinh thể
khoáng có trong đá. Trong đá thường có các lỗ hổng hình tròn hay bầu
dục, nếu đá có nhiều lỗ hổng thường xốp, nhẹ gọi là đá bọt Bazan. Thế
nằm của đá Bazan chủ yếu là vòm phủ và dòng chảy.
Ðiabaz là Bazan cổ. Gabrô là đá xâm nhập tương ứng với phun
trào Bazan, có kiến trúc toàn tinh dạng hạt lớn và trung bình.
Khi lộ ra ngoài mặt, đá Bazan rất dễ bị phá huỷ, đất hình thành trên
đá Bazan có màu đỏ, nâu đỏ, thành phần cơ giới nặng, tầng dày và có
nhiều tính chất tốt.
Việt Nam gặp đá Bazan ở Tây Nguyên, Ðông Nam Bộ, Quảng
Ngãi, Quảng Trị, Nghệ An, Thanh Hoá...
Ðunít
Ðunít là đá Macma siêu bazơ hình thành dưới sâu. Ðá có kiến trúc
hạt trung bình hay hạt nhỏ. Màu xanh lục, xám đen, đen. Khoáng vật chủ
yếu là Ôlivin (thay đổi từ 85 - 100%), ngoài ra còn gặp một ít Crônit,
Manhêtít. Khi bị biến đổi Ôlivin tạo thành Secpentin.
Ðất hình thành trên đá Ðunít có màu đen. Việt Nam gặp Ðunít ở
Cổ Ðịnh - Thanh Hoá.
2.3. Ðá trầm tích
a. Ðịnh nghĩa và phân loại đá trầm tích
Ðá trầm tích là đá hình thành từ sản phẩm phong hoá của các đá có
trước hoặc do xác sinh vật tích đọng tạo thành.
Ví dụ: Ðá cát kết (Sa thạch) do các hạt cát là sản phẩm của phong
hoá vật lý kết gắn tạo thành. Ðá vôi San hô do xác San hô chết tích đọng
tạo thành...
Dựa vào nguồn gốc hình thành, nhóm đá trầm tích thường được
chia thành các nhóm phụ sau: Trầm tích cơ học, trầm tích hoá học, trầm
tích sinh học và trầm tích hỗn hợp. b. Một số loại đá trầm tích
Ðá cát
Ðá cát là đá điển hình của trầm tích cơ học.
Hạt cát là sản phẩm phá huỷ cơ học các đá khác có kích thước từ
2mm - 0,1mm. Sản phẩm ở trạng thái rời rạc gọi là cát, nếu kết gắn lại
gọi là cát kết (Sa thạch).
Cát kết có 2 thành phần cơ bản là các hạt cát và chất xi măng kết
gắn. Thành phần khoáng vật của cát kết: Thạch anh, Fenspat, Mica,
Ziacon, Manhetít, Kaolinít... Cát kết có cấu tạo khối và cấu tạo phân lớp.
Xi măng kết gắn là Silic, sắt, canxi, sét...
Cát kết rất phổ biến trong vỏ Trái Ðất, chiếm khoảng 60% trầm
tích cơ học.
Ðất hình thành trên đá cát có thành phần cơ giới nhẹ, nghèo dinh
dưỡng, có nhiều tính chất xấu.
Ở Việt Nam đá cát gặp phổ biến ở các tỉnh trung du và miền núi
như Bắc Giang, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Kontum... Cát rời
gặp ở ven các dòng sông suối, đặc biệt gặp một dải dài ven biển miền
Trung từ Thanh Hoá đến Bình Thuận.
Ðá Vôi
Ðá vôi được hình thành do kết tủa CaCO3 từ dung dịch thật (trầm
tích hoá học) hoặc do xác sinh vật chứa nhiều CaCO3 tích đọng lại (trầm
tích sinh học). Màu trắng, hồng, xám, xanh, xám đen. Thành phần
khoáng vật chủ yếu là Canxit, ngoài ra còn gặp Aragônít, Kaolinit,
Thạch cao, oxyt sắt, nhôm, Ðôlômít... Ðá vôi sinh vật do xác các loại
sinh vật như Huệ biển, Tay cuộn, San hô, sò, hến,... Núi đá vôi ở vịnh
Hạ Long chủ yếu là xác San hô.
Ðất hình thành trên đá vôi có màu đỏ, nâu đỏ, trường hợp đặc biệt
có màu đen. Ðá vôi còn được dùng để sản xuất vật liệu xây dựng, làm
chất cải tạo đất chua...
Than bùn
Than bùn được hình thành do sự phân giải không hoàn toàn xác
thực vật trong điều kiện dư ẩm và thiếu oxy (vùng đầm lầy), màu đen,
nâu đen hay xám đen. Rất nhẹ, xốp và chứa nhiều di tích thực vật.
Thành phần hoá học của Than bùn: Oxy chiếm 30 - 38%, Cacbon
28 - 35%, Hyđro 5,5%, Nitơ 1- 2%. Than bùn có phản ứng rất chua.
Than bùn được sử dụng làm chất đốt, làm nguyên liệu để sản xuất
phân bón cho sản xuất nông nghiệp.
Ðá trầm tích hỗn hợp
Các thành phần tạo đá có nguồn gốc cơ học, hoá học và sinh học.
Tuỳ thành phần trong đá mà có các đá như: Sét vôi (macnơ), đá vôi sinh
hoá, sét bột...
2.4. Ðá biến chất
a. Ðịnh nghĩa và phân loại đá biến chất
Ðá biến chất là đá được hình thành do đá macma, đá trầm tích bị
biến đổi mạnh mẽ trong điều kiện nhiệt độ cao và áp suất lớn.
Nguyên nhân tạo nhiệt độ cao và áp suất lớn là các hoạt động địa
chất diễn ra trong vỏ Trái Ðất như hoạt động macma, hoạt động kiến
tạo... Giới hạn dưới của nhiệt độ là 350oC, của áp suất là 250-300 atm
bắt đầu gây biến chất cho đá.
Dựa vào nguồn gốc đá ban đầu, dựa vào nguyên nhân, dựa vào
mức độ biến chất, dựa vào thành phần khoáng vật và hoá học để phân
loại đá biến chất.
Nhóm đá biến chất có các nhóm phụ là biến chất động lực, biến
chất nhiệt, biến chất nhiệt động và biến chất trao đổi.
Nếu đá biến chất có nguồn gốc macma thì thêm đầu ngữ là Octo,
có nguồn gốc từ đá trầm tích thì thêm tiếp đầu ngữ là Para.
Ví dụ: Octognai, Paragnai...
b. Một số loại đá biến chất
Nhóm đá phiến
Là những đá có cấu tạo phân phiến, gặp rất phổ biến trong vỏ Trái
Ðất với những đá điển hình sau:
- Phiến thạch sét: trước đây đá này xếp vào đá trầm tích, nay
được xếp vào đá biến chất, thực chất phiến thạch sét được coi là trung
gian giữa đá trầm tích và biến chất. Thành phần chính của đá là sét,
ngoài ra còn gặp một số khoáng vật đặc trưng của đá biến chất như:
Xêrixit, Clorit. Ðá có cấu tạo phân phiến điển hình, màu xám, xám đen,
đen hoặc xanh xám.
Khi lộ ra ngoài không khí đá dễ bị phá huỷ tạo thành đất đỏ và có
nhiều tính chất tốt. Ở Việt Nam, phiến thạch sét gặp ở nhiều nơi như
Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Hoà Bình, Tây Nguyên...
- Phiến thạch mica: Ðá có cấu tạo phân phiến nhưng không
điển hình như các đá phiến khác. Thành phần khoáng vật chính của đá là
sét, mica, khoáng vật phụ là Grơnat, Xinimanit, Ðites, Thạch anh. Màu
xám, xám vàng. Việt Nam gặp nhiều ở Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Sơn
La, Nghệ An...
- Phiến Clozit, phiến Philít: Là những đá có cấu tạo phân phiến
rất điển hình. Khoáng vật chủ yếu trong đá Clozit là sét và Clozit, trong
đá Philít là sét và Xêrixit. Vùng vòng cung sông chảy gặp khá phổ biến
Clozit và Philít.
- Amphibolít: Là đá phiến kết tinh của nhóm biến chất nhiệt
động. Thành phần khoáng vật chính tạo đá là Hoocblen và Plazoclaz,
khoáng vật phụ có Pyroxen, Biotit, Êpiđôt, thạch anh. Ðá có cấu tạo
phân phiến, cấu tạo phân lớp song song. Màu đen, lục, xám xanh, xanh
lá cây.
Ở Việt Nam Amphibolit gặp ở Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ...
Ðá Gnai
Thuộc nhóm đá biến chất nhiệt động, có kiến trúc hạt biến tinh với
kích thước hạt khá lớn. Thành phần khoáng vật chính tạo đá là Fenspat,
thạch anh và mica, khoáng vật phụ có Hoocblen, Pyroxen, Granát.
Gnai có nguồn gốc từ Granit, Ðioxit, Cát kết....
Ở Việt Nam Gnai gặp ở thượng nguồn sông chảy, Kontum...
Ðá hoa
Ðá hoa do đá vôi bị tái kết tinh khi gặp nhiệt độ cao. Thành phần
khoáng vật chính là Canxit kết tinh từ hạt mịn đến trung bình hoặc to,
ngoài ra còn gặp khoáng vật phụ là Ðôlômit, Xêrixit, Tan. Ðá có cấu tạo
khối, màu trắng, nâu, hồng...
Ở Việt Nam đá hoa gặp ở Phong Thổ - Lai Châu, Quốc Oai - Hà
Tây.
Quăczít
Quăczít thuộc nhóm đá biến chất nhiệt. Kiến trúc hạt biến tinh với
cấp hạt mịn là chính. Thành phần khoáng vật chủ yếu là Thạch anh,
ngoài ra còn gặp Xirêxit, Fenspat. Quăczít có nguồn gốc từ macma siêu
axit hay cát kết thạch anh. Màu vàng, trắng, hồng hoặc xám. Ðá rất cứng
rắn, khó bị phong hoá khi lộ ra ngoài không khí. Việt Nam gặp Quăczít
ở nhiều nơi như: Thanh Hoá, Nghệ An, Bắc Giang...
Sự hình thành đất là những quá trình biến đổi phức tạp của vật chất
diễn ra ở lớp ngoài cùng của vỏ Trái Ðất do sự tác động của các yếu tố
tự nhiên và nhân tạo.
Sự tác động của các yếu tố làm cho khoáng vật và đá bị phá huỷ
tạo thành mẫu chất. Sinh vật tác động lên mẫu chất làm cho mẫu chất
được tích luỹ chất hữu cơ, dần dần biến đổi tạo nên thể vật chất gọi là
đất.
Ðất là một sản phẩm đặc biệt được hình thành do sự tác động của
khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, năng lượng bức xạ mặt trời lên bề
mặt thạch quyển (vỏ Trái Ðất).
Một loại đá được cấu tạo bởi nhiều khoáng vật khác nhau, do đó
nhiệt độ thay đổi các khoáng vật co giãn không giống nhau làm đá bị vỡ
vụn. Như vậy thành phần khoáng vật của đá càng nhiều thì đá càng dễ bị
vỡ vụn. Những đá cấu tạo bởi một loại khoáng vật (đá đơn khoáng) cũng
bị vỡ do hệ số nở dài theo các phương khác nhau. Sự chênh lệch nhiệt
độ giữa ngày và đêm, giữa các mùa trong năm càng lớn thì phong hoá
vật lý diễn ra càng mạnh. Ví dụ, vùng sa mạc thường có sự chênh lệch
nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn nên vào ban đêm có thể nghe được tiếng
nổ vỡ của đá trong vùng.
Trong đá thường có các lỗ hổng và các vết nứt nguyên sinh chứa
đầy khí hay nước. Khi nhiệt độ xuống thấp dưới OoC, nước ở thể lỏng
chuyển thành thể rắn (nước đóng băng) làm tăng thể tích tạo áp suất lớn
có khi tới hàng ngàn atmôtphe lên thành khe nứt làm cho đá bị vỡ ra.
Các mảnh vụn sinh ra có thể di chuyển đi nơi khác theo dòng nước
chảy hoặc gió thổi sẽ phá huỷ các đá trên đường di chuyển của chúng.
Phong hoá vật lý có tính chất tiên phong, tạo điều kiện thuận lợi
cho phong hoá hoá học và sinh học. b. Phong hoá hoá học
Do sự tác động của H2O, O2, CO2... các khoáng vật và đá bị phá
huỷ, thay đổi về hình dạng, kích thước, thành phần và tính chất hoá học.
Có thể nói, phong hoá hoá học chính là các phản ứng hoá học diễn ra do
sự tác động của H2O, O2, CO2 lên đá và khoáng vật.
Phong hoá hoá học được chia thành 4 quá trình chính là: Ôxy hoá,
hyđrat hoá, hoà tan và sét hoá.
+ Quá trình ôxy hoá:
Quá trình này phụ thuộc chặt chẽ vào sự xâm nhập của O2 tự do
trong không khí và O2 hoà tan trong nước. Quá trình ôxy hoá làm cho
khoáng vật và đá bị biến đổi, bị thay đổi về thành phần hoá học.
Ví dụ:
Khoáng vật pyrít bị ô xy hoá và biến đổi như sau:
FeS2 + 7O2 + 2 H2O = 2 FeSO4 + 2 H2SO4
12 FeSO4 + 3O2 + 6 H2O = 4 Fe2(SO4)3 + 4 Fe(OH)3
Quá trình ôxy hoá diễn ra rất mạnh với hầu hết các nguyên tố hoá
học có trong khoáng vật và đá, đặc biệt là các nguyên tố hoá trị cao, ví
dụ Mangan.
+ Quá trình hyđrát hoá:
Là quá trình nước tham gia vào mạng lưới tinh thể của khoáng vật,
thực chất đây là quá trình nước kết hợp với khoáng vật làm thay đổi
thành phần hoá học của khoáng vật.
Ví dụ: + 2 H2O
CaSO4 CaSO4.2H2O
Anhyđrit Thạch cao
+ n H2O
Fe2O3
Fe2O3.nH2O Hêmatít
Limonit
+ Quá trình hoà tan:
Là quá trình các khoáng vật và đá bị hoà tan trong nước. Hầu như
tất cả các khoáng vật và đá bị hoà tan trong nước, nhưng mạnh nhất là
các khoáng vật của lớp cácbônát và lớp muối mỏ. Ví dụ: CaCO3
(đá vôi) bị hoà tan như sau:
CaCO3 + H2O + CO2 Ca(HCO3)2 Các
khoáng vật và đá bị hoà tan tạo thành các dung dịch thật.
+ Quá trình sét hoá:
Các khoáng vật silicat, nhôm silicat do tác động của H2O, CO2 sẽ
bị biến đổi tạo thành các khoáng sét (keo sét). Các chất kiềm và kiềm
thổ trong khoáng vật bị H+ chiếm chỗ trong mạng lưới tinh thể được
tách ra dưới dạng hoà tan. Như vậy thực chất của quá trình sét hoá là các
quá trình hoà tan, hyđrát hoá chuyển các khoáng vật silicát, nhôm silicat
thành các khoáng vật thứ sinh, các muối và oxýt.
Ví dụ:
K2Al2Si6O16 + H2O + CO2 H2Al2Si2O8.2H2O +
K2CO3+ SiO2.nH2O
Fenspatkali (orthoclaz) Kaolinit
Ôpan
c. Phong hoá sinh học
Hoạt động của sinh vật bậc thấp, bậc cao cũng tham gia phá huỷ
các khoáng vật và đá. Rễ cây xuyên vào các khe nứt hút nước và các
chất khoáng, theo thời gian, rễ to dần phá vỡ đá. Mặt khác rễ cây tiết
H2O và CO2 tạo H2CO3 để hoà tan đá và khoáng vật. Khi chết xác sinh
vật bị phân huỷ sinh ra các axit hữu cơ góp phần hoà tan các khoáng vật
và đá. Do vậy, bản chất của phong hoá sinh học là phong hoá vật lý và
hoá học do sự tác động của sinh vật lên khoáng vật và đá. Cũng trong
quá trình này mẫu chất được tích luỹ chất hữu cơ do xác sinh vật để lại
sau khi chết, làm cho mẫu chất xuất hiện những thuộc tính mới được gọi
chung là độ phì và mẫu chất biến đổi thành đất. Nhà khoa học nổi tiếng
người Nga Vecnatxki cho rằng: "Hoạt động hoá học của vỏ Trái Ðất,
gần 99% có liên quan tới quá trình sinh hoá học". 1.2. Sản phẩm phong
hoá, vỏ phong hoá
a. Sản phẩm và vỏ phong hoá
+ Sản phẩm phong hoá: Các sản phẩm phong hoá là kết quả của
quá trình phá huỷ các khoáng vật và đá, do vậy chúng rất phong phú và
đa dạng. Phong hoá vật lý tạo thành các hạt vô cơ có kích thước khác
nhau. Phong hoá hoá học tạo thành các hợp chất dễ tan, oxyt, Hydrôxit
và các loại keo sét. Phong hoá sinh vật ngoài sự tạo thành các sản phẩm
trên còn tạo sự tích luỹ chất hữu cơ trong mẫu chất.
+ Vỏ phong hoá: các loại sản phẩm phong hoá tích đọng lại tạo
thành vỏ phong hoá. Vỏ phong hoá là lớp vật chất nằm ở phía ngoài
cùng của vỏ Trái Ðất. Sản phẩm phong hoá biến đổi tạo thành mẫu chất,
mẫu chất chịu tác động sâu sắc của sinh vật dần dần trở thành đất.
+ Ảnh hưởng gián tiếp: Ảnh hưởng gián tiếp của khí hậu thông qua
yếu tố sinh vật, khí hậu góp phần điều chỉnh lại yếu tố sinh vật. Mỗi đới
khí hậu trên Trái Ðất có các loài thực vật đặc trưng. Ví dụ: thực vật đặc
trưng của khí hậu nhiệt đới là cây lá rộng, thực vật đặc trưng của khí hậu
ôn đới là các cây lá kim... V.V.Docuchaev đã phát hiện ở mỗi đới khí
hậu có những loại đất đặc thù riêng.
2.4. Ðịa hình
Ðịa hình cũng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến sự hình thành
đất.
+ Ảnh hưởng trực tiếp: Các đặc trưng của địa hình như dáng đất,
độ cao, độ dốc... ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều quá trình diễn ra trong
đất. Vùng đồi núi, vùng cao ở đồng bằng quá trình rửa trôi xói mòn diễn
ra mạnh. Ngược lại trong các thung lũng ở vùng đồi núi hoặc vùng trũng
ở đồng bằng diễn ra quá trình tích luỹ các chất. Lượng nước trong đất
cũng phụ thuộc địa hình; vùng cao thường thiếu nước, quá trình ôxy hoá
diễn ra mạnh; Vùng trũng thường dư ẩm, quá trình khử chiếm ưu thế...
kết quả ở các địa hình khác nhau hình thành nên các loại đất khác nhau.
+ Ảnh hưởng gián tiếp: địa hình ảnh hưởng gián tiếp đến sự hình
thành đất thông qua yếu tố khí hậu và sinh vật. Càng lên cao nhiệt độ
càng giảm dần theo quy luật độ cao tăng 100 m, nhiệt độ giảm 0,5oC,
đồng thời ẩm độ tăng lên. Sự thay đổi khí hậu kéo theo sự thay đổi của
sinh vật. Ở các độ cao khác nhau có các đặc trưng khí hậu và sinh vật
khác nhau. Các nhà thổ nhưỡng đã phát hiện được quy luật phát sinh đất
theo độ cao. Năm 1968, Cao Liêm đã tìm ra quy luật hình thành đất theo
độ cao trên dãy núi Hoàng Liên Sơn như sau:
Ðộ cao (m) Loại đất
Dưới 1000 m Ðất Feralít
1000-1800 m Ðất Feralít - mùn trên núi
1800-2300 m Ðất mùn alít trên núi cao
2300-2900 m Ðất mùn thô trên núi
> 2900 m Ðất mùn thô than bùn trên
núi
Vùng đồi B núi: Phẫu diện điển hình có 3 tầng cơ bản là:
A, B, C. Ðá mẹ ký hiệu là C (Hình 2.1).
Tầng B thường có độ dày lớn nhất Chú ý: Ðộ dày từ
mặt C xuống tới đá mẹ được gọi là độ dày đất, còn
quen gọi
D
là độ dày tầng đất
Hình 2.1. Cấu tạo phẫu diện đất vùng đồi núi:
+ Vùng đồng bằng: Ðiển hình là phẫu diện đất lúa nước, thể hiện ở
hình 2.2:
AC AC: Tầng canh tác (còn gọi là tầng A), tầng này
càng dày, đất càng tốt
P P: Tầng đế cày: nằm ngay dưới tầng canh tác
B: Tầng tích tụ có màu loang lổ đỏ vàng,
tầng này tích tụ các chất rửa B trôi từ trên xuống, ngoài ra còn
tích tụ một số chất từ nước ngầm đem
lên, nên tầng B đất đồng bằng có tích tụ 2 chiều.
G: Tầng glây có màu xanh xám hoặc
G xám xanh.
Hình 2.2. Cấu tạo phẫu diện đất lúa nước
3.2. Màu sắc đất, chất mới sinh và chất lẫn vào
a. Màu sắc đất
Màu sắc đất thay đổi rất phức tạp, trong một phẫu diện các tầng
thường có màu sắc khác nhau. Các loại đất cũng có màu sắc khác nhau.
Màu sắc đất thay đổi theo độ ẩm. Màu sắc của đất được tạo bởi 3 nền
màu chính là đen, đỏ và trắng. Thành phần và tính chất đất quyết định
màu sắc của đất.
Màu đen của đất chủ yếu do mùn tạo nên, do vậy mùn càng nhiều
đất càng đen và độ phì càng lớn. Ngoài mùn còn có một số hợp chất hoá
học có màu đen như oxyt Mangan - MnO2.
Màu đỏ của đất chủ yếu do oxyt sắt - Fe2O3 tạo nên, nếu oxyt sắt
ngậm nước chúng sẽ có màu vàng. Ðại bộ phận đất vùng đồi núi và
vùng có địa hình cao ở đồng bằng Việt Nam có màu đỏ vàng hay loang
lổ đỏ vàng chủ yếu do Fe2O3 và Fe2O3.nH2O tạo nên.
Màu trắng của đất chủ yếu do thạch anh (SiO2), Canxi Cacbonát
(CaCO3) và Kaolinit tạo nên. Những đất có màu trắng thường chứa
nhiều SiO2, rất nghèo mùn và các chất dinh dưỡng. Ðất xám bạc màu ở
Việt Nam có màu trắng hoặc xám trắng.
Những vùng đất luôn dư ẩm (đất có độ ẩm bão hoà) quá trình khử
diễn ra mạnh, sắt tồn tại trong đất ở dạng khử trong các hợp chất như:
FeO.nH2O, Fe(HCO3)2, Fe(OH)2... làm cho đất có màu xanh xám hoặc
xám xanh, đây chính là quá trình glây trong đất.
Sự phối hợp giữa 3 màu đen, đỏ và trắng cho ra nhiều màu khác
nhau. Zakharốp đã xây dựng một tam giác màu với 3 đỉnh là đen, đỏ và
trắng. Ngày nay, các nhà khoa học đất thế giới đã xây dựng một thang
màu chuẩn của đất - thang màu Munsel. Màu của đất đã được định
lượng theo hệ thống màu cụ thể rất thuận lợi cho việc mô tả màu sắc của
đất.
b. Chất mới sinh và chất lẫn vào
Những vật liệu như mảnh bom đạn, mảnh sành sứ, gạch ngói... gặp
trong đất được gọi là chất lẫn vào. Những chất lẫn vào không có ý nghĩa
với quá trình phát sinh đất nhưng có thể giúp chúng ta có những nhận
xét về tình hình sử dụng đất trước đây.
Các chất trong đất như: mùn, các hợp chất sắt hoá trị 3, các hợp
chất sắt hoá trị 2, các loại muối tan trong đất, phèn sắt, nhôm... là kết
quả của quá trình hình thành và biến đổi trong đất được gọi là những
chất mới sinh. Các chất mới sinh là căn cứ, là cơ sở giúp chúng ta có kết
luận chính xác về quá trình hình thành và biến đổi diễn ra trong đất.
Chương III
SINH VẬT ĐẤT
Quá trình hình thành đất là một quá trình biến đổi vật chất xảy ra ở
lớp ngoài cùng của vỏ trái đất liên tục và kéo dài từ hàng triệu năm nay.
Kết quả lớp phủ thổ nhưỡng hình thành trên bề mặt trái đất có hoạt động
sinh học. Học thuyết hình thành đất của V. V. Docuchaev đã chỉ ra rằng
sinh vật là một trong 5 yếu tố hình thành đất và được xem là yếu tố chủ
đạo. Sau khi đất được hình thành sinh vật giữ vai trò quan trọng trong
việc lưu chuyển với quyển khác trong sinh quyển. Đất là nơi hàng loạt
quá trình chuyển hóa vật chất, trao đổi dinh dưỡng và năng lượng để
hình thành và phát triển độ phì nhiêu của đất mà trong đó sinh vật đất
đóng vai trò quan trọng. Vì thế sinh vật đất không những là thành phần
không thể tách rời của đất mà còn là một trong các chỉ tiêu đánh giá độ
phì nhiêu của đất.
Tính toán của các nhà khoa học cho thấy ngoài hàng trăm tấn chất
xanh của thực vật bậc cao cung cấp cho đất, trên 1 ha đất canh tác (độ
sâu 20 cm) có 5- 7 tấn vi khuẩn, 2- 3 tấn nấm, xạ khuẩn và động vật
nguyên sinh và 3- 4 tấn động vật không xương sống. Rõ ràng ngoài chức
năng tham gia vào các quá trình chuyển hóa vật chất, sinh vật đất sau
chu kỳ sống để lại cho đất sinh khối rất lớn tạo nên độ phì nhiêu của đất.
Tuy nhiên hoạt động của sinh vật đất cũng như sinh khối của chúng để
lại hoàn toàn phụ thuộc vào các yếu tố môi trường như: khí hậu, tính
chất đất…Các yếu tố này lại gây tác động tương hỗ giữa sinh vật.
Nghiên cứu sinh vật đất rất phức tạp, trong phạm vi giáo trình này chúng
tôi chỉ giới thiệu sơ bộ một số nhóm sinh vật chính và tác dụng của
chúng đối với quá trình hình thành đất và biến đổi của đất, đó là vi sinh
vật đất, thực vật, nguyên sinh động vật và động vật đất.
3.1. Vi sinh vật đất (microorganisms)
3.1.1. Đặc điểm chung
Vi sinh vật là những sinh vật có kích thước bé không quan sát
được bằng mắt thường mà phải dùng kính hiển vi mới nhìn thấy. Những
cơ thể nhỏ bé này có thể chưa phải là tế bào (virus), là tế bào nhưng
chưa có nhân thật (Prokaryota)- nhân nguyên sinh như vi khuẩn hay có
nhân (Eukaryota) như sinh vật bậc cao của vi nấm. Kích thước của vi
sinh vật thường được đo bằng micromet (µm) hay bằng nanomet (nm)
(1nm= 10-3µm = 10-6mm).
Có khả năng hấp thu và chuyển hóa mạnh vật chất do bề mặt tiếp
xúc lớn (từ mọi phía của tế bào). Chúng có thể hấp thu được khối lượng
lớn hơn hàng ngàn lần trọng lượng cơ thể.
Có khả thích ứng cao với môi trường và dễ biến dị. Đây sẽ là cản
trở trong quá trình chọn lọc hoặc và duy trì một giống vi sinh vật.
Sinh trưởng và phát triển nhanh. Nhiều loài cứ 20 phút thì một tế
bào được nhân đôi.
Vi sinh vật phổ biến khắp mọi nơi trong mọi điều kiện. Trong một
gam đất trồng trọt có thể có tới 109 tế bào với nhiều chủng loại khác
nhau.
Nếu theo định nghĩa chung thì vi sinh vật bao gồm nhiều nhóm.
Trong phạm vi phần này chúng tôi giới thiệu các nhóm chính sau đây:
Vi khuẩn, xạ khuẩn, vi nấm, tảo và địa y.
3.1.2. Vi khuẩn (Bacteria)
Vi khuẩn có cấu tạo tế bào nhưng chưa có nhân (prokaryota). Nhân
là một chuỗi AND không có màng nhân, có màng ngoài. Có cả gam âm
(bắt màu tím) và gam dương (bắt màu hồng). Vi khuẩn có nhiều dạng:
hình cầu, hình que, hình sợi, hình xoắn (Hình 3.1).
Hình 3.1. Hình thái của vi khuẩn (ảnh của WCB. McGraW- Hill. 1998)
Kích thước của vi khuẩn từ 0,2- 2,0 µm x 2,0- 8,0 µm. Vi khuẩn
nguyên sinh bé hơn. Trong đất vi khuẩn chiếm tới 90 % tổng số sinh vật.
Khối lượng của chúng trong đất có thể lên tới hàng tấn (trong đất đồng
cỏ ôn đới đạt 10 tấn/ ha).
a. Vi khuẩn nguyên sinh
Vi khuẩn nguyên sinh kích thước bé hơn vi khuẩn Eubacteria (vi
khuẩn thật), đa số sống ký sinh trên thực vật, trên động vật hay người.
Có 3 nhóm vi khuẩn nguyên sinh: Micoplatma ký sinh trên thực vật,
Ricketxi ký sinh trên người và động vật và Clamidia ký sinh trên các
sinh vật có nhân và gây bệnh cho chúng. b. Vi khuẩn (Eubacteria)
Bao gồm các vi khuẩn có cấu tạo tế bào đầy đủ gồm thành tế bào
(màng ngoài), màng tế bào chất (màng trong), nhân, tế bào chất,
riboxom và các vật thể nằm trong tế bào chất. Vi khuẩn này bắt màu cả
gam âm và gam dương. Có loài có cơ quan di chuyển gọi là tiêm mao.
Có loài hình thành bào tử sống rất lâu (có thể tới hàng ngàn năm). Sinh
sản nhân đôi. Một số loài tế bào xung quanh có lớp nhầy gọi là bao nhầy
hay giáp mạc. Các bào nhầy có tính dính do đó chúng kết lại thành khối
và cũng làm cho các hạt đất kết dính tạo nên kết cấu đất.
Vi khuẩn phân bố rộng rãi trong đất, từ đất rất nghèo dinh dưỡng
như đất cát ven biển (Arenosols), đất xám bạc màu (Haplic Acrisols)
đến đất phù sa trung tính (Eutric Fluvisols) màu mỡ. Tuy nhiên thành
phần và số lượng của chúng trong các loại đất trên là rất khác nhau.
Phần lớn vi khuẩn thuộc vi khuẩn tự dưỡng - heterotrophia. Chúng
lấy dinh dưỡng bằng cách phân hủy xác hữu cơ. Vi khuẩn tự dưỡng
(autotrophia) có khả năng tổng hợp cacbon từ CO2 từ quá trình ôxy hóa
của các chất vô cơ. Nhờ vậy các vi khuẩn tự dưỡng sống được trong cả
các đất nghèo dinh dưỡng như đất cát và đất xám bạc màu. Đối với các
vi khuẩn phân hủy chất hữu cơ thành chất khoáng cần thiết nhất là nitơ.
Phần lớn xác hữu cơ trong đất có hơn 1,5- 2,0 % N, nhìn chung là tương
đối đủ cho vi khuẩn. Nếu xác hữu cơ chứa ít nitơ thì vi khuẩn lấy nitơ từ
đất. Khi có nhiều xác hữu cơ năng lượng cao nhưng nghèo nitơ sẽ xảy ra
cạnh tranh về nitơ giữa vi khuẩn và thực vật. Vì thế tỷ lệ C/ N trong xác
hữu cơ có ảnh hưởng đáng kể. Người ta cho rằng tỷ lệ này bằng 25 là tốt
nhất, khi đó gần như toàn bộ nitơ được vi khuẩn sử dụng hết để nuôi cơ
thể, khi tỷ lệ này lớn hơn 25 sẽ xảy ra cạnh tranh và nitơ trong đất sẽ cạn
kiệt. Điều này khuyến cáo chúng ta không nên bón phân hữu cơ nghèo
đạm như rơm rạ chẳng hạn. Sự phụ thuộc số lượng vi khuẩn vào hàm
lượng chất hữu cơ trong phẫu diện đất có thể xem ở số liệu ở bảng 3.1.
Bảng 3.1. Phân bố chất hữu cơ và vi khuẩn trong đất đen
(chernozem)
Độ sâu Chất hữu Vi khuẩn (mln.g-1)
Tầng
(cm) cơ (%) Háo khí Yếm khí
A1 0- 6 8,04 49,2 1,0
A2 6- 12 3,18 131,8 1,0
B1 12- 28 2,41 158,3 10,0
B2 28- 48 1,76 45,3 1,0
C 48- 80 0,80 6,0 0,001
Nguồn: Timonina
Nhìn chung ở vùng rễ cây có nhiều vi khuẩn hơn vì rễ cây thải ra
một số chất hữu cơ là nguồn năng lượng cho vi khuẩn.
Pha rắn của đất có khả năng tiếp nhận vi khuẩn từ dung dịch đất vì
vậy vi khuẩn khó di chuyển trong dung dịch đất. Ví dụ, vi khuẩn amôn
hóa di chuyển từ dung dịch lên bề mặt các hạt đất và cư trú tại đó.
Hoạt động của vi khuẩn phụ thuộc rất lớn vào điều kiện không khí
- nước trong đất. Người ta cho rằng hoạt động của vi khuẩn kém khi đất
khô và rất kém tại độ ẩm cây héo (pF= 4,2). Số liệu ở bảng 3.2 cho thấy
rõ điều này.
Bảng 3.2. Quan hệ giữa độ ẩm đất và số lượng vi khuẩn trong đất
Tỷ lệ nước so với Số tế bào vi
Sức chứa ẩm tối khuẩn
nước mao quản
đa (%) (mln.g-1 .đ)
(%)
30,0 6,51 9,98
56,0 10,85 11,89
65,0 14,10 16,41
80,0 17,35 29,96
100,0 21,69 25,29
Nguồn: Musierowicz
Độ chua của đất cũng quyết định thành phần và số lượng của vi
khuẩn. Phần lớn vi khuẩn thích hợp ở pH = 7,0. Tuy nhiên chúng có thể
hoạt động được trong phạm vi rộng hơn nhiều (pH 1- 10). Vi khuẩn
phân giải lưu huỳnh (Bacillus thiooxidans) thích ứng tốt ở trong đất
chua.
Có rất nhiều loài vi khuẩn với chức năng khác nhau trong đất, ta có
thể phân biệt ra một số như sau:
- Vi khuẩn phân giải chất hữu cơ không chứa đạm
- Vi khuẩn phân giải protein, ure giải phóng amôniắc
- Vi khuẩn phản nitrat hóa
- Vi khuẩn tổng hợp nitơ tự do
- Vi khuẩn ôxy hóa lưu huỳnh - Vi khuẩn ôxy hóa sắt
- Vi khuẩn phân giải P, K.
3.1.3. Xạ khuẩn (Actinomycetes)
Về mặt cấu trúc xạ khuẩn thuộc nhóm Eubacteria vì chúng cũng
chưa có nhân đặc trưng, nhân của chúng giống với nhân của vi khuẩn
(prokaryota). Tuy nhiên hình thái, kích thước và cả vai trò trong đất có
những nét đặc trưng riêng khác với vi khuẩn (Hình 3.2).
Hình 3.2 Hình thái của xạ khuẩn (ảnh của WCB. McGraW - Hill. 1998)
Vì thế xạ khuẩn được giới thiệu tương đương với nhóm vi khuẩn
(Eubacteria). Xạ khuẩn có cấu trúc sợi, đường kính sợi thường 0,2- 3,0
µm. Xạ khuẩn cũng có khả năng hình thành bào tử để sinh sản. Xạ
khuẩn có gam dương.
Xạ khuẩn trong đất là một trong các nhóm sinh vật đất đông nhất
và quan trọng nhất, chúng chiếm tới 10- 70 % số tế bào vi sinh vật trong
đất. Ở môi trường trung tính xạ khuẩn phát triển mạnh nhất trong đất
giàu hữu cơ và thông thoáng. Xạ khuẩn có vai trò phân giải chất hữu cơ
và nhất là phân giải đường tan trong nước, hemicenluloza và cenluloza.
Xạ khuẩn tham gia vào quá trình hình thành các axit mùn. Một vài loài
xạ khuẩn có khả năng cố định nitơ tự do từ khí trời khi cộng sinh với
thực vật không thuộc bộ đậu. Xạ khuẩn là vi sinh vật tạo ra kháng sinh
chủ yếu (tới 80 % chất kháng sinh) vì thế trong đất có nhiều xạ khuẩn
cây trồng ít bị bệnh hơn. Đưa xạ khuẩn vào đất gây nhiễm sinh học là
một hướng nghiên cứu.
3.1.4. Vi nấm (Microfungi)
Vi nấm bao gồm các loài nấm đa bào và nấm sợi sinh quả thể lớn.
Kích thước của chúng bé nên là đối tượng của vi sinh vật học. Khác với
vi khuẩn và xạ khuẩn, vi nấm có nhân thật (Eukaryuta) giống như tế bào
sinh vật bậc cao kể cả của người.
Vi nấm gồm 2 nhóm: nấm men (Yeast) là nấm ở dạng đơn bào có
kích thước lớn hơn vi khuẩn (khoảng 10 lần) và nấm sợi (Filamentous
fungi) là nấm hệ sợi phức tạp, đa phần là đa bào, một số ít loài hệ đơn
bào.
Nấm men (Yeast) sinh sản bằng vô tính giống vi khuẩn, đa số theo
hình thức nảy mầm (mẹ mọc con, con mọc cháu…), một vài loài sinh
bào tử. Nấm cũng có sinh sản hữu tính như chi Saccharomyces. Nấm sợi
còn gọi là nấm mốc (Filamentous fungi) có quá trình sinh sản phức tạp
hơn nấm men. Sinh sản vô tính có nhiều cách: bào tử trần, bào tử kín.
Sinh sản hữu tính của nấm sợi cũng có vài hình thức khác nhau.
Sự phát triển của nấm trong đất phụ thuộc vào điều kiện không khí
- nước. Chúng có thể sống được trong những điều kiện khác nhau dù ít
hay nhiều không khí và nước, nhiệt độ cao hay thấp. Tuy nhiên khi nước
xuống dưới mức cây héo hoặc bão hòa nước gây khó khăn cho không
khí xâm nhập thì nấm phát triển kém.
Trong đất trồng trọt và đất đồng cỏ khối lượng nấm tương đương
khối lượng vi khuẩn. Ngược lại nấm lấy nhiều nitơ từ đất hơn là vi
khuẩn vì nấm dùng tới 60% xác hữu cơ phân giải để xây dựng bào tử.
Trong đất rất nhiều loài nấm phá hoại cây trồng. Ta có thể chia ra 3
nhóm: nhóm biểu sinh (saprofite), nhóm ký sinh (pasoryte) trên rễ và
nhóm tấn công trên thân, lá thực vật.
Thuộc nhóm thứ nhất có: loài Pythium gây tổn thương cho rễ bắp
cải, thuốc lá và củ cải đường nếu đất quá ẩm; giống Rhizoctma solani
gây tổn thương cho mầm khoai tây; loài Fusarium culmorum phá hoại rễ
ngũ cốc. Chúng gây tổn thương cho rễ chủ yếu tiết ra chất độc.
Thuộc nhóm hai một số nấm như loài Synchytrium endobioticum
gây ung thư khoai tây hoặc thối cổ rễ ngũ cốc như loài Ophiobolus
gramini hay Cercosporella herpotrichoides.
Cũng có loài tấn công vào các bộ phận trên thân, lá thực vật như
Piricularia oryzae gây bệnh đạo ôn cho lúa.
Ý nghĩa lớn nhất đối với quá trình hình thành đất là các nấm sống
trong đất chua dưới rừng, tập trung chủ yếu ở tầng thảm mục với chức
năng phân giải xác hữu cơ (ví dụ, phân giải cenlulo, tinh bột, nhựa,
lignin) và làm cho đất trở nên chua. Trong đất chua lầy thụt cũng có rất
nhiều nấm hoạt động.
Theo Waksman, Müller, de Koening… nấm đóng vai trò quan
trọng trong quá trình mùn hóa, đặc biệt là các loài: Cladosporium
humificans, Trichoderma viride…
Nấm lấy nitơ chủ yếu dưới dạng amôniắc nhưng lại không có khả
năng ôxy hóa amôniắc thành nitrat mặc dù có khả năng ôxy hóa các hợp
chất lưu huỳnh ở mức độ yếu.
Thường thường người ta cũng gặp các nấm cộng sinh với thực vật
tạo ra hiện tượng gọi là mikoryza. Mikoryza có trên rễ nhiều cây (như
cây rừng, ngũ cốc, cây bộ đậu…) chúng cung cấp cho cây nước và thành
phần dinh dưỡng (N, P, K…); ngược lại nấm trong các mikoryza lấy từ
cây cacbua hydro. Ngoài ra các nấm còn kích thích nảy mầm và sinh
trưởng cho cây.
3.1.5. Tảo (Algae)
Tảo là những sinh vật rất phổ biến trong đất. Chúng có cấu trúc đa
dạng (đơn bào, đa bào, tập đoàn) bao gồm nhiều ngành có kích thước,
cấu tạo (Hình 3. 3) và hình thức sinh sản khác nhau.
1. Cyanophyta- Tảo lam 2. Chlorophyta
- Tảo lục
Hình 3.3. Hình thái của các loại tảo (theo Robert Edward Lee, 1999)
Tất cả các tảo đều có diệp lục tuy các chất sinh sắc tố có khác
nhau. Đa phần tảo sống trong nước dạng phù du (plankton) và ở đáy
(benthos), một phần sống trong đất, trên cây và trên đá. Trong đất
Việt Nam ta gặp các ngành tảo sau:
- Tảo lam- Cyanophyta, cộng sinh với bèo dâu
- Tảo lục- Chlorophyta, sống ở nước ngọt và lợ
- Tảo vàng- Xanthophyta, sống ở nước lợ
- Tảo cát (silic)- Bacillariophyta, sống ở nước ngọt và lợ
- Tảo nâu- Phacophyta, sống ở nước mặn
- Tảo mắt- Eulenophyta, sống ở nước mặn
- Tảo ánh vàng - Chrysophyta, sống ở nước mặn và lợ
- Tảo giáp- Pyrophyta, sống ở nước mặn - Tảo vòng-
Charophyta, sống ở nước mặn.
Tảo không chỉ là người tiên phong (pioneer) trong việc phá hủy đá
và khoáng vật mà còn nhờ khả năng thích nghi cao vào điều kiện khắc
nghiệt cũng như sinh khối lớn đã cung cấp cho đất sa mạc một lượng
đáng kể chất hữu cơ. Ngoài ra ở đất xói mòn do gió tảo còn có khả năng
gắn kết các hạt đất nên hạn chế được sự xói mòn (H. Uggla, 1976).
3.1.6. Địa y (Lechnes)
Một ví dụ điển hình về sự cộng sinh giữa nấm và thực vật (tảo) là
địa y, trong đó tảo cung cấp cho nấm cacbua hydro do tảo có khả năng
quang hợp còn nấm cung cấp cho tảo nước và muối khoáng. Địa y
không có màu lục mà thường màu xám, xanh xám, nâu xám hoặc nâu
thẫm đôi khi đen. Địa y có thể sống trong cát, trên đá và gỗ- nơi mà các
sinh vật khác khó tồn tại được, ngay cả như đối với nấm và tảo nếu sống
độc lập. Địa y cũng là người tiên phong trong quá trình hình thành đất,
chúng giải phóng một số axit (ví dụ axit licheic) nồng độ đủ lớn để phá
hủy khoáng vật hình thành đất và lấy thành phần dinh dưỡng như: S, P,
Cu, F và các vi lượng khác để nuôi cơ thể.
Địa y có khoảng 20.00 loài, thuộc 400 chi. Ở Việt Nam đã phát
hiện có mặt của hầu hết đại diện của các chi thuộc 2 lớp chính: địa y túi
(Ascolichenes) và địa y đảm (Basidiolichenes).
Địa y túi (Ascolichenes) do nấm thuộc lớp nấm túi cộng sinh với
các tảo lam và tảo lục, chúng ở trong đất, đá và gốc cây…Ở Tam Đảo,
Sa Pa, Đà Lạt có loại Lobaria pulmonaria dùng chữa bệnh đường hô
hấp.
Ở Ba Vì có loài Usnea sp. dùng trị ho và lợi tiểu.
Địa y đảm (Basidiolichenes) do các nấm da (Thelephoraceae)
thuộc lớp nấm đảm cộng sinh với các tảo lam. Địa y đảm có trong hầu
hết các loại đất vùng nhiệt đới ẩm.
3.1.7. Vai trò của vi khuẩn và các vi sinh vật khác trong quá trình
hình thành đất
a. Phân giải chất hữu cơ không chứa đạm
Trong môi trường trung tính ít chua và đầy đủ ôxy, cenlulo bị phân
giải chủ yếu bởi vi khuẩn: Cytophaga, Cellvibrio, Pseudomonas và một
số xạ khuẩn.
Trong môi trường chua, nghèo dinh dưỡng hoặc rất chua và háo
khí, trong số các vi sinh vật phân hủy cenlulo nấm giữ vai trò quan
trọng. Trong môi trường dư ẩm cenlulo lại do vi khuẩn yếm khí như
Clostridium Omejanski, Plectridium phân hủy là chính.
Sản phẩm của quá trình phân giải vi sinh cenlulo một loạt chất
trung gian được tạo ra như celobioza, glucoza, axit uronic, axit béo…
Những hợp chất này sẽ bị khoáng hóa. Đồng thời xảy ra quá trình tổng
hợp một phần tạo nên mùn.
Lignin (mô tế bào gỗ) rất bền vững trong quá trình phân giải vi
sinh này. Trong điều kiện đủ ôxy, đất chua do nấm Basidiomycetes phân
hủy lignin là chủ yếu. Một số nhà khoa học không loại trừ khả năng
phân giải lignin của vi khuẩn giống Pseudomonas.
Trong sản phẩm phân giải của lignin có các hợp chất mùn màu tối,
chua, nghèo đạm, dễ hòa tan. Ở điều kiện thiếu ôxy các hợp chất này ít
bị phân hủy và được tích lũy khá nhiều (ví dụ, trong than bùn).
Quá trình phân giải xác hữu cơ không chứa nitơ phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: bản chất xác hữu cơ, độ ẩm đất, cây trồng, khí hậu…
Có thể xem qua các số liệu trong bảng 3.3
Bảng 3.3. Số lượng vi sinh vật trong các loại đất
Ta gặp hiện tượng này trong đất ít chua, ngập nước và giàu hữu cơ.
Vòng chuyển hóa lưu huỳnh được thể hiện trên hình 3.4.
Hình 3.4. Chu trình chuyển hoá lưu huỳnh trong tự nhiên (Theo Dudy và
Zodrow)
e. Ôxy hoá sắt
Các vi khuẩn sắt ôxy hoá hợp chất hữu cơ chứa sắt hoá trị 2 thành
hoá trị 3 để lấy năng lượng là hiện tượng rất phổ biến trong tự nhiên.
Trong đất ta gặp Leptothrix, Crenothrix, Galionella là những vi khuẩn
có khả năng này (Hình 3.5).
Hiện tượng ôxy hoá mangan cũng xảy ra tương tự. Trong môi
trường ngập nước quá trình khử xảy ra (glây hoá) đối với sắt và mangan
(cả phospho) Mangan hoá trị 4 (Mn4+) bị khử thành mangan 2 (Mn2+) cây
trồng dễ dàng sử dụng.
T ế bào vi khuẩn
C ố định N 2 tự do
Xác h ữu cơ
Phản nitrat hoá
Amôn hoá và
khoáng hoá
Kh ử nitrat và huy động
NO 3 NH 3
Nitrat hoá
Loài Rhizobium đóng vai trò quan trọng nhất trong quá trình này.
Một số giống vi khuẩn nốt sần thường gặp trên rễ các cây bộ đậu là:
Rhizobium leguminosorum - gặp trên cây đậu Hà Lan
R. triofolii - gặp trên cỏ ba lá
R. lupin - gặp trên cây đậu lupin
R. phasoli - gặp trên cây đậu cô ve
R. meliloti - gặp trên cỏ lucena
R. japonicum - gặp trên cây đậu tương
R. archium - gặp trên cây lạc
R. cajanus - gặp trên cây đậu triều
R. vigna - gặp trên cây đậu đũa
R. sesbania - Gặp trên cây điền thanh.
Vi khuẩn nốt sần phát triển tốt trong đất thoáng khí. Khi đất quá
thiếu ôxy thì ngừng hoạt động. Theo Lityński thì điện thế ôxy hoá khử
cũng có vai trò nhất định: áp suất ôxy thấp trong các nốt sần tương
đương với điện thế ôxy hoá khử cao trong đất. Vi khuẩn nốt sần phát
triển mạnh trong đất ẩm vừa phải, trong đất khô bộ rễ phát triển kém
mức nhiễm khuẩn thấp. Để khắc phục điều này người ta tiến hành xử lý
nhiễm khuẩn hạt giống hoặc cây trước khi gieo trồng bằng chế phẩm vi
sinh gọi là nitragina.
Vi khuẩn nốt sần đòi hỏi đất có phản ứng trung tính hay ít chua,
duy nhất có Rhizobium lupini trên cây đậu lupin có thể phát triển trong
đất chua.
Phát triển của Rhizobium còn phụ thuộc vào hàm lượng nitơ vô cơ
trong đất. Quá nhiều nitơ ở dạng này cũng kìm hãm Rhizobium phát
triển vì lúc đó một phần nitơ đã sử dụng vào giai đoạn đầu phát triển của
cây.
Canxi, phospho và kali ảnh hưởng tới phát triển của vi khuẩn nốt
sần. Ví dụ, Ca làm dễ dàng cho việc xâm nhập của vi khuẩn. Các vi
lượng cũng tác động đáng kể tới vi khuẩn này, nhất là bo và molipden.
Vi khuẩn nốt sần rất có ý nghĩa trong đất nghèo mùn như đất cát
ven biển, đất xám bạc màu trên phù sa cổ…Theo Nguyễn Kim Vũ thì
bình quân các vi khuẩn có thể cố định được từ 34 đến 290 kg N2 trên ha
tuỳ theo loại cây bộ đậu và loại đất.
Tuy nhiên, hoạt động của vi khuẩn nốt sần sẽ suy giảm hay kìm
hãm bởi hiện tượng gọi là "mỏi mệt" của đất. Đó là hiện tượng có thể do
virus ký sinh quá nhiều (trong đất độc canh cây họ đậu) đã tấn công phá
huỷ vi khuẩn nốt sần.
• Cố định nitơ trong ruộng lúa
Diện tích trồng lúa trên thế giới khá lớn (khoảng 150 triệu ha) vì thế
lượng phân bón thường xuyên thiếu hụt nhất là ở các nước đang phát
triển hoặc phải trồng chay, tuy vậy vẫn cho năng suất nhất định. Đó là
nhờ một phần đạm do hiện tượng cộng sinh tạo ra trong ruộng lúa. Thực
chất ở đây là do tảo lam (Blue-green algae) và các vi khuẩn dị dưỡng
sống tự do cố định nitơ. Chúng có thể làm tăng 10 % năng suất lúa ở
Nhật Bản và 20 % ở Philippine (Watanabe, 1981). Nếu trong ruộng lúa
có bèo dâu (Azolla) thì vi khuẩn lam Anabaena azolla cộng sinh với bèo
dâu làm tăng nguồn đạm cho đất và kết quả năng suất lúa có thể tăng tới
hơn 20 % (Nguyễn Hữu Thước, 1984).
• Vi khuẩn không cộng sinh
Vi khuẩn không cộng sinh thường gặp háo khí có Azotobacter
chroococcum, yếm khí có Clotridium pasteurianum. Azotobacter có
trong đất trồng trọt kết cấu tốt, chế độ nước - không khí điều hoà. Nó rất
mẫn cảm với môi trường chua, phát triển tốt nhất trong đất đầy đủ Ca và
P với pH 6,9- 8,0. Clotridium pasteurianum ít đòi hỏi hơn và thích ứng
tốt hơn trong đất chua (pH 4,7), thiếu ôxy (đất nặng, ẩm) vẫn phát triển
được.
• Phân giải protein và ure - Amôn hoá
Tham gia vào quá trình phân giải protein và biến đổi nitơ trong đó
là vi khuẩn, xạ khuẩn trong điều kiện háo khí và yếm khí và một số nấm
trong điều kiện yếm khí. Tuy nhiên vi khuẩn là nhân tố chính trong quá
trình amôn hoá.
Vi khuẩn háo khí có Bacillus mycoide, B. megatherium, B.
subtilis; vi khuẩn yếm khí có Bacillus putrificus, Clostridium
sporogenes. Tất nhiên trong quá trình amôn hoá một phần nitơ được tái
tổng hợp thành mùn.
Nấm tham gia vào quá trình tạo amôniắc thường gặp là Aspergillus
niger và các loài Mucor, Cladosporium, Botrytis. Chúng hoạt động chủ
yếu trong đất chua giàu mùn.
Sản phẩm cuối cùng của quá trình phân giải protein (không kể
amôniắc) là: CO2, H2O,
H2 S, H3PO4 tự do.
Trong quá trình chuyển hoá ure thành amôniắc nhờ enzim ureaza
do vi khuẩn Urobacillus, Uroccus, Planosarcina, Ureae và một số xạ
khuẩn và nấm.
NH2
CO + H2O VSV (NH)2CO3 VSV 2 NH3
+ CO2 + H2O
NH2
Amôniắc được hình thành một phần cây lấy, một phần đất hấp phụ.
Phần còn lại tiếp tục bị biến đổi theo con đường sinh học mà chủ yếu là
nitrat hoá.
Nitrat hoá
Nitrat hoá là quá trình chuyển hoá amôniắc thành axit nitric
(HNO3). Năm 1890 Vinogradski đã phân lập được vi khuẩn gọi là tác
nhân gây nitrat hoá. Quá trình này xảy ra theo 2 bước.
Bước thứ nhất, amôniắc bị ôxy hoá với sự tham gia của vi khuẩn
Nitrosomonas theo phản ứng:
2 NH3 + 3 O2 VSV 2 HNO2 + 2 H2O + 148 Kcal
Bước 2, axit nitơrơ (HNO2) bị ôxy hoá tiếp với sự tham gia của vi
khuẩn Nitrobacter thành axit nitric (HNO3)
HNO2 + O2 VSV 2 HNO3 + 48 Kcal
Trong đất thoáng khí, giàu P, Ca, Mn và Fe, môi trường trung tính
hoặc hơi chua nitrat hoá xảy ra mạnh nhất. Nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới
quá trình này. Trời quá rét làm kìm hãm quá trình nitrat hoá trong đất.
Ở đất chua quá trình nitrat hoá bị giảm dẫn đến tích luỹ quá nhiều
amôniắc. Lúc đó vi khuẩn hoạt động kém quá trình ôxy hoá nitơrơ thành
nitrat xảy ra yếu.
Nhờ có quá trình này mà cây trồng được tăng cường lượng dinh
dưỡng dưới dạng nitrat dễ tiêu.
Phản nitrat
Phản nitrat là quá trình khử muối nitrat qua nitrit rồi cuối cùng là
nitơ phân tử (N2) thoát ra khỏi đất.
Quá trình phản nitrat xảy ra trong các đất nặng khó thoát nước
thiếu ôxy, phản ứng kiềm, trung tính hay ít chua. Quá trình này có sự
tham gia của một số vi khuẩn như Bacillus denitrificans. Quá trình này
cũng làm mất đạm trong phân chuồng.
Phản nitrat có thể xảy ra theo 2 mức.
Mức một, chỉ một phần axit nitric bị khử thành amôniắc
HNO3 + H2O VSV NH3 + 2O2
c d
h i
Hình 3.10. Mật độ quần thể giun đất Lumbricus terrestris trong các loại
đất
(Theo Guilda)
Ngoài hợp chất hữu cơ trong tàn tích sinh vật có chứa một lượng
các nguyên tố tro. Lượng chứa và tỷ lệ giữa chúng phụ thuộc vào từng
loại sinh vật và điều kiện sống của chúng. Trong thành phần tro có K,
Ca, Mg, Si, P, S, Fe... Chúng được chứa nhiều ở các cây thân cỏ.
+ Sau khi chết, xác sinh vật đi vào đất hoặc bị phân giải hoặc được
chuyển hoá thành các hợp chất mùn
2.2. Phân hữu cơ
Ðối với đất trồng trọt, nhất là những nơi có mức độ thâm canh cao
thì phân hữu cơ là một nguồn lớn bổ sung chất hữu cơ cho đất. Trong
các thập niên 70, 80 của thế kỷ 20, ở nhiều vùng đất, người dân thu
hoạch cả hạt lẫn cây, vì vậy phân hữu cơ gần như nguồn chính để tăng
lượng mùn trong đất. Hiện nay có nhiều loại phân hữu cơ: phân chuồng,
phân bắc, phân rác, phân xanh, bùn ao... Số lượng và chất lượng của
chúng tuỳ theo trình độ kỹ thuât canh tác, thâm canh cây trồng ở mỗi
nơi.
Khoáng hoá từ từ
Hợp chất mùn Muối khoáng,
Mùn hoá khí
Hình 4.1. Sơ đồ quá trình biến hoá xác hữu cơ trong đất
Vi sinh v ật
Hợp chất phenol (sản Axit amin, peptit (sản phẩm Hợp chất phenol (sản
phẩm trao đổi chất) phân giải và tổng hợp) phẩm phân giải)
Oxi hoá
Oxi hoá
NH2
H C COOH
R
O O HO
OH
- 2e -2e
+ +
- 2H Trùng -2H
OH O
hợp O
HO
N
HH N N
Nguồn gốc của nhân thơm trong các hợp chất mùn cũng có thể là
cacbuahidro và các hợp chất khác dạng không no. Các hợp chất này nhờ
vi sinh vật phân giải, tổng hợp thành polifenola thứ sinh. Ngày nay
nhiều công trình nghiên cứu bằng cacbon đồng vị C14 đã chứng minh
điều này.
+ Mạch nhánh: có thể là cacbuahidro, có thể là hợp chất chứa nitơ,
chúng là sản phẩm của quá trình phân giải xác hữu cơ và cũng có thể là
sản phẩm tổng hợp của vi sinh vật đất từ những sản phẩm khoáng hoá. +
Nhóm định chức: gồm có những nhóm sau: COOH (cacboxyl), OH
(hydroxyl), OCH3 (metoxyl) và CO (cacbonyl). Những nhóm này hoặc
gắn trực tiếp với nhân vòng hoặc gắn với mạch nhánh.
Các liên kết hợp chất được gắn với nhau bằng các cầu nối. Cầu nối
có thể là 1 nguyên tử (- O -, - N -,...) hoặc 1 nhóm nguyên tử (- NH -, -
CH2 -,...).
* Những nhân tố ảnh hưởng đến đặc điểm và tốc độ quá trình hình
thành mùn đất
Những nhân tố chính ảnh hưởng đến sự mùn hoá là: chế độ nhiệt,
không khí và nước của đất, thành phần cơ giới và các tính chất lý hoá
học của đất, thành phần và cường độ hoạt động của vi sinh vật, thành
phần xác hữu cơ đất.
+ Chế độ nước, không khí ảnh hưởng đến điều kiện hảo khí hoặc
yếm khí. Trong điều kiện khô hanh quanh năm, tốc độ mùn hoá chậm,
nhưng nếu thường xuyên ngập nước, mùn hoá thực hiện dưới tác động
của vi sinh vật yếm khí sẽ sinh ra những axit hữu cơ và các chất khử
(CH4, H2S...), những chất này kìm hãm sự hoạt động của vi sinh vật làm
cho tốc độ mùn hoá chậm hẳn và xác hữu cơ biến thành than bùn. Nhiệt
độ thích hợp cho quá trình mùn hoá là 25 - 30C. Người ta nhận thấy
trong điều kiện có mùa ẩm và mùa khô xen kẽ, thì mùn được tích luỹ
nhiều nhất. Ở mùa ẩm nóng, hảo khí, khoáng hoá chiếm ưu thế, khi khô
và lạnh các hợp chất hữu cơ đã hình thành khi phân giải ở mùa ẩm được
vi sinh vật chuyển hoá, trùng hợp lại, tạo thành mùn.
+ Thành phần vi sinh vật và sự hoạt động của chúng đóng vai trò
rất quan trọng trong việc phân giải chất hữu cơ và tích luỹ mùn. Người
ta nhận thấy, đi từ cực bắc đến xích đạo, số lượng vi sinh vật trong đất
và số loại cũng như cường độ hoạt động tăng dần. Nhiều nghiên cứu đã
chứng tỏ hoạt động sinh học đất quá mạnh hoặc quá yếu đều không làm
tích luỹ nhiều mùn. Mùn được tích luỹ nhiều nhất ở những đất có số
lượng vi sinh vật trung bình (số lượng này gọi là chỉ tiêu sinh học đất
tính bằng số vi sinh vật/1 gam mùn đất) như đối với các loại đất đen
(chernozem).
+ Về thành phần cơ giới và lý hoá tính đất, ta thấy ở đất sét và sét
pha, quá trình phân giải xác hữu cơ có chậm hơn ở đất cát và cát pha,
song mùn lại được tích luỹ nhiều hơn vì khoáng hoá trong đất sét, sét
pha yếu hơn nhiều, các phần tử nhỏ của đất cũng liên kết và giữ mùn tốt
hơn. Ðất chứa nhiều Ca, Mg vừa gây phản ứng trung tính vừa có nhiều
dinh dưỡng tạo điều kiện cho vi sinh vật hoạt động, vừa liên kết tốt với
mùn tạo những hợp chất bền vững giữ mùn trong đất. Nhóm keo khoáng
giữ mùn tốt hơn cả là montmorilonit và vermiculit.
+ Một điều kiện ảnh hưởng rất lớn đến quá trình mùn hoá là thành
phần xác hữu cơ. Xác hữu cơ chứa nhiều protit, gluxit và các nguyên tố
tro nhất là Ca, tỉ lệ C/N thấp, tạo thành mùn nhuyễn. Với cây thân gỗ
nghèo protit, các nguyên tố tro, giàu lignin, sáp, nhựa, tỉ lệ C/N cao cho
ta nhiều mùn thô.
+ Về hình thái axit humic không có cấu tạo tinh thể, song những
nghiên cứu điện di và quang phổ rơnghen cho thấy chúng cấu tạo bằng
những mạng lưới xếp lớp. Quá trình mùn hoá càng phát triển thì những
mạng này xếp càng khít. Theo những nghiên cứu gần đây nhất về hình
dạng axit humic không đối xứng, chúng có dạng dài, tỷ lệ các trục từ 1:6
đến 1:12.
+ Trong đất, cơ bản axit humic là keo ở dạng gel, nhưng chúng rất
dễ bị tán bởi các dung dịch kiềm để tạo thành dung dịch phân tử hoặc
dung dịch keo. Vì ở dạng keo nên axit humic có khả năng hấp phụ cao.
Dung tích hấp phụ (CEC) từ 300 - 600 lđl/100g axit humic. Trong đó
nhóm COOH và OH phenol đóng vai trò quyết định. Tính đệm của axit
humic cũng rất cao cho nên ở đất giàu humic thì pH đất ổn định hơn.
Axit humic trong đất ít chua hơn axit fulvic vì nó ít mạch nhánh hơn mà
lại nhiều nhân vòng hơn.
+ Trạng thái tồn tại của axit humic
Chỉ có một phần rất nhỏ axit humic tồn tại ở dạng tự do, phần lớn
chúng liên kết với phần vô cơ của đất. Tác động tương hỗ giữa axit
humic và phần vô cơ của đất dẫn đến việc hình thành những hợp chất
hữu cơ-vô cơ khác nhau. Phụ thuộc vào hoạt tính của các hợp chất được
hình thành mà có quá trình tích luỹ các chất mùn và các chất vô cơ liên
kết với nó, hoặc là quá trình rửa trôi các hợp chất đó... Có những dạng
liên kết chính sau:
- Liên kết với các cation hoá trị 1 hoặc hoá trị 2 ở trong dung dịch
đất hay nằm trên bề mặt các khoáng sét với H+ của nhóm COOH hoặc
OH phenol của axit humic hình thành các humát NH4, Na, K, Ca, Mg là
các muối đơn giản (dị cực).
(COOH)mCOOM(COOH)m-1
R
R + 2M+ + 2H+
(OH)nOM(OH)n-1
Humat của các cation 1 hoá trị hoà tan vào nước tạo thành các
dung dịch thật vì vậy dễ bị rửa trôi, nhất là humat Na. Cho nên đất chứa
nhiều humat Na (đất mặn) thường nghèo mùn. Humat Ca, Mg không hoà
tan vào nước và tồn tại ở dạng gel bền vững với nước, tạo thành màng
mỏng bao quanh các phần tử đất, kết gắn chúng với nhau cho nên đất
giàu humat Ca có kết cấu viên bền vững và giàu mùn.
- Liên kết với các ion Fe, Al hoặc một số nguyên tố vi lượng,
nguyên tố gây độc hoặc ô nhiễm đất (Pb, Cd, Mn, Cu, Zn...) để hình
thành các muối phức (chứa các ion kim loại ở phần anion của phân tử),
ví dụ:
(COOH)nCOO (COOH)n-x
R M
R + xM+ + xH+
OH
(OH)m (OH)m-x
COO- H+COOM1 C OO
COO
+ M 2M1++ 2H+ R M
R
OH OH
O- H+OM1
Các phức chất của axit humic bền vững hơn các phức chất của axit
fulvic. Sự hình thành các hợp chất này làm thay đổi tính hoà tan, sự
phân bố, di động, tích luỹ và mức độ dễ tiêu của các hợp chất của các
kim loại đa hoá trị, đặc biệt ở các đất có chứa nhiều chất hữu cơ. Sự liên
kết với các kim loại độc như Al, Pb, Cd, Ni,...làm giảm tác dụng độc của
các nguyên tố này trong đất.
- Tương tác với các khoáng sét hoặc các khoáng vật dạng vô định
hình hoặc tinh thể khác để hình thành các phức chất hấp phụ. Sự hình
thành các phức chất hấp phụ có thể bằng các liên kết giữa các phân tử,
liên kết ion hoặc liên kết hiđro,... Ví dụ phản ứng xảy ra giữa các nguyên
tử oxi hoặc các nhóm OH trên bề mặt khoáng vật và các nhóm OH hoặc
các nhóm NH2 của axit humic:
i
Phản ứng của khoáng sét vớ Kho¸ng sÐtO... OH
O
C HR nhóm
COOH
Dạng liên kết này đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành các
hợp chất hữu cơ-vô cơ của pha rắn và tầng tích luỹ mùn, sự hình thành
hạt kết, vi hạt kết và sự ổn định nhiều đặc tính hoá học, lý hoá và lý học
của đất.
4.2. Axit fulvic
+ Là axit mùn có màu vàng, dễ tan trong nước, axit hoặc kiềm
loãng
+ Thành phần nguyên tố
Cũng như axit humic thành phần nguyên tố của axit fulvic khác
nhau ở những đất khác nhau. Theo L. N. Alexandrova hàm lượng bình
quân của C, H, O, N trong axit fulvic của một số loại đất chính ở Liên
Xô (cũ) như sau:
C: 44,7 - 49,8%
H: 3,4 - 5,1%
O: 43,8 - 47,3%
N: 2,3 - 4,2%
+ Như vậy nếu so với axit humic thì C và N trong axit fulvic chiếm
tỷ lệ ít hơn, trong khi H và O nhiều hơn. Ngoài ra axit fulvic cũng chứa
một số nguyên tố tro như đã trình bày ở phần axit humic.
+ Phân tử lượng
Phân tử lượng của axit fulvic nhỏ hơn phân tử lượng axit humic rất
nhiều. Trung bình phân tử lượng của axit fulvic đạt 10000 - 12000 đơn
vị cacbon cho nên hoạt tính lớn hơn, mặt khác chúng lại dễ bị phân chia
nhỏ nên hoạt tính càng mạnh.
+ Cấu trúc của axit fulvic
Nguyên tắc và thành phần cấu trúc của axit fulvic cũng giống như
đối với axit humic. Ðiều khác nhau giữa chúng là phân tử axit fulvic ít
nhân vòng hơn, trái lại mạch nhánh nhiều hơn, số nhóm định chức đặc
biệt là nhóm COOH và OH phenol nhiều hơn, vì thế axit fulvic chua hơn
nhiều.
Theo Alexandrova một phần axit fulvic được hình thành do kết quả
của quá trình mùn hoá xác hữu cơ, phần khác được hình thành do sự
biến đổi axit humic thành axit fulvic. Cũng như axit humic nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng phân tử của axit fulvic bao gồm nhiều mạng lưới
cấu trúc và đơn vị cấu trúc.
+ Axit fulvic ở trạng thái tự do không nhiều và so với axit humic,
chúng có phân tử lượng nhỏ hơn, mặt khác nhiều mạch nhánh và nhóm
định chức vì vậy về mặt tính chất axit của axit fulvic lớn hơn axit humic.
Dung dịch của axit này có pH 2,6 - 2,8. Chúng có khả năng hấp phụ và
tính đệm thấp hơn axit humic. Do có phân tử lượng nhỏ hơn nên axit
fulvic hoạt tính hơn, dễ di chuyển và do đó cũng dễ bị rửa trôi khỏi đất.
+ Trạng thái tồn tại của axit fulvic
Axit fulvic ít tồn tại ở trạng thái tự do, phần lớn chúng ở trạng thái
liên kết. Ở trạng thái liên kết chúng cũng gồm 3 dạng như axit humic.
Fulvat của tất cả các kim loại hoá trị 1 và 2 đều hoà tan và di động dù ở
phản ứng axit, trung tính, hay kiềm yếu. Các hợp chất axit fulvic với Fe,
Al có tính tan phụ thuộc vào tỷ lệ giữa các phân tử kết hợp và nồng độ
chúng trong dung dịch. Nếu tỷ lệ R2O3/axit fulvic càng thấp tức là tỷ lệ
axit fulvic càng nhiều thì hợp chất Fe, Al của axit fulvic càng trở nên
hoạt tính hơn. Người ta cũng thấy hợp chất Fe - fulvic hoạt tính hơn
nhiều so với hợp chất Al - fulvic. Hoạt tính của các hợp chất Fe - Al -
fulvic có thể giải thích cho sự rửa trôi Al và Fe trong quá trình tạo đất
potzon và đất bạc màu. Với điều kiện thừa ẩm những hợp chất này
chuyển động xuống dưới theo phẫu diện đất, cho đến lúc gặp điều kiện
phá huỷ chúng và R2O3 kết tủa, tạo tầng tích tụ. Ngoài ra 1 phần axit
fulvic gắn với axit humic tồn tại trong đất.
4.3. Hợp chất humin
Humin là phần không hoà tan của hợp chất mùn, nó bao gồm các
axit mùn liên kết chặt chẽ với phần vô cơ của đất, các hợp chất mùn đã
bị khử cacboxyl mất đi khả năng hoà tan trong dung dịch kiềm, các hợp
chất hữu cơ không đặc trưng không hoà tan. Như vậy humin là nhóm các
hợp chất hữu cơ khác nhau, chúng phân biệt với các nhóm khác chủ yếu
bởi tính chất không hoà tan trong môi trường axit lẫn môi trường kiềm.
6. Chất hữu cơ của đất Việt Nam, biện pháp duy trì và nâng cao
6.1. Ðánh giá số lượng, chất lượng chất hữu cơ và mùn trong đất
* Về số lượng
Về mặt số lượng chất hữu cơ, chỉ tiêu cơ bản nhất để đánh giá là
tỷ lệ % OC (cac bon hữu cơ tổng số) hoặc tỷ lệ % mùn hoặc OM (chất
hữu cơ tổng số = OC x 1,72) so với đất khô kiệt. Giá trị các chỉ tiêu này
càng cao thì đất càng tốt. W. Siderius (International Institute for
Aerospace Survey and Earth Science, 1992) đã đánh giá hàm lượng chất
hữu cơ trong đất (phân tích theo Walkley-Black) theo tiêu chuẩn sau:
Ở nước ta hàm lượng mùn trong đất (phân tích theo Tiurin) được
đánh giá theo tiêu chuẩn:
Ngoài ra, khi nghiên cứu phẫu diện đất người ta xem xét tầng mùn
có dầy hay không? và trong mỗi tầng, mùn có trộn đều với phần khoáng
đất hay không? màu có thẫm không? Ðó cũng là những chỉ tiêu quan
trọng về hình thái có liên quan đến số lượng chất hữu cơ và mùn của đất.
* Về chất lượng
Chất lượng mùn được thể hiện bằng các chỉ tiêu sau:
+ Mùn nhuyễn, mùn thô: chất hữu cơ đất được chia làm 2 phần
(như đã trình bày ở phần trên)
- Phần 1 là xác hữu cơ chưa được phân giải hoàn toàn mà một
số tác giả gọi là mùn thô. Chúng tích tụ trên mặt đất, thường không hoặc
ít trộn lẫn với phần đất dưới, phần hữu cơ này chất lượng kém (ít chất dễ
tiêu, chua, tỷ lệ C/N cao), muốn có chất lượng tốt phải qua một quá trình
phân giải. Mùn thô được hình thành ở nơi nhiệt độ thấp, dưới thảm rừng
cây lá nhọn, có phản ứng chua (vùng núi cao) và ở những nơi úng nước
thông khí kém, thành phần cơ giới nặng (đất lầy thụt, đất chiêm trũng...).
- Phần 2 là xác hữu cơ đã được phân giải hoàn toàn mà nhiều
tác giả gọi là mùn nhuyễn. Phần này chất lượng tốt và được trộn đều với
các tầng đất cho nên ở đất nào tỷ lệ phần 2 lớn tức là chất lượng chất
hữu cơ tốt hơn.
+ Tỷ lệ C/N cũng là chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng chất
hữu cơ đất. Tỷ số này càng thấp chất lượng càng tốt, nó chứng tỏ xác
hữu cơ được phân giải mạnh, giải phóng nhiều đạm là nguyên tố mà vi
sinh vật hấp thụ để tổng hợp các hợp chất chứa đạm và là nguyên tố cần
thiết cho dinh dưỡng của cây trồng. Tỷ lệ C/N trong đất dao động trong
khoảng 8 - 20. + Tỷ lệ C.a.h , tỷ lệ này càng cao chất lượng mùn càng tốt.
C.a.f
Mù
Mùn
Loại đất Loại đất n
(%)
(%)
* Về chất lượng
+ Nhiều nghiên cứu đều thống nhất là đất mùn trên núi, đất lầy thụt
có lượng hữu cơ tổng số cao nhưng lại chứa nhiều mùn thô. Trong thành
phần của hợp chất mùn thì tỷ lệ nhóm humin cao hơn nhiều so với tỷ lệ
axit humic và axit fulvic.
+ Tỷ lệ giữa cacbon của axit humic và cacbon của axit fulvic trong
hầu hết các loại đất đều < 1, nghĩa là lượng axit fulvic cao hơn hẳn
lượng axit humic.
Nguyên nhân của đặc điểm này có thể do trong điều kiện nhiệt độ,
ẩm độ cao, hàm lượng bazơ thấp đã hạn chế việc tạo thành axit humic.
Ðiều này cũng giải thích đất feralit vùng đồi núi thấp là nơi có tỷ lệ
C.a.h thấp nhất, còn các đất miền núi cao do khí hậu ôn hoà nên tỷ số
C.a.f
này được nâng lên. Ðất lúa phù sa do canh tác bón phân nhiều nên axit
humic có điều kiện hình thành nhiều hơn. Ðặc biệt đất macgalit-feralit
có axit humic lại nhiều hơn axit fulvic vì hàm lượng bazơ ở đây cao.
Bảng 4.4. Tỉ lệ giữa cacbon axit humic và axit fulvic một số loại đất
C .a.h
Lo ại đất T ỷ lệ C .a. f
Ðất macgalit-feralit* 1,43
Ðất mùn alit trên núi* 0,57
Ðất feralit mùn trên núi* 0,56
Ðất feralit đỏ thẫm* 0,18
Ðất feralit vàng đỏ* 0,22
Ðất lúa phù sa** 0,60
+ Nhiều nghiên cứu cũng thấy rằng các axit humic của đất Việt
Nam hầu hết thuộc nhóm axit humic di động và rất gần với axit fulvic vì
nhân thơm của chúng thể hiện kém, đó cũng là đặc điểm chung của đất
nhiệt đới (Zonn, Lý Khánh Quỳ, Nhiễu Chí Viên, Tiurin, Fritland). Theo
chiều sâu phẫu diện đất, càng xuống sâu, đất càng chứa ít bazơ hơn, nên
axit humic hình thành càng ít.
+ Tỷ số C/N của mùn trong đất Việt Nam dao động từ 7,5 - 23,0.
Tỷ lệ này càng cao mùn đất càng thô.
6.3. Biện pháp duy trì và nâng cao chất hữu cơ trong đất
Trên đây chúng ta thấy rõ vai trò của chất hữu cơ nói chung đối
với sự hình thành đất, cấu tạo phẫu diện đất và các tính chất đất, vì vậy
việc nghiên cứu các biện pháp để nâng cao mùn trong đất cả về số lượng
lẫn chất lượng, bảo vệ chất hữu cơ đất là rất cần thiết, nhất là trong điều
kiện nước ta chất hữu cơ và mùn dễ bị khoáng hoá và rửa trôi khỏi đất.
* Biện pháp sinh vật: biện pháp này giữ vị trí rất quan trọng
+ Biện pháp thường xuyên và có hiệu lực nhất hiện nay là bón
phân hữu cơ cho đất (phân chuồng, phân rác, phân bắc, nước giải, phân
gia cầm, bùn ao, các loại phân chế biến khác). Bón phân hữu cơ, đặc biệt
là phân chuồng không những tăng chất lượng hữu cơ cho đất, nguồn
thức ăn đầy đủ các chất, mà còn cung cấp cho đất một lượng vi sinh vật
phong phú.
+ Trồng cây phân xanh (bèo dâu, điền thanh, các loại muồng, các
loại đậu, lạc, cốt khí, điêu tử, tử vân anh, trinh nữ, cỏ stilo, cỏ pangola,
các loại cỏ khác...). Ở vùng đồi núi tuỳ theo loại đất, khí hậu độ cao và
độ dốc mà chọn cây phân xanh cho thích hợp. Cây phân xanh có thể
trồng xen, phủ đồi trọc hoặc đồi mới khai hoang. Ngoài cây phân xanh
trồng các loại cây, cỏ và cây rừng là biện pháp rất tốt để bảo vệ đất đồi,
núi, nhất thiết không được để đồi, núi trọc. Nơi đã có rừng phải bảo vệ
và khai thác có kế hoạch, vừa tăng chất hữu cơ cho đất vừa chống xói
mòn đất. Ở đồng bằng, ngoài việc trồng các loại cây phân xanh mà chủ
yếu là bèo dâu và điền thanh, trong hệ thống luân canh để tăng cường
chất hữu cơ cho đất có thể trồng các loại cây cho nhiều chất xanh như
lạc, khoai, khi thu hoạch để thân lại đồng ruộng, hoặc gặt lúa xong ở
những ruộng dầm nên cầy vùi rạ.
* Bón vôi, đặc biệt bón vôi kết hợp với bón phân hữu cơ là
biện pháp tạo mùn ở dạng humatCa hoặc fulvatCa ít tan tránh được rửa
trôi, đồng thời điều hòa phản ứng đất tạo điều kiện cho vi sinh vật đất
hoạt động mạnh.
* Biện pháp canh tác
Muốn tạo điều kiện cho xác hữu cơ phân giải tốt, tạo nhiều mùn
cho đất ta phải làm đất thoáng vừa phải bằng các biện pháp canh tác như
cày bừa, xới xáo, tưới tiêu... hợp lý và kịp thời để đất luôn có độ ẩm
thích hợp.
1. Khái niệm, nguồn gốc và quá trình biến hoá xác hữu cơ trong
đất
2. Thành phần mùn đất và đặc điểm của chúng
3. Vai trò của chất hữu cơ và mùn trong đất
4. Chất hữu cơ của đất Việt Nam, biện pháp duy trì và nâng cao số
lượng và chất lượng mùn và chất hữu cơ cho đất.
Chương V
KEO ÐẤT VÀ KHẢ NĂNG HẤP PHỤ CỦA ÐẤT
1. Keo đất
1.1. Khái niệm
Ðất là một hệ thống đa phân tán phức tạp bao gồm các hạt có kích
thước khác nhau. Keo đất là những hạt rất ít tan trong nước, có đường
kính rất nhỏ. Về kích thước của hạt keo giữa một số tác giả không thống
nhất. Ðường kính hạt keo dao động từ 0,01 - 10 m (1 m = 10-6 m)
(Garrison Sposito), hoặc nhỏ hơn 1 m (Nyle C. Brady, Ray R. Well,
Hinrich L. Bohn, Brian L. McNeal, George A. O'connor), hoặc nhỏ hơn
0,2 m (A.E. Vozbutskaia) hoặc bán kính nhỏ hơn 1 m (Van
Olphen),... Do kích thước của keo nhỏ như thế nên chúng thường lơ lửng
trong dung dịch, có thể chui qua giấy lọc phổ thông và chỉ quan sát được
cấu tạo của chúng bằng kính hiển vi điện tử. Số lượng keo trong đất rất
khác nhau tuỳ theo loại đất, từ 1 - 2% (đất cát) đến 40 - 50% khối lượng
đất (đất sét nặng). Ngay cả khi có hàm lượng rất nhỏ trong đất, keo đất
vẫn là đại diện chủ yếu cho khả năng hấp phụ của đất
Trong đất có keo vô cơ, keo hữu cơ và keo phức tạp hữu cơ- vô cơ.
Những keo vô cơ được tạo thành do tác dụng phong hoá đá hoặc do sự
ngưng tụ các phân tử trong dung dịch, keo hữu cơ tạo thành do quá trình
biến hoá xác hữu cơ trong đất. Keo vô cơ kết hợp với keo hữu cơ thành
keo hữu cơ - vô cơ.
Cấu tạo chung của keo đất (hình 5.1) như sau: phần trong cùng của
hạt keo (mixen keo) là nhân keo, đó là một hợp chất phức tạp có cấu tạo
vô định hình hoặc tinh thể. Thông thường keo vô cơ có nhân là axit
silisic, nhôm silicat, oxyt sắt, oxyt nhôm... Keo vô cơ bền, nó chỉ bị phá
huỷ sau một thời gian dài. Keo hữu cơ có nhân là axit humic, axit fulvic,
prôtit hoặc cenlulo. Keo hữu cơ kém bền, nó có thể bị phá huỷ rồi lại tạo
thành ngay từ các sản phẩm phân giải xác động vật, thực vật.
Ion
p
Ön
Ion
n
®i Ö
x
Ð
Ion
ng
c u
t
dÞc
n
t Õ
V ¹p
q a h
-
Nh©n
+
-
+
k
- -
+ +
+ +
+
+
+
Theo Gorbunov keo đất có cấu tạo như sau: trong cùng là nhân
keo, trên mặt nhân keo có lớp điện kép, lớp nằm sát hạt nhân gọi là lớp
ion quyết định thế, lớp ion ngoài mang điện trái dấu gọi là lớp ion bù.
Ða số ion của lớp ion bù nằm sát lớp ion quyết định thế gọi là tầng ion
không di chuyển, những ion còn lại nằm xa cách tầng ion quyết định thế
làm thành tầng ion khuếch tán.
Ða số keo đất có lớp ion quyết định thế mang điện âm. Ðiều cần
lưu ý là trong đất những ion trên lớp điện bù có thể trao đổi với những
ion trong dung dịch tiếp xúc với nó nên gọi là "tầng ion trao đổi". Tổng
số cation trên tầng ion trao đổi tính bằng số ly đương lượng gam (meq)
trong 100 gam đất khô gọi là dung tích hấp phụ của đất.
Keo đất giữ vai trò rất quan trọng vì chúng quyết định nhiều tính
chất cơ bản của đất về mặt lý học, hoá hoc, đặc biệt là đặc tính hấp phụ
của đất. Bởi vậy những lý luận về keo được vận dụng rộng rãi trong lĩnh
vực phân loại đất, cải tạo đất và bón phân cho đất.
1.2. Ðặc tính cơ bản của keo đất
Khi nghiên cứu keo đất người ta thấy có 4 đặc tính quyết định
nhiều tính chất cơ bản của đất, đó là:
a. Keo đất có tỷ diện lớn
Tỷ diện là tổng số diện tích bề mặt của một đơn khối lượng (g)
hoặc một đơn vị thể tích (cm3). Diện tích bề mặt của các hạt có kích
thước khác nhau được thể hiện ở bảng 5.1. Keo đất có kích thước rất bé
nên tỷ diện của nó rất lớn. Theo số liệu ở bảng 5.1, số lượng keo đất chỉ
bằng 4% khối lượng pha rắn của đất, nhưng có diện tích bề mặt bằng
80% tổng diện tích bề mặt của đất. Như vậy đất sét có tỷ diện lớn nhất
rồi đến đất thịt và bé nhất là đất cát.
Bảng 5.1. Vai trò của kích thước hạt trong sự hình thành diện
tích bề mặt của đất thịt trung bình
Kích thước hạt Hàm Diện tích bề mặt (m2/1g % bề mặt tổng
(mm) lượng đất) số
(%)
0,25 - 0,05 17 0,5 0,2
0,05 - 0,01 50 4,1 1,7
0,01 - 0,005 20 9,9 4,1
0,005 - 0,001 6 12,7 5,2
0,001 0,0001 3 18,8 7,8
Hoá trị Chất điện Nồng độ chất điện giải khi keo bắt đầu ngưng
giải tụ (N)
1 NaCl 0,015 - 0,0125
1 NH4Cl 0,025 - 0,0125
1 KCl 0,025 - 0,0125
2 MgCl2 0,0012 - 0,0005
2 CaCl2 0,0012 - 0,0005
3 AlCl3 < 0,000125
3 FeCl3 < 0,000125
+ Keo ngưng tụ do hiện tượng mất nước: tuỳ khả năng giữ nước
người ta chia keo thành keo ưa nước và keo ghét nước. Keo ưa nước trên
bề mặt có những phân tử nước hoặc chất lỏng như dung dịch đất. Những
keo ưa nước như gelatin, axit silicic, nhựa cây, một vài chất hữu cơ
trong đất, một số keo sét... Keo ghét nước như hydroxít sắt, kaolinit...
Chúng không có màng nước xung quanh nên dễ ngưng tụ, chỉ cần dùng
dung dịch muối nồng độ thấp. Trái lại các keo ưa nước chỉ ngưng tụ
trong trường hợp chất điện giải ở nồng độ cao. Những lúc thời tiết hanh
khô hoặc hạn hán kéo dài làm cho đất khô thì keo ưa nước cũng có thể
ngưng tụ do màng nước quanh nó bị mất.
+ Keo ngưng tụ do sự liên kết hai hạt keo mang điện trái dấu
Như trên đã nói, đa số keo đất mang điện âm. Tuy nhiên vẫn gặp
một số keo mang điện dương như keo Fe(OH)3, Al(OH)3, khi keo âm và
keo dương kết hợp với nhau, sau lúc trung hoà điện tạo thành gel hỗn
hợp. Nếu số lượng keo âm nhiều gấp bội keo dương thì các keo âm bao
bọc keo dương tạo thành màng bảo vệ mang điện âm, kết quả lại tạo
thành sol.
1.3. Phân loại keo đất
Những keo đất phổ biến là axit humic, axit silicic, hydroxyt sắt,
nhôm và keo sét. Nói chung hàm lượng keo phụ thuộc tỷ lệ sét và mùn
trong đất, đất càng nhiều sét và mùn thì càng chứa nhiều keo. Dựa vào
tính mang điện, thành phần hoá học người ta phân loại keo đất như sau:
a. Dựa vào tính mang điện
Theo tính mang điện của keo, có thể chia keo đất thành các loại:
keo âm, keo dương và keo lưỡng tính,
+ Keo âm (asidoit)
Trên mặt nhân keo mang điện âm hay nói cách khác là lớp ion
quyết định thế là những anion. Các ion trên lớp điện bù là H+ hoặc các
cation khác. Ký hiệu keo âm là X-H. Trong đất, keo âm chiếm đa số.
Thường gặp là axit silicic, axit humic, keo sét...Ví dụ cấu tạo keo axit
silicic như hình 5.2. Phân tử axit silicic trên bề mặt hạt nhân phân ly
thành các ion:
H2SiO3 = 2H+ + SiO32-
Anion SiO32- được hấp phụ ngay trên bề mặt hạt nhân làm thành tầng ion
quyết định thế. H+ là ion bù phân phối ở tầng ion không di chuyển và
khuếch tán
khuÕch
h n di
q ®t
+ N h©n S iO 3
2-
H
+
H+
+ S iO 2 yH 2 O S iO 32
+ H+
S iO 3 2
+ 2- +
S iO 3 H
H+
+ + H
+
+ +
H
+
+ H
q.®
Nh©n Cl
+ FeO +
-
C l-
Cl
khuÕch t
I n
h« g di
q.® t
+ Nh©n C OO
-
H
+
-
C OO +
R (C OOH )n O O H
+ + - H
+
C H
+
+ H
+
+ H
+ +
H +
H
+
o khuÕch t
h« g di
I
q.® t
+
+ C a2+
Nh©n S
C a2+
= =
+ Si 2-
+ 3
H+
Si
S iO
)
2
+ 3
Si
=
i
+
H+
-
3
Mg 2+
2
+
+
+ H+
+ H+
R
(O)pMeq
trong đó: Me là Na+, K+, NH4+, Ca2+, Mg2+.... Các muối dị cực cũng có
thể được hình thành do sự tương tác giữa các axit mùn với các khoáng
vật sét qua cầu nối canxi có cấu tạo như sau:
Si O Ca OOC C OO Ca O Si
R
Si O Ca OOC C OO Ca O Si
Các humat canxi không tan có thể kết tủa và hình thành các màng trên
bề mặt các hạt keo.
- Muối phức dị cực được hình thành do phản ứng giữa các ion
sắt, nhôm với axit mùn để hình thành muối phức, trong muối này kim
loại tham gia vào phần anion của phân tử. Hợp chất phức này vẫn còn
các nhóm cacboxyl và nhóm hydroxyl phenol tự do, các nhóm này có
thể tiếp tục phản ứng với phần vô cơ của đất để tạo thành các muối dị
cực đơn giản. L.N. Alexandrova gọi những hợp chất có bản
chất kép như vậy là muối phức dị cực. Muối này có cấu tạo như sau:
OH
OOC
Me
R
H2O (COOH)n-1
H2O OH HO (OH)m-1
Me(OH)3 Me R
OH OH (OH)m-1
(COOH)n
H2O ...R
(OH)m
SiO2.nH2O
COO
H2O ...[RMe] Me1+
OH
(C OOH )n
-
O ...R
(OH) m
Si
O C OO
OH ...[R Me] Me
O
OOC (C OOH ) n-1
Al Al R
O (OH) m-1
(C OOH ) n
OH ...R
O (OH) m
Si
C OO
-
O ...[R Me] Me
O
- Ðiều kiện quan trọng của sự thay thế là: 2 ion muốn thay thế
nhau phải có bán kính tương đương, Ví dụ Al3+ trong tinh thể có bán
kính R = 0,57 Ǻ có thể bị Fe3+ có R = 0,67 Ǻ thay thế chứ không thể bị
Li+ có R = 1,22 Ǻ thay thế. Sự thay thế này xảy ra phổ biến ở một số keo
sét, ví dụ trong khối tứ diện oxit silic: Si4+ thường bị Al3+ thế, có trường
hợp Mn3+ hoặc P5+ thay thế Si4+ song rất ít; trong khối bát diện Al3+ bị
Mg2+ hoặc Fe2+ thế.
- Ðặc điểm của sự thay thế là: nếu hoá trị của 2 ion thay thế
tương đương nhau thì không những không thấy điểm gì khác trên tinh
thể mà còn làm cho khoáng vật trung hoà điện. Nếu hóa trị của chúng
chênh lệch nhau thì khoáng vật mang điện âm hoặc dương. Ví dụ Al3+
thế cho Si4+ thì khoáng vật mang điện âm, P5+ thế cho Si4+ khoáng vật
mang điện dương. Hiện tượng thay thế đồng hình thường gặp ở keo sét
là Al3+ thế Si4+ hoặc Mg2+ thế Al3+ vì vậy keo sét mang điện âm có thể
hấp phụ cation.
b. Ðặc điểm của các nhóm keo sét chính +
Nhóm kaolinit:
- Nhóm này gồm keo kaolinit và haluzit, metahaluazit, dikkit
và nakrit.
- Cấu trúc tinh thể loại hình 1:1, mỗi lớp tinh thể (tinh tầng)
gồm một phiến oxit silic và một phiến gipxit. Những lớp tinh thể như
vậy chồng xếp lên nhau, giữa chúng có các khe hở làm cho kaolinit có
cấu trúc lớp (hình 5.7).
- Theo hình vẽ cấu trúc của kaolinit, nhân cơ bản của mạng
lưới tinh thể keo trung hoà về điện và có công thức tương ứng là
Al2Si2O5(OH)4, nhưng bề mặt sườn lộ trần khi phá huỷ có hoá trị không
bão hoà gây ra sự hấp phụ các ion từ môi trường xung quanh. Haluazit
khác với kaolinit bởi sự tồn tại của nước trong mạng lưới tinh thể, cấu
trúc của nó phù hợp với công thức Al2Si2O5(OH)4.2H2O. Haluazit khi bị
hydrat hoá sẽ biến thành metahaluazit Al2Si2O5(OH)4.4H2O. Dikkit và
nakrit khác với kaolinit bởi các góc lệch của từng paket.Tỷ lệ Si:Al =
1:1 - Khoảng cách giữa các paket không đổi và bằng 7,2 Ǻ.
- Rất ít hoặc không có hiện tượng thay thế đồng hình xảy ra
trong mạng lưới tinh thể.
- Lực liên kết giữa các lớp tinh thể tầng trong kaolinit rất chặt
nên không thể co giãn để mở rộng khe hở hút nước và không có khả
năng trương.
- Do các đặc điểm trên mà khả năng hấp phụ của kaolinit
thường thấp (CEC = 5 - 15 lđl/100g keo). Bởi vậy, đất nào chứa nhiều
keo nhóm kaolinit thì tính giữ phân và giữ nước kém.
Hình 5.7. Sơ đồ cấu trúc kaolinit
+ Nhóm montmorilonit
- Nhóm này gồm keo montmorilonit, baydenlit và nontronit.
- Cấu trúc tinh thể loại hình 2:1, nghĩa là mỗi lớp tinh thể gồm
2 phiến oxit silic nằm ở 2 bên và một phiến gipxit ở giữa (hình 5.8).
- Cấu trúc của montmorilonit phù hợp với công thức
Al2Si4O10(OH)2.nH2O. Baydelit khác với montmorilonit ở chỗ, 1 trong 4
ion Si4+ của lớp khối tứ diện oxit silic bị thay thế bằng Al3+, điện tích âm
dư thừa được bù bằng cách thay thế 1 trong các ion oxi bằng nhóm
hidroxyl. Baydelit có công thức là: Al3Si3O9(OH)3.nH2O. Còn nontronit,
trong các khối bát diện của nó, ion Al3+ hoàn toàn được thay thế bằng
ion Fe3+. Nontronit có công thức: (Al,Fe)2Si4O10(OH)2.nH2O. Tỷ lệ Si: Al
(hoặc Fe) = 2: 1.
- Khác với kaolinit, khoảng cách giữa các paket của
montmorilonit thay đổi rất mạnh từ 9,6 đến 28,4 Å, phụ thuộc vào lượng
nước được hút vào khe hở giữa các paket. Khi hút nước keo sét
montmorilonit trương ra.
- Hiện tượng thay thế đồng hình xảy ra phổ biến: Al3+ thay thế
Si4+ trong khối tứ diện của phiến oxyt silic, Mg2+ hoặc Fe2+ thế Al3+ trong
khối bát diện của phiến gipxit. Kết quả là keo mang điện âm có thể hấp
phụ cation.
- Lực liên kết giữa các lớp tinh thể của montmorilonit kém
chặt nên có thể giãn nở khi hút thêm nước và cation.
- Do những đặc điểm trên mà khả năng hấp phụ cation của
nhóm keo này rất cao (CEC = 80 - 150 lđl/100 g keo). Bởi vậy, đất nào
chứa nhiều keo đất nhóm montmorilonit thì tính giữ phân và nước khá
cao.
+ Nhóm hydromica
- Chiếm một lượng lớn trong số các keo sét của đất, bao gồm
các loại sau: hydro mica trắng (hydromuscovit hoặc illit), hydro mica
đen
(hydrobiotit)và các dạng khác của mica bị hydrat hoá
- Hydromica có cấu trúc loại hình 2:1 tương tự montmorilonit
(hình 5.9)
- Công thức của hydromuscovit KAl2(Al.Si3O10)(OH)2.
Hình 5.9. Sơ đồ cấu trúc của hydromica
thì 1 đương lượng gam Ca (20 g) trao đổi với 1 đương lượng gam Na
(23 g). Do trao đổi bằng đương lượng (me) cho nên nếu có 3% Ca thì
3.
phải tính = 150 me, muốn trao đổi Na cũng cần có = 3,45%
Na mới trao đổi với 3% Ca được.
+ Trao đổi cation có thể tiến hành theo chiều thuận và nghịch phụ
thuộc nồng độ và đặc tính cation trong dung dịch đất.
+ Trao đổi xảy ra rất nhanh: các phản ứng trao đổi cation trong đất
tiến hành rất nhanh, có khi chỉ sau 5 phút đã thực hiện xong. Ðiểm này
có ý nghĩa thực tiễn khi bón phân chứa cation và bón vôi khử chua. Cần
chú ý là phải tạo điều kiện cho tiếp xúc đều giữa cation với đất bằng
cách bừa kỹ, sục bùn để trộn đều, hoặc bón phân kết hợp với vun gốc
cho cây.
+ Trao đổi cation phụ thuộc hoá trị, độ lớn và mức độ thuỷ hoá của
cation:
Hoá trị của cation càng cao, khả năng trao đổi càng mạnh, nghĩa là
khả năng trao đổi của cation hoá trị III > cation hoá trị II > cation hoá trị
I.
Nếu cùng hoá trị thì cation nào có bán kính lớn (tức bán kính thuỷ
hoá bé) thì trao đổi mạnh hơn. Trừ H+ do có màng thuỷ hoá rất mỏng
nên khả năng trao đổi của H+ không những vượt các cation hoá trị I mà
còn vượt cả cation hoá trị II (bảng 5.4).
Bảng 5.4. Quan hệ giữa hoá trị, bán kính và bán kính thuỷ hoá của
cation với khả năng trao đổi cation
Catio Hoá Bán kính cation Bán kính thuỷ Thứ tự trao
n trị (Å) hoá (Å) đổi
Li+ 1 0,78 10,03 6
Na+ 1 0,98 7,90 5
NH4+ 1 1,43 5,37 4
Mg2+ 2 0,78 13,30 3
Ca2+ 2 1,06 10,00 2
H+ 2 1
+ Khả năng trao đổi phụ thuộc nồng độ ion trong dung dịch. Nói
chung, nồng độ ion trong dung dịch đất càng cao thì phản ứng trao đổi
càng mạnh.
* Dung tích trao đổi cation và độ no bazơ của đất
+ Dung tích trao đổi cation của đất
Dung tích trao đổi cation của đất (dung tích hấp phụ) là tổng số
cation hấp phụ (kể cả cation kiềm và không kiềm) trong 100 gam đất,
tính bằng ly đương lượng gam, ký hiệu bằng chữ CEC (cation exchange
capacity).
Dung tích trao đổi cation được xác định bằng cách phân tích trực
tiếp hoặc tính theo công thức: CEC = S + H. Trong đó S là tổng số
cation kiềm, kiềm thổ hấp phụ (chủ yếu là Ca2+, Mg2+, K+ và Na+), H là
tổng số ion H+ và Al3+ hấp phụ (độ chua thuỷ phân). Tất cả đều tính bằng
đơn vị lđl/100 g đất.
Dung tích trao đổi cation của đất phụ thuộc thành phần keo, thành
phần cơ giới đất, tỷ lệ SiO2/R2O3 và pH.
- Thành phần keo khác nhau thì CEC của đất khác nhau (bảng 5.5)
Bảng 5.5. Dung tích hấp phụ của một số loại keo đất
Loại keo CEC (lđl/100 g) Fe(OH)3 và
Rất bé
Al(OH)3
Kaolinit 5 - 15
Montmorilonit 80 - 150
Illit 20 - 40
Axit humic 350
Như vậy, đất càng nhiều mùn và nhiều montmorilonit thì CEC
càng lớn.
- Thành phần cơ giới đất càng nặng CEC càng lớn (bảng 5.6)
Bảng 5.6. Các cấp hạt khác nhau và CEC của đất
Cấp hạt (mm) CEC (lđl/100 g đất)
0,25 - 0,005 0,3
0,005 - 0,001 15,0
0,001 - 0,0025 37,2
< 0,0025 69,9
Bảng 5.8. Ảnh hưởng của pH đến CEC của một số keo sét
Keo Kaolinit Montmorilonit
pH 2,5 - 6,0 7,0 2,5 - 6,0 7,0
+ Khả năng hấp phụ anion còn phụ thuộc vào phản ứng môi trường. Ðất
có phản ứng càng chua, tỷ lệ keo dương trong đất sẽ càng tăng, vì vậy sự
hấp phụ anion của đất cũng sẽ tăng lên (bảng 5.11).
Bảng 5.11. Quan hệ giữa pH với hấp phụ anion (lđl/100 g đất) theo
Matxơn
Kaolinit Montmorilonit
pH Cl pH SO42 pH PO43 pH Cl pH PO43
7,2 0,0 7,2 0,0 7,5 29,7 6,8 0,0 6,5 32,4
6,7 0,3 6,9 0,7 6,7 40,8 5,6 0,0 5,1 36,3
6,1 1,1 6,6 2,9 6,1 46,5 3,2 0,1 4,8 38,7
5,8 2,4 6,2 4,6 5,5 56,1 3,1 0,1 4,0 47,4
5,3 3,8 5,9 6,6 4,6 75,0 3,0 0,1 3,3 60,6
4,0 5,9 5,0 10,5 3,8 92,1 2,8 0,4 2,9 81,0
3. Ảnh hưởng của keo đất, khả năng hấp phụ đến tính chất đất và
chế độ bón phân và cải tạo đất
3.1. Quan hệ giữa keo đất với quá trình hình thành đất
+ Kaolinit là keo sét điển hình cho quá trình hình thành đất nhiệt
đới ẩm, montmorilonit đặc trưng cho quá trình hình thành đất ôn đới.
Keo sét đặc trưng của một số loại đất thế giới như sau (theo J. Toth)
Loại đất Keo sét đặc trưng
Ðất tundra Illit
Ðất nâu hạt dẻ Montmorilonit
Ðất chernozem Illit + Montmorilonit
Ðất đồng cỏ ẩm Montmorilonit
Ðất potzon Illit
Ðất đỏ vàng potzon hoá Kaolinit
Ðất feralit nhiệt đới Kaolinit + halluazit
Ðất mùn gley Montmorilonit
Ðất mùn cacbonat Montmorilonit + kaolinit
Ðất phù sa và đất mặn Illit + kaolinit + haluazit
+ Càng lên cao nhiệt độ càng giảm, cường độ phá huỷ đá giảm,
quá trình hình thành đất cũng thay đổi, tỷ lệ keo sét giảm nhưng tỷ lệ
keo hữu cơ tăng.
+ Tỷ lệ SiO2/Al2O3 trong keo sét liên quan mật thiết với mức độ
phong hóa, rửa trôi và mức độ biến đổi trong quá trình hình thành đất:
4. Biện pháp duy trì và nâng cao khả năng hấp phụ của đất
Như các phần trên đã trình bày, phức hệ keo ảnh hưởng lớn tới
thành phần và nồng độ dung dịch đất, tính chất lý học, hoá học, chế độ
nước và khí của đất, điều kiện phát triển của vi sinh vật... Vì vậy muốn
bảo vệ và nâng cao độ phì đất cần tìm cách duy trì, tăng cường và thay
đổi thành phần, số lượng keo đất.
+ Ðất cát chứa rất ít keo, khả năng hấp phụ kém, tính giữ phân
kém. Vì vậy đối với loại đất này cần tăng keo bằng cách bón đất sét kết
hợp với phân hữu cơ để tăng phức hệ hấp phụ cho đất, tăng độ dính hạt
kết làm cho nó trở nên bền. Ở Hungari cải tạo đất cát bằng cách trộn đất
sét với phân hữu cơ làm thành lớp dày 2 - 3 cm đem ủ rồi bón cho đất
cát. Ðó là phức hệ keo sét mùn có khả năng tạo cho đất nhiều đặc tính
tốt mà riêng phân chuồng không thể có được. Dĩ nhiên, không phải đất
sét nào cũng bón được cho đất nhẹ, ví dụ đất sét mặn không cải tạo được
đất cát, ở miền Bắc nước ta việc dùng bùn ao hoặc cầy sâu lật sét dưới
sâu lên kết hợp với phân hữu cơ để cải tạo đất thành phần cơ giới nhẹ
như đất bạc màu.
+ Phù sa các sông lớn chứa nhiều keo có thể dùng tưới cho ruộng
nhiều cát, đó cũng là biện pháp tăng lượng keo đất.
+ Bón phân hữu cơ và vô cơ còn là biện pháp thay đổi thành phần
ion hấp phụ của keo. Các ion OH-, COO- và SiO32-...có thể làm cho các
muối phosphat trở thành dễ tan hơn. Ví dụ bón natri silicat:
Na2SiO3 + H2O = H2SiO3 + 2NaOH
H2SiO3 + Ca3(PO4)2(khó tan) = 2CaHPO4(dễ tan) + CaSiO3 hoặc
bón phân hữu cơ:
R(COOH)2 + Ca3(PO4)2(khó tan) = R(COO)2 - Ca + 2CaHPO4(dễ
tan)
+ Ðối với những đất thành phần cơ giới quá nặng không phù hợp
yêu cầu cây trồng có thể cải tạo bằng cách bón cát, bón đất phù sa thô,
bón nhiều phân hữu cơ và trồng cây phân xanh.
+ Ðối với những loại đất có khả năng hấp phụ thấp có thể bón vào
đất các khoáng vật có dung tích trao đổi cation cao như bentonit, zeolit
để nâng cao dung tích hấp phụ cho đất.
1. Khái niệm keo đất, các đặc tính cơ bản của keo và phân loại keo
đất?
2. Ðặc điểm của các loại keo sét chính trong đất, thành phần của
keo trong các loại đất chính của Việt Nam?
3. Khả năng hấp phụ của đất là gì? Các dạng hấp phụ của đất, biện
pháp duy trì và nâng cao khả năng hấp phụ của đất?
4. Quan hệ giữa keo đất, khả năng hấp phụ của đất với tính chất
của đất và chế độ bón phân, cải tạo đất?
Chương VI
PHẢN ỨNG CỦA ĐẤT
Nước mưa trước khi nhập vào đất đã chứa một lượng nhỏ các
chất hoà tan và các khí như O2, CO2, N2, NH3. Như vậy nước mưa
không tinh khiết, thực ra nó là một dung dịch. Khi thấm vào đất, nước
mưa tiếp tục hoà tan thêm một số chất nữa trong thể rắn của đất và
tạo thành dung dịch đất.
Dung dịch đất có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành
đất và độ phì nhiêu của đất. Dung dịch đất là bộ phận linh hoạt nhất.
Nó tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành đất, vào các phản ứng
lý, hoá, sinh học, vào sự trao đổi chất dinh dưỡng của cây. Vì thế
dung dịch đất sẽ quyết định các phản ứng xảy ra trong đất như: phản
ứng chua, phản ứng kiềm, phản ứng đệm, phản ứng ôxy hoá khử của
đất.
Phản ứng của đất còn gọi là phản ứng của dung dịch đất. Phản ứng
của dung dịch đất chính là các quá trình hoá học hay lý - hoá học diễn ra
trong đất.
Trong thổ nhưỡng học phản ứng của đất gồm có: phản ứng chua,
phản ứng kiềm, phản ứng đệm và phản ứng oxy hoá khử. Các phản ứng
này ảnh hưởng rất lớn đến thành phần, tính chất và độ phì nhiêu của đất.
Nghiên cứu về dung dịch đất và phản ứng của nó luôn là nội dung không
thể thiếu của thổ nhưỡng học.
1.2. Ý nghĩa của dung dịch đất:
-Các chất hoà tan trong dung dịch đất chính là nguồn cung cấp dinh
dưỡng dễ tiêu cho cây.
-Nồng độ của dung dịch đất ảnh hưởng đến khả năng hút nước của
cây. Nếu đất bị mặn hay do bón nhiều phân hoá học thì áp suất thẩm
thấu của dung dịch đất tăng lên, cản trở sự hút nước của cây dù trong đất
còn một lượng nước tương đối cao. Ðây còn gọi là hiện tượng héo sinh
lý.
-Phản ứng của dung dịch đất ảnh hưởng đến sự hoạt động của hệ vi
sinh vật đất, đến tính chất lý - hoá học của đất và thức ăn nuôi cây. Ví dụ
như sự hoà tan của lân phụ thuộc vào pH.
-Trong dung dịch đất có một số muối và các chất hoà tan khác.
Anion và cation trong dung dịch đất làm cho đất có tính đệm, có thể giữ
cho độ pH của đất ít thay đổi
-Dung dịch đất có chứa một số chất hoà tan có thể làm tăng cường
quá trình phong hoá đá để hình thành đất. Thí dụ: NH3, NO2, CO2 từ khí
quyển khi tan trong nước làm sự phá huỷ đá vôi theo con đường hoà tan
được tăng cường. Ðộ hoà tan của đá vôi trong nước bão hoà CO 2 lớn
hơn trong nước tinh khiết 70 lần. Quá trình phá huỷ đá vôi với sự tham
gia của CO2 hoà tan trong nước xảy ra theo phương trình sau:
CaCO3 + CO2 + H2O Ca(HCO3)2
1.3. Thành phần và nồng độ của dung dịch đất
Thành phần và nồng độ của dung dịch đất rất phức tạp và luôn thay
đổi. Nồng độ của dung dịch đất không lớn và thường không vượt quá vài
gam các chất trong 1 lít dung dịch. Riêng trường hợp đất mặn và đất
phèn hàm lượng các chất hoà tan trong dung dịch đất có thể đạt tới hàng
chục thậm chí hàng trăm gam trong 1 lít.
Về thành phần, dung dịch đất chứa các chất vô cơ, hữu cơ, hữu cơ -
vô cơ. Những chất này tồn tại trong dung dịch đất ở dạng phân tử hoà
tan hay ở dạng keo (ở trạng thái sol).
+ Các chất vô cơ trong dung dịch có:
-Các cation: Ca2+, Mg2+, NH4+, Na+, K+, H+. Trong đất chua còn có
cả Al3+ và Fe3+. Trong đất lầy có Fe2+
-Các anion: HCO3-, CO32-, NO3-, NO2-, SO42-, Cl-, H2PO4-, HPO42-...,
+ Những chất hữu cơ: các sản phẩm của quá trình phân giải chất hữu
cơ, các sản phẩm của hoạt động sống của sinh vật (axit hữu cơ, axit
+ Những chất hữu cơ - vô cơ trong dung dịch chủ yếu gồm những
hợp chất phức tạp của các chất hữu cơ có tính axit (các axit mùn,
poliphenol, axit hữu cơ phân tử thấp) với cation của sắt và nhôm.
+ Các chất khí hoà tan như CO2, O2, N2, NH3 v.v.
+ Trong dung dịch ngoài các chất hoà tan còn có các chất không hoà
tan thường là những phần tử keo hữu cơ, hữu cơ - vô cơ, keo sét, keo
silic, hiđrôxit sắt và nhôm. Theo K.K. Gedroi hàm lượng keo trong dung
dịch đất chiếm từ 1/4 đến 1/10 hoặc ít hơn tổng lượng keo của đất
Thành phần và số lượng các chất hoà tan trong dung dịch đất không
cố định nhưng cũng có thể dùng để phân biệt loại đất này với loại đất
khác ở mức độ nhất định.
Thành phần và số lượng các chất hoà tan trong dung dịch đất luôn
được bổ sung từ các nguồn sau:
- Do ta bón phân hữu cơ và vô cơ vào đất
- Do nước mưa hoặc nước ngầm mang tới
- Do quá trình trao đổi ion giữa keo đất và dung dịch đất -
Do các sản phẩm của quá trình phong hoá đá và quá trình
phân giải các chất hữu cơ.
Thành phần và nồng độ dung dịch đất phụ thuộc vào thời tiết, khí
hậu, hàm lượng nước trong đất, sự hoạt động của sinh vật, phản ứng của
đất, thành phần đá mẹ, nước ngầm và chế độ canh tác.
1.4. Các phương pháp nghiên cứu dung dịch đất
Muốn nghiên cứu dung dịch đất người ta dùng các phương pháp
khác nhau để chiết rút nó ra khỏi đất như:
+ Phương pháp phổ biến là dùng nước cất tác dụng lên đất theo tỷ lệ
đất: nước bằng 1:5 rồi lọc. Dung dịch này đã bị hoà loãng ra nhiều và
thành phần thay đổi vì lượng nước lớn có thể hoà tan các chất trước đó
không hoà tan. Tuy nhiên với phương pháp này ta cũng hiểu được cơ
bản về tính chất của dung dịch đất.
+ Dùng axit loãng tác dụng với đất. Ví dụ khi định lượng K+, NH4+
và P2O5 dễ tiêu ta dùng HCl 0.2N với tỷ lệ đất dung dịch là 1:5. Với
phương pháp này thành phần và nồng độ các chất hoà tan trong dung
dịch đất đã khác nhiều so với thực tế nhưng vẫn có thể đánh giá một
phần hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất.
+ Nghiên cứu dung dịch bằng phương pháp "thuỷ thẩm kế"
(Lizimet): Phương pháp này cho phép chúng ta nghiên cứu dung dịch
đất ở các độ sâu khác nhau. Có hai cách thu hồi dung dịch đất:
- Ở các độ sâu nhất định trong đất ta đặt các phễu hứng nước từ trên
chảy xuống và dẫn đến bình chứa. Phương pháp này có nhược điểm là
nước chỉ chảy đến phễu khi trong đất có nước thừa (nước trọng lực), có
nghĩa là thành phần và nồng độ dung dịch đất đã thay đổi nhưng dù sao
dịch này đã thấm qua đất nên cho ta khái niệm về dung dịch đất vững
chắc hơn các phương pháp trên.
- Ở các độ sâu nhất định trong đất nguời ta đặt các bình kín bằng sứ
xốp. Với bơm chân không người ta đưa áp suất trong bình về xấp xỉ 0
atm. Sự chênh lệch áp suất giữa trong và ngoài bình làm dung dịch đất
bị hút vào bình. Với phương pháp này dung dịch mà ta thu được đúng
với dung dịch thực của đất (trong điều kiện là độ ẩm đất gần với độ trữ
ẩm đồng ruộng).
+ Phương pháp dùng áp lực đẩy dung dịch đất ra: Năm 1903 Bơrich
(Mỹ) dùng máy ly tâm quay 8000 vòng/phút nhưng chỉ tách được dung
dịch đất khi đất có độ ẩm cao. Năm 1916 Raman, Bamơ (Ðức) và Vanzi
(Hà lan) đã tách dung dịch đất bằng cách ép đất. Năm 1941, Rixa (Mỹ)
cho đất vào màng Xelophan và dùng áp lực 16 atmotphe đẩy dung dịch
đất qua màng. Năm 1947 Kriukôp (Nga) đã nghiên cứu dung dịch đất
bằng cách dùng sức ép 1000-2000 kg/cm2.
Hiện nay người ta dùng máy đo trực tiếp để nghiên cứu dung dịch
đất. Ví dụ: Ðo nồng độ H+ bằng pH meter; đo tổng số muối tan bằng
xuất dẫn điện; Ðo điện thế oxy hoá khử bằng Eh meter...
Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, thực vật màu xanh đã hút
một lượng lớn các chất kiềm trong đất như Na+, K+, Ca2+, Mg2+ v.v. để
hình thành cơ thể. Ðối với thực vật tự nhiên thì lượng các chất kiềm này
sẽ được trả lại cho đất trong các dạng xác thực vật. Nhưng với đất canh
tác thì một lượng lớn các chất kiềm bị lấy đi không hoàn lại cho đất dưới
dạng các sản phẩm nông nghiệp. Ðây là một nguyên nhân làm giảm các
chất kiềm trong đất canh tác và làm đất dần bị hoá chua.
Theo Vũ Cao Thái, với giống lúa IR62, năng suất 9,8 tấn thóc/ha và
8,3 tấn rơm rạ đất đã bị lấy đi 265 kg K2O, 58 kg MgO và 71kg CaO/ha.
Theo số liệu của Xmirnôp và Muravin (1989) để hình thành nên 1 tấn
hạt cây ngô đã lấy đi từ đất 30-35 kg N, 8-12kg P2O5 và 25-35 kg K2O.
Do thành phần hoá học, một số phân bón khi bón vào đất sẽ dần dần
làm cho đất hoá chua. Khi bón những loại phân như (NH4)2SO4, NH4Cl,
KCl vào đất các cation NH4+, K+ sẽ được keo đất và cây trồng hấp thụ để
lại gốc SO42- và Cl-. Các gốc axit này sẽ tạo HCl và H2SO4 làm cho đất bị
chua. Những phân có thể làm đất bị hoá chua bằng cơ chế này được gọi
chung là các phân chua sinh lý. Một số loại phân như supe lân trong
thành phần thường chứa một lượng nhất định axit dư nên khi bón nhiều
vào đất cũng có thể làm cho đất chua thêm. Tuy vậy nguyên nhân từ
phân bón chưa đáng lo ngại lắm vì trong thực tế lượng phân hoá học mà
ta bón vào đất chưa nhiều.
Ðối với những vùng đất có thành phần cơ giới nhẹ thì vấn đề tưới
nước dư thừa cũng là một trong những nguyên nhân làm đất bị rửa trôi
các kim loại kiềm và kiềm thổ và dần dần hoá chua.
Tóm lại có rất nhiều nguyên nhân làm cho trong đất bị hoá chua.
Ðiều cần quan tâm là diện tích đất chua ở nước ta rất lớn, đó là các loại
đất đỏ vàng vùng đồi núi, một phần đất phù sa hệ thống sông Hồng, phù
sa sông Mã, sông Chu, sông Lam, sông Cửu Long và phù sa sông khác;
các vùng đất bạc màu ở Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Tây Ninh; các vùng đất phèn ở Hải Phòng, Thái Bình, Ðồng Tháp...; các
vùng đất trũng Nam Định, Hà Nam và các nơi khác.
2.2. Các loại độ chua của đất
Tất cả các nguyên nhân trên đã làm tăng hàm lượng ion H+ trong
đất. Phản ứng chua của đất được biểu thị bằng các loại độ chua. Những
ion H+ trong đất có thể tồn tại trong dung dịch hoặc bị hấp thu trên bề
mặt hạt keo. Trường hợp thứ nhất sinh ra "độ chua hoạt tính" có ảnh
hưởng trực tiếp tới cây và vi sinh vật. Trường hợp thứ hai gây nên "độ
chua tiềm tàng" của đất vì H+ (và Al3+) chỉ làm tăng độ chua dung dịch
và ảnh hưởng đến sinh vật khi bị đẩy vào dung dịch đất bởi các cation
khác. Hai loại độ chua này hợp thành tổng số độ chua của đất. a. Ðộ
chua hoạt tính
Ðộ chua hoạt tính do các ion H+ có trong dung dịch đất tạo nên,
nồng độ ion H+ càng cao thì đất càng chua.
Ðể xác định độ chua này ta chiết rút các ion H+ bằng nước cất rồi
xác định nồng độ ion H+ bằng pH meter. Ðộ chua hoạt tính được biểu thị
bằng pHH2O. pH là trị số âm của logarit nồng độ ion H+ trong dung dịch:
pH = - lgH+
Trong hoá học người ta đã quy định rằng nước tinh khiết hay bất cứ
dung dịch nào có H+ = OH- = 10-7 g ion/l nghĩa là pH = -lg10-7 = 7
thì đó là môi trường trung tính.
Nếu H+ <10-7 g ion/l nghĩa là pH > 7 đó là môi trường kiềm.
Nếu H+ > 10-7 g ion/l nghĩa là pH < 7 đó là môi trường chua.
Thông thường pHH2O của đất biến thiên từ 3-9 và được đánh giá như
sau:
pHH2O Mức đánh giá
< 4,5 Ðất rất chua
4,5-5,5 Ðất chua
5,6-6,5 Ðất chua ít
6,6-7,5 Ðất trung tính
7,6-8,0 Ðất kiềm ít
8,1-8,5 Ðất kiềm vừa
>8,5 Ðất kiềm
nhiều
Bảng 6.1: Ðộ chua hoạt tính của một số loại đất Việt nam
Số liệu trong bảng 6.2 chỉ khoảng pH tối thích, trong thực tế phạm
vi pH cho phép cây sống được rộng hơn thế nhiều. Ví dụ cây lúa có thể
sống ở đất có pH dao động từ 4,0 đến 9,0, sống bình thường với pH từ
58 nhưng tốt nhất là trong khoảng 6,2-7,3.
Dựa vào độ chua hoạt tính và cơ cấu cây trồng ta có thể xác định
xem đã cần cải tạo độ chua cho đất hay chưa. Ðối với đa số cây trồng
nông nghiệp ngắn ngày nếu pHH2O <4,5 thì cấp thiết phải bón vôi, nếu
pHH2O = 4,6-5,5 cần vừa nếu pHH2O >5,5 thì chưa cần thiết phải bón vôi.
Khi đất chua nhiều (pHH2O < 4,0) có thể nghi trong đất chứa axit vô
cơ (ví dụ như H2SO4 trong đất phèn). Nếu đất kiềm nhiều (pHH2O > 8,5)
thì trong đất thường chứa nhiều Na2CO3 hay NaHCO3.
Ðộ chua hoạt tính chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau:
+ Mức độ phân ly thành ion của chất điện giải. Cùng nồng độ đương
lượng nhưng axit vô cơ phân ly thành ion nhiều hơn axit hữu cơ nên
pHH2O của dung dịch thấp hơn. Tương tự như vậy với các bazơ.
+ Hiện tượng trao đổi ion H+ và Al3+ trong keo đất với các ion khác
khi bón phân vô cơ như KCl, (NH4)2SO4... cũng làm tăng độ chua hoạt
tính.
b. Ðộ chua tiềm tàng
Như trên đã nói trong đất chua còn có các ion H+ và Al3+ được hút
bám trên bề mặt keo đất. Khi tác động lên đất một dung dịch muối thì H+
và Al3+ bị đẩy vào dung dịch đất. Nồng độ của các ion này trong dung
dịch tăng lên gây ảnh hưởng không tốt đến thực vật và vi sinh vật. Ðộ
chua thu được trong trường hợp này gọi là độ chua tiềm tàng.
Các ion H+ và Al3+ được hút bám trên keo với các lực khác nhau.
Tuỳ thuộc vào lực hút bám của các ion này trên keo mà người ta chia
độ chua tiềm tàng thành 2 loại: độ chua trao đổi và độ chua thuỷ
phân.
* Ðộ chua trao đổi: Là một loại độ chua của đất được xác định khi
cho đất tác dụng với một dung dịch muối trung tính, thường dùng
muối KCl, NaCl, BaCl2. Như vậy ngoài những ion H+ có sẵn trong
dung dịch đất còn có những ion H+ và Al3+ được đẩy ra từ keo đất
theo phản ứng:
K§ H 3
Al + 4KCl KÐ4K+ + HCl + AlCl3
Bảng 6.3: Ðộ chua trao đổi và độ chua thuỷ phân của một số loại
đất Việt Nam
p Ðộ chua Ðộ chua
H trao đổi thuỷ
Loại đất (0-15cm)
phân
KCl lđl/100 g đất
Ðất nâu đỏ trên đá bazan (Phủ 4, 0,51 6,3
Quỳ) 4 2,61 10,4
Ðất nâu đỏ trên đá vôi (Ninh 4,
Bình) 3,50 8,0
2
Ðất phù sa sông Thái Bình 0,65 4,3
4,
0,30 4,8
(Hải Dương) 4
Ðất phèn Hải Phòng 3
,
Ðất trũng Nam Ðịnh
8
4,
6
Theo nguyên lý thì độ chua thuỷ phân thường lớn hơn độ chua trao
đổi nhưng cũng có những trường hợp cá biệt độ chua thuỷ phân bằng
hoặc nhỏ hơn độ chua trao đổi. Những trường hợp này có thể giải
thích như sau:
+ Một số loại đất như đất đỏ nhiệt đới hoặc đất potzon khi tác dụng
với dung dịch NaCH3COO thì anion CH3COO- có thể trao đổi với
anion OH- trên keo kaolinit tạo nên NaOH trong dung dịch. Lượng
NaOH này trung hoà bớt axit CH3COOH trong dung dịch làm độ
chua thuỷ phân giảm.
+ Saritvili (1948) cho rằng một số đất đỏ có khả năng hấp phụ phân
tử axit axêtic sinh ra trong tác dung thuỷ phân nói trên và chính vì
vậy khi chuẩn độ ta thấy độ chua thuỷ phân bé hơn độ chua trao đổi.
Người ta dùng độ chua thuỷ phân để tính dung tích hấp phụ cation
(CEC) của đất:
CEC = S + H
Trong đó S là tổng các cation kiềm trao đổi và H là độ chua thuỷ
phân
Hoặc tính độ no kiềm của đất theo công thức:
V (%) = S100 S H
Ðộ chua thuỷ phân được sử dụng để tính lượng vôi bón khi cải tạo
đất chua (cứ 1lđl ion H+ cần dùng 28mg vôi bột CaO hoặc 50 mg bột
đá vôi CaCO3 để trung hoà). Công thức tính cụ thể sẽ được trình bày
ở cuối chương này (phần bón vôi cải tạo đất chua).
Khi trong đất có chứa CaCO3 (đất tích vôi). Ở đất này pH có thể lên
tới 8,0
2 CaCO3 + 2H2O Ca(HCO3)2 + Ca(OH)2
Một số vùng đất ven biển có chứa nhiều các muối dễ tan cũng có
thể làm cho đất có phản ứng kiềm. Ðất chứa nhiều Na2CO3 (pH có thể
lên tới 9 hoặc hơn):
2 Na2CO3 + 2H2O H2CO3 + NaOH
Ðất mặn chứa nhiều Na+ ở dạng hấp phụ khi thuỷ phân sẽ sinh ra
NaOH:
KÐNa+ + H2O KÐH+ + NaOH
Như vậy đất có phản ứng kiềm chủ yếu do trong đất có chứa nhiều
các muối kiềm cacbonat hoặc bicacbonat được hình thành từ nhiều
con đường khác nhau. Ðặc biệt khi tích luỹ nhiều Na2CO3 không
những độc cho cây (nồng độ >0,01%) mà còn làm xấu lý tính của đất
(dẻo, dính khi ẩm, cứng rắn khi khô), làm mùn dễ bị rửa trôi, chế độ
nước và không khí trong đất không điều hoà.
Ở Việt Nam, diện tích đất có phản ứng kiềm rất nhỏ. Một số vùng
đất phù sa ven biển nhiễm mặn như ở Hải Phòng, Nam Định... có pH
vào khoảng 7,0-8,0 không gây ảnh hưởng xấu đến cây trồng vì thế
chúng được xếp vào "nhóm đất mặn trung tính". Thực tế theo kết quả
điều tra hiện nay chỉ có một ít đất kiềm tập trung ở tỉnh Bình Thuận.
Nhân dân địa phương gọi là đất mặn "cà giang". Ðất có chứa nhiều
Na2CO3 (có thể tới 9,8%) pH đất có thể lên tới 9,5.
4. Phản ứng đệm của đất
4.1. Khái niệm
Khi ta cho một lượng nhỏ axit hoặc bazơ vào nước cất rồi xác định
pH ta thấy pH nước thay đổi nhiều nhưng khi ta cho một lượng như vậy
axit hoặc bazơ vào đất rồi xác định pH của đất thì pH của đất vẫn ổn
định hoặc thay đổi không đáng kể. Ðiều này chứng tỏ đất có khả năng
chốnglại sự thay đổi pH.
Vậy: "tính đệm của đất là khả năng của đất có thể chống lại sự
thay đổi pH khi có một lượng axit hay bazơ nhất định tác động vào
đất"
4.2. Nguyên nhân tạo nên tính đệm của đất
Có nhiều nguyên nhân khác nhau:
+ Trong đất có chứa một số chất như muối cacbonat, muối
phosphat Fe, Al, Ca, các hydroxyt Fe, Al, Mn... có khả năng trung
hoà axit làm cho pH đất ổn định (đệm một chiều)
Ví dụ: CaCO3 + 2HNO3 Ca(NO3)2 + H2O
+ Do trong đất có các các axit hữu cơ (axit mùn và các axit amin).
Các axit này có cả gốc axit và bazơ (- OH, - COOH, - NH 2) nên có
thể đệm đuợc cả axit và bazơ (đệm hai chiều) - Ðệm do axit humic:
R CH - COOH + HCl R - CH COOH + H2O
OH Cl
R CH - COOH + NaOH R -CH COONa + H2O
OH OH
- Ðệm do axit amin:
R CH - COOH + HCl R -CH COOH
NH2 NH3Cl
R CH - COOH + NaOH R - CH COONa + H2O
NH2 NH2
Ðất chứa nhiều mùn và các chất hữu cơ có khả năng đệm cao
+ Do hoạt động trao đổi cation trong đất
Trên bề mặt keo đất, đặc biệt là keo âm thường hấp phụ các cation
kiềm và không kiềm. Các cation này có thể trao đổi với H+ hoặc Na+
làm cho pH dung dịch đất không đổi.
Ví dụ: KÐCa2+ + HCl KÐ2H+ + CaCl2
4+
H 2O H 2O H 2O H 2O
OH
-
Al Al
OH
H 2O H 2O H 2O H 2O
Nếu chất kiềm tiếp tục xâm nhập vào đất thì các phân tử nước trên
đó lại tiếp tục phân ly ra ion H+ để trung hoà làm ion nhôm kép trở
nên phức tạp hơn.
6+
H 2O H 2O H 2O H 2O H 2O H 2O H 2O H 2O
OH - OH - OH
- -
Al Al A l- Al
OH - OH - OH
H 2O H 2O H 2O H 2O H 2O H 2O H 2O H 2O
Lúc pH >5,5 thì ion nhôm kết tủa dưới dạng Al(OH)3 và mất khả
năng đệm. Như vậy nhôm chỉ có khả năng đệm khi pH của đất dưới
5,5 và chỉ đệm với bazơ (đệm một chiều.).
Qua các nguyên nhân nói trên ta có thể rút ra một nhận xét rằng:
Tính đệm của đất phụ thuộc chủ yếu vào hàm lượng mùn và thành
phần cơ giới đất
Ðất giàu mùn > đất sét > đất thịt > đất cát
Thí nghiệm đơn giản sau đây có thể khẳng định thêm kết luận trên:
Với 3 loại đất (đất cát, đất sét và đất giàu mùn); mỗi loại đất ta dùng 6
ống nghiệm, trong mỗi ống nghiệm chứa 5 g đất bột. Ðổ lần lượt vào
các ống nghiệm lượng vôi bột CaO tương ứng 5, 10, 15, 20, 25, 30mg,
thêm 25ml nước cất, lắc đều trong 10 phút rồi xác định pH và biểu diễn
kết quả trên đồ thị. Qua đồ thị ta thấy muốn đưa pH từ 5 lên 7 cho 1 ha
thì phải dùng 9.000 kg vôi đối với đất đen giàu mùn, 4.500kg vôi đối
với đất sét và chỉ 1.500kg đối với đất cát.
Tính đệm có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn. Nhờ có tính đệm
mà pH của đất khá ổn định, tạo điều kiện tốt cho cây trồng và vi sinh
vật phát triển. Ngoài ra khi tính lượng vôi bón cho đất phải tính tới
Hình 6.3: Quan hệ giữa hàm lượng mùn, thành phần cơ giới với tính
đệm của đất
5. Phản ứng oxy hoá khử của đất
5.1. Khái niệmvề phản ứng oxy hoá khử
Oxy hoá khử là quá trình diễn ra phổ biến trong đất, đặc biệt là đất
lúa nước. Quá trình này giữ một vai trò quan trọng đối với độ phì
nhiêu đất. Oxy hoá là kết hợp với oxy hay mất hydro. Trái lại khử
oxy là mất oxy hay kết hợp với hyđro. Quá trình oxy hoá khử cũng
liên quan đến sự chuyển dịch điện tử (electron)… Các chất oxy hoá
(ký hiệu là ox) là những chất nhận điện tử. Quá trình chất oxy hoá
nhận điện tử gọi là quá trình khử. Các chất khử (ký hiệu là Red) là
những chất cho điện tử, quá trình chất khử cho điện tử là quá trình
oxy hoá. Cả hệ thống oxy hoá khử ký hiệu là Redox.
Trong một phản ứng cụ thể chất oxy hoá và chất khử tạo thành cặp
oxy hoá khử và được gọi là một hệ thống oxy hoá - khử trong đất.
Ví dụ: Fe3+ + e Fe2+ hoặc Fe2+ - e Fe3+
Trong đất có các chất oxy hoá là O2, NO3-, Fe3+, Mn4+, Mn3+, Cu2+
và vi sinh vật hiếu khí. Những chất khử là H2, Fe2+, Mn2+, Cu+ vi sinh
vật yếm khí và các sản phẩm phân giải xác hữu cơ trong điều kiện
yếm khí. Tất cả các phản ứng oxy hoá khử đều có sự tham gia của vi
sinh vật.
Dù trong điều kiện oxy hoá hay điều kiện khử oxy, chất hữu cơ vẫn
được phân huỷ chỉ khác nhau về tốc độ phản ứng và sản phẩm phân giải:
Bảng 6.4: Ảnh hưởng của trạng thái oxy hoá khử đến các dạng
sản phẩm
phân giải xác hữu cơ
Thành phần chất Sản phẩm oxy Sản phẩm
hữu cơ hoá (ox) khử (Red)
C CO2 CH4, CO
N NO2-, NO3 SO42 NH3, N2
S H2S
PO43
P PH3
Fe Fe3+ Fe2+
Mn Mn3+, Mn4+ Mn2+
Cu Cu2+ Cu+
Cường độ oxy hoá khử được xác định bằng điện thế oxy hoá khử,
ký hiệu Eh, đơn vị là milivon (mV), tính theo công thức: Eh (mV) =
Eo + 59/ n.lg (ox)/ (red)
Trong đó Eo là điện thế tiêu chuẩn, nghĩa là điện thế phát sinh ở các
điện cực nằm trong dung dịch có chất oxy hoá và chất khử oxy nồng
độ 1N và là hằng số với mỗi hệ oxy hoá khử.
Ví dụ:
Fe3+ + e -_ Fe2+ Eo = 770
mV
Mn4+ + 2e - Mn2+
Eo = 344
Mn3+ + e - Mn2+ mV
Eo =
MnO4- + 4H+ + 3e - MnO2
1510 mV
+ 2H2O
Eo = 1640 mV
Còn ox là nồng độ đương lượng của chất oxy hoá
Red là nồng độ đương lượng của chất khử
Ví dụ: trong đất cụ thể nào đó có Fe2+ = 0,1 N và Fe3+ =
0,001
N thì
Eh = 770 + 59 lg0,001/ 0,1 = 625 mV
Hiện nay để xác định Eh đất người ta thường dùng các máy đo (Eh
meter) cho kết quả nhanh và chính xác hơn việc xác định nồng độ các
chất oxy hoá, khử.
5.2. Yếu tố ảnh hưởng đến quá trình oxy hoá khử
+ Trong đất có thể chứa nhiều hệ thống oxy hoá khử có nồng độ
khác nhau nhưng Eh của đất sẽ tương đương với trị số Eh của hệ
thống oxy hoá khử có nồng độ chất khử và chất oxy hoá cao nhất.
+ Trong đất thoáng khí quá trình oxy hoá khử trong đất được quyết
định bởi nồng độ O2 tự do trong không khí đất và O2 hoà tan trong
dung dịch đất. Nồng độ oxy trong không khí đất và trong dung dịch
đất càng cao thì Eh càng cao.
+ Ðộ ẩm đất: đất khô có quá trình oxy hoá mạnh nên Eh cao, đất
ẩm hoặc dư ẩm thì quá trình khử mạnh nên Eh của đất thấp.
+ Cây trồng: Eh đất phụ thuộc và loại cây trồng, mật độ cây. Eh
xung quanh rễ cây cũng khác nhau. Ví dụ: gần rễ cây lúa mỳ Eh giảm
vì rễ cây lúa mỳ tiết ra chất khử, gần rễ cây lúa nước Eh tăng do rễ
lúa tiết ra oxy.
+ Eh của đất có sự liên quan chặt chẽ với pH. Nếu trong dung dịch
đất có nhiều ion H+ sẽ diễn ra quá trình:
2 H+ + 2e - = H2
Khi thay đổi 1 đơn vị pH thì Eh thay đổi từ 57-59mV.
Klak đề nghị biểu thị điện thế oxy hoá khử trong đất là rH2 theo công
thức:
rH2 (mV) = Eh/ 30 + 2 pH +
Các biện pháp canh tác:
- Luân canh cây trồng cạn với cây trồng nước làm cho Eh thay đổi
rất mạnh.
- Ðiều tiết độ ẩm đất làm cho Eh đất thay đổi.
- Cày sâu kết hợp với bón nhiều phân hữu cơ làm cho Eh giảm, xới
xáo đất làm tăng tính thông khí thì Eh tăng.
- Phơi ải đất lúa làm cho Eh tăng.
- Mật độ cây trồng: rễ lúa nước tiết ra oxy làm Eh của đất vùng
xung quanh rễ tăng. Vì vậy lúa nước cấy càng dày thì mật độ rễ
càng cao, Eh càng tăng và hàm lượng các chất khử càng giảm.
5.3. Ý nghĩa thực tiễn của phản ứng oxy hoá khử
+ Ðiện thế oxy hoá khử là chỉ tiêu đánh giá tính thông khí và tình
hình cung cấp dinh dưỡng trong đất. Các chất dinh dưỡng như NH4+,
NO3-, PO43-, SO42-... được hình thành do tác động của hệ vi sinh vật
đất trong những điều kiện cụ thể về pH, hoặc Eh nào đấy.
Ví dụ: khi pH = 7, Eh khoảng 400mV thì NO3- bị khử mạnh thành
NO2 cây không dùng được.
+ Các loại đất khác nhau có Eh khác nhau, trong một phẫu diện Eh
của các tầng khác nhau và thường giảm theo chiều sâu. Eh phù hợp
với sản xuất nông nghiệp biến động trong phạm vi 200-700 mV (đất
lúa nước từ 200-300mV). Eh quá cao chứng tỏ quá trình oxy hoá
trong đất xảy ra mạnh. Mùn tiêu hao nhanh và một số chất dinh
dưỡng có thể bị cố định lại. Ngược lại nếu Eh quá thấp nghĩa là quá
trình khử diễn ra mạnh, sinh ra một số chất độc như H2S, CH4....
+ Khi thay đổi Eh sẽ dẫn tới sự thay đổi một loạt trạng thái dinh
dưỡng trong đất. Thí dụ: khi đổ ải, đất chuyển từ trạng thái oxy hoá
sang trạng thái khử, Eh giảm mạnh. Lúc đó Fe3+ trong các hợp chất bị
khử thành Fe2+ (như Fe(OH)2 và FeHPO4) làm đất giảm tính chua
trong thời gian khoảng 1 tháng, hàm lượng lân dễ tiêu tăng lên, hàm
lượng NH4+ cũng tăng (do chất hữu cơ phân giải trong điều kiện yếm
khí tạo ra NH4+)... đây là một quá trình có lợi vì cung cấp nhiều dinh
dưỡng cho cây.
6. Một số biện pháp nâng cao độ phì của đất bằng cách điều tiết
phản ứng đất
6.1. Bón vôi cải tạo đất chua:
Ðộ chua ảnh hưởng đến đặc tính lý hoá sinh học của đất:
+ Dạng tồn tại và độ hữu hiệu của các nguyên tố Ca, Mg, P, cũng
như các nguyên tố vi lượng như Fe, Mn, Cu, Mo, B... có quan hệ
chặt chẽ với độ pH của đất.
+ Phản ứng của đất cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến hệ vi sinh vật
và sự hoạt động của chúng. Chính vì vậy các phản ứng của đất có liên
quan chặt chẽ tới sự phân giải chất hữu cơ và sự chuyển hoá các chất
dinh dưỡng như đạm và lưu huỳnh trong đất. Các vi khuẩn và xạ
khuẩn có ích thích nghi nhất ở môi trường trung tính. Ví dụ như vi
khuẩn cố định đạm thích nghi ở pH 6,8; Vi khuẩn nitrat hoá ở pH 6-8.
Trong môi trường chua pH <5 nấm phát triển. Những sản phẩm do
nấm sinh ra đều có tính chua mạnh, trong điều kiện có nước có thể bị
rửa trôi không có lợi cho sự tích luỹ độ phì.
+ Trong đất chua sự di động của nhôm tăng. Trừ một số ít cây như
chè được Al3+ kích thích phát triển còn hầu hết các cây trồng không
chịu được hàm lượng nhôm di động cao.
+ pH đất ảnh hưởng đến sự hoà tan lân và hiệu lực phân lân. Trong
môi trường hoá học đơn thuần thì lân vô cơ hoà tan nhiều khi pH
giảm, lân hữu cơ hoà tan nhiều khi pH tăng. Song trong đất chua còn
có hiện tượng hấp phụ hoá học do tác dụng của sắt và nhôm với lân
nên nói chung trong môi trường trung tính lân hoà tan nhiều nhất.
+ pH ảnh hưởng đến cây trồng: trừ một số ít cây ưa môi trường
chua còn lại đều thích hợp ở môi trường trung tính. (xem mục 5.2)
+ pH đất ảnh hưởng đến độ hoà tan của các nguyên tố vi lượng
trong đất. Khi pH giảm phần lớn các nguyên tố vi lượng trở nên di
động hơn, dễ hấp thu hơn với cây (Mn, Cu, B, Zn...) nhưng sự di
động của molipden lại giảm đi rõ rệt.
Biện pháp cải tạo độ chua nhanh nhất và có hiệu quả nhất là biện
pháp bón vôi. Tác dụng của bón vôi thể hiện ở:
+ Khử chua nhanh chóng, kết tủa Al di động nên mất độc
+ Tăng cường hoạt động của vi sinh vật trong đất
+ Huy động thức ăn cho cây (trao đổi cation trên keo đất ra dung
dịch đất) tăng cường dinh dưỡng nuôi cây
+ Tăng hiệu lực một số loại phân bón như supe lân, đạm sunphat...
+ Làm ngưng tụ mùn tạo kết cấu đất tốt làm cho đất tơi xốp hơn +
Ðiều chỉnh pH phù hợp với yêu cầu của cây trồng.
Như vậy ta thấy bón vôi cho đất chua là việc cần thiết, song muốn
bón vôi hợp lý cho đất cần xét 4 yếu tố theo thứ tự sau:
+ Cần xem pH của đất đã phù hợp với cây trồng chưa. Thường là
khi pH đất <5,5 thì bắt đầu cần phải bón vôi nhưng có những cây
trồng phát triển tốt trên đất chua như chè, dứa thì khi pH xuống đến
4,0-4,5 vẫn chưa cần phải bón vôi
+ Dựa vào pH và độ no bazơ (BS %):
Nếu pH < 4,5 cấp thiết bón vôi
pH 4,6-5,5 cần vừa pH > 5,5
chưa cần bón vôi
Pha rắn của đất được hình thành từ các chất vô cơ, hữu cơ và hữu cơ
- vô cơ. Thành phần hoá học của đất có sự khác biệt rất rõ với thành
phần hoá học của mẫu chất hay đá hình thành đất.
Ðiểm đặc biệt nhất trong thành phần hoá học của đất chính là sự tồn
tại của các hợp chất hữu cơ cao phân tử đặc trưng của đất - các hợp chất
mùn. Ðây là các hợp chất hữu cơ cao phân tử chỉ có ở trong đất có thành
phần và cấu trúc rất phức tạp, không ổn định theo thời gian.
Trong hầu hết các loại đất thành phần vô cơ chiếm tới 80-90% trọng
lượng của đất, trừ trường hợp đất chứa nhiều xác thực vật như than bùn
thì tỷ lệ này mới giảm xuống.
Trong thành phần hoá học của đất người ta tìm thấy hầu hết các
nguyên tố hoá học có trong bảng tuần hoàn của Mendeleev. Quá trình
nghiên cứu thành phần của các nguyên tố hoá học riêng biệt trong đất
bắt đầu từ cuối thế kỷ 18.
Trong thạch quyển, tính theo phần trăm trọng lượng thì oxy chiếm
47,2%; silic - 27,6; nhôm - 8,8 %; sắt - 5,1 %; canxi - 3,6 %, natri và
kali - 2,6 % mỗi loại, manhê - 2,1%. Tám nguyên tố này chiếm trên 99%
thạch quyển.
Trong vỏ trái đất cũng như trong đất có 4 nguyên tố chiếm tỷ lệ lớn
nhất là O, Si, Fe, Al. Các chất vô cơ của đất có nguồn gốc từ đá nên hàm
lượng các nguyên tố hoá học tương tự như trong thạch quyển và có
những nét chung nhưng đất khác thạch quyển ở chỗ: trong đất hàm
lượng cacbon nhiều 20 lần, nitơ hơn 10 lần so với thạch quyển. Chúng
được tích luỹ trong đất do hoạt động sống của các sinh vật.
Thành phần hoá học của các loại đất khác nhau cũng khác nhau,
chúng phụ thuộc vào thành phần của đá mẹ và các quá trình hình thành
đất. Vì chất vô cơ của đất có nguồn gốc từ đất nên thành phần hoá học
và thành phần khoáng vật của đất và của đá có liên quan mật thiết với
nhau. Ðất được hình thành từ các loại đá khác nhau thì có thành phần
hoá học và thành phần khoáng vật khác nhau. Mối quan hệ này được
biểu hiện rõ nhất ở giai đoạn đầu của sự hình thành đất, về sau này thành
phần hoá học và khoáng vật của đất còn chịu ảnh hưởng của các quá
trình hoá học, lý học và sinh học diễn ra trong đất. Ví dụ: silic được tích
luỹ lại trong đất nhờ tính bền vững của thạch anh về mặt lý học và hoá
học; nhôm sắt được tích luỹ trong đất nhờ quá trình Feralit ở vùng khí
hậu nhiệt đới ẩm; các nguyên tố kiềm và kiềm thổ nghèo đi trong đất và
làm cho đất chua là do tính dễ hoà tan và bị rửa trôi của chúng.
Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, thực vật sử dụng một số
nguyên tố có nguồn gốc từ không khí và nước là C, H, O số còn lại bao
gồm N, P, Ca, Mg, S cùng với Fe, Mn, B, Zn, Mo... lấy từ đất nên những
nguyên tố này được gọi là các chất dinh dưỡng trong đất. Ðây là cơ sở
quan trọng của độ phì nhiêu.
2. Các nguyên tố hoá học chính trong đất và khả năng cung cấp
chúng cho cây.
Các nguyên tố hoá học tồn tại trong đất trong các hợp chất khác
nhau. Dưới đây chỉ nêu ra một số nguyên tố có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình hình thành đất cũng như đối với dinh dưỡng cây trồng.
2.1. Silic trong đất
Nguyên tố silic có tỷ lệ lớn thứ 2 sau oxy (27,6%). Trong đất silic
thường gặp ở dạng thạch anh (SiO2). Ðây là loại khoáng vật bền vững
với phong hoá. Silic cũng có trong thành phần của các alumin silicat và
ferosilicat. Khi các khoáng vật này bị phá huỷ trong quá trình phong hoá
và hình thành đất silic được giải phóng ra dung dịch dưới dạng các anion
của các axit octo- và metasilisic (SiO4)-4 và (SiO3)-2, silicat natri và
silicat Kali. Một phần silic hoà tan bị rửa trôi khỏi đất một phần khác bị
kết tủa (trong môi trường axit) dưới dạng gel (SiO2.nH2O). Ðây là kết
tủa vô định hình cứng rắn, khi mất nước nó có thể chuyển thành thạch
anh thứ sinh.
Tỷ lệ SiO2 trong đất khoảng 50-70%, hàm lượng đó xấp xỉ với số
liệu bình quân của vỏ trái đất. Ở vùng khí hậu nóng ẩm tốc độ phân
giải khoáng vật nhanh gây nên sự rửa trôi silic. Sự rửa trôi silic xảy ra
ở các vùng khác nhau phụ thuộc vào tác dụng phong hoá và tính chất
của đá mẹ
2.2. Nhôm trong đất
Trong đất nhôm có trong thành phần của các khoáng nguyên sinh,
thứ sinh, phức chất hữu cơ - vô cơ và trong trạng thái bị hấp phụ (trong
đất chua). Khi các khoáng nguyên sinh và thứ sinh bị phá huỷ Al được
giải phóng ra dạng Al(OH)3 là dạng keo vô định hình, cũng có thể kết
tinh. Ở môi trường trung tính và kiềm yếu, hydroxyt nhôm bị tách ra
hoàn toàn dưới dạng kết tủa keo - đó là dạng gel (Al2O3.nH2O). Gel này
khi kết tinh chuyển thành các khoáng thứ sinh gipxit (Al2O3.3H2O) và
bơmit (Al2O3.H2O).
Trong môi trường chua với pH<5 hydroxyt nhôm trở thành dạng di
động và xuất hiện trong dung dịch dưới dạng ion Al(OH)+2 Al(OH)+.
Những ion này gây ảnh hưởng không tốt đến sinh trưởng của thực vật.
Al2O3.3H2O là khoáng vật tích luỹ nhiều trong đất đồi núi Việt
Nam. Tỷ lệ Al2O3 trong đất khoảng 10-20% phụ thuộc vào thành phần
khoáng vật của đá mẹ, khí hậu và địa hình
Nhôm có thể kết hợp với lân trong đất tạo thành AlPO4 không tan,
đó là một trong những nguyên nhân giữ chặt lân trong đất và làm giảm
hiệu lực của phân lân khi bón vào đất chua.
2.3. Sắt trong đất:
Trong đất sắt thường gặp trong thành phần của nhóm Ferosilicat,
dưới dạng oxyt, hydroxyt, các muối đơn giản và các phức chất hữu cơ
chứa sắt.
Nguồn gốc sắt trong đất từ các khoáng vật hêmatit (Fe2O3), manhêtit
(Fe3O4), limonit (2Fe2O3.3H2O), ogit, mica đen, hocnơblen, pyrit
(FeS2)... Khi các khoáng vật bị phong hoá thì sắt được giải phóng ra
dưới dạng oxit sắt ngậm nước (công thức chung là Fe2O3.nH2O).
Sắt trong đất có thể có hoá trị 2 hoặc 3. Các muối sắt hoá trị 2 dễ
tan, một phần nhỏ bị thuỷ phân làm cho đất hoá chua. Các muối sắt 3
khó tan trong nước và cây khó hấp thu (như FePO4), tuy nhiên trong đất
lúa nước FePO4 có thể bị khử để trở thành Fe3(PO4)2 dễ tan, từ đó có thể
cung cấp lân dễ tiêu cho lúa.
Sắt là một trong những nguyên tố cần thiết cho thực vật nhưng cây
sử dụng rất ít. Thiếu sắt cây không thể tạo được chất diệp lục nhưng nếu
hàm lượng sắt di động trong đất cao thì cũng gây độc cho cây. Ở những
vùng đất có phản ứng kiềm yếu với quá trình oxy hoá diễn ra mạnh thì
cây có thể bị thiếu sắt do tính di động của nguyên tố này quá thấp.
Hàm lượng sắt trong đất khoảng 2-10% phụ thuộc vào thành phần
đá mẹ, khí hậu. Thực tế ở vùng nhiệt đới nóng ẩm đất thường chứa nhiều
sắt, thí dụ đất nâu đỏ trên bazan vùng Phủ Quỳ, Nghệ An chứa tới
2022% Fe2O3. Hàm lượng sắt trong đất còn phụ thuộc vào một số điều
kiện khác: ở điều kiện khử, Fe3+ chuyển thành Fe2+ hoà tan và bị rửa trôi
đi làm cho hàm lượng sắt tầng đất mặt giảm xuống. Ví dụ tầng đất mặt
của đất mùn alit trên núi cao Hoàng Liên Sơn chỉ có 3-5% Fe2O3, hàm
lượng Fe2O3 trong tầng đất mặt của đất xám bạc màu chỉ có 3-6% Fe2O3.
Ðất đồi núi của nước ta chứa nhiều sắt nên có kết cấu tốt, tơi xốp, có
màu nâu đỏ hoặc vàng đỏ.
2.4. Ca và Mg trong đất
Ca và Mg có trong các khoáng như canxit, đôlômit, ogit,
amphibon... Khi các khoáng vật trên bị phong hoá thì Ca và Mg được
chuyển sang dạng các muối cácbonat và bicacbonat. Các muối này kết
hợp với các chất khác trong đất để tạo thành muối clorua, nitrat, sunfat,
phosphat.
Trong đất Ca và Mg phần lớn gặp ở dạng các muối đơn giản, bị hấp
phụ trên keo đất và hoà tan trong dung dịch đất. Trong số các cation trao
đổi thì Ca chiếm vị trí hàng đầu, Mg - thứ hai. Cả hai nguyên tố này đều
là nguyên tố dinh dưỡng trung lượng với cây và đóng những vai trò sinh
lý học quan trọng đảm bảo cho sự phát triển bình thường của cây.
Thường thì lượng canxi và manhê trong đất không thiếu đối với thực vật
nhưng ở những đất quá chua cây có thể bị thiếu Ca và Mg.
2.5. Lưu huỳnh trong đất
Trong đất tồn tại dưới dạng muối sunphat, sunphít và trong thành
phần của các hợp chất hữu cơ. Sự tích luỹ sinh học lưu huỳnh trong các
tầng đất mặt phụ thuộc vào điều kiện hình thành đất. Hàm lượng lưu
huỳnh tổng số (SO3) trong tầng mặt của đất ôn đới dao động trong
khoảng 0,01-2%. Trong đất Việt Nam hàm lượng lưu huỳnh trong đất
không cao trừ đất phèn (S >0,75%). Đất cát biển, đất đỏ bazan thuộc vào
loại nghèo lưu huỳnh.
Cây hút lưu huỳnh dưới dạng ion SO42-. Ion SO42- trong dung dịch
đất được sinh ra trong quá trình khoáng hoá các hợp chất hữu cơ có chứa
lưu huỳnh, do sự hoà tan các muối sulphat hoặc tác dụng oxy hoá các
hợp chất của lưu huỳnh. Anion SO42- bị keo đất hấp phụ yếu và trong
điều kiện khô có thể tích luỹ trong đất. Thường thì lượng lưu huỳnh
trong đất đáp ứng được đòi hỏi của cây.
2.6. Nitơ trong đất
a. Hàm lượng đạm trong đất
Ðây là nguyên tố mà cây cần nhiều nhưng đất lại chứa ít. Trong đất
Việt Nam N% chứa khoảng 0,1-0,2%, có loại dưới 0,1% như đất bạc
màu. Hàm lượng N trong đất phụ thuộc chủ yếu vào hàm lượng hữu cơ.
Nói chung hàm lượng mùn càng nhiều thì đạm càng nhiều (N chiếm
510% khối lượng của mùn).
b. Các dạng đạm trong đất
Ðạm trong đất được chia thành hai dạng lớn: Ðạm vô cơ và hữu cơ
* Ðạm vô cơ: lượng đạm vô cơ trong đất mặt rất ít, chỉ chiếm
1-2% của N tổng số. Ở tầng dưới N vô cơ có thể chiếm tới 30% của N
tổng số.
N vô cơ trong đất tồn tại dưới dạng NH4+, NO3-, NO2- trong đó chủ
yếu là NO3- và NH4+. Các dạng N vô cơ đều dễ tan, dễ được cây hút nên
hàm lượng của chúng trong đất thay đổi rất nhiều không những theo
mùa mà còn thay đổi giữa ngày và đêm, giữa ngày mưa và ngày nắng.
NH4+ được sinh ra do tác dụng amôn hoá của vi sinh vật đối với chất
hữu cơ chứa nitơ. Trong điều kiện hảo khí NH4+ dễ bị chuyển hoá thành
NO3- nên chỉ trong đất lúa nước NH4+ mới ổn định và được tích luỹ.
Trong đất ion NH4+ dễ bị đất hấp phụ và một phần chuyển sang
trạng thái không trao đổi (nằm trong tinh thể khoáng sét). Ion NO 3-
không bị đất hấp phụ tồn tại chủ yếu trong dung dịch đất nên rất dễ bị
rửa trôi.
* Ðạm hữu cơ:
Ðây là dạng N chủ yếu trong đất có thể chiếm tới 95% N tổng số.
Dựa vào độ hoà tan và khả năng thuỷ phân người ta chia làm 3 loại:
+ N hữu cơ tan trong nước: Gồm các axit amin tương đối đơn giản,
các hợp chất dạng muối amon (chiếm <5% N tổng số).
+ N hữu cơ thuỷ phân: protein, nucleoprotein, azazon (chiếm >50%
N tổng số). Khi ở trong môi trường kiềm, axit hoặc khi lên men chúng
có thể thuỷ phân tạo các chất tương đối đơn giản hơn và dễ tan trong
nước.
+ N hữu cơ không thuỷ phân: Chiếm 30-50% của N hữu cơ tổng số,
không hoà tan trong nước và cũng không thể dùng kiềm hay axit để thuỷ
phân.
c. Nguồn gốc của N trong đất
+ Từ tàn tích sinh vật
+ Do bón phân: Phân đạm vô cơ, phân hữu cơ (Phân chuồng, phân
bắc, phân rác, phân xanh)
+ Tác dụng cố định đạm của VSV. Dựa vào khả năng cố định N2
của các vi sinh vật có như: Azotobacte, Rhizobium, Clostridium. Ngoài
vi khuẩn ra còn có tảo lam cũng có khả năng cố định N2 tự nhiên.
+ Tác dụng của sấm sét có thể oxy hoá N trong khí quyển thành
dạng NO và NO2 sau đó các dạng N này hoà tan với nước mưa và rơi
xuống đất
+ Do nước tưới đưa vào
Việc đảm bảo về nitơ cho cây phụ thuộc vào tốc độ phân giải các hợp
chất hữu cơ. Tuy vậy, muốn có sản lượng cây trồng cao không thể
trông chờ vào lượng nitơ dự trữ trong đất cho dù đất có trữ lượng
mùn lớn mà cần phải bón thêm phân hữu cơ hoặc vô cơ chứa nitơ vào
đất vì nhu cầu về nitơ của thực vật rất lớn.
2.7. Phospho (lân) trong đất
Lân là nguyên tố dinh dưỡng đa lượng đối với cây trồng. Lân
đóng vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất, hút dinh dưỡng
và vận chuyển các chất trong cây. Cây thiếu lân sẽ sinh trưởng chậm,
cho năng suất thấp phẩm chất nông sản kém.
Hàm lượng lân tổng số trong đất Việt Nam khoảng 0,03-0,2%.
Giàu P nhất là nâu đỏ trên bazan và nghèo P nhất là đất bạc màu và
đất cát Dưới đây giá trị của P trong vài đất
Loại đất P2O5 %
Ðất đỏ bazan 0,15-0,3
Ðỏ nâu trên đá vôi 0,12-0,15
Phù sa sông 0,08-0,01
0,03-0,04
Hồng
Ðất bạc màu
Hàm lượng lân tổng số của đất phụ thuộc chủ yếu vào thành phần
khoáng vật của đá mẹ, thành phần cơ giới đất, chế độ canh tác và
phân bón.
Trong đất phospho có trong các hợp chất hữu cơ và vô cơ. Phospho
có trong thành phần của nhiều hợp chất hữu cơ của tàn tích sinh vật. Các
hợp chất hữu cơ chứa phospho gồm có: Phitin, axit nucleic,
nucleoproteit, phosphatit, sacarophosphat... và các vi sinh vật đất.
Nguyên tố này được tích luỹ trong đất tầng mặt nhờ sự tích luỹ sinh học,
vì vậy trong tầng đất mặt thường chứa nhiều lân hữu cơ hơn các tầng
dưới sâu. Tỷ lệ lân hữu cơ phụ thuộc chủ yếu vào hàm lượng mùn trong
đất và dao động trong khoảng từ 10-50% của lân tổng số.
Hợp chất vô cơ chứa phospho chủ yếu là những muối của axit
octophosphoric với Ca, Mg, Fe và Al. Trong đất phospho còn có trong
thành phần của apatit, phosphoric và vivianit, cũng như trong trạng thái
hấp phụ của anion phosphat. Apatit là nguồn gốc đầu tiên của tất cả các
hợp chất phospho trong đất. Nó chiếm tới 95% hợp chất phospho trong
vỏ trái đất. Các dạng phospho vô cơ trong đất phần lớn có tính di động
kém.
Trong đất chua (có các dạng hoạt động hoá học của sắt và nhôm)
phospho phần lớn gặp ở dạng phosphat sắt và phosphat nhôm (FePO4,
AlPO4, Fe2(OH)2PO4, Al(OH)2PO4...) hoặc liên kết với oxyt sắt, nhôm
dưới dạng hợp chất bị hấp phụ. Các loại đất chua của Việt Nam đều có
hàm lượng phosphat sắt cao. Ví dụ: đất nâu đỏ trên bazan có lượng
phosphat sắt (Fe-P) chiếm trên 80% tổng số lân vô cơ; đất vàng đỏ trên
đá phiến sét có Fe-P trên 70% tổng số lân vô cơ; đất phù sa chua và đất
phèn có Fe-P tương ứng là 48-56% tổng số lân vô cơ.
Trong đất lúa nước và đất đầm lầy có thể gặp vivianit -
Fe3(PO4)2.8H2O - màu xanh lơ. Trong đất lúa nước phosphat sắt 3 có thể
bị khử thành phosphat sắt 2 hoà tan trong nước nên cây trồng có thể hấp
thụ được.
Trong đất chua ít, trung tính và kiềm yếu phospho chủ yếu tồn tại
dưới các dạng liên kết với canxi. Các phosphat canxi thường có độ hoà
tan thấp. Theo độ hoà tan tăng dần của các phosphat canxi trong đất
chúng ta có dãy sau:
Ca5(PO4)3Cl <Ca3(PO4)2 < Ca8H2(PO4)6.5H2O < CaHPO4 <
(apatit clo)
Tỷ lệ Ca/P trong các phosphat canxi tăng lên thì độ hoà tan giảm.
Phản ứng môi trường thuận lợi cho sự hấp thu phospho là phản ứng
-2
-2
Từ những số liệu của bảng trên ta thấy các nguyên tố như iốt, Bo,
đồng được tích luỹ trong trong quá trình hình thành đất, một số khác như
mangan, fluor và niken lại bị rửa trôi khỏi đất nên hàm lượng của chúng
trong đất ít hơn trong thạch quyển, một số khác thì có hàm lượng tương
đương.
Nguồn gốc chủ yếu của các nguyên tố vi lượng trong đất từ đá mẹ.
Ðất phát triển trên những sản phẩm phong hoá của đá axit (granit,
liparit) thường nghèo Ni, Co, Cu. Ðất được hình thành trên sản phẩm
phong hoá của đá bazơ (bazan, gabro) lại giàu các nguyên tố trên.
Một số nguyên tố vi lượng có thể xâm nhập vào đất cùng với các
khí của khí quyển, khói bụi của núi lửa, của các nhà máy và từ các nông
dược được sử dụng trong quá trình canh tác.
Do kết quả của quá trình hình thành đất hàm lượng các nguyên tố
vi lượng và sự phân bố của chúng trong các tầng phát sinh có khác nhau.
Mức độ khác nhau phụ thuộc và tính chất của đất, quá trình hình thành
đất và tính chất của chính các nguyên tố vi lượng. Hàm lượng trung bình
của các nguyên tố vi lượng trong một số loại đất Việt Nam được trình
bày trong bảng 7.3.
Bảng 7.3: Hàm lượng trung bình các nguyên tố vi lượng dễ tiêu
trong một số loại đất Việt Nam (mg/kg đất khô)
Lo ại đất M M Z C B
n o n u
Ðất bạc màu Vĩnh Phú 2, 0, 8, 3 0
Ðất phù sa sông Hồng 4 1 5 , ,
3 7 1
Phù sa sông Mã 1 2
1, 0, 0, 9 0
Phù sa sông Thái bình ,
6 1 5 ,
Ðất chiêm trũng Hà Nam 4 2 2
Ninh 8, 3,
1
7 0, 7 4
Ðất bạc màu Hà Bắc 0
5, 1 0, ,
Ðất phèn ,
2 0 4 8
1
Ðất mặn trung tính 0, 0
1 3, 6
2, 1 5 ,
0,
9 5 2
4, 2
0, 9 7
2 2
- 6, 0
7 ,
6 ,
-
0, 0 2
7,
1 0 2
1
0 , 0,
0, 1 1
4 0 4
1
0, , 0
1 3 ,
3 5
9
0
,
4
7
* Nguồn Nguyễn Vi, Trần Khải, 1978. Mn rút bằng H2SO4
0,1N; Mo rút bằng dung dịch Tamm (xitrat amon); Zn, Cu rút bằng
dung dịch HCl 0,1N; B rút bằng nước cất nóng.
Các yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến hàm lượng các vi lượng trong
đất là thành phần đá mẹ, thành phần cơ giới, hàm lượng mùn trong đất,
phản ứng của đất, chế độ phân bón và canh tác.
c. Các dạng của nguyên tố vi lượng trong đất
Trong đất các nguyên tố vi lượng nằm trong mạng lưới tinh thể của
các khoáng nguyên sinh và thứ sinh, trong các hợp chất vô cơ không hoà
tan (muối, oxyt và hydroxyt), trong trạng thái ion trao đổi, trong thành
phần các chất hữu cơ và trong dung dịch đất.
Sự di động của các nguyên tố vi lượng và các dạng tồn tại của
chúng trong đất chịu ảnh hưởng rất lớn của phản ứng của môi trường,
điều kiện oxy hoá khử, nồng độ khí CO2 và hàm lượng chất hữu cơ
trong đất.
Trong đất chua sự di động của Cu, Zn, Mn, Co tăng lên nhưng sự di
động cuả Mo lại giảm. B, F, và I có tính di động cao cả trong môi trường
chua và kiềm.
Hoá trị của nhiều nguyên tố vi lượng trong đất thay đổi phụ thuộc
vào điều kiện oxy hoá khử của đất. Sự thay đổi hoá trị ảnh hưởng đến
tính di động của chúng. Khi chuyển từ môi trường khử sang môi trường
oxy hoá một số nguyên tố vi lượng chuyển từ hoá trị thấp sạng hoá trị
cao, tạo thành những hợp chất khó tan hoặc không tan làm sự di động
của chúng giảm (Mn2+ Mn4+). Một số nguyên tố khác trái lại khi
chuyển lên hoá trị cao tính di động lại tăng lên (Cr3+ Cr6+; V3+ V5+).
Sự tăng nồng độ khí CO2 trong không khí đất cũng làm tăng sự di
động của một số nguyên tố vi lượng trong đất như Ba, Ni, Sr, Mn... Các
nguyên tố này có khả năng kết hợp với CO2 trong không khí đất để tạo
các muối cacbonat khó tan. Khi nồng độ CO2 trong không khí đất tăng
thì các muối cacbonat chuyển thành dạng Bicacbonat dễ hoà tan hơn và
làm tăng khả năng di động của các nguyên tố.
Các hợp chất mùn và các axit hữu cơ có phân tử lượng thấp (axit
oxalic, axit xitric, axit fomic...) có thể liên kết với các nguyên tố vi
lượng tạo nên các hợp chất dễ tan hoặc các hợp chất khó tan, cây không
sử dụng được.
Tóm lại khi nghiên cứu các nguyên tố vi lượng trong đất cần quan
tâm không chỉ hàm lượng tổng số của các nguyên tố mà còn cần phải
tìm hiểu hàm lượng các dạng di động của chúng. Ðối với các cây trồng
cụ thể cần phải tìm hiểu thêm về nhu cầu dinh dưỡng vi lượng của từng
loại cây.
1. Tìm hiểu nguyên nhân sự sai khác về thành phần hoá học của
vỏ trái đất và của đất?
2. Nêu tên các nguyên tố chính trong thành phần hoá học của
đất? các dạng tồn tại và sự di động của chúng trong đất?
3. Nêu tên các nguyên tố dinh dưỡng đa lượng và trung lượng
trong đất? Hàm lượng tổng số và dễ tiêu của chúng trong đất?
4. Trình bày những hiểu biết của anh (chị) về các nguyên tố vi
lượng trong đất, ý nghĩa của chúng với dinh dưỡng cây trồng?
Chương VIII
THÀNH PHẦN CƠ GIỚI VÀ KẾT CẤU ĐẤT
** Cát vật lý
> 0,01
Sét vật lý
< 0,01
** Cát vật lý là những hạt lớn hơn 0,01 mm. Khi những hạt có kích
thước như thế sẽ thể hiện rõ nét những tính chất vật lý của các hạt cát
như lắng rẽ, tính dễ thoát nước, tính mao dẫn rất bé, không có tính
trương (giãn nở) và tính co, tính dính, tính dẻo... Sét vật lý là những hạt
có kích thước < 0,01 mm. Những hạt này thể hiện rõ tính vật lý của hạt
sét như tính dẻo, tính trương, tính co, tính thấm nước kém, tính mao dẫn
lớn, lúc ướt thì dẻo quánh, lúc khô thì rắn chắc... Cũng nên lưu ý rằng sự
phân chia như trên được thực hiện trong quá trình phân tích cấp hạt, còn
trong thực tiễn áp dụng vào phân loại đất theo thành phần cơ giới thì
người ta chỉ xét theo 3 cấp hạt chủ yếu là cát, bụi và sét. Các cấp hạt chi
tiết chỉ được ứng dụng khi nghiên cứu đất ở các cấp phân vị thấp nhất
như cấp chủng của Liên Xô (cũ), cấp series của Mỹ, cấp phases của
FAO- UNESCO.
Cho đến nay ở Việt Nam vẫn áp dụng bảng phân chia cấp hạt của
Liên Xô (cũ) và một số trường hợp dùng bảng của Liên Hiệp Quốc
(LHQ) hay của Bộ Nông nghiệp Mỹ. Tuy nhiên bảng của FAO-
UNESCO (1970) được áp dụng phổ biến vì hai lý do: thứ nhất, trong
thực tế phân tích cấp hạt người ta được phép đơn giản hoá số cấp hạt còn
lại 3 cấp cơ bản; thứ hai, phương pháp phân loại đất theo FAO-
UNESCO đang ngày càng được áp dụng rộng rãi. So với bảng của LHQ
năm 1927, bảng của FAO- UNESCO có một ít thay đổi, từ 7 cấp tăng
lên 11 cấp chủ yếu ở các cấp lớn hơn 2 mm.
1.3. Thành phần và đặc tính của các cấp hạt cơ giới
Các tài liệu nghiên cứu cho thấy thành phần hoá học của các cấp hạt
khác nhau rất khác nhau, đặc biệt là tỷ lệ 3 nguyên tố silic, nhôm và sắt.
Ðiều này rất phù hợp với thành phần khoáng vật trong đất. Ta có thể
thấy rõ qua số liệu của N.A. Kachinxki (1970) ở bảng 8.2
Bảng 8.2. Thành phần hoá học của các cấp hạt cơ giới trong đất
rừng xám sáng
triển việc phân loại đất theo thành phần cơ giới đã đưa ra tiêu chuẩn cụ
thể trên cơ sở tỷ lệ tuơng đối giữa các cấp hạt. Việc phân loại đất theo
thành phần cơ giới cũng đồng nghĩa với việc gọi tên đất. Cần lưu ý rằng
phân loại đất theo thành phần cơ giới khác với việc phân loại đất (soil
classification) theo nguồn gốc và quá trình hình thành đất.
Trên thế giới có nhiều bảng phân loại đất theo thành phần cơ giới
khác nhau, nhưng phổ biến nhất là bảng của Liên Xô (cũ), của USDA và
của FAO- UNESCO.Trước đây Liên Xô và LHQ thường trình bày dưới
dạng bảng để đối chiếu và phân loại đất theo thành phần cơ giới. Gần
đây FAO- UNESCO tương tự như USDA trình bày trên tam giác đều.
Trong thực tiễn sản xuất vai trò của thành phần cơ giới rất quan
trọng. Nông dân ta từ xưa đã dựa vào những nhận xét ngoài đồng ruộng
trong quá trình sản xuất để chia đất ra thành các loại: đất cát già, cát non,
thịt pha cát, thịt nhẹ, thịt nặng, đất sét, đất gan gà, đất gan trâu... Mỗi
loại đất chỉ phù hợp với một số loaị cây trồng nhất định và cần có biện
pháp canh tác thích hợp. Khi ngành thổ nhưỡng học hình thành và phát
Sau đây ta tìm hiểu các bảng phân loại đó.
Bảng phân loại đất theo thành phần cơ giới của Liên Xô dựa vào 2
cấp hạt: sét vật lý và cát vật lý và được áp dụng cho các nhóm đất
potzôn, đất thảo nguyên, đất đỏ, đất vàng, đất mặn riêng biệt. Ðây là sự
khác với bảng phân loại đất theo thành phần cơ giới của USDA và của
FAO- UNESCO áp dụng cho mọi loại đất không phân biệt nguồn gốc và
quá trình hình thành.
Cách sử dụng bảng này để gọi tên đất cũng rất đơn giản. Ví dụ, một
loại đất potzôn có các cấp hạt:
5 % hạt 0- 0,25 mm 20 % hạt 0,01- 0,005
mm
15 % hạt 0,25- 0,05 mm 10 % hạt 0,005-
0,001 mm
48 % hạt 0,025- 0,01 mm 60 % hạt <
0,001 mm
68 % hạt cát vật lý ( > 0,01mm) 32 % hạt sét vật lý (
< 0,01 mm)
Bảng 8.4 Bảng phân loại đất theo thành phần cơ giới của Liên Xô
(Kachinxki, 1957)
Sét vật lý( < 0,01 mm) Cát vật lý( > 0,01 mm)
100
90 10
80 20
Sét rất
mịn
70 30
clay- sét (%)
Sét
60 40
Limon
50 Sét pha 50 (% )
Sét mịn
Hình 8.2 Sơ đồ xác định thành phần cơ giới đất
của FAO- UNESCO
1.5. Tính chất các loại đất có thành phần cơ giới khác nhau và biện
pháp cải tạo
Do thành phần hoá học cũng như tính chất của các cấp hạt khác nhau
nên các loại đất có thành phần cơ giới khác nhau có độ phì nhiêu khác
nhau. Từ đó việc sử dụng cũng như biện pháp cải tạo chúng đựoc áp
dụng khác nhau cho phù hợp và hiệu quả. Sau đây ta so sánh 3 loại đất
có thành phần cơ giới khác nhau: đất cát, đất sét và đất thịt.
+ Ðất cát
Là loại đất trong đó tỷ lệ cấp hạt cát lớn, có thể đạt tới 100 %. Ðất
cát có những ưu nhược điểm sau:
• Do các hạt có kích thước lớn nên tổng thể tích khe hở, lớn nhất là
khe hở phi mao quản, từ đó nước dễ thấm xuống sâu và đồng thời
cũng dễ bốc hơi nên dẫn tới đất dễ bị khô hạn.
• Trong đất cát điều kiện ôxy hoá tốt nên chất hữu cơ bị khoáng hoá
mạnh dẫn đến đất nghèo mùn.
• Ðất cát dễ bị đốt nóng vào mùa hè và cũng dễ mất nhiệt trở nên
nguội lạnh vào mùa đông, bất lợi cho cây trồng và vi sinh vật phát
triển.
• Ðất cát rời rạc, dễ cày bừa giảm công làm đất, nhưng nếu mưa to hay
tưới ngập, đất thường bị lắng rẽ, bí chặt.
• Ðất cát chứa ít keo nên khả năng hấp phụ thấp, khả năng giữ nước
giữ phân (chất dinh dưỡng) kém. Vì vậy nếu bón nhiều phân tập
trung vào một lúc cây không sử dụng hết, một phần lớn bị rửa trôi do
đó gây lãng phí. Trên đất cát khi bón phân hữu cơ nhất thiết phải vùi
sâu để giảm sự "đốt cháy".
• Ðất cát thích hợp với nhiều loại cây trồng có củ như khoai lang,
khoai tây, lạc...Trong đất cát rễ và củ dễ dàng vươn xa và ăn sâu mà
không bị chèn ép. Các cây họ đậu có khả năng cộng sinh với vi
khuẩn nên cũng có thể thích ứng trên đất cát. Một số vùng đất cát
người ta còn trồng các loại: dưa hấu, dưa lê hay vừng, kê; thậm chí
cây đặc chủng như thuốc lá cũng được trồng trên đất cát.
Thực tế sản xuất trên đất cát, do cơ sở vật chất không cho phép
chúng ta cải tạo thành phần cơ giới bằng đưa sét vào. Muốn đạt năng
suất cao nhất chỉ có thể bố trí những loại cây trồng phù hợp với đất cát
đồng thời áp dụng những kỹ thuật canh tác hợp lý. Tuy vậy một số vùng
đất cát trong phẫu diện dưới tầng cát có tầng sâu(subsoil horizon) với tỷ
lệ sét cao, ta có thể cày sâu lật sét lên tầng mặt. Lúc đó nhất thiết phải
tăng cường phân bón nhất là phân hữu cơ để cải thiện được độ phì và
cho năng suất cao.
+ Ðất sét.
Ðất sét là loại đất trong đó cấp hạt sét chiếm tỷ lệ cao, ngược lại
tỷ lệ cát thấp hoặc không có. Khi xét về đất sét ta cần lưu ý đến trạng
thái kết cấu của đất. Nếu đất sét không có kết cấu hay kết cấu kém thì
có những ưu nhược điểm dưới đây:
• Hạt sét bé nên khe hở giữa chúng nhỏ dẫn đến thoát nước kém dễ bị
úng gây tác hại cho cây trồng cạn.
• Ðộ thoáng khí thấp nên dễ gây ra glây hoá, xác hữu cơ phân giải
chậm, lượng chất hữu cơ tích luỹ nhiều hơn.
• Ðất chứa nhiều sét hơn nên sức cản lớn, tính dính cao gây khó khăn
hơn cho việc làm đất.
• Do nhiều sét nên đất có khả năng hấp phụ lớn, các chất ít bị rửa trôi,
tính đệm cao
hơn. Ngoài ra độ ẩm cây héo cao hơn nhiều đã làm giảm lượng nước
hữu hiệu so với đất cát.
• Tuy nhiên, nếu đất sét chứa nhiều chất hữu cơ trở nên có kết cấu tốt
thì lại là một loại đất lý tưởng nhờ khả năng cung cấp chất dinh
dưỡng, nước, không khí được cải thiện thoả mãn cho cây trồng.
+ Ðất thịt.
Ðất thịt là loại đất có tỷ lệ của các cấp hạt cũng như các đặc tính lý
hoá học nằm trung gian giữa 2 loại đất cát và đất sét. Thường đất thịt có
mặt đầy đủ cả 3 cấp hạt cát, limon và sét. Nếu là đất thịt nhẹ thì tỷ lệ cấp
hạt cát lớn, ngược lại đất thịt nặng tỷ lệ cấp hạt cát giảm mà tỷ lệ cấp hạt
sét tăng.
Nói chung đất thịt trung bình là tốt vì vừa có những đặc tính lý, hoá
học và sinh học phù hợp cho nhiều loại cây trồng vừa dễ làm đất và
chăm bón lại có năng suất cao.
1.6. Phương pháp phân tích thành phần cơ giới
Sau khi đã áp dụng các phương pháp thích hợp để phân tán các phần
tử cơ giới, ta tiến hành tách các cấp hạt từ mẫu đất. Có 2 nhóm phương
pháp cơ sở, đó là sa lắng và dòng chảy. Thuộc nhóm thứ nhất có các
phương pháp của Atterberga, phương pháp pipet (ống hút) của Koln-
và Proszynski cải tiến; thuộc nhóm thứ hai có phương pháp của Schony
và phương pháp của Kopexki. Gần đây người ta áp dụng phương pháp li
giữa lực cản vật rơi trong môi trường phân tán (w) với kích thước vật
w=6krv
(1)
Trong đó: w tính theo dyn, r theo cm, v theo cm/s và k theo g/cm/s.
Khi vật rơi trong nước lực đẩy Archimedes (F) được tính theo công
thức
F = (M - M1) g
(2)
Trong đó: M là khối lượng vật rơi lý tưởng = 4/ 3 r3 D1
D2
(3)
Cân bằng công thức (1) và (3), ta có: 6 k r v= 4/3 r3 (D1 - D2) g
(4)
Giả sử: đất thịt có tỷ trọng 2,65; tỷ trọng của nước là 0, 99823 ở 20
0 2
C; độ nhớt của nước là 0,0101 g/cm/s; gia tốc rơi tự do là 981 cm/ s .
d
Sau khi biến đổi ta thu được: v = 35652 r2 = 35652
d
=r= v
35652
4 2
(5)
h
Tốc độ rơi của vật v= . Trong đó: h- chiều cao vật rơi,
t
(6)
t- thời gian vật rơi
4 t 4
h
d=2 35652t với d là bán kính vật rơi (cm)
(7)
Như vậy nếu định sẵn tại thời điểm đo nào đấy, ta sẽ thu được các
hạt rơi trong phạm vi kích thước d với giả thiết vật rơi tròn.
Phương pháp pipet chính xác đối với các cấp hạt từ 0,1 mm đến
0,001 mm. Vì thế các cấp hạt lớn hơn ta dùng phương pháp rây còn
v = 2r D D g h r2;
2 1 2
1 g1 = 42.n2.r1
9 k t
r=
r 9kh 22 9kh
t (D1 - D2)g1 8 n tr1 (D1 - D2)
2r d 2 2 9 kh
2 n tr1 D1 - D2
(8)
Trong đó: d - đường kính hạt li tâm D1- tỷ trọng của đất
nước
do
(vòng/ s)
Trong đất trồng trọt ở tầng canh tác có thể phân biệt các dạng hạt
kết sau (hình 8.4): hạt kết viên hạt hạt kết cục nhẵn cạnh
• hạt kết cục nhẵn cạnh lớn.
a b
Hình 8.4. Đất cấu tạo hạt kết nhân tạo a- hạt kết
viên hạt, b- hạt kết cục nhẵn cạnh lớn
a b
Hình 8.5. Cấu tạo đất không hạt kết
a- Các hạt rời; b- Khối đặc (không khe hở)
Các hạt kết có dạng kéo dài rõ rệt (hình 8.8). Ta thường gặp ở tầng
phía dưới phẫu diện đất có thành phần cơ giới nặng. Ví dụ, gặp ở các
tầng sâu trong đất phù sa thịt nặng, đất mặn đã được cải tạo do trồng lúa
nhiều năm, đất xám phát triển trên phiến sét... Dưới sâu phẫu diện hàm
lượng mùn ít dẫn đến các hạt kết này không có độ bền cao, dễ bị trương
và co. Kích thước của các khối lăng trụ 10-50 mm
Hình 8.8 Cấu tạo hạt kết lăng trụ (ảnh T.
Bortkiewicz)
Hạt kết khối hình trụ, cột
Những hạt kết có xu thế kéo dài theo một phía và kích thước 10- 50
mm hay hơn. Cấu tạo dạng này (hình 8.9) dễ thấy ở các tầng sâu đất phù
sa. Hạt kết hình cột khác với hình trụ ở chỗ, mặt trên hình cột gần như là
hình tròn. Hạt kết cột ta gặp trong đất mặn kiềm lục địa.
Hình 8.9. Cấu tạo hình cột dưới sâu đất mặn phát triển bột sét
(ảnh T. Bortkiewwicz)
Hình 8.10 Cấu tạo hạt kết viên hạt (ảnh T. Bortkiewwicz)
Những hạt này khi bóp nhẹ dễ dàng tạo ra các hạt bé hơn trên tay ta. Các
đoàn lạp này đặc trưng bởi độ xốp lớn. Vật liệu kết gắn các đoàn lạp bé
thành đoàn lạp lớn ở đây chủ yếu là chất hữu cơ và keo sét. Ðộng vật
đất, nhất là giun đất đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình hình
thành đoàn lạp.
Hạt kết cục bé và hạt kết cục lớn
Trong đất nghèo chất hữu cơ, ngay cả khi canh tác làm đất hợp lý,
các hạt đất nhẵn cạnh, hơi tròn nhưng kém xốp được hình thành. Những
hạt kết như vậy gọi l à hạt kết cục nhẵn cạnh (hình 8.11).
A B
Hình 8.11 Cấu tạo hạt kết cục nhẵn cạnh (ảnh T. Bortkiewwicz)
A- Cục nhẵn cạnh bé B- Cục nhẵn cạnh lớn
Trong đất thành phần cơ giới nặng, làm đất quá ẩm có thể tạo ra đoàn
lạp cục nhẵn cạnh lớn. Những cục này khi làm đất phải dùng các nông
cụ có độ rung lớn mới có thể tách ra các hạt bé. Ta có thể cải thiện độ
xốp của đất có kết cấu cục bằng nâng cao hàm lượng mùn như bón phân
hữu cơ, bón vôi, trồng cây họ đậu...
2.4. Hệ thống và độ hổng đất
Một nhân tố hết sức quan trọng của kết cấu đất là khoảng trống giữa
các hạt sơ cấp (cơ giới) và các đoàn lạp. Các loại hạt thứ nhất và cả loại
hạt thứ hai có thể sắp xếp rời rạc (trong đất cát) hoặc không khe hở
(trong đất sét). Hệ thống các hạt càng tơi, độ xốp đất càng lớn. Tính chất
này phụ thuộc không chỉ vào sự sắp xếp giữa các đoàn lạp mà cả vào độ
hổng bên trong các đoàn lạp. Tính chất đặc trưng của hệ thống đoàn lạp
và cả độ hổng của chúng là dung trọng. Dung trọng càng bé thì hệ thống
càng tơi xốp. Dung trọng của đất sẽ được nói ở chương X.
Trong thực tế sản xuất nông nghiệp ta phân biệt các hệ thống đất cơ
sở và hệ thống chuyển tiếp sau đây:
• hệ thống rời rạc • hệ thống dính
• hệ thống bí • hệ thống hơi
• hệ thống rất bí bở
Hệ thống rời rạc có ở đất thiếu sự liên kết của các hạt cơ giới. Ta
gặp trong đất cấu tạo không đoàn lạp- hạt rời như trong đất cát.
Hệ thống bở đặc trưng cho đất có kết cấu là những đoàn lạp viên
hạt, xốp. Ta thường gặp ở tầng canh tác, tầng tích luỹ mùn trong đất tự
nhiên; đất có thành phần cơ giới là thịt nhẹ, thịt trung bình.
Hệ thống bở-dính có thể gặp ở các tầng dưới đất canh tác hay các
đất khác; thường là những đất có thành phần cơ giới là thịt nhẹ, thịt
trung bình hay thịt pha sét. Ðất thường có cấu tạo đoàn lạp cục góc cạnh
(khối đa mặt).
Hệ thống dính thường gặp ở những tầng sâu trong đất canh tác hay
dưới tầng tích luỹ mùn đất tự nhiên; thường là những đất có thành phần
cơ giới là thịt trung bình hay thịt pha sét. Ðất có cấu tạo đoàn lạp khối
lăng trụ. Ðất này thường thấm nước tốt nhưng khi mưa nhiều hay tưới
đẫm dễ trương lên trở thành khó thấm nước.
Hệ thống bí hay gặp ở độ sâu từ trung bình trở xuống trong phẫu
diện đất có thành phần cơ giới nặng như đất thịt pha sét hay đất sét. Các
hạt đất dính chặt vào nhau làm cho nước không thoát được. Những đất
này thường có cấu tạo không đoàn lạp nghĩa là khối đặc.
Hệ thống rất bí. Hệ thống này ta gặp ở đất rất nặng, tỷ lệ sét có thể
đạt 50-60 %. Trong đất này quá trình khử xảy rõ rệt.
Ðộ hổng của các đoàn lạp trong đất thường liên quan tới hoạt động
của hệ thống rễ cây chủ yếu là rễ nhỏ, động vật đất, vi sinh vật đất. Các
lỗ hổng bé cũng như lớn có thể nhìn thấy được trên vi mẫu lát mài (hình
8.12).
Hình 8.12 Lát mài đất có khe hở lớn rõ ràng (H. Uggla)
2.5. Sự hình thành hạt kết
a. Cơ chế hình thành hạt kết
Theo các nhà khoa học Tiurin (1936), Matson (1938), Kataraep
(1945)..., sự tạo thành hạt kết gắn liền với trạng thái ngưng tụ của keo
đất. Như vậy đất có cấu tạo hạt kết hay không chính là do keo ở trạng
thái ngưng tụ (gel) hay phân tán (sol) (hình 8.13).
Chúng ta biết rằng, các keo đất mang điện khi tiếp xúc với nhau sẽ
ngưng tụ. Các keo đất mang điện trái dấu hoặc cùng dấu nhưng điện thế
khác nhau chúng luôn có xu thế liên kết với nhau để trung hoà điện. Ðầu
tiên là 2 hạt keo liên kết với nhau để tạo nên hạt kết bé (cấp 1), chúng
chưa trung hoà về điện sẽ liên kết với cặp bên cạnh lập nên hạt kết lớn
hơn (cấp 2) nhưng vẫn chưa đạt trạng thái trung hoà. Tương tự như vậy
đến cấp thứ n thì hoặc đã trung hoà về điện hoặc do mối liên kết giữa hạt
cấp n và những hạt cấp 1, 2 quá yếu. Ðến đây cấp hạt thứ n không còn
khả năng tạo lập cấp hạt thứ n+1 nữa, hạt kết ổn định tại đây. Cơ chế
này được Kachinxki minh họa như trên hình 8.14.
(HO)Al O
COO OOC
R
Si O Al(OH) (HO)Al O Si
Si O Al(OH) COO OOC Si
Si O Ca COO OOC Ca O Si
R
Si O Ca COO OOC Si Ca O
Trong đất nghèo hay thiếu cation trao đổi, các keo đất thường ở trạng
thái tự do nhiều.
• Keo sét
Theo cơ chế trung hoà về điện, bản thân các hạt sét có thể tạo ra
được kết cấu và thường chỉ tạo được hạt kết cột, tảng. Khi mất nước
chúng hình thành nên những tảng lớn do nứt nẻ. Nếu trong đất có nhiều
mùn như đất đen trên đá vôi hay đất chernozem ở Nga các vi đoàn lạp sẽ
được mùn liên kiên kết lại tạo nên hạt kết viên lớn rất tơi xốp.
• Sắt và nhôm
Các nguyên tố này có vai trò quan trọng trong sự tạo thành hạt kết ở
đất vùng nhiệt đới. Khi cation sắt và nhôm (Fe3+, Al3+) ở trạng thái kết
hợp với sét tạo phức hệ bền vững ngay cả trong trong môi trường chua.
Bản thân sắt hoà tan di chuyển đến khe hở giữa các hạt kết, khi nước
mất, oxyt sắt đã gắn các hạt đất lại kiểu như xi măng. Ðất feralit có cấu
tạo đoàn lạp viên hạt bền vững điển hình cho vai trò của sắt và nhôm.
• Canxi
Canxi đóng vai trò là cầu nối giữa keo vô cơ và keo hữu cơ tạo ra
cấu tạo đất có đoàn lạp viên hạt. Ngoài ra canxi cũng giữ vai trò xi măng
giống như sắt và nhôm. Vì vậy Kachinxki cho rằng, bón vôi là biện pháp
gây kết cấu cho đất. Với ý nghĩa tương tự bón super lân Ca(H 2PO4)2
cũng góp phần tạo nên kết cấu cho đất.
• Sinh vật đất
Người ta thấy rằng, trong quá trình hoạt động, sinh vật tiết ra các chất
có thể gắn các hạt đất với nhau. Như đã nói, giun đất giữ vai trò hết sức
quan trọng trong sự tạo thành kết cấu ở nhiều loại đất. "Phân" giun có
thể ví là những hạt kết viên hoàn hảo, nó không chỉ có kích thước để khi
sắp xếp tạo ra khoảng trống lớn trong đất mà trong các "hạt phân" cũng
chứa nhiều khe hở bé; ngoài ra, các hạt này rất giàu chất dinh dưỡng.
Chính vì thế mà người ta ví giun đất là "anh thợ cày cần mẫn". Một số
động vật như chuột chũi, dế... đào bới làm tổ và tìm thức ăn cũng góp
phần tạo ra các hạt kết làm đất thông thoáng.
• Khí hậu
Vai trò tạo kết cấu của khí hậu thông qua tác dụng của nước trong
đất. Ðất nặng bão hào nước khi khô gây nứt nẻ tạo nên những tảng đất
lớn, không khí xâm nhập được vào đất. Lớp bùn phù sa mới bồi khi khô
cũng tạo kết cấu dạng tấm. Trạng thái ẩm khi làm đất ảnh hưởng rất rõ
tới kết cấu đất. Như ta đã biết, làm đất ở trạng thái quá ẩm hay quá khô
đều gây bất lợi cho sự tạo thành kết cấu của đất.
• Canh tác
Canh tác bao hàm việc làm đất tối thiểu, chăm sóc, phân bón... để đất
trở nên tơi xốp, tái tạo các đoàn lạp. Bừa ruộng cấy lúa là trường hợp
đặc biệt, các đoàn lạp lớn bị phá vỡ hầu như hoàn toàn, các vi đoàn lạp ít
bị phá vỡ hơn nhiều. Kết quả trong đất chỉ có các vi đoàn lạp bền vững.
Tuy nhiên trạng thái này lại phù hợp cho cây lúa phát triển, đặc biệt đối
với sự bén rễ khi mới cấy. Làm cỏ, xới xáo cũng là biện pháp tạo kết cấu
cho đất. Bón phân hữu cơ là biện pháp rất hữu hiệu để tạo kết cấu, nhất
là khi kết hợp với vôi hay bột phosphorit.
2.6. Những nguyên nhân làm đất mất kết cấu
a. Nguyên nhân cơ giới
Trong quá trình canh tác, trâu bò, máy móc... thường xuyên tác động
lên lớp đất mặt. Tác dụng cơ giới này có thể làm đất mất kết cấu nhiều
khi sâu tới vài chục centimet. Như đã nói làm đất lúc quá ẩm hay quá
khô đều gây phá vỡ kết cấu, kết quả trái với mục đích của việc làm đất.
Những trận mưa đá hay mưa rào cũng có tác động gây phá vỡ kết
cấu ở lớp đất mặt.
1. Nêu các khái niệm về hạt cơ giới, cấp hạt cơ giới và thành
phần cơ giới đất và giải thích cơ sở khoa học để phân chia
các cấp hạt.
2. Nêu cơ sở của phương pháp phân tích thành phần cơ giới đất
Robinson.
3. Nêu nguyên tắc gọi tên đất theo thành phần cơ giới đất.
4. Giải thích vì sao người ta cần xác định thành phần cơ giới
đất.
5. Nêu khái niệm về kết cấu đất và vai trò của kết cấu đất đối
với đất và cây.
6. Kể tên các dạng hạt kết và tên các hệ thống đất.
7. Nêu cơ chế hình thành hạt kết và những yếu tố ảnh hưởng.
8. Nêu nguyên nhân phá vỡ kết cấu đất.
9. Nêu vai trò của kết cấu đất đối với đất và cây.
10. Nêu những biện pháp duy trì và cải thiện kết cấu đất.
Chương IX
NƯỚC TRONG ÐẤT
R
(1)
Trong đó: : áp lực bề mặt
Trong đó p = Pa - Pl khi đường cong của mặt trong đối với dung
môi (có nghĩa là không khí sủi bọt trong nước và p = Pl - Pa khi đường
cong mặt trong lồi về phía chất khí có nghĩa giọt nước ở trong không
khí. Hình 9.1 mô tả quan hệ giữa đường cong và chênh lệch áp suất đối
với các mặt trong khác nhau.
khÝ
chất lỏng Pkhí > Plỏng
khÝ chất lỏng Pkhí = Plỏng
Hình 9.1 Quan hệ giữa đường cong mặt trong và độ chênh lệch áp suất
trên mặt pha rắn và pha khí
chất khí
R
cắt ngang và H là chiều cao dâng lên của nước trong mao dẫn. Lúc đó:
lực đẩy lên thẳng là: Fup = pA = R2p = 2 R; lực đi
xuống là trọng lực của cột nước (Mg), khi M = w V là khối lượng nước
F down = w V = R2w Hg.
Tại trạng thái cân bằng, 2 lực bằng nhau, từ đó ta có thể tính:
H = 2δ
ρwgR
(2)
Phương trình (2) cho ta chiều cao cột nước có thể dâng lên trong mao
dẫn với bán kính R và góc tiếp xúc zero. Khi góc tiếp xúc không phải
zero, chiều cao của cột nước tới hạn sẽ bé hơn giá trị này. Trên hình 9.3,
bán kính của đường cong mặt trong r = R/ cos . Khi đó chênh lệch áp
lực là:
2δcosγ
p =
2δ
= =
R R
2δcosγ
và cân bằng lực lúc này diễn ra: H =
ρwgR
(3)
Trong trường hợp thứ 2 chiều cao cột nước bé hơn.
R
r
Ðến đây ta có thể kết luận rằng, đường kính mao dẫn càng bé thì cột
nước leo trong đó càng cao. Cũng cần chú ý rằng trong đất các khe hở
có kích thước và hình dạng rất khác nhau. Chỉ những khe hở liên tục và
kích thước trong giới hạn (0,1- 0,001 mm) trong đất có cấu tạo hạt kết
thì được xem là những mao dẫn. Những khe hở bé hơn giới hạn trên
không cho phép nước dâng cao vì lực hấp phụ của các hạt đất đối với
các phân tử nước lớn hơn nhiều, tuy chúng vẫn liên tục.
Ðộ nhớt
Do các phân tử nước đứng cạnh nhau hút lẫn nhau, chúng chống lại
xu thế làm tăng số lượng của nước trong phạm vi chất lỏng khi có lực
tác động lên nó. Lực cản này được gọi là lực kéo hay lực cắt. Trên hình
9.4 trình bày thí nghiệm xác định độ nhớt của nước.
Mặt chuyển động
L ực F
V=V max
Hình 9.4 Tấm nhỏ trên mặt nước được đẩy sang phải bằng lực F đạt
vận tốc tối đa
Vmax.Tốc độ tăng lên tuyến tính theo hướng y
Nước tiếp xúc với tấm khối lượng bé sẽ chuyển động với Vmax, và
nước tiếp xúc đáy không chuyển động, tạo ra sự thay đổi tuyến tính của
tốc độ nước theo chiều thẳng đứng.Tỷ số giữa lực đo bằng đơn vị diện
tích của tấm (lực tiếp tuyến theo đơn vị diện tích, hoặc lực cắt ) và
gradient tốc độ thẳng đứng cho chuyển động (phương trình Vmax / L)
được gọi hệ số độ nhớt (những đơn vị khối lượng trên độ dài trên thời
gian): = F / A = FL (4)
V max A AV max x
Biểu thức tổng quát của mối quan hệ giữa lực hãm và tốc độ được
gọi là định luật độ nhớt của Newton
= F/ A = - dV/ y
(5) khi y là mặt thẳng đứng với dòng chất
lỏng.
Áp suất thẩm thấu
Từ chỗ các phân tử nước có momen lưỡng cực, các ion trong dung
dịch bị cuốn hút bởi điện trường xung quanh các phân tử nước độc lập
và hướng tập trung gần chúng. Tác động của sự chụm có trạng thái năng
lượng thấp hơn của nước. Nếu màng thấm đối với nước nhưng không
thấm đối với chất tan trong nước được sử dụng để tách nước sạch khỏi
dung dịch chứa ion, nước từ phía sạch của màng sẽ đi sang phía dung
dịch. Khối lượng di chuyển này sẽ tiếp tục không giới hạn trừ phi có lực
đối kháng. Nếu dung dịch được ngăn bên trong một hộp dẻo như màng
cao su, lúc đó nước đi vào hộp sẽ làm tăng thể tích và gây ra sự tăng lên
của áp suất thuỷ tĩnh, kết quả là ngừng dòng nước. Cuối cùng áp suất
thuỷ tĩnh của dung dịch cân bằng lực hút ion của nước tại điểm cân
bằng, áp suất đó được gọi là áp suất thẩm thấu (osmotic pressure) . Ðối
với dung dịch loãng, áp suất này được tính gần đúng theo công thức:
= CsRT
(6)
Trong đó là áp suất thẩm thấu theo erg trên cm 2; Cs là nồng độ mol
trên cm2; T nhiệt độ Kelvin và R là hằng số khí (8,32. 107 erg/ mol deg).
Phương trình dùng cho tổ hợp hình thành bởi các phần tử đơn ion. Ví
dụ, dung dịch HCl có nồng độ 0,001M ở T= 3000K. Dùng công thức (6)
ta có:
= (10-5 mol/ cm3) (300) (8,32 x 107) (erg/ mol)
= 2,5 x 104 erg/ cm3 0,25 atm.
Hy max
Đi ểm cây héo
Nước mao
Nước cây
quản treo
Nước hiệu
lực
Sức chứa ẩm
đồng ruộng
Nước thấm qua
g H 2O/100g đất
Hình 9.5 Ðường cong hấp phụ của nước trong đất cát và đất thịt
(H. Uggla)
(m là đường kính của các mao dẫn)
Nước hấp phụ chia làm 2 loại: nước hấp phụ chặt và nước hấp phụ
hờ.
• Nước hấp phụ chặt:
Là nước được giữ chặt bởi lực hấp phụ xuất hiện ở bề mặt hạt đất.
Các phân tử nước bám quanh hạt đất tạo thành các lớp mỏng, có chiều
dày bằng 2- 3 đường kính phân tử nước và chỉ di chuyển khi biến sang
dạng hơi. Khi lớp đơn phân tử nước còn đứt đoạn, chưa vây kín hạt đất
thì gọi là "nước hấp phụ bé" và có ký hiệu là Hy. Trường hợp này xảy ra
khi đất khô ở trạng thái bình thường. Nếu xác định độ ẩm lúc này ta
được độ ẩm đất khô không khí. Khi để đất khô trong không khí bão hoà
hơi nước (không khí chứa 94,2 % hơi nước), các phân tử nước bị hấp
phụ sẽ vây kín xung quanh hạt đất tạo thành một lớp đơn tử nước, được
gọi là "nước hấp phụ tối đa", có ký hiệu là Hymax. Ðối với một loại đất,
Hymax là một hằng số. Người ta thấy rằng cây chỉ có thể hút được nước
khi lượng nước trong đất gấp 1,5 lần giá trị của Hymax trở lên. Từ đó
người ta có thể tính độ ẩm cây héo bằng công thức sau:
Wc.h (%) = 1,5 Hymax
Nước hấp phụ bị mất khi ta sấy đất ở nhiệt độ 105- 1100C.
• Nước hấp phụ hờ (nước màng)
Nước màng là nước được đất giữ lại bên ngoài lớp nước hấp phụ
chặt bằng lực phân tử định hướng và do sức hút của các ion trên bề mặt
hạt đất (lực thuỷ hoá). Lớp nước này có bề dày gấp hàng chục lần đường
kính phân tử nước bao gồm nhiều lớp đơn phân tử nước. Lực giữ nước
trong trường hợp này yếu hơn nhiều so với lực giữ nước hấp phụ chặt.
Dạng nước này có thể di chuyển được từ hạt đất có màng dày sang hạt
đất có màng mỏng hơn đứng cạnh bên cho đến khi độ dày của hai màng
cân bằng nhau. Tuy nhiên sự di chuyển này là rất chậm chạp, khoảng 2,4
mm/giờ. Thực tế cây trồng không sử dụng được dạng nước này.
3.5. Nước tự do
Là dạng nước không liên kết với đất, không bị giữ chặt bằng lực liên
kết hoá học hay lực hấp phụ. Nước này di chuyển được do tác dụng của
lực mao quản hay trọng lực, từ đó được chia ra 2 dạng: nước mao quản
và nước trọng lực.
• Nước mao quản:
Nước mao quản di chuyển trong các ống mao quản có đường kính
bé, theo các hướng khác nhau, và cây trồng dễ dàng hút được nước này.
Tính chất vật lý và hoá học của dạng nước mao quản hoàn toàn giống
nước tự do, nó bị giữ lại bởi lực bé, chỉ khoảng mười lăm atmotphe đến
một vài phần trăm atmotphe. Nước mao quản di chuyển dễ dàng nhất
trong các mao quản đường kính khoảng 0,002- 0,850 mm ( = 0,2- 8,5
m) Nếu ống mao quản bé hơn 0,002 mm thì chứa đầy nước hấp phụ,
làm cho sự di chuyển của nước trong mao quản gặp khó khăn. Nước
mao quản có thể nối liền với nước ngầm và thường xuyên được nước
ngầm cung cấp gọi là "nước mao quản leo". Khi mạch nước ngầm ở quá
sâu hoặc hạn hán lâu ngày nước ngầm không tồn tại, nước trong mao
quản không được nước ngầm cung cấp ta gọi là "nước mao quản treo".
Nước mao quản là nguồn nước chủ yếu cung cấp cho cây trồng, vì
thế cần bảo vệ và nâng cao hàm lượng nước này trong đất bằng các biện
pháp phù hợp như bón phân hữu cơ tạo kết cấu, tăng cường xới xáo, che
phủ chống bốc hơi nước...
• Nước trọng lực
Là nước ngấm sâu khi mưa, khi tưới hay từ nguồn nước khác, dưới
tác động của trọng lực và di chuyển nhanh trong các khe hở lớn và
đọng lại trên một tầng đất không thấm nước đó là nước ngầm. Nước
ngầm được chia ra thành 2 loại: nước ngầm tạm thời và nước ngầm
vĩnh cửu. - Nước ngầm tạm thời là nước được đọng lại ở độ sâu
nhất định (không lớn lắm), tầng đất này được gọi là tầng chứa nước.
Ngoài địa hình, nó còn phụ thuộc khá chặt chẽ vào thời tiết. Nếu mưa
nhiều thì mạch nước ngầm dâng lên cao, ngược lại hạn hán lâu ngày thì
mạch nước ngầm hạ xuống sâu thậm chí không tồn tại.
- Nước ngầm vĩnh cửu là nước nằm giữa 2 tầng đất không thấm
nước. Dạng nước này không phụ thuộc vào thời tiết mà phụ thuộc vào
địa hình, địa mạo và đá mẹ... Muốn khai thác nước ngầm vĩnh cửu ta
phải khoan sâu hàng chục hoặc hàng trăm mét.
Nhìn chung cây trồng ít sử dụng được nước trọng lực vì nó di
chuyển đi xuống quá nhanh. Tuy nhiên nếu nước ngầm tạm thời nằm
không quá sâu thì nó trở thành nguồn cung cấp nước dưới dạng nước
mao quản leo. Khi nước ngầm tạm thời nằm nông, chiếm đầy các khe hở
trong đất lâu ngày thì gây ra hiện tượng yếm khí, có hại cho cây trồng và
các sinh vật hữu ích khác.
4. Khái niệm năng lượng của nước trong đất
Sự tồn tại và di chuyển trong đất, hút và vận chuyển trong cây, sự
mất vào không khí của nước đều là những hiện tượng có liên quan tới
năng lượng. Các loại năng lượng khác nhau đều liên quan với nhau, bao
hàm cả động năng và thế năng. Ðộng năng là nhân tố rất quan trọng tạo
ra dòng chảy mãnh liệt của dòng sông, nhưng di chuyển của nước trong
đất rất chậm chạp nên thành tố động năng thường dễ bị bỏ qua còn thế
năng trở nên có ý nghĩa. Thế năng hết sức quan trọng trong việc xác
định trạng thái và sự di chuyển của nước trong đất. Ðể đơn giản hoá,
trong mục này ta dùng thuật ngữ năng lượng dành cho thế năng.
Khi xem xét năng lượng, ta cần phải hiểu rằng tất cả các vật chất
bao gồm cả nước di chuyển hay biến đổi là thay đổi trạng thái năng
lượng từ cao sang thấp. Vì thế, nếu biết các mức năng lượng chính xác
ở các điểm khác nhau trong đất, ta có thể đoán trước được hướng di
chuyển của nước. Ðó là sự chênh lệch mức năng lượng từ vị trí tiếp xúc
đến các vị trí khác gây tác động tới sự di chuyển của nước.
4.1. Các lực tác động thế năng
Trong thảo luận nêu ở phần trên, cấu trúc và đặc tính của nước đã
đưa ra 3 yếu tố rất quan trọng tác động đến mức năng lượng của nước
trong đất. Thứ nhất, sự xâm nhập hay sự lôi kéo nước vào thể rắn của
đất (matrix) gây ra do lực matric (liên quan đến sự hấp phụ và mao dẫn)
làm giảm trạng thái năng lượng của nước ở bề mặt hạt đất một cách rõ
ràng. Thứ 2, sự lôi kéo nước đối với các ion và các chất tan khác, kết
quả tạo ra lực thẩm thấu, dẫn đến làm giảm trạng thái năng lượng của
nước trong dung dịch đất. Di chuyển của nước sạch qua màng bán thẩm
thấu vào dung dịch biểu hiện trạng thái năng lượng thấp của dung dịch.
Thứ 3, chủ yếu là trọng lực tác động lên nước, luôn luôn kéo nước đi
thẳng xuống. Mức năng lượng của nước trong đất tại một độ cao nào đó
trong phẫu diện là cao hơn của nước ở độ cao thấp hơn. Sự chênh lệch
mức năng lượng tạo ra dòng đi xuống.
4.2. Thế năng của nước trong đất
Sự chênh lệch mức năng lượng của nước từ một điểm hay một điều
kiện so với điểm khác hay điều kiện khác (nghĩa là trong đất khô hay đất
ướt) quyết định hướng, tỷ số nước di chuyển trong đất và trong cây.
Trong đất ướt phần lớn nước được giữ lại trong khe hở lớn hoặc trong
màng nước dày quanh hạt đất. Do đó các phân tử nước không bám chặt
và không phủ kín hạt rắn (matrix). Ở điều kiện này các phân tử nước di
chuyển tự do, vậy mức năng lượng của chúng gần tương đương mức
năng lượng của các phân tử trong nguồn nước sạch (tinh khiết) bên
ngoài đất. Trong đất khô, nước tồn tại trong các khe hở bé và trong các
màng nước mỏng, và vì thế được các hạt đất giữ chặt. Như vậy trong đất
khô các phân tử nước di chuyển khó khăn, mức năng lượng của chúng
thấp hơn nhiều so với nước trong đất ướt. Nếu mẫu đất khô tiếp xúc với
mẫu đất ướt, nước sẽ di chuyển từ mẫu ướt (trạng thái năng lượng cao
hơn) sang mẫu khô (trạng thái năng lượng thấp hơn).
Xác định mức năng lượng tuyệt đối của nước ở trong đất là rất khó,
đôi khi không thể. Rất may, ta không nhất thiết phải biết mức năng
lượng tuyệt đối của nước để có thể dự đoán trước di chuyển như thế nào
trong đất và trong môi trường. Tuy nhiên, giá trị tương đối năng lượng
của nước trong đất là cần thiết. Thường thường trạng thái năng lượng
của nước trong đất tại vị trí quan tâm trong phẫu diện được so sánh với
nước ở trạng thái sạch có áp suất và nhiệt độ chuẩn không chịu ảnh
hưởng của đất và được đặt ở độ cao tham chiếu. Sự chênh lệch mức
năng lượng giữa nước sạch ở trạng thía tham chiếu và nước trong đất
được gọi là thế nước trong đất (xem thêm hình 9.5), thuật ngữ thế
giống như thuật ngữ áp suất ám chỉ sự chênh lệch trạng thái năng lượng.
Nếu tất cả giá trị của thế nước được xem xét có điểm tham chiếu
chung (trạng thái năng lượng của nước sạch) sự chênh lệch thế của
nước ở 2 mẫu đất trong thực tế sẽ phán ánh sự chênh lệch mức năng
lượng tuyệt đối của chúng. Ðiều này có nghĩa là nước sẽ di chuyển từ
vùng đất có thế nước cao sang vùng có thế nước thấp hơn.
Thế nước trong đất liên quan tới một số lực, mà mỗi một trong số
đó là thành tố của thế tổng thể t của nước trong đất. Các thành tố này
liên quan tới chênh lệch mức năng lượng do lực trọng trường, lực
matric, thuỷ lực hỗn hợp, lực thẩm thấu và chúng được gọi là thế trọng
lực (g), thế matric (m), thế ngập nước và thế thẩm thấu (o). Quan hệ
tổng quát của thế nước trong đất với các mức năng lượng được biểu
diễn trên hình 9.6 và theo phương trình:
t = g + m + o +....... *
(7)
* các dấu chấm (...) hàm ý là các thế thành phần khác chưa đưa
vào đây
Hính 9.6 Quan hệ giữa thế năng của nước sạch ở trạng thái tham
chiếu tiêu chuẩn
(áp suất, nhiệt độ và độ cao và nước trong đất) (N.C.
Brady, R.R. Well)
ăng lượng cao hơn
+
ham chi
Thế
Trên hình, nếu nước trong đất chứa muối và các chất tan khác, sức
hút tương hỗ giữa các phân tử nước và các hoá chất đó sẽ làm giảm thế
năng của nước, mức giảm đó được gọi là thế thẩm thấu. Tương tự,
tương tác giữa các hạt rắn (matrix) và các phân tử nước cũng làm giảm
thế năng của nước. Từ đó cả hai tương tác làm giảm mức thế năng của
nước so với của nước sạch, sự thay đổi mức năng lượng (thế thẩm thấu,
thế matric) của cả 2 là âm. Ngược lại, sự chênh lệch năng lượng có liên
quan tới trọng lực (thế trọng lực) là luôn luôn dương. Ðiều này được tạo
ra do độ cao tham chiếu của nước sạch được thiết kế tại điểm có chủ
định trong phẫu diện bên dưới nước trong đất. Rễ cây gắng sức làm di
chuyển nước từ đất ẩm thì phải vượt qua cả 3 lực hợp lại.
Thế trọng lực
Lực của trọng trường tác động lên nước cũng giống như lên các vật
khác, lực này hướng vào tâm trái đất. Thế trọng lực g của nước có thể
biểu diễn theo toán học là:
g = gh
(8)
Nơi g là gia tốc, h là chiều cao của nước trong đất bên trên độ cao
tham chiếu. Ðộ cao nước tham chiếu thường được chọn trong phạm vi
phẫu diện hoặc tại ranh giới dưới để đảm bảo rằng thế trọng lực trên
điểm tham chiếu sẽ luôn luôn dương.
Sau mưa hoặc tưới, trọng lực giữ vai trò rất quan trọng đối với sự
di chuyển của nước từ tầng trên và đối với sự động nước ngầm phía dưới
phẫu diện.
Thế áp suất (bao gồm thế ngập nước và thế matric)
Thành tố này được xem là kết quả của tác động lên thế nước của
tất cả các nhân tố ngoài trọng lực và các mức hoà tan. Nó bao hàm
chung nhất (1) áp suất thuỷ lực dương (positive) liên quan trọng lượng
nước trong đất bão hoà và dung môi, và (2) áp suất âm liên quan tới lực
hút giữa nước và thể rắn hay matrix.
Áp suất thuỷ lực tăng lên đến giới hạn thường được gọi là thế
ngập nước sr, thành tố mà chỉ được thể hiện đối với nước trong vùng
bão hoà nằm dưới mặt nước ngầm. Ðã có người nhảy xuống đáy bể bơi
để nhận thấy áp suất thuỷ lực đè lên màng nhĩ.
Sự hút kéo nước đến bề mặt pha rắn làm tăng thế matric mr mà
luôn đạt giá trị âm do nước bị các hạt đất hút có trạng thái năng lượng
thấp hơn so với của nước sạch. (Những áp lực âm này đôi khi được xem
là sức hút hoặc sức căng). Thế matric tồn tại trong đất không bão hoà
bên trên mạch nước ngầm trong lúc thế ngập nước xảy ra đối với nước
trong đất bão hoà hoặc nằm dưới mạch nước ngầm (hình 9.7).
Trong khi mỗi một áp lực này là đáng kể ở mỗi điều kiện đồng ruộng cụ
thể, thì thế matric mr là kết quả từ hiện tượng xâm nhập (hay hấp
phụ) và mao dẫn, ảnh hưởng tới sự duy trì ẩm tốt nhất khi nước di
chuyển. Ðộ chênh lệch giữa thế m của 2 vùng đất kế nhau tăng cường
sự di chuyển của nước từ vùng ẩm (trạng thái năng lượng cao) đến vùng
khô (trạng thái năng lượng thấp) hay từ khe hở lớn đến khe hở bé. Tuy
nhiên, sự di chuyển này rất chậm, nhưng rất quan trọng nhất là đối với
việc cung cấp nước cho cây.
Th ế áp suất
Chi ều
Th ế matric
sâu
phẫu có giá trị âm
diện Mực nước ngầm
Th ế ngập
nước có
giá trị
dương
Hình 9.7. Thế matric và thế ngập nước (N.C. Brady, R.R. Weil)
Trên hình, cả 2 thế matric và thế ngập nước đều là thế áp suất góp
phần vào thế tổng thể của nước. Thế matric luôn luôn âm, thế ngập nước
luôn luôn dương. Khi nước trong đất không bão hoà nằm trên mạch
nước ngầm (đỉnh của vùng bão hoà) chịu ảnh hưởng của các thế matric.
Nước ở dưới mạch nước ngầm trong đất bão hoà chịu ảnh hưởng của thế
ngập nước. Trong ví dụ này thế matric giảm tuyến tính tới điểm bên trên
mạch nước, rõ ràng nước dâng lên bằng lực hút mao dẫn từ mạch nước
là nguồn cung cấp duy nhất trong phẫu diện. Mưa hay tưới có sự đổi
khác hoặc đường cong trở nên rõ ràng, nhưng không thay đổi quan hệ cơ
bản đã được mô tả. Thế matric lại là quan trọng ở tất cả các đất không
bão hoà vì ở đây có sự tương hỗ đồng thời giữa các pha rắn và nước. Sự
di chuyển của nước trong đất, khả năng cung cấp nước cho cây, và các
dung dịch đối với nhiều vấn đề kỹ thuật cần được xác định để mở rộng
nghiên cứu bằng thế matric. Như vậy thế matric sẽ được chấp nhận là
mối quan tâm trước hết, tiếp theo là thế trọng lực và thế thẩm thấu.
Thế thẩm thấu
Thế thẩm thấu o biểu hiện sự có mặt của chất tan trong dung dịch
đất. Các chất tan này có thể là chất vô cơ hay chất hữu cơ. Sự có mặt của
chúng làm giảm thế năng của nước, cơ bản do giảm sự di động tự do của
các phân tử nước bao quanh các ion hay phân tử chất tan. Nồng độ chất
tan càng cao thì thế thẩm thấu càng thấp. Lúc nào cũng vậy, nước sẽ di
chuyển đến nơi mức năng lượng của nó thấp hơn, trong trường hợp này
nước đi chuyển đến vùng có nồng độ chất tan cao hơn. Tuy nhiên, nước
thể lỏng sẽ di chuyển trong mối quan hệ tới sự chênh lệch thế thẩm thấu
(quá trình được gọi là thẩm thấu) chỉ khi có màng bán thẩm thấu giữa 2
vùng thế thẩm thấu cao và thấp cho phép nước đi qua nhưng ngăn cản sự
di chuyển của chất tan. Nếu không có màng, chất tan lại khác với nước,
nói chung là di chuyển để cân bằng nồng độ.
Vì các vùng đất nhìn chung không bị ngăn cách bằng màng, thế
thẩm thấu o ảnh hưởng nhỏ đến khối lượng di chuyển của nước. Ảnh
hưởng chính của nó là sự hút nước qua tế bào rễ cây được ngăn cách với
dung dịch đất bởi màng tế bào bán thẩm thấu. Ở đất có nhiều muối tan
thế thẩm thấu o là thấp hơn (có giá trị âm lớn hơn) so với trong tế bào
rễ. Ðiều này dẫn đến sự kìm hãm việc lấy nước của cây. Trong đất quá
nhiều muối thế thẩm thấu của nước trong đất thấp đến nỗi gây ra hiện
tuợng chảy dịch (plasmolyze) ở cây non khi nước di chuyển từ tế bào ra
vùng đất có thế thẩm thấu thấp hơn.
Sự di chuyển tự nhiên của các phân tử nước gây ra do một số thoát
khỏi thể lỏng đi vào không khí và trở thành hơi nước. Từ đó, sự có mặt
của muối tan chống lại sự di chuyển của nước, số phân tử phân tử nước
thoát sẽ ít hơn khi nồng độ chất tan của nước tăng. Vì thế áp suất hơi
nước sẽ thấp hơn ở không khí trên vùng nước mặn so với ở không khí
trên vùng nước sạch. Bằng sự ảnh hưởng của áp suất hơi nước, o tác
động đến sự di chuyển hơi nước trong đất.
4.3. Các phương pháp biểu diễn mức năng lượng
Một số đơn vị có thể được sử dụng để biểu diễn sự chênh lệch mức
năng lượng của nước trong đất. Thứ nhất là chiều cao cột nước (thường
là centimet) mà trọng lượng của nó tương đương với thế dưới điều kiện
nghiên cứu. Ta luôn gặp nội dung biểu diễn này từ độ cao h trong
phương trình mao dẫn cho ta biết thế matric của nước trong mao dẫn.
Ðơn vị thứ 2 là áp suất không khí tiêu chuẩn tại mực nước biển có giá trị
760 mm thuỷ ngân hoặc 1020 cm nước. Ðơn vị này được gọi là bar
tương đương với áp suất không khí tiêu chuẩn. Năng lượng cũng có thể
biểu diễn theo đơn vị khối lượng (junes/ kg) hoặc đơn vị theo thể tích
(newtons/ m2). Trong hệ các đơn vị Quốc tế (SI), 1 pascal (Pa) tương
đương 1 newton tác động trên một diện tích 1 m2. Ở đây ta dùng Pa hoặc
kilopascals (kPa) để biểu diễn thế của nước trong đất. Bảng 9.2 trình bày
giá trị tương đương trong các phương pháp chung biểu thị thế của nước
trong đất.
Bảng 9.2. Tương đương gần đúng trong phạm vi biểu diễn thế
nước của đất
Chiều cao cột Thế của nước trong Thế của nước trong
nước, cm đất, bar đất, kPa*
0 0 0
10,2 -0,01 -1
102 -0,1 -10
306 -0,3 -30
1.020 -1,0 -100
-1.500
15.300 -15
31.700 -3.100
-31
102.000 -10.000
-100
* Ðơn vị hệ SI kilopascal (kPa) tương đương với 0,01 bar
4.4. Ðo thế năng nước trong đất
Hiện nay có một số phương pháp xác định thế năng của nước trong
đất. Các phương pháp này dùng những dụng cụ khác nhau và đo được
các dạng thế với giá trị khác nhau. Ví dụ: "ẩm kế nhiệt kép" để đo tổng
thế thẩm thấu và thế matric (mà ở mức đó thế nước trong rễ cây phải lớn
hơn cây mới lấy được nước), "Ẩm kế nhiệt kép" đo được thế với lượng
nước bé và đạt mức chính xác 5 kPa; Phương pháp dùng Tensiomet
đo được thế có giá trị -80 đến 85 kPa; Phương pháp dùng "Màng áp
suất" có thể đo được thế matric rất thấp như là -10.000 kPa chẳng hạn....
Sau đây giới thiệu 2 trong số đó.
Phương pháp dùng "Tensiomet".
Ðộ vững chắc giữ nước trong đất được biểu diễn theo thế năng của
nước . Tensiometer ngoài đồng ruộng là dụng cụ để đo sức hút hay sức
căng. Tensiometer là ống đầy nước được bịt kín phía dưới bằng cốc sứ
có lỗ, đầu trên được bịt kín hoàn toàn (hình 9.8). Ðặt tensiomet vào
trong đất, nước trong tensiometer sẽ di chuyển qua lỗ trên cốc sứ vào
vùng sát cạnh đó cho đến khi thế của nước trong ống và trong đất cân
bằng nhau.
Khi nước đi xuống,
khoảng trống đầu trên sẽ
tăng lên, có thể đo được bằng đồng hồ (gauge) hộp chấn lưu điện
tử. Nếu mưa hay tưới làm ướt đất, nước sẽ đi ngược vào tensiomet
l
Trong đó: A là diện tích cắt ngang của cột đất nước chảy qua; K sat
là sức dẫn thuỷ lực bão hoà, là biến động của thế nước giữa 2 đầu cột
nước; L là chiều dài cột nước
Trong đất không bão hoà nước. Trong đất bão hoà nước chiếm
chỗ hầu hết các loại khe hở còn trong đất không bão hoà nước chỉ chiếm
trong các khe hở bé và rất bé, tại đây sự di chuyển của nước khác với sự
di chuyển của nước trong đất bão hoà nước. Ở đây sự chênh lệch thế
năng không phải do trọng lực mà chủ yếu do lực hút. Gradient thế matric
là sự chênh lệch thế matric giữa vùng đất khô và vùng đất ẩm bên cạnh.
Nước sẽ di chuyển từ vùng có màng nước dày hơn (thế matric cao, ví dụ
khoảng -1 kPa) đến vùng có màng nước mỏng hơn (thế matric thấp hơn,
ví dụ khoảng -100 kPa) trong phẫu diện. Thành phần cơ giới có ảnh
hưởng rất lớn tới sự di chuyển của nước trong đất không bão hoà. Hình
9.10 mô tả quan hệ tổng quát giữa thế matric m (theo đó là hàm lượng
nước) và sức dẫn thuỷ lực của đất cát và đất thịt. Dòng bão hoà hình
thành ở thế zero hay sát zero, trong khi phần nhiều dòng không bão hoà
hình thành từ thế -0,1 bar (-10 kPa) trở xuống
Tính xâm nhập và tính thấm
Tính xâm nhập (tính lọc- infiltration) và tính thấm là trường hợp
đặc biệt, nước tự do đi vào đất từ mặt trong đất- không khí khí quyển.
Ðây là quá trình chủ yếu xảy ra ở thuỷ địa hình, ảnh hưởng rất lớn tới
chế độ ẩm đối với cây và tiềm năng thoái hoá đất như: rửa trôi, xói mòn
hay ngập úng. Nguồn nước gây ra là nước mưa hoặc tưới.
Quá trình nước đi vào đất và trở thành nước của đất được gọi là tính
xâm nhập (infiltration), tỷ số nước có thể xâm nhập vào đất được gọi
là khả năng xâm nhập i:
Q
i=
A.t
Trong đó: Q là thể tích nước xâm nhập (m3), A là diện tích mặt đất
biểu hiện sự xâm nhập (m2), t là thời gian (s). Do Q và A có đơn vị là m3
và m2 nên có thể đơn giản hoá ta lấy đơn vị của i là m/s hay cm/h. Tỷ số
xâm nhập không phải là hằng số theo thời gian. Nếu đất khô hoàn toàn
khi bắt đầu xâm nhập các lỗ hổng mở lớn sẽ dẫn nước vào. Ở đất giàu
sét có độ co giãn lớn, sự xâm nhập lúc đầu cực kỳ mạnh, nước đi vào
mạng các kẽ nứt. Vì thế khi các kẽ nứt đã đầy nước thì tỷ số xâm nhập
giảm đột ngột sau đó giảm từ từ và nhanh chóng đạt đến hằng số.
Sự xâm nhập là hiện tượng chuyển tiếp xảy ra ở mặt đất. Khi nước
xâm nhập đầy đủ vào đất, nước di chuyển thẳng xuống trong phẫu diện
theo một quá trình được gọi là thấm (percolation). Cả dòng bão hoà và
dòng không bão hoà đều tham gia vào quá trình thấm và tỷ số thấm liên
quan tới sức dẫn thuỷ lực của đất. Trong trường hợp nước xâm nhập vào
đất khô tương đối dấu vết di chuyển của nước có thể quan sát được bằng
màu tối khi đất trở nên ướt. Ranh giới khô ướt đo rất rõ ràng và được gọi
là front ướt. Khi mưa lớn hay tưới đẫm di chuyển của nước sát mặt đất
xảy ra chủ yếu là dòng bão hoà có liên quan tới trọng lực. Tại front ướt
nước di chuyển xuống tầng đất khô nằm dưới do gradient thế matric
cũng như thế trọng lực. Lúc mưa ít cả sự xâm nhập và sự thấm đều tạo
ra dòng không bão hoà khi nước di xuống bằng lực matric vào các khe
hở "bẫy" không tích luỹ ở tầng mặt hay trong khe hở lớn.
5.2. Sự di chuyển của hơi nước
Hơi nước là thành phần của không khí trong đất. Hơi nước di
chuyển theo dạng khuếch tán. Trong đất hơi nước di chuyển từ nơi có
thế năng cao đến nơi có thế năng thấp tức là từ nơi nóng đến nơi lạnh
hơn hoặc từ nơi độ ẩm tương đối không khí cao hơn đến nơi độ ẩm
tương đối không khí thấp. Như vậy, ban ngày hơi nước đi xuống do lớp
đất mặt bị đốt nóng, ban đêm hơi nước đi lên. Khi đi lên khỏi mặt đất đi
vào không khí lạnh hơi nước sẽ ngưng tụ thành sương muối.
6. Sự bốc hơi nước của đất
Bốc hơi là một trong các hiện tượng làm mất nước của đất. Quá
trình bốc hơi nước rất phức tạp và xảy ra với 3 điều kiện:
- Thứ nhất, luôn có nhiệt lượng đến mặt đất đủ để nước chuyển
từ thể lỏng sang thể khí (hơi). Ở tiêu chuẩn 150C cần khoảng 590 Calo
cho 1 gam nước biến thành hơi.
- Thứ 2, áp lực hơi nước ở mặt đất cao hơn áp lực hơi nước
trong khí quyển.
- Thứ 3, mặt đất luôn luôn có ẩm hoặc luôn được cung cấp
nước từ tầng dưới lên.
Sự bốc hơi nước phụ thuộc vào một số yếu tố sau đây:
• Nhiệt độ của đất. Nhiệt độ đất càng cao nước bốc hơi càng nhanh.
• Ðộ ẩm đất. Ðộ ẩm đất càng cao nước bốc hơi càng nhanh và càng
nhiều.
• Thành phần và số lượng keo đất. Ðất giàu keo sét, keo montmorilonit
khi khô có nhiều kẽ nứt lớn và sâu thuận lợi cho sự bốc hơi của nước.
• Cấu tạo của đất (hệ thống). Ðất chặt, dí nước bốc hơi nhanh vì thế đất
tơi xốp ở tầng mặt sẽ hạn chế nước từ tầng dưới.
• Trạng thái vật lý mặt đất. Mặt đất gồ ghề, lượn sóng, màu sẫm nước
bốc hơi mạnh hơn mặt đất bằng phẳng, đất màu sáng.
• Ðộ ẩm tương đối không khí khí quyển. Ðộ ẩm này càng thấp nước
bốc hơi càng mạnh.
• Ngoài ra còn phụ thuộc vào độ che phủ mặt đất, thời gian và cường
độ của gió.
7. Cách biểu thị độ ẩm đất
Ðộ ẩm đất là khái niệm biểu thị mối quan hệ giữa nước trong đất
với đất. Nói cách khác, độ ẩm biểu thị mức độ chứa nước của đất. Ðộ
ẩm đất được dùng để:
• xác định lượng nước trong đất,
• xác định lượng nước tưới và thời điểm tưới để điều tiết nước cung
cấp cho cây trồng. Ta có một số cách biểu thị độ ẩm của đất.
7.1. Ðộ ẩm biểu thị theo khối lượng (Wm)
- Có thể tính theo khối lượng đất khô kiệt (một cách tuyệt
đối). Lấy khối lượng nước có trong mẫu đất so với khối lượng
mẫu đất sấy khô ở 1050 C
Wma (%) = M 100
w
Msd
Trong đó Mw là khối lượng nước, Msd là khối lượng đất khô kiệt
- Có thể tính theo khối lượng đất ẩm (một cách tương
đối). Lấy khối lượng nước có trong mẫu đất so với khối lượng
mẫu đất ẩm (gồm khối lượng của nước và khối lượng của đất)
Wmr (%) = Mw
100
Mw + Msd
Ðể có kết quả đúng với khối lượng đất, ta phải điều chỉnh bằng cách
lấy kết quả phân tích nhân với hệ số khô kiệt K được tính như sau: K =
(100 + Wma): 100. Nếu phân tích đất ẩm thì hệ số K được tính: K = 100:
(100- Wmr)
7.2. Ðộ ẩm tính theo thể tích Wv
Ðộ ẩm biểu thị theo thể tích cũng có thể tính tuyệt đối và tương đối
- Theo thể tích tuyệt đối Wva
Khi xem nước ở điều kiện bình thường có tỷ trọng bằng 1 nghĩa là
1 cm3 có khối lượng là 1 gam thì quan hệ giữa Wma và Wva như sau:
Wva Vw Mw Vw.Msd M sd
= : = = =D
Vs
Phân
tử
Nguồn nước
nơtron
Hình 9.11 Sơ đồ máy đo độ neutron
ẩm đất bằng nguồn
9. Các giới hạn ẩm đặc trưng trong đất (hay các hằng số nước)
Ðây là những mốc giới hạn về độ ẩm, tương ứng với dạng nước của
đất. Mỗi một mốc này ở trong một loại đất nhất định sẽ có giá trị
không đổi hay rất ít thay đổi nên người ta gọi là các hằng số nước của
đất. Các giới hạn này có ý nghĩa rất lớn, phản ánh khả năng cung cấp
nước cho cây trồng của một loại đất (xem hình 9.5).
9.1. Ðộ hút ẩm tối đa Hymax
Giới hạn này được hiểu là lượng nước tối đa mà đất khô có thể hút
được từ không khí bão hoà hơi nước (> 96 %) và được ký hiệu là Hymax.
Lượng nước này chủ yếu do khả năng hấp phụ của đất quyết định, phụ
thuộc vào một số yếu tố như: thành phần và tỷ lệ các loại keo trong đất,
thành phần cơ giới, hàm lượng muối tan... Nước này cây trồng không
hút được vì được đất giữ bằng lực hấp phụ rất lớn (nhiều ngàn
atmotphe).
9.2. Ðộ ẩm đồng ruộng (sức chứa ẩm đồng ruộng tối đa)
Ðộ ẩm đồng ruộng W dr%) biểu thị tỷ lệ phần trăm lượng nước tối
đa mà đất ở trạng thái tự nhiên có thể giữ lại không kể nước trọng lực,
hơi nước, tương đương với dạng nước mao quản leo. Thực tế ngoài đồng
ruộng đó là lượng nước đất giữ lại được ngay sau khi mưa lâu hoặc tưới
đẫm, nước ngầm xuất hiện ở độ sâu nhất định nhưng đất không bị ngập
trong nước. Ðộ ẩm này phụ thuộc rất lớn vào trạng thái cấu tạo của đất
(độ hổng). Giá trị độ ẩm này càng lớn cây trồng càng dễ dàng lấy được
nước. Ðây là giới hạn trên của lượng nước hữu hiệu đối với cây trồng.
9.3. Ðộ ẩm bão hoà (độ ẩm toàn phần)
Ðộ ẩm bão hoà biểu thị trạng thái ẩm cao nhất của đất khi tất cả các
khe hở đều đã bị nước chiếm. Giá trị của độ ẩm bão hào tương đương
với độ hổng. Thực tế ngoài đồng ruộng là lúc đất đã bị ngập trong nước
sau một khoảng thời gian nhất định. Khi đất bão hoà nước lâu ngày sẽ
gây ra hiện tượng glây hoá bất lợi cho cây trồng.
9.4. Ðộ ẩm cây héo (W ch)
Ðộ ẩm cây héo là lượng nước còn lại trong đất khi cây bị héo và
được ký hiệu là Wch. Ðây là giới hạn dưới của lượng nước hữu hiệu. Ðộ
ẩm cây héo phụ thuộc vào khả năng hấp phụ của đất do đó bị chi phối
bởi thành phần và tỷ lệ các loại keo, thành phần cơ giới, hàm lượng
muối tan trong đất. Ngoài ra, mặc dù không phải là chủ yếu nhưng độ
ẩm này còn phụ thuộc vào loại cây và thời kỳ sinh trưởng, phát triển của
cây.
Nếu xem áp lực hút nước của rễ cây tối đa là 15,2 bar, từ đây trở
lên cây không còn khả năng lấy được nước nữa, sẽ bị héo chết. Trên cơ
sở đó, ta có thể tính gián tiếp độ ẩm cây héo theo công thức:
Wch (%) = 1,5 Hymax
Muốn biết chính xác độ ẩm cây héo của một loại đất đối với cây
trồng cụ thể ta tiến hành trồng cây ngoài ruộng hay trong chậu. Tuỳ
theo mục đích nghiên cứu mà để cho cây bắt đầu héo ở giai đoạn sinh
trưởng phát triển nào đó rồi lấy mẫu đất phân tích độ ẩm.
Từ độ ẩm đồng ruộng và độ ẩm cây héo có thể tính độ ẩm hữu
hiệu (Whh) như sau:
Whh (%) = Wdr%) - Wch (%)
Như vậy độ ẩm hữu hiệu chính là lượng nước mà cây trồng có thể
hút được. Giá trị của Whh phụ thuộc vào giá trị của Wdr và Wch.
10. Cân bằng nước trong đất
Cân bằng nước trong đất là chỉ sự "thu, chi" nước trong một thể
tích đất nhất định (thường tính ở tầng đất hữu hiệu- tầng đất rễ cây vươn
tới).
Theo định luật bảo toàn vật chất thì hàm lượng nước trong một thể
tích nhất định sẽ không tăng thêm nếu không có nguồn bổ sung thêm từ
ngoài vào (như nước xâm nhập, nước ngầm dâng lên trong mao quản).
Ðồng thời, nếu không có nước bị hao hụt do bốc hơi, phát tán vào không
khí hoặc thấm xuống tầng sâu thì lượng nước trong đất cũng không bị
giảm.
Trên đồng ruộng, cân bằng nước có liên quan mật thiết với cân
bằng năng lượng vì sự "thu, chi" nước cần có năng lượng, đặc biệt là
hiện tượng bốc hơi nước là quá trình tiêu hao năng lượng rất lớn. Vì vậy
quá trình bốc hơi là do sự cung cấp đồng thời nước và năng lượng quyết
định.
Sự cân bằng nước trong đất cho một thời gian nghiên cứu* có thể
biểu thị như sau:
N1 + N2 + N3 + N4 + N5 + N6 = N7 + N8 + N9 + N10 + N11
+N12
Trong đó vế trái công thức là các nguồn nước thu vào, bao gồm:
N1 là nước có trong đất lúc bắt đầu nghiên cứu,
N2 là nước mưa trong thời gian nghiên cứu,
N3 là nước ngầm trong thời gian nghiên cứu,
N4 là nước ngưng tụ từ khí quyển trong thời gian nghiên cứu,
N5 là nước xâm nhập từ mặt đất trong thời gian nghiên cứu,
N6 là nước xâm nhập từ mạch ngang trong thời gian nghiên
cứu,
Vế trái công thức là các nguồn nước thu vào, bao gồm:
N7 là nước bốc hơi trong thời gian nghiên cứu,
N8 là phát tán trong thời gian nghiên cứu,
N9 là nước thấm sâu xuống tầng dưới trong thời gian nghiên
cứu,
N10 là nước chảy tràn bề mặt trong thời gian nghiên cứu,
N11 là nước mất đi theo mạch ngang trong thời gian nghiên
cứu,
N12 là nước còn lại sau thời gian nghiên cứu.
* Thời gian nghiên cứu thường là một năm tròn.
Nếu trong hoàn cảnh khí hậu ít biến động, qua một chu kỳ nghiên
cứu, lượng nước lúc kết thúc bằng lượng nước lúc bắt đầu nghiên cứu
(N11 = N1).
Trong thực tế nông nghiệp truyền thống, nước đi vào trong đất chủ
yếu là nước mưa (phần thấm vào đất mà thôi) và nước tưới. Do đó:
Nước thu = Nước mưa + Nước tưới
Khi tính toán cân bằng nước trong đất thường dùng đơn vị là m3/ha
hay mm cột nước.
Nguyên lý cân bằng nước trong đất được ứng dụng rộng rãi trong
nghiên cứu đất và nước. Hai thí dụ đơn giản sau đây:
Thí dụ 1. Lượng nước trong đất ở tầng hữu hiệu là 50 mm, trong đó
nước vô hiệu là 30 mm (cây héo). Lượng mưa thời kỳ này thấp, bình
quân 0,6 mm/ ngày; lượng nước do cây trồng tiêu hao là 1,6 mm/ ngày.
Nếu không có nước ngầm cung cấp và xem lượng nước hữu hiệu cây sẽ
hút hết, ta có thể tính sau bao nhiêu ngày nữa phải tưới để đảm bảo cho
cây trồng đủ nước theo cách sau:
ngày
20
Thí dụ 2. Tính lượng nước hao hụt hàng ngày trong một tầng đất:
hàm lượng nước trong đất tưới lần trước vào ngày 10/ 3 là 89,6 mm, sau
đó tưới thêm 45 mm, đến ngày 18/ 3 xác định hàm lượng nước trong đất
là 100 mm. Trong thời gian từ 10/ 3 đến 18/ 3 trời không mưa, vậy
lượng nước hao hụt trung bình hàng ngày là:
4,3 ngày.
11. Xác định trữ lượng nước trong đất
11.1. Tính tổng lượng nước dự trữ trong một lớp đất
Muốn tính tổng lượng nước dự trữ trong một lớp đất ta dùng công
thức:
W (tấn/ ha) = Wsd. D. h
Trong đó: Wsd là độ ẩm theo khối lượng đất khô kiệt (%)
D là dung trọng của đất (g/cm3)
h là độ dày của lớp đất (cm)
11.2. Tính tổng lượng nước dự trữ trong tầng đất hữu hiệu
Muốn tính tổng lượng nước dự trữ trong tầng đất hữu hiệu ta tính
lượng nước dự trữ của từng lớp đất riêng rồi cộng lại. Chú ý: lớp
đất có thể được xác định theo tầng đất phát sinh hay tầng chẩn
đoán cũng có thể lấy bình quân cứ 10-20 cm một lớp tuỳ theo
mục đích nghiên cứu.
Wt (tấn/ ha) = W1sd. D1. h1 + W2sd. D2. h2 +..... Wnsd. Dn. hn
Trong đó: W1sd,W2sd...Wnsd là độ ẩm của tầng đất 1, 2...n
D1, D2... Dn là dung trọng của tầng đất 1, 2... n h1,
h2... hn là độ dày của tầng đất 1, 2... n
12. Biện pháp điều tiết nước trong đất
Ðiều tiết nước trong đất bao gồm tổng hợp các biện pháp nhằm tạo
điều kiện cung cấp nước thoả mãn nhu cầu cây trồng.
Làm thay đổi "thu, chi" nước trong đất sẽ ảnh hưởng đến tổng lượng
nước dự trữ và lượng nước hữu hiệu của nó. Từ đó ta thấy biện pháp
điều hoà nước đúng đắn sẽ làm tăng năng suất cây trồng. Muốn tạo điều
kiện tốt cho cây phát triển, trước hết phải làm sao cho lượng nước xâm
nhập và lượng nước tiêu hao bằng nhau. Ðể điều tiết nước trong đất ta
có thể áp dụng một số biện pháp sau:
- Làm thuỷ lợi. Ví dụ, tiêu nước cho đất lầy, đất úng hay
tưới nước cho đất khô hạn. Ðây là biện pháp vừa nhanh vừa
triệt để. Tuy nhiên đòi hỏi đầu tư lớn ban đầu để xây dựng hệ
thống kênh mương, đập- hồ chứa nước, trạm bơm...
- Các biện pháp tăng khả năng giữ nước của đất, làm
giảm lượng nước tiêu hao vô dụng bao gồm: cải tạo kết cấu đất,
che phủ đất chống bốc hơi nước bằng các vật liệu khác nhau
hay thảm cây cây trồng, gieo trồng đúng thời vụ, chăm sóc cây
như: làm cỏ, xới xáo....
Tóm lại, điều hoà chế độ nước trong đất là tổng hợp các biện pháp
canh tác, biện pháp công trình thuỷ lợi, trồng rừng và bảo vệ rừng.
Lượng chứa nhiều cacbonic, ít ôxy và sự biến động lớn của chúng
là vì:
• Do tiêu hao nhiều ôxy mà sinh ra nhiều cacbonic (như quá trình hô
hấp, phân giải chất hữu cơ, các phản ứng hoá học, quá trình quang
hợp...).
• Do sự thay đổi tốc độ trao đổi không khí giữa đất và khí quyển, giữa
các tầng đất, giữa các mùa trong năm và cả chế độ canh tác. Ở
những tầng đất mặt thoáng khí, tỷ lệ ôxy trong không khí đất gần
ngang với trong khí quyển. Còn ở những tầng quá trình trao đổi khó
khăn như đất glây, đất ngập nước... thì lượng ôxy giảm xuống rất
mạnh, thậm chí còn lại phần vạn. Lượng chứa CO 2 thì ngược lại tăng
lên.
Theo Monthei và cộng sự (1964) cho rằng: dòng khí CO 2 là 1,5
g/ngày vào mùa đông và 6,7 g/ngày vào mùa hè trên đất sét trống.
Currie (1970) xác định giá trị của khí này là 1,2 g/ngày vào mùa đông và
16 g/ngày vào trong mùa hè trên đất trống; còn trên đất trồng cải xoăn
giá trị ứng với các mùa này là 3,0 và 35 g/ngày.
Năm 1967, Kemper đưa ra giá trị tiêu hao O2 trong khoảng 2,5 và
5,0 g/ m2/ ngày trên đất trống và giá trị này lớn gấp 2 lần trên đất có
canh tác. Cũng theo Currie (1970) tỷ số tiêu hao O2 là giữa 60 và 75 %
của tỷ số CO2 được tạo thành đạt tối đa là 24 g/m2 dưới cây cải xoăn vào
mùa hè.
Ngoài các chất khí kể trên, trong đất còn có thể một số chất khí khác
được sinh ra như: NH3, H2S, CH3...
Trong đất các chất khí biến hoá liên tục và được cân bằng theo
phương trình sau:
Khối lượng theo thể tích chất khí đi vào qua diện tích x y*
tại z trong thời gian t = khối lượng chất khí thoát ra qua
diện tiện tích x y tại z+z trong thời gian t
+ Khối lượng chất khí tăng lên theo thể tích được giữ lại trong
thời gian t
+ Khối lượng chất khí theo thể tích mất trong thời gian t bằng
con đường phản ứng hoá học hay sinh học.
1.3. Tính thông khí của đất
Tính thông khí của đất là khả năng di chuyển của không khí qua các
tầng đất. Là nhân tố thường xuyên quyết định tốc độ trao đổi khí giữa
đất và khí quyển, nghĩa là quyết định lượng O2 và CO2 trong đất, do đó
ảnh hưởng tới quá trình hoạt động của vi sinh vật, của các phản ứng xảy
ra trong đất, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới đời sống cây trồng.
Sự di chuyển không khí trong đất chính là quá trình khuếch tán của
khí tiến hành ở các khe hở liên tục, không bị tắc và không chứa nước.
Khe hở càng lớn tính thông thoáng càng cao. Theo kết quả nghiên cứu
ngoài đồng ruộng của Học viện nông nghiệp Timiriazev (CHLB Nga)
thì điều kiện tiên quyết đối với tính thông khí là độ hổng phi mao quản
lớn. Nếu nó đạt trên 10 % thì sự thông khí thực hiện hoàn toàn, khi đó
độ ẩm dù có tăng đến độ ẩm bão hoà thì tính thông cũng không giảm
đáng kể. Ðất sét không có kết cấu nên độ hổng phi mao quản thấp thì
tính thông khí thấp và có thể giảm tới zero ngay cả khi độ ẩm chưa đạt
mức bão hoà. Ðất có kết cấu tốt (độ hổng mao quản và phi mao cao),
tính thông khí lớn cho dù khi độ ẩm rất cao.
W. A. Jury và cộng sự (1986) đã cải biên định luật khuếch tán chất
khí trong tự nhiên của Fick để xác định dòng khí trong đất như sau:
a
Cg s C g
Jg= g Dg Dg
z z
Trong đó D D là hệ số khuếch tan chất khí trong đất; g là hệ số
s
g g
a
uốn khúc < 1; g= a, khi là hằng số, a là hằng số khí theo thể tích,
D là hệ số khuếch tán không khí trong tự nhiên.
g
a
mây
B ức xạ ra
ngoài hữu ích Nhiệt
(17%) cảm ứng
B ức xạ hữu hiệu (67%)
Hình 10.1 Phân bố bức xạ ngoài và trên mặt đất trong mùa hè
A. A. Geiger (1965) và Chang (1961)
Hr
A là đặc trưng cho chế độ nhiệt trong đất và phụ thuộc vào các yếu
tố (bảng 10.2) sau:
Bảng 10.2 Quan hệ trạng thái mặt đất với suất phản xạ
đất đất
Phủ tuyết trắng* 75-95 Ðất đen khô** 14
Ðụn cát sáng* 30-60 Ðất đen ướt** 8
Ðồng cỏ và hoa 12-30 Ngô (New 23,5
màu* York)++
5-20 5-18
Rừng*
3-10 Mía (Hawai)++ 5-8
Mặt nước*
25-30 Dứa (Hawai)++ 15-25
Ðất xám khô**
10-12 Khoai tây
Ðất xám ướt** (LB
23
Ðất sét khô** Nga)++
16
Ðất sét ướt**
Nguồn: * Geiger (1965); ** Chudnovskii (1966); ++ Chang (1968)
Suất phản xạ phụ thuộc vào một số yếu tố sau:
• Màu sắc đất. Ðất màu tối thu nhiệt tốt làm giảm giá trị của A. Vì thế
đất giàu mùn phản xạ nhiệt ít, nhận được nhiều nhiệt hơn đất nghèo
mùn.
• Thành phần cơ giới đất. Ðất nặng chứa nhiều sét, khả năng hấp phụ
nước và các vật chất khác cao hơn đất nhẹ. Chứa nhiều nước dẫn đến
suất phản xạ của đất nhỏ.
• Ðộ ẩm đất. Ðất ẩm có suất phản xạ bé hơn đất khô do nước có nhiệt
dung lớn hơn đất.
Ngoài ra, quá trình bốc hơi nước tiêu hao khá nhiều nhiệt. Vì vậy, đất
ẩm vào mùa đông ấm, ngược lại vào mùa hè mát.
• Trạng thái mặt đất. Mặt đất bằng phẳng giá trị A càng lớn.
• Thảm thực vật. Mức độ ngăn cản ánh nắng mặt trời phụ thuộc vào
loại cây và mật độ của cây.
• Hướng dốc cũng ảnh hưởng đáng kể đến suất phản xạ. Dốc theo
hướng Nam sẽ có giá trị của A bé hơn.
• Vĩ độ. Vĩ độ càng cao thì suất phản xạ càng lớn do hai nguyên nhân.
Trước hết là trên đường đến mặt đất xa hơn bức xạ bị hao tổn do các
yếu tố sẽ lớn hơn. Thứ hai, góc tới của bức xạ càng lớn suất phản xạ
càng cao.
b. Nhiệt dung của đất
Nhiệt dung riêng của đất là số calo cần thiết để đốt nóng 1 gam đất
hay 1 cm3 đất lên 10C. Ðất cấu tạo bao gồm pha rắn, pha lỏng và pha
khí. Trong đó chất khí có nhiệt dung riêng rất thấp (0,000306 calo/g
đất). Vì thế nhiệt dung riêng của đất là do hạt rắn và nước trong đất
quyết định. Nhiệt dung riêng của nước là 1 cal/g (4,18 jun/g), quân bình
của đất khô kiệt là 0,2 cal/g (gần 0,8 jun/g). Các loại đất có nhiệt dung
riêng khác nhau. Ví dụ, theo A.H. Xabanhin nhiệt dung riêng A các đất
đen, xám và đỏ lần lượt là: 0,230; 0,217 và 0,248.
Ðể tính chính xác nhiệt dung riêng của đất ta dùng công thức sau:
N
Cđất= Xa Ca+XwCw+ X C si si
J1
(1)
Trong đó: X phần thể tích, C là nhiệt dung riêng theo thể tích và a,
w, si chỉ không khí, nước, và loại hạt rắn i trong đất. Và được de Vries
(1963) mô hình hoá như sau:
Cđất= 0,461 X 0,60X
0 0 (2)
Trong đó: X0 là thể tích phần chất hữu cơ; là độ hổng; là lượng
nước theo thể tích; - X0 là phần thể tích của tất cả các loại khoáng vật
dz
Trong đó: JHc là dòng dẫn nhiệt, là hằng số sức dẫn nhiệt; T là
nhiệt độ.
phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
• Ðộ ẩm đất. Ðộ ẩm càng cao sức dẫn nhiệt của đất càng lớn do nước
truyền nhiệt cao hơn không khí.
• Ðộ chặt của đất. Ðất chặt, các hạt đất xếp sít vào nhau trong khi các
hạt khoáng dẫn nhiệt tốt hơn nước do đó đất ẩm bị nén chặt dẫn nhiệt
tốt hơn.
• Thành phần và số lượng cấp hạt. Có thể xếp sức dẫn nhiệt theo thứ tự
sau: cát > thịt > sét > than bùn.
Có thể tham khảo sức dẫn nhiệt của một số loại đất có ẩm độ khác
nhau do Geiger (1965) đưa ra trong bảng 10.3.
Bảng 10.3 Sức dẫn nhiệt của các loại đất khác nhau
Ðất (10-3 cal cm-1 s-1 Ðất (10-3 cal cm-1 s-1
0 -1 0 -1
C) C)
Cát ướt 4,00 Ðất thịt -
Cát khô 0,55 ướt Ðất -
Sét ướt 3,50 thịt khô 0,85
Sét khô 0,17 Than bùn 0,20
ướt Than
bùn khô
Thành phần bức Ðất trống khô Ðất ướt, cây phủ
xạ kín
S/RN 0,45 0,30
Hv. ET/ RN 0 0,70
JH/ RN 0,55 0
B ức x ạ hữu hiệu
B ốc hơi
Ban ngày
B ức x ạ hữu hiệu
Nhi ệt cảm ứng
B ốc hơi
Mặt đất
Hình 10.2 Sơ đồ biểu diễn thành phần của cân bằng năng lượng bề mặt
(Tanner 1968)
2.4. Sự thay đổi nhiệt độ đất hàng năm
Ngoài đồng ruộng, nhiệt độ thay đổi không ngừng. Trên cơ sở mô
hình của phương trình dòng nhiệt ổn định, phương trình tính nhiệt độ
hàng năm như sau:
T(t) = TA + A sin t
(4)
Trong đó: TA nhiệt độ trung bình năm, A là biên độ dao động bề
mặt, = 2 là tần số góc, là chu kỳ của sóng. Giả thiết khi z (độ
sâu) giảm đến vô cùng, ta có thể biến đổi thành
lim T(z,t) = TA
(5)
z
Carslaw và Jaeger, 1959 đã mô hình hoá (4) như sau:
T(z,t) = TA + A z / dsintz/ d
<
z<0 (6)
Trong đó: d= 2K T / = K /
T
Một kết quả ứng dụng phương trình (6) ta thu được trên hình 10.3.
Nhi ệt độ đất ( C)
0
Hình 10.3 Sơ đồ nhiệt độ tại mặt đất và 3 độ sâu theo hàm thời gian
của phương trình (6)
2.5. Ðiều hoà nhiệt trong đất
Ðiều hoà nhiệt trong đất là quá trình nhằm điều chỉnh nguồn nhiệt
và nhiệt độ theo hướng có lợi cho cây trồng, bao gồm một số biện pháp
kỹ thuật, biện pháp cải tạo đất và biện pháp điều hoà khí hậu. a. Các
biện pháp kỹ thuật
Ðây là những biện pháp tương đối đơn giản nhưng rất hiệu quả như
làm đất, chế độ canh tác.
Làm đất: Tuỳ theo từng vùng đất, từng mùa mà điều chỉnh mức độ
cày sâu hay nông khác nhau. Nén đất cũng là biện pháp giữ nhiệt tốt cho
đất vì càng chặt sự truyền nhiệt càng dễ. Nhờ đó mà tầng dưới nhiệt độ
có thể tăng 3-5 0C. Việc lên luống làm tăng sự gồ ghề cho mặt đất dẫn
đến tăng bức xạ nhiệt.
Che phủ đất cũng làm thay đổi khả năng phản xạ và phóng nhiệt
của đất. Che phủ đất bằng nguyên liệu màu đen có thể tăng bức xạ lên
10-15% do đó làm đất ấm lên nhất là vào mùa đông. Ngày nay người ta
dùng PE màu sáng cho phép tia hồng ngoại đi qua, tăng được nhiệt cho
đất.
b. Các biện pháp cải tạo đất
Các biện pháp cải tạo đất có ảnh hưởng lâu dài và cơ bản đến chế
độ nhiệt trong đất. Ta thường sử dụng những biện pháp như tưới tiêu
nước, trồng rừng để thay đổi chế độ nhiệt.
Tưới nước làm giảm suất phản xạ đáng kể, có thể tới 20 % thấp hơn
khi không tưới. Tưới nước cũng làm tăng tính dẫn nhiệt do đó nhiệt độ
trong đất đều nhau giữa các tầng và các vị trí. Ðất được tưới, nước bốc
hơi, từ đó bức xạ nhiệt trong không khí trên sát mặt ruộng tăng làm tăng
nhiệt độ, mạ non không bị chết rét.
Trồng rừng đầu ngọn gió hay đầu bờ ruộng có tác dụng ngăn tốc độ
gió dẫn đến thay đổi tiểu khí hậu cho vùng cây trồng đứng sau.
Bón phân nhất là phân hữu cơ có tác dụng làm thay đổi nhiệt độ vì
chất hữu cơ dẫn nhiệt kém giữ nhiệt lâu, ngoài ra vi sinh vật phân giải
chất hữu cơ giải phóng nhiều năng lượng. c. Các biện pháp điều hoà
khí hậu
Ngoài biện pháp cơ bản là trồng rừng, ngày nay con người có thể
thay đổi thời tiết nhân tạo. Ví dụ làm mưa kể cả mưa đá, làm gió hay
phá tan một cơn mưa... Tất cả những kỹ thuật này đều ảnh hưởng tới
nhiệt độ trong đất.
có khoảng
hổng không khí) trong một thể tích xác định (thường được đo
bằng g/cm3).
P1- Khối lượng nước được chứa trong cùng thể tích ở điều kiện
T0: 4oC (g/cm3).
Tỷ trọng của các loại khoáng vật khác nhau có sự giao động khá
lớn song nhìn chung biến động trong phạm vi từ 2,40 - 2,80 (bảng 11.1)
Bảng 11.1. Tỷ trọng của một số khoáng vật có trong đất
Khoáng vật Tỷ trọng
Thạch anh tinh khiết 2,65
Canxít 2,60
Canxít tinh khiết 2,80
Fenspat K- Na 2,72
Dolomit 2,60
Gypxít 2,80
Mica 2,80
Khoáng sét 2,90
Bốcxít (Nhôm ôxit) 2,32
Ôlivin, pyrôxen, amphibole (có chứa sắt) 2,80
Hêmatít 3,10
Quặng chì 2,60
2,90
2,09
2,90
3,50
5,30
7,60
Tỷ trọng của đất được quyết định chủ yếu bởi các loại khoáng
nguyên sinh, thứ sinh và hàm lượng chất hữu cơ có trong đất. Nhìn
chung do tỷ lệ chất hữu cơ trong đất thường không lớn nên tỷ trọng đất
sẽ phụ thuộc chủ yếu vào thành phần khoáng vật của đất. Các loại
đất có thành phần cơ giới khác nhau có tỷ trọng khác nhau:
Loại đất Tỷ trọng
Ðất cát 2,65 ± 0,01
Ðất cát pha 2,70 ± 0,017
Ðất thịt 2,70 ± 0,02
Ðất sét 2,74 ± 0,027
Dựa vào tỷ trọng đất, Katrinski đã đưa ra mức đánh giá chung khi
xác định tỷ trọng của đất trồng như sau:
Tỷ trọng Loại đất
<2,50 Ðất có lượng mùn cao
2,50 - 2,66 Ðất có lượng mùn trung
bình
>2,70 Ðất giàu sắt Fe2O3
Ý nghĩa thực tiễn: Tỷ trọng đất được sử dụng trong các công thức
tính toán độ xốp, công thức tính tốc độ, thời gian sa lắng của các cấp
hạt đất trong phân tích thành phần cơ giới. Thông qua tỷ trọng đất
người ta cũng có thể đưa ra được những nhận xét sơ bộ về hàm lượng
chất hữu cơ, hàm lượng sét hay tỷ lệ sắt, nhôm của một loại đất cụ thể
nào đó.
2.2. Dung trọng của đất
Ðịnh nghĩa: Dung trọng của đất là khối lượng (g) của một đơn vị thể
tích đất (cm3) ở trạng thái tự nhiên (có khe hở) sau khi được sấy khô
kiệt.
Dung trọng của đất được người ta xác định bằng cách đóng ống kim
loại hình trụ có thể tích bên trong 100 cm3 thẳng góc với bề mặt đất ở
trạng thái hoàn toàn tự nhiên, sau đó đem sấy khô kiệt rồi tính theo công
thức sau:
D=P/V
Trong đó:
D - Dung trọng của đất (g/cm3);
P - Khối lượng đất tự nhiên trong ống trụ đóng sau khi đã được
sấy khô kiệt (được tính theo g).
V - Thể tích của ống đóng (được tính theo cm3).
Như vậy dung trọng của đất thường nhỏ hơn so với tỷ trọng vì thể
tích đất khô kiệt được xác định ở đây bao gồm cả các hạt đất rắn và các
khe hở tự nhiên trong đất.
Bảng 11.2. Quan hệ giữa dung trọng đất với thành phần cơ giới và thành
phần vật liệu cấu tạo ở một số loại đất
TPCG đất Dung Thành phần vật liệu cấu Dung
trọng tạo đất trọng
Cát 1,55 Tro núi lửa 0,85
Thịt pha cát 1,40 Vật liệu hữu cơ 0,50- 0,60
Cát mịn 1,30 Tảo cát 0,60- 0,90
Ðất thịt 1,20 Can xít mềm, xốp 1,60
Ðất thịt mịn 1,15 Than bùn 0,50
Ðất thịt pha 1,10
sét 1,05*
Sét 1,00
Sét vón cục
* Khi sấy khô bị mất nhiều nước dẫn đến sét có tỷ trọng bé.
Như vậy dung trọng của đất phụ thuộc vào cấp hạt cơ giới, độ chặt và
kết cấu của đất. Các loại đất tơi xốp, giàu chất hữu cơ và mùn thường
có dung trọng nhỏ và ngược lại những loại đất chặt bí kém tơi xốp và
nghèo chất hữu cơ thường có dung trọng lớn (bảng 11.2). Trong phẫu
diện đất của phần lớn các loại đất, dung trọng có chiều hướng tăng
dần khi xuống tầng đất dưới sâu, vì càng xuống sâu hàm lượng mùn
của đất càng giảm, mặt khác do quá trình tích tụ sét và các vật liệu
mịn bị rửa trôi từ trên xuống lấp đầy các khe hở và bị nén đã làm cho
đất bị chặt gí hơn các tầng trên.
Katrinski đã đưa ra đánh giá dung trọng của một số loại đất có thành
phần cơ giới từ thịt và sét như sau:
Dung trọng (g/cm3) Ðánh giá
<1 Ðất giàu chất hữu
cơ
1,0 - 1,1 Ðất trồng trọt điển
hình
1,2 Ðất bị nén ít
1,3 - 1,4 Ðất bị nén chặt
1,4 - 1,6 Những tầng đất bị nén chặt
canh tác dưới tầng
1,6 - 1,8 Tầng tích tụ bị nén mạnh
Ý nghĩa: Dung trọng của đất được sử dụng trong việc tính độ xốp
của đất, tính khối lượng đất canh tác trên 1 ha để xác định trữ lượng các
chất dinh dưỡng, lượng vôi cần bón cho đất hay trữ lượng nước có trong
đất...
Dựa vào đặc tính nén của đất dung trọng còn được dùng để kiểm
tra chất lượng các công trình thủy lợi, đê, bờ mương máng... để đảm bảo
độ vững của các công trình trên đòi hỏi dung trọng cần đạt được tối thiểu
phải lớn hơn 1,5 g/cm3.
2.3. Ðộ xốp của đất
Ðịnh nghĩa: Ðộ xốp của đất là tỷ lệ % các khe hở chiếm trong đất
so với thể tích chung của đất (ký hiệu P).
Công thức tính độ xốp của đất: Do các khe hở trong đất có các
hình dạng phức tạp và kích thước rất khác nhau nên việc tính toán trực
tiếp thể tích của các khe hở trong đất là rất khó, do đó để xác định được
độ xốp của đất người ta phải tính một cách gián tiếp từ tỷ trọng và dung
trọng của đất theo công thức sau:
P(%) = (1 - D/ d) x 100
Trong đó:
P - Ðộ xốp của đất (%);
D - Dung trọng đất;
d - Tỷ trọng đất.
Ðộ xốp của đất có thể biến động từ 30-70% tùy thuộc vào đất rời
rạc không có kết cấu như đất cát, đất bạc màu cho đến những loại đất
có kết cấu viên như đất đỏ vàng đồi núi. Như vậy độ xốp phụ thuộc
vào kết cấu, tỷ trọng và dung trọng của đất.
Ðộ xốp của đất thường được phân cấp như sau:
P (%) Mức độ
60 - 70 Ðất rất xốp
50 - 60 Ðất khá xốp
40 - 50 Ðất xốp trung bình
30 - 40 Ðất ít xốp
<20 Ðất chặt bí (do hiện
tượng glây)
Ý nghĩa thực tiễn: Ðộ xốp của đất rất có ý nghĩa đối với sản xuất
nông nghiệp và các loại cây trồng vì nước và không khí di chuyển được
trong đất nhờ vào những khoảng trống hay độ xốp của đất. Các chất dinh
dưỡng của đất có thể huy động được cho cây trồng, các hoạt động của vi
sinh vật đất chủ yếu cũng diễn ra ở đây, chính bởi vậy mà người ta nói
độ phì đất phụ thuộc đáng kể vào độ xốp của đất. Ngoài ý nghĩa trên
chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy nếu đất tơi xốp thì làm đất cũng dễ
dàng, rễ cây phát triển tốt, khả năng thấm, thoát nước và trao đổi không
khí diễn ra cũng hết sức thuận lợi và nhanh chóng. Vùng đồi núi nếu đất
có độ xốp cao thì phần lớn nước mưa được thấm xuống sâu, hạn chế
hiện tượng nước chảy tràn trên mặt đất và do đó hạn chế được xói mòn
trên bề mặt. Bảng 11.3 biểu diễn quan hệ giữa dung trọng, tỷ trọng và độ
xốp của một số loại đất.
Bảng 11.3 Dung trọng, tỷ trọng và độ xốp của một số loại đất
ở việt nam
Loại đất Ðộ
(theo phát Dung tr(g/cmọ)ng trTọỷng xốp
3
sinh) (%)
r=P/S
Trong đó:
r - độ dính (G/cm2);
P - lực hao tổn để làm rơi phần đất tiếp xúc với đĩa (G); S-
diện tích của đĩa kim loại (cm2).
3.3. Tính dẻo của đất
Tính dẻo hay độ dẻo của đất thường thể hiện khi đất ở trạng thái
ẩm, có khả năng nặn tạo được những hình dạng nhất định và có thể giữ
nguyên được hình dạng đó khi không có lực bên ngoài tác động. Ðất có
chứa 15% hàm lượng sét trở lên thì bắt đầu có biểu hiện tính dẻo rõ, tính
chất này có liên quan đến bản chất tự nhiên của các hạt sét khi chúng
hấp phụ nước.
Tính dẻo của đất chỉ thể hiện khi đất có phạm vi độ ẩm nhất định,
đất quá khô hay bão hòa nước đều không có tính dẻo. Nếu khô, hòn
đất chỉ có thể nứt vỡ ra còn nếu ẩm quá thì khoảng cách giữa các hạt
đất sẽ lớn, đất bị nhão hay bị lỏng như "cháo" không còn tính dẻo
nữa.
Tính dẻo của đất phụ thuộc vào thành phần cơ giới đất và thành
phần khoáng sét của đất. Ðất càng giàu sét, đặc biệt là nhóm khoáng
sét montmorilonit, illit thì đất càng dẻo và ngược lại ở những đất
nghèo sét như đất cát hoàn toàn không có tính dẻo.
Phạm vi xuất hiện tính dẻo của đất được xác định bởi hai giới hạn
(các giới hạn này có liên quan tới độ ẩm của đất). Giới hạn dưới thể
hiện đặc tính đất bắt đầu nặn được hay vê thành dạng như con giun và
giới hạn trên (vượt quá tính dẻo), là đất bắt đầu không thể nặn được
nữa, ở mức giới hạn trên này thường bất lợi cho sản xuất nông nghiệp
(trừ đất trồng lúa nước).
Ý nghĩa thực tiễn: đất có tính dẻo cao thường có những ảnh
hưởng không tốt đến việc làm đất vì ở trạng thái ẩm, ướt khi cày bừa
đất sẽ tạo thành tảng lớn chứ không không tơi vỡ tạo ra các kết cấu
thích hợp cho cây trồng. Còn ngược lại ở trạng thái đất khô thì lại rất
cứng, làm tăng lực cản của đất đối với các công cụ làm đất và làm
tiêu tốn nhiều năng lượng trong làm đất. Tuy nhiên tính dẻo của đất
rất có ý nghĩa trong việc phân loại đất, trong kỹ thuật xây dựng, vì
chúng liên quan tới sức chống nén khi xây dựng nhà ở và đường giao
thông.
3.4. Tính trương và tính co của đất
Tính trương và tính co của đất là đặc tính thể tích của đất tăng lên
khi ẩm và bị co lại khi khô. Tính trương co của đất có liên quan đến sự
xâm nhập và mất nước giữa các tinh tầng khoáng sét do đó đặc tính này
phụ thuộc chủ yếu vào thành phần và hàm lượng sét có trong đất và
thành phần các cation hấp phụ trong đất. Ví dụ: Ðất có nhiều thành phần
khoáng kaolinit thì ít bị trương co hơn so với đất chứa nhiều khoáng sét
montmorilonit, smectit, trong khi đó đất có chứa nhiều khoáng hydrôxit
sắt thì hầu như rất ít bị trương co. Ðất hấp phụ nhiều ion Na+ có tính
trương co mạnh hơn so với đất hấp phụ ion Ca2+. Tính co của đất được
Till phân cấp ở bảng 11.4
Bảng 11.4 Phân cấp tính co của đất có thành phần cơ giới khác
nhau
(theo Till)
Mức co Thành phần cơ giới đất
0,5 - 1,0% Ðất cát
0,5 - 1,5% Ðất cát pha, thịt nhẹ
3,0 - 4,5% Ðất thịt trung bình
4,5 – 6,0% Ðất thịt nặng
6,0 - 8,0% Ðất sét
8,0 - 10% Ðất sét nặng
Ý nghĩa thực tiễn: những loại đất có tính trương và tính co mạnh
đều gây ra những bất lợi cho sản xuất. Ðất thịt nặng và sét khi bão hòa
nước, đất sẽ bị trương rất nhanh lấp hết các khe hở trong đất làm giảm
và mất khả năng thấm theo chiều sâu, tạo nên dòng chảy trên bề mặt gây
xói mòn rửa trôi mạnh (thường xảy ra ở miền núi). Trong khi ở vùng
đồng bằng và vùng ven biển trên những đất phù sa thành phần cơ giới
nặng trồng lúa khi bị khô hạn đất sẽ bị co mạnh làm mặt đất bị nứt nẻ
với những kẽ nứt rộng hàng vài ba cm, hiện tượng nứt nẻ bề mặt càng
làm tăng quá trình bốc hơi nước trong đất và làm đất mất ẩm nhanh
chóng, bốc mặn lên lớp đất mặt và ngoài ra hiện tượng co mạnh còn làm
đứt rễ các cây trồng gây ra ảnh hưởng xấu đến quá trình sinh trưởng của
cây.
3.5. Sức cản của đất
Khi chuẩn bị đất canh tác cần phải tiến hành cày, bừa, phay đất cho
tơi nhỏ nhằm tạo ra kết cấu đất thích hợp cho cây trồng. Ðể làm được
các công việc trên, các công cụ làm đất phải tạo ra được những lực cần
thiết để thắng sức cản của đất và lực này được đặc trưng bởi lực cản
riêng của đất. Lực cản riêng của đất là lực cần để cắt mảnh đất có tiết
diện ngang là 1cm2 và được biểu thị là Kg/cm2.
Việc nghiên cứu sức cản của đất để nhằm mục đích giảm chi phí và
nâng cao chất lượng làm đất. Sức cản (P) có thể đo bằng lực kế lắp sau
máy kéo.
P = k.a.b
Trong đó: k - Hệ số chỉ sức cản riêng của từng loại đất, cụ thể:
đất cát 0,2 - 0,3 Kg/cm2, đất thịt 0,6 Kg/cm2, đất sét 0,9 Kg/cm2.
a - Chiều sâu cày (cm). b - Chiều rộng hoạt động của lưỡi
cày (cm).
Có nhiều yếu tố chi phối và ảnh hưởng đến lực cản riêng của đất
như: thành phần cấp hạt, độ ẩm, hàm lượng mùn và kết cấu đất... Về
ảnh hưởng của thành phần cơ giới được thể hiện qua hệ số chỉ sức cản
riêng của các loại đất cát, thịt, sét... Ðộ ẩm đối với sức cản của đất
được thể hiện đất ở trạng thái khô hay ướt, đất khô có lực cản lớn hơn
nhiều so với đất ướt. Ðất có kết cấu thích hợp ở dạng viên thường có
sức cản giảm so với đất có kết cấu dạng tảng. Ngoài ra các biện pháp
canh tác bón vôi và đặc biệt là phân hữu cơ cho đất có tác dụng làm
giảm lực cản của đất một cách rõ rệt.
Ý nghĩa thực tiễn: việc nghiên cứu lực cản có ý nghĩa rất lớn đối
với các biện pháp canh tác vì dựa trên những số liệu đo lực cản có thể
nhận định về mức độ làm đất dễ hay khó, thành phần cơ giới đất và
khả năng phát triển của bộ rễ cây trồng. Ðặc biệt trong vịec làm đất
người ta thường dùng trị số về lực cản để lựa chọn các máy móc,
công cụ làm đất cho phù hợp.
4. Ảnh hưởng của biện pháp canh tác tới tính chất vật lý và cơ lý
tính của đất
Khi đề cập đến các biện pháp canh tác nông nghiệp có nghĩa là nói
tới các hoạt động cụ thể trong sản xuất như việc làm đất (cày, bừa,
đập, xới xáo đất), bón vôi, bón phân, xây dựng các công thức luân
canh cây trồng, thủy lợi... tất cả các biện pháp canh tác trên đều có
ảnh hưởng rất lớn đến các tính chất vật lý và cơ lý tính của đất. Cụ thể
khi làm đất, cày bừa quá kỹ sẽ làm phá vỡ tính liên kết của đất do đó
dần dần làm đất bị mất kết cấu, thay đổi độ xốp và dung trọng. Ngược
lại việc bón đầy đủ phân hữu cơ và vôi cho đất canh tác sẽ làm đất
tăng độ xốp, giảm tính liên kết và giảm dung trọng đất. Các biện pháp
tưới, tiêu hợp lý sẽ đảm bảo duy trì được độ ẩm thích hợp cho đất và
các tính chất cơ lý khác như tính dính, tính dẻo, tính trương và co
cũng như sức cản khi làm đất. Việc bố trí các hệ thống cây trồng và
các hệ thống canh tác luân canh hay độc canh liên tục trên một mảnh
đất cụ thể nào đó cũng sẽ tác động và dần dần ảnh hưởng đến các tính
chất lý tính và cơ lý tính của đất. Một ví dụ về ảnh hưởng của làm đất
bằng máy ở các mức độ nhiều, trung bình, ít và bằng tay đến dung
trọng của đất canh tác ở Gana (Bafoe- Bonnie và Quansah. 1975) trên
đất sét pha cát có độ dốc 3,5% được trình bày ở bảng 11.5
Bảng 11.5. Ảnh hưởng của các hệ thống làm đất đến dung trọng của
đất
1. Tỷ trọng của đất là gì? Hãy nêu tỷ trọng của một số loại đất
chính? Ý nghĩa thực tiễn của tỷ trọng đất?
2. Dung trọng của đất là gì? Hãy nêu dung trọng của một số loại đất
chính? Ý nghĩa thực tiễn của dung trọng đất?
3. Ðộ xốp của đất là gì? Hãy nêu độ xốp của một số loại đất chính?
Ý nghĩa của độ xốp đối với đất và cây trồng?
4. Thế nào là tính dính, tính dẻo của đất, ảnh hưởng của chúng đến
các tính chất đất?
5. Thế nào là tính trương, tính co của đất, ảnh hưởng của chúng đến
các tính chất đất và biện pháp làm đất?
6. Ðể cải thiện một số tính chất vật lý và cơ lý của đất trong các
biện pháp canh tác người ta thường áp dụng các biện pháp gì?
Chương XII
XÓI MÒN ĐẤT
1. Khái niệm về xói mòn và ý nghĩa của việc nghiên cứu xói mòn đất
Sự tồn tại của cuộc sống con người phụ thuộc rất nhiều vào lớp đất
trồng trọt để sản xuất ra lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu sản
xuất công nghiệp phục vụ cho đời sống của con nguời. Tuy nhiên sự tồn
tại của lớp đất có khả năng canh tác này lại luôn chịu những tác động
mạnh mẽ của các điều kiện tự nhiên và các hoạt động canh tác do con
người có thể làm cho chúng bị thoái hóa và dần mất đi khả năng sản
xuất, trong đó một trong những nguyên nhân làm cho đất bị thoái hóa
mạnh nhất là do xói mòn. Hiện tượng mất đất do xói mòn mạnh hơn rất
nhiều so với sự tạo thành đất trong quá trình tự nhiên, một vài cm đất có
thể bị mất đi chỉ trong một vài trận mưa giông hoặc gió lốc trong khi để
có được vài cm đất đó cần phải có thời gian hàng trăm năm, thậm chí
hàng ngàn năm mới tạo ra được. Trên thế giới hầu như không có quốc
gia nào là không chịu ảnh hưởng của xói mòn, nhất là ảnh hưởng của xói
mòn do nước và do gió. Các nước thuộc miền nhiệt đới ẩm do có lượng
mưa, bão hàng năm lớn tập trung theo mùa, phần lớn đất đai canh tác
nằm ở những địa hình dốc nên xói mòn do nước mưa là nguy cơ chính
tạo ra hiện tượng xói mòn ở đây. Trong khi đó hiện tượng xói mòn do
gió lại xảy ra chủ yếu ở những vùng khô hạn và bán khô hạn, nơi có
lượng mưa thấp không duy trì được lớp thảm thực vật thường xuyên trên
bề mặt đất. Xói mòn mạnh có thể làm mất tới 1400 tấn đất/ ha/năm,
tương đương với toàn bộ tầng canh tác dày 10cm có dung trọng 1,4
g/cm3 (Benntt 1939). Còn ở những nơi chịu ảnh hưởng của xói mòn do
gió gây ra thì lượng đất mất cũng thường cao hơn 11,2 tấn/ ha/ năm
tương đương với lớp đất dày 0,8cm.
Bên cạnh những tác động trực tiếp đến khả năng sản xuất do xói
mòn gây ra đối với đất canh tác, vấn đề môi trường cũng sẽ dần xuất
hiện khi những vùng đất bị xói mòn trở thành những vùng đất trống, đồi
trọc trơ sỏi đá hay thậm chí mất đi hẳn lớp đất chỉ còn lại các đá gốc.
Các hạt đất mịn khi bị cuốn đi theo dòng nước còn gây ra hiện tượng
lắng đọng bùn ở dưới vùng hạ lưu các lòng sông, hồ và đập thủy điện
làm ảnh hưởng đến lưu lượng dòng chảy và có thể gây ra lũ lụt.
Có thể nhận thấy đối với thực tiễn sản xuất nông nghiệp không có
sự thoái hóa đất nào mạnh và hiểm họa hơn xói mòn đất bởi nó liên quan
đồng thời tới các quá trình mất đất, mất chất dinh dưỡng và nước cho
cây trồng đồng thời còn gây ra các tác động xấu đến môi trường. Do đó
việc nghiên cứu xói mòn là vô cùng cần thiết cho mọi quốc gia, đặc biệt
đối với nước ta là một nước nằm trong vành đai nhiệt đới với 3/4 diện
tích đất tự nhiên là đồi núi, thường xuyên phải hứng chịu các hậu quả do
xói mòn gây ra thì việc khống chế hiện tượng xói mòn đất càng trở nên
cực kỳ quan trọng để bảo vệ độ phì nhiêu của đất và bảo vệ môi trường
sinh thái.
Như vậy nguyên nhân của hiện tượng xói mòn do nước xảy ra ở
các nước vùng nhiệt đới ẩm chủ yếu là do mưa nhiều và đất dốc. Ngoài
tác động va đập của mưa và dòng chảy đối với đất thì khả năng xói mòn
còn bị chi phối bởi các yếu tố độ dốc, chiều dài dốc của bề mặt đất; cấu
trúc đất và các biện pháp canh tác áp dụng đối với đất. Những tác động
tổng hợp trên được thể hiện qua phương trình mất đất phổ dụng của xói
mòn do nước được Weischmaier và Smith xây dựng.
3.2. Phương trình mất đất phổ dụng do xói mòn của nước
Sau rất nhiêu năm nghiên cứu kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn,
các nhà khoa học Weischmaier và Smith đã xác định được phương trình
dự tính lượng đất xói mòn do nước gây ra, thường được gọi là phương
trình mất đất phổ dụng có công thức sau:
A = R.K.L.S.C.P Trong
đó:
A - Lượng đất mất bình quân trong năm (tấn/ha/ năm);
R - Yếu tố mưa và dòng chảy;
K - Hệ số bào mòn của đất (tấn/ha/ đơn vị chỉ số xói mòn);
L - Yếu tố chiều dài của sườn dốc;
S - Yếu tố độ dốc;
C - Yếu tố che phủ và quản lý đất;
P - Yếu tố hoạt động điều tiết chống xói mòn;
Việc hiểu rõ các yếu tố này sẽ giúp cho xác định hướng khống
chế xói mòn đối với đất.
a. Yếu tố mưa và dòng chảy (R)
Ðây là thước đo sức mạnh xói mòn của mưa và sức chảy tràn trên
mặt. Yếu tố được thể hiện qua tổng lượng mưa và cường độ mưa. Với
tổng số lượng mưa hàng năm lớn song nếu được chia ra nhiều trận ở
mức độ nhẹ thì có thể mức độ xói mòn cũng sẽ ít đi so với tổng lượng
mưa hàng năm tuy không cao song mưa tập trung với cường độ cao có
thể gây kết quả xói mòn nghiêm trọng, điều này thường xảy ra đối với
xói mòn ở những vùng bán khô hạn.
Sự phân bố của mùa mưa cũng là yếu tố chi phối và quyết định đến
lượng đất mất do xói mòn. Những trận mưa lớn nếu xảy ra ở những thời
điểm đất trống trải như ở giai đoạn làm đất trước gieo trồng hoặc sau khi
thu hoạch cũng là nguyên nhân làm cho lượng đất bị mất nhiều hơn.
Hệ số R còn được gọi là chỉ số xói mòn do mưa và trong đó tính
đến những ảnh hưởng của bão. Tổng động năng của mỗi trận bão (liên
quan đến cường độ mưa và tổng lượng mưa) với cường độ lớn nhất diễn
ra trong 30 phút được ngưới ta cân nhắc cộng với lượng mưa bình quân.
Tổng của các chỉ số cho tất cả những trận bão xảy ra trong năm cung cấp
cho chỉ số hàng năm và bình quân của các chỉ số này trong nhiều năm
được sử dụng trong công thức mất đất phổ dụng. Việc xác định hệ số R
được tính theo công thức (Mutchler và Murphree, 1985):
R= EI30/ 100.
Trong đó: E (động năng mưa) = 451 + 331 log10I (tấn/ha). I: cường
độ mưa (mm/giờ) và I30: cường độ mưa lớn nhất trong 30 phút (mm/h)
Chỉ số R tại Việt Nam biến động từ 523 đến > 1200. Chỉ số lớn
nhất (R>1200) thu được tại các vùng Bắc Quang, Hoàng Liên Sơn, Tây
Bắc, Lai Châu và Tam Ðảo. Còn phần lớn diện tích ở Bắc Bộ có chỉ số
R= 700 - 1200.
Bảng 12.2 Diện tích của những loại hình sử dụng đất chính và tỷ lệ
(%) đất bị xói mòn trên giới hạn 11 Mg/ha/ năm* ở Mỹ
Ðiều đáng chú ý là lượng mưa và cường độ mưa luôn khác nhau
giữa các vùng do vậy ảnh hưởng của xói mòn cũng rất khác nhau tùy
theo nơi.
Sự kết hợp giữa các loại cây trồng và khả năng duy trì lớp phủ bề
mặt đất (bao gồm cả sự che phủ của các lớp cỏ giữa các băng cây trồng)
theo thời gian trong năm thông qua các hệ thống luân canh hợp lý làm
giảm xói mòn rất nhiều. Vì vậy chúng được gọi là "Hệ thống canh tác
bảo vệ đất". Nếu hệ thống này để lại các tàn thể thực vật sau thu hoạch
cũng sẽ làm giảm khá nhiều hiểm họa của xói mòn. Chúng ta có thể thấy
rõ những tổn thất do rửa trôi khi canh tác theo phương pháp cổ truyền
trên các sườn dốc trung bình ở một số vùng nhiệt đới (bảng 12.4).
Bảng 12.4. Lượng đất bị xói mòn trên một số hệ thống canh tác ở
vùng nhiệt đới (Theo Sheng, 1982)
Ðộ đ Lượng
Nước hoặc Cấu dốc ất mất
Cây trồng và cách làm đất hàng
lãnh thổ tạo đất (độ năm
)
(t/ha)
Jamaica, - Khoai mỡ trồng trên Sét 17 133
vùng Smith các mô đất Mùn
field - Trồng chuối làm sạch
Lượng mưa đất
3300
mm/năm
Elxanvado, Ngô trồng thành hàng nhấp Mùn 17 127
vùng nhô, đất được làm sạch Sét
Metapa
Lượng mưa
1900
mm/năm
Ðài Loan
Lượng mưa Dứa trồng nhấp nhô Sét 11 62
2500 Mùn
mm/năm
Vùng Trung Khoai lang trồng theo luống Cát 12 172
du Mùn
Vùng Hsing - Trồng liên tục trong 2 năm Mùn 18 208
Wa cao lương, khoai lang, đậu
tương và ngô.
- Tất cả đều làm sạch
Giá trị (C) cho những vùng riêng biệt phụ thuộc vào nhiều nhân tố
gồm: cây trồng hiện tại, các giai đoạn phát triển của cây trồng, hệ thống
làm đất và các yếu tố quản lý khác. Trị số C sẽ cao (gần đến 1,0) với
những loại đất có độ che phủ thấp, như ở những vùng đất canh tác vừa
mới làm đất sạch và mới gieo hạt hoặc mới trồng cây con tán cây chưa
phát triển, ngược lại trị số này sẽ đạt giá trị thấp (<0,1) ở trên những
diện tích đất rừng có tán che phủ dày hay những diện tích đất canh tác
có để lại khối lượng tàn dư thực vật cao. Giá trị C thường được tính toán
bởi những nhà khoa học có kinh nghiệm, hiểu biết về ảnh hưởng của độ
che phủ và quản lý trong mỗi vùng xác định. Ðộ che phủ của cây trồng
có ý nghĩa trong việc giảm tốc độ va đập của hạt mưa vào đất và hạn chế
tốc độ dòng chảy trên mặt. Hệ số C phụ thuộc vào cây trồng và điều kiện
canh tác của mỗi vùng. Ví dụ, theo Nguyễn Trọng Hà và các cộng sự ở
vùng Xuân Mai, Hòa Bình C dao động từ 0,05- 0,07; C ở vùng đất
trống:
1; C ở đất lúa nương: 0,5...
đ. Yếu tố hoạt động trợ giúp của con người (P)
Yếu tố này phản ánh hiệu quả tác động của con người trong canh
tác đối với quá trình xói mòn đất cụ thể như việc trồng cây theo đường
đồng mức, trồng cây theo băng dải và các hoạt động trợ giúp khác, tỷ lệ
đất mất được xác định đối với từng biện pháp xác định khi chúng được
áp dụng trên đất dốc. Trong sử dụng đất dốc biện pháp chính để bảo vệ
đất có liên quan đến khả năng che phủ bề mặt và quản lý cây trồng luôn
cần phải có sự trợ giúp của các hoạt động khác, các hoạt động trợ giúp
(hay yếu tố P) bao gồm việc làm đất theo đường đồng mức, trồng các
băng dải cây trồng theo đường đồng mức, các hệ thống ruộng bậc thang
và các hệ thống đường dẫn thoát nước... Các tác động quản lý được thể
hiện trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Việc khai thác rừng một cách bừa bãi, đốt rừng làm nương rẫy, sau
đó cày xới là tác động có tính phá hoại đối với đất trên sườn dốc, đặc
biệt cách làm này thường được tiến hành vào trước mùa mưa làm đất dễ
bị rửa trôi ngay ở những trận mưa đầu tiên, hoặc các biện pháp canh tác
không hợp lý đối với đất dốc như canh tác theo đường dốc, không trồng
các dải bảo vệ hoặc dải cây che phủ để ngăn dòng chảy đều tạo điều kiện
cho xói mòn xảy ra mạnh mẽ.
Giá trị P đối với mỗi hoạt động trợ giúp được xác định theo tỷ lệ
đất mất diễn ra ở ô đất áp dụng các biện pháp trợ giúp chống xói mòn so
với ô đất không sử dụng biện pháp chóng xói mòn. Ví dụ: P= 1 khi canh
tác không áp dụng biện pháp chống xói mòn còn các giá trị P cho việc
canh tác theo đường đồng mức hoặc trồng cây theo băng ở cấp độ dốc
khác nhau được trình bày ở bảng 12.5.
Bảng 12.5. Giá trị P cho ruộng bậc thang canh tác theo đường đồng
mức và độ dốc
1- 2 0,60 0,30
3- 8 0,50 0,25
9- 12 0,60 0,30
13- 16 0,70 0,35
17- 20 0,80 0,40
21- 25 0,90 0,45
5. Các biện pháp kỹ thuật chống xói mòn, rửa trôi đất
Có nhiều biện pháp kỹ thuật để chống xói mòn bảo vệ đất. Song
mỗi biện pháp chỉ có khả năng thích ứng tối ưu với từng khu vực và
trong từng điều kiện cụ thể. Một số biện pháp được áp dụng phổ biến là:
5.1. Một số biện pháp công trình nhằm hạn chế xói mòn
Trong các vùng nhiệt đới, biện pháp công trình (thiết kế đồi ruộng,
xây dựng ruộng bậc thang nắn dòng chảy...) là rất cần thiết trong việc
canh tác và bảo vệ đất dốc. Chức năng chủ yếu của công trình là dẫn
dòng, ngăn dòng làm cho chảy chậm lại, lưu chứa tạm thời hay bố trí
dòng chảy an toàn để xói mòn là thấp nhất. Các biện pháp công trình
bao gồm thiết kế lô thửa, xây dựng hệ thống ruộng bậc thang. Những
biện pháp này có tác dụng bảo vệ đất tốt nhất (đạt hiệu quả bảo vệ 80-
90%) nhưng cũng đòi hỏi việc đầu tư vốn lớn sau đây là một số biện
pháp chính thường được áp dụng ở vùng đồi núi nước ta:
V ï ng ph©n bè dßng x ãi
M Æt Êt b an Çu
M Æt thÒm n»m ngang
Chương XIII
Ô NHIỄM ÐẤT
Cu Luyện kim, công nghiệp chế đồ đồng, nông dược chứa chất
đồng
Cr Luyện kim, mạ, nước thải xưởng in và nhuộm
Chất
Hg Xưởng sản xuất hợp chất có chứa Hg, nông dược ô chứa
thuỷ ngân
Pb Nước thải luyện kim, nông dược
m vô Nước thải luyện kim, xưởng dệt, nông
Zn dược chứa Zn, phân lân
cơ
Ni Nước thải luyện kim, mạ, luyện dầu,
thuốc
nhuộm
F Nước thải sau khi sản xuất phân lân
Muối kiềm Nước thải nhà máy giấy, nhà máy hoá
chất
Axit Nước thải nhà máy sản xuất H2SO4, đá
dầu, mạ điện
Phenol Công nghệ hoá dầu, sản xuất
benzenphenol, cao su, nông dược
Hợp chất Mạ, luyện kim, in ấn, phân bón
Chất xyanua
ô
C12H22 Nước thải công nghiệp đá dầu
nhiễ
nhiễ
Ðá dầu Khai thác đá dầu, luyện dầu, ống dẫn dầu bị rò
m
hữu Nông dược Sản xuất nông nghiệp và sử dụng
cơ
hữu cơ
Các chất Nước cống rãnh thành phố, thực phẩm, công
huyền phù hữu nghiệp giấy, công nghiệp xellulo cơ
có N
Gốc axit asenic kết hợp với Ca, Al, Fe tạo thành các hợp chất
không tan như Ca3(AsO4)2, AlAsO4, FeAsO4. Tích số hoà tan của chất
đầu là 6,8.10-19, của 2 chất sau là 5,7. 10-24 do đó chất đầu độc hại hơn 2
chất sau. Bởi vậy, nếu ta bón các muối sunphat sắt nhôm (phèn chua)
vào đất bị ô nhiễm As có thể giải độc As dần dần do nguyên nhân nói
trên. Ðiều cần lưu ý là cùng một loại đất và cùng bón thử một
lượng As như nhau nhưng lượng As tích luỹ trong bột gạo cao hơn trong
bột mỳ. Kết quả thí nghiệm ở đất vùng Tân Trạch (Trung Quốc) cho
thấy hàm lượng As2O3 trong rơm rạ cao hơn trong hạt thóc 10 - 20 lần vì
vậy cần lưu ý lúc sử dụng rơm rạ ở vùng đất có ô nhiễm As làm thức ăn
cho trâu bò.
3.2. Cadimi (Cd)
Bản thân nguyên tố Cd không độc nhưng hợp chất của nó thì độc
hại nhiều. Hàm lượng Cd trong đất khoảng 0,5 ppm. Ðất Nhật Bản bị ô
nhiễm Cd rất nặng, họ quy định nếu đất chứa dưới 2 ppm là không độc.
Trong đất ô nhiễm các nguyên tố kim loại nặng, hàm lượng Cd có
quan hệ với hàm lượng Zn và Pb, nếu Cd nhiều thì Zn và Pb cũng nhiều.
Tầng đất mặt ở các vùng lân cận nhà máy luyện kẽm có thể chứa
1700 ppm Cd. Cd trong đất có thể ở dạng hoà tan trong nước (dạng ion
và phức chất) và dạng không tan trong nước (dạng hấp phụ, dạng kết tủa
và dạng phức tạp khó tan). Hai dạng này có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ
điều kiện môi trường. Cd gây độc hại cho cây chủ yếu ở dạng hoà tan
trong nước.
Trong môi trường chua, độ tan của Cd tăng, độ độc sẽ tăng, trong
môi trường kiềm, tạo thành kết tủa Cd(OH)2, vì vậy trong đất có phản
ứng cacbonat hoặc đất bón nhiều vôi thì độ độc hại của Cd sẽ giảm. Ðộ
hoà tan của các hợp chất Cd theo thứ tự như sau: hợp chất Cd với S <
hợp chất Cd với OH < hợp chất Cd với cacbonat.
Ðiều kiện oxy hoá khử là yếu tố xúc tiến sự chuyển hoá các hợp chất
Cd.
Cây lúa bị ô nhiễm Cd thì trong gạo có thể chứa trên 1 ppm, nếu ăn
liên tục nhiều năm loại gạo này con người sẽ bị bệnh đau xương. Cây
trồng khác nhau thì lượng hút Cd và tồn lưu cũng khác nhau. Nói chung
ở các loại mạch nhiều hơn ở cây họ đậu, cây họ đậu nhiều hơn cây lúa,
cây rau hút Cd ít, cây ăn củ hút tương đối nhiều Cd. Gạo chứa > 1ppm,
tiểu mạch: 1 - 3,5 ppm, đỗ tương: 1 ppm, cà: 0,27 ppm, cà rốt: 0,2 ppm,
khoai tây: 0,2 ppm, cải bắp: 0,1 ppm, hành: 0,1 ppm, dưa chuột: 0,15
ppm và nho: 0,06 ppm.
3.3. Crom (Cr)
Theo tài liệu nước ngoài, một số đất bị ô nhiễm nặng, hàm lượng
Cr có thể đến 4600 ppm. Một số đất trồng ở Trung Quốc hiện nay có
hàm lượng Cr từ 17 - 270 ppm, bình quân là 80 ppm.
Cr trong đất phần lớn ở dạng hợp chất oxit không tan. Keo đất có
khả năng hấp phụ Cr3+ tương đối mạnh, Fe2O3.nH2O và Al2O3.nH2O
cũng hấp phụ nhiều Cr2O72-. Trong keo sét, Al trong khối tám mặt của
phiến gipxit có thể trao đổi với Cr3+ và như thế Cr trở thành nguyên tố
cấu tạo tinh thể keo khoáng. Bởi vậy, Cr trong đất rất khó tan, cây khó
hút. Kết quả thí nghiệm trong chậu của Ðại học Nông nghiệp Triết
Giang Trung Quốc về tưới nước nhiễm Cr đã phát hiện 85 - 99% Cr tồn
lưu lại trong đất và hầu như toàn bộ nằm trong tầng đất mặt 0 - 5 cm.
Ðộ pH và trạng thái oxy hoá khử của đất có thể làm thay đổi trạng
thái hợp chất Cr. Trong đất trung tính hoặc kiềm Cr3+ sẽ kết tủa ở dạng
Cr(OH)3. Khi Eh thấp thì Cr6+ bị khử thành Cr3+.
Loại cây khác nhau hút Cr6+ và Cr3+ cũng khác nhau. Ví dụ cây
thuốc lá hút có tính chọn lọc Cr6+, cây ngô không hút Cr6+, cây lúa hút cả
Cr6+ và Cr3+ nhưng bất cứ lúa xuân hoặc lúa mùa đều hút Cr6+ nhiều hơn
Cr3+. Trong các bộ phận cây lúa thì hàm lượng Cr3+ ở rơm rạ lớn hơn
trong vỏ trấu và thấp nhất là ở gạo.
3.4. Chì (Pb)
Chì gây ô nhiễm môi trường là do một chất chứa chì trộn lẫn vào
xăng có tên gọi là tetraethyl chì Pb(C2H5)2. Chất này được đốt cháy cùng
với xăng tạo thành chất khí PbCl2, PbBr2 và một ít PbO sau đó thải ra
ngoài gây ô nhiễm không khí rồi rơi xuống đất làm ô nhiễm đất. Càng
gần đường giao thông thì đất ô nhiễm chì càng nhiều. Phần lớn chì
phóng ra trong phạm vi 33 cm kể từ lề đường. Càng xuống sâu tỷ lệ chì
càng giảm chứng tỏ độ hoạt hoá của chì rất kém.
Trong môi trường trung tính hoặc kiềm chì tạo thành PbCO3 hoặc
Pb3(PO4)2 ít hoà tan, cây khó hút vì vậy trong đất có phản ứng cacbonat
hoặc trong đất trung tính vấn đề ô nhiễm chì không đáng kể. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, khả năng hấp phụ chì của keo sét cao hơn 2 - 3 lần
hấp phụ canxi. Chất hữu cơ cũng hấp phụ chì mạnh. Vì tính di động của
chì kém nên cây bị ô nhiễm có lẽ do chì trong không khí là chủ yếu.
3.5. Thuỷ ngân (Hg)
Ở Nhật Bản đất bị ô nhiễm thuỷ ngân rất nặng. Từ 1953 - 1967 trên
toàn bộ đất canh tác Nhật Bản đã sử dụng hơn 6800 tấn thuỷ ngân, hàm
lượng thuỷ ngân trong gạo từ 0,02 ppm (1946) tăng lên 0,15 ppm (1966)
vì thế ở Nhật bắt đầu ngừng và hạn chế bón thuỷ ngân. Hợp chất
thuỷ ngân vô cơ vào đất có thể bị hút và giữ chặt vì keo sét và keo hữu
cơ hấp phụ thuỷ ngân mạnh, Fe(OH)3 và Al(OH)3 có thể hút các anion
HgCl3- và HgCl42-. Một số keo có thể hấp phụ vật lý đối với thuỷ ngân ở
dạng phân tử HgCl và Hg2Cl4. Mặt khác, tác dụng kết tuả hoá học của
thuỷ ngân vô cơ trong đất rất mạnh, tạo thành các hợp chất hydroxyl
thuỷ phân, muối phosphat, muối cacbonat và HgS đều khó tan, vì vậy
thuỷ ngân vô cơ ít độc đối với cây. Nhưng khi hợp chất thủy ngân bị khử
oxy thành thủy ngân kim loại, sau đó xuất hiện dưới dạng hơi thuỷ ngân
(như lúc núi lửa hoạt động) có thể qua khí khổng ở lá mà nhập vào cây.
Dưới tác dụng của vi sinh vật yếm khí, hợp chất thuỷ ngân vô cơ
có thể chuyển thành dạng thuỷ ngân hữu cơ. Trong đất trũng lầy nhờ tác
dụng của vi sinh vật yếm khí có thể tạo ra Hg(CH3)2 và ion CH3Hg+ theo
phản ứng:
Hg2+ Men
(CH3)2Hg CH3Hg+
CH3Hg+ hoà tan trong nước có thể bị cây hút, bởi vậy trong điều
kiện đất lúa ngập nước nếu chứa thuỷ ngân sẽ gây độc cho cây.
Trong đất cạn, lượng thuỷ ngân dễ tiêu rất ít, nhưng sau ngập nước
thì thuỷ ngân dễ tiêu tăng lên, ví dụ một loại đất đá vôi khi khô phân tích
Hg dễ tiêu rất ít hoặc không có nhưng sau ngập nước 7 ngày, Eh giảm
xuống 328 mV thì thuỷ ngân dễ tiêu tăng lên 0,05 ppm, sau đó giảm dần
xuống 0,02 - 0,01 ppm, vì thế cây lúa nước bị ô nhiễm thuỷ ngân rõ hơn
tiểu mạch.
Theo tiêu chuẩn vệ sinh quy định về hàm lượng Hg trong lương
thực không được vượt quá 0,02 ppm
3.6. Flo (F)
Tuy không phải là nguyên tố kim loại nặng nhưng tính độc hại của
nó cũng tương tự. Vùng không khí bị ô nhiễm flo (F2 và HF) thì hàm
lượng F trong đất tăng. Trong đất cạn có phản ứng trung tính hoặc kiềm,
hợp chất của flo (như CaF2) có độ hoà tan rất bé nên cây khó hút. Trong
đất cát và đất chua, F dễ bị cây hút hơn. Kết quả thí nghiệm cho thấy:
lúc trong đất chứa 500 ppm F sẽ ức chế cây đậu tằm và cây cà rốt. Cây
sống trên đất nhiều F có hàm lượng F trong các bộ phận cũng khác nhau
(rễ > lá > hạt). Nếu bầu không khí nhiễm F sẽ ảnh hưởng rõ đến cây,
Bảng 13.2: Ảnh hưởng của F ô nhiễm đất và không khí đối với hàm
lượng F trong các bộ phận cây đậu tằm (ppm)
Công thức xử lý Hạt Lá Rễ
Ðất được bón 500 ppm F 0 20 35
Ðất được bón 500 ppm F + ô nhiễm 1,5 820 248
không khí
4. Nông dược và phân bón tồn lưu trong đất và sự chuyển hoá
của chúng
4.1. Sự tồn lưu và chuyển hoá của nông dược trong đất
Sự ô nhiễm nông dược đã gây ảnh hưởng xấu cho người và gia súc
nên người ta rất chú trọng. Có thể chia nông dược ra 3 loại như sau: hợp
chất kim loại nặng (chứa Pb, As và Hg); thuốc trừ sâu dạng lân hữu cơ
và thuốc trừ cỏ.
Thành phần hoá học và tính bền vững của các loại nông dược rất
khác nhau, sự chuyển hoá của chúng ở trong đất cũng khác nhau. Nông
dược gây ô nhiễm chủ yếu là clo hữu cơ (như DDT, 666) và các hợp
chất kim loại nặng, do tính chất của chúng ổn định khó phân huỷ. Thuốc
trừ cỏ, lân hữu cơ phần lớn bị vi sinh vật phân giải, thời gian tồn lưu
trong đất ngắn nhưng chúng gây độc hại nhiều cho cá và các động vật
hoang dã. Sự ô nhiễm của nông dược đối với môi trường đã làm ảnh
hưởng xấu cho môi trường sinh thái, vì vậy phải tìm cách phòng chống.
* Sự tồn lưu nông dược trong đất
+ Tính tồn lưu của nông dược
Do đặc tính lý hoá của bản thân nông dược cùng với tác dụng tổng
hợp của các yếu tố ảnh hưởng làm tiêu tan nông dược cho nên tính tồn
lưu của chúng ở trong đất khác nhau nhiều. Bảng 13.3 cho biết thời gian
cần cho một loại nông dược ở trong đất tiêu tan một nửa (thời gian bán
hủy). Nếu nông dược nào có thời gian bán hủy trên một năm thì gọi là
nông dược có tính tồn lưu.
Bảng 13.3. Thời gian tồn lưu trong đất của một số nông dược
Loại nông dược Thời gian bán huỷ (năm)
Hợp chất kim loại nặng (Pb, 10 - 30
As, Cu, Hg) 2-4
Clo Hữu cơ (666, DDT) 1-2
Thuốc trừ cỏ - 0,4
2,4D và 2,4,5-T 0,02 - 0,2
Thuốc trừ sâu dạng lân hữu cơ 0,02
Thuốc trừ sâu có gốc ammon
Các yếu tố ảnh hưởng đến tính tồn lưu của nông dược là thành
phần cơ giới, hàm lượng mùn, độ pH, độ ẩm, trạng thái vi sinh vật đất,
chế độ canh tác, loại cây trồng... Thí dụ nghiên cứu DDT cho thấy trong
điều kiện yếm khí chất này chuyển ra dạng DDD nhanh hơn nhiều so với
khi chuyển ra dạng DDE trong điều kiện hảo khí, đặc biệt nếu bón phân
xanh vào thì phân giải càng nhanh. Từ đó ta thấy rằng với các chế độ
canh tác khác nhau thì tính tồn lưu nông dược cũng khác nhau.
Do tốc độ phân huỷ của DDD và DDE rất chậm cho nên dù đã đình
chỉ sử dụng DDT nhưng chúng vẫn tồn lưu lâu dài ở trong đất. Số lượng
nông dược tồn lưu trong đất được gọi là "tồn dư" tính theo đơn vị mg/kg
đất hoặc ppm.
+ Ảnh hưởng của sự tồn tại nông dược
Sau phân giải thì tính độc của một số nông dược càng tăng. Ví dụ thuốc
trừ cỏ 2,4,5-T ở trong đất bị vi sinh vật phân giải tạo thành một số chất
có thể gây nên quái thai động vật. Năm 1970 ở Mỹ đã công bố hạn chế
sử dụng nông dược này, ở Nhật năm 1965 đã chế ra một loại rượu chống
được bệnh đạo ôn không có hại cho lúa nhưng khi sử dụng rơm rạ đã xử
lý bằng rượu này để ủ phân thì vi sinh vật phân giải và tạo ra hai chất có
hại cho cây, vì hai chất đó có đặc tính hoá học ổn định:
CH2OH COOH COOH
Cl V i sinh vËt Cl ClCl ClCl
+ Cl Cl
Cl ClClCl
4.2. Sự tồn lưu và chuyển hoá của phân bón trong đất
* Sự tồn lưu của phân bón trong đất
Phân hoá học phổ biến được sử dụng trên thế giới là phân đạm,
phân lân và phân kali. Phân đạm chủ yếu là urê, amonisunphat,
amonclorua, amoninitrat... Phân lân chủ yếu là superphosphat,
tecmophosphat, phosphorit... Phân kali chủ yếu là kali clorua, kali
sunphat.. Phân bón là một trong những yếu tố quan trọng làm tăng năng
suất cây trồng, nhưng cũng có những mặt trái, đặc biệt ở những vùng
thâm canh cao bằng phân hoá học, sử dụng không cân đối phân N, P, K
và các loại phân hữu cơ và phân vi lượng khác. Hiện tượng có thể gặp là
sự hoá chua của đất, kết cấu đất bị kém đi, sự tích đọng kim loại nặng
(Pb, Cd, Cu, Zn, Ni...) và NO3-, NH4+... trong đất, nước.
Sự tồn lưu của phân bón trong đất khác nhau tuỳ thuộc loại phân
sử dụng.
+ Ðối với phân đạm: phần lớn phân đạm dễ tan, ngoài phần cây
trồng sử dụng, phần còn lại trong đất tham gia vào các quá trình chuyển
hoá khác nhau trong đất và được giữ lại chủ yếu ở dạng NO3- và NH4+.
NH4+ được keo đất giữ, trong điều kiện oxi hoá NH4+ dễ dàng bị nitrat
hoá để hình thành NO3-. Theo Viện Tài nguyên thế giới, đến năm 1993
quỹ đất của thế giới là 13.042 triệu ha. Như vậy, theo mức sử dụng phân
đạm năm 1995 của thế giới là 91 triệu tấn N và hiệu suất sử dụng đạm
của cây trồng khoảng 50% thì mỗi ha đất sẽ chứa khoảng 15 kg NO3-.
Diện tích đất trồng trọt bằng 20,6% quỹ đất, vì vậy lượng NO3- tích luỹ
trong đất trồng trọt tăng lên 5 lần, khoảng 75 kg/ha. Nếu tính lượng đất
trong 1 ha có chứa NO3- ngấm sâu 0,5m thì sau 1 năm sử dụng phân đạm
hoá học, lượng NO3- tích luỹ trong đất khoảng 7,5 - 8,0ppm. Tuy nhiên
do NO3- ít được keo đát giữ và sự hấp phụ hoá học xảy ra với ion này rất
yếu nên quá trình rửa trôi theo nước mặt và thấm sâu, cộng với quá trình
phản nitrat hoá làm hàm lượng NO3- trong đất giảm nhiều sau một năm
canh tác.
+ Ðối với phân lân: khác với phân đạm, phân lân ít bị mất đi trong
quá trình sử dụng. Ngoài phần P cây hút và một phần nhỏ dễ hoà tan bị
mất đi theo dòng chảy, phần lớn lân tồn tại ở trong đất ở dạng các hợp
chất khó tan với Ca, Al và Fe. Ngoài ra, trong điều kiện đất vùng nhiệt
đới chua nhiều, một phần P bị giữ chặt do hấp phụ lý hoá học bởi các
keo dương. Ðây chính là lý do tại sao hàm lượng lân tổng số trong một
số loại đất tăng lên nhiều trong những năm gần đây do bón phân lân liên
tục. Tồn dư của P trong đất tuy không ảnh hưởng xấu đến môi trường,
nhưng sự cố định lân quá mạnh của một số loại đất làm giảm hiệu suất
sử dụng của phân lân.
+ Ðối với phân kali: Khác với phân lân, phân kali dễ tan hơn. Tồn
dư của kali trong đất không gây độc cho đất và môi trường. Kali tồn lưu
này có thể tồn tại ở trong đất dưới các dạng khác nhau tuỳ thuộc vào
lượng tồn dư và loại đất. Một phần kali tồn lưu có thể hoà tan tồn tại
trong nước, phần kali này dễ bị rửa trôi khỏi đất hoặc dễ dàng được cây
hấp thụ. Phần lớn kali tồn lưu được keo đất hấp phụ ở dạng kali trao đổi
hoặc kali nằm sâu trong khe hở giữa các lớp tinh thể của keo sét. Ðặc
biệt các đất có chứa nhiều hydromica sự hấp phụ và cố định kali càng
mạnh. Khác với lân, kali sau khi được đất hấp phụ hoặc cố định trong
các khe hở của keo sét có thể chuyển thành kali dễ hoà tan và kali trao
đổi để cung cấp cho cây.
* Sự chuyển hoá của phân bón trong đất
Phân bón trong đất chịu tác động của những chuyển hoá chính sau:
+ Quá trình điện ly, ví dụ sự điện ly của amonisunphat
(NH4)2SO4 2NH4+ + SO42-
+ Quá trình hoà tan, ví dụ sự hoà tan của superphosphat
Ca(H2PO4)2 + H2O Ca2+ + 2H2PO4- + H2O
+ Quá trình thuỷ phân, ví dụ sự thuỷ phân ure để hình thành NH3
CO(NH2)2 + 2H2O (NH4)2CO3 (NH4)2CO3
2NH4+ + CO32-
+ Quá trình nitrat hoá
Nitrosomon as
+ -
2NH4 +
+
2NO2 + 4H
3O2 +2H2O + Q
O2 Nitrono
+ monas Quá trình phản nitrat hoá
- -
2NO2 + 2NO3 + Q
NO3- NO2- NO N2O N2
+ Quá trình hấp phụ trao đổi, ví dụ sự hấp phụ trao đổi kali
H+K+
§
K + 3 KCl K§K++ + HCl + CaCl2
Ca2+K
+ Quá trình kết tủa
Ca(H2PO4)2 + Ca(HCO3)2 2CaHPO4 + 2H2CO3
1. Khái niệm về ô nhiễm đất, các nguyên nhân gây ô nhiễm đất.
2. Sự tồn lưu và chuyển hoá của nông dược trong đất.
3. Sự tồn lưu và chuyển hoá của phân bón trong đất.
4. Tình hình ô nhiễm đất ở Việt Nam và phương hướng phòng,
chống ô nhiễm đất.