You are on page 1of 15

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..............................................................................................................................................1
NỘI DUNG..........................................................................................................................................2
1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ CẤP DƯỠNG NUÔI CON
KHI VỢ CHỒNG LY HÔN...............................................................................................................2
1.1. Khái niệm “cấp dưỡng nuôi con”............................................................................................2
1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng..........................................................................................3
1.3. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.....................................................................5
1.4. Mức cấp dưỡng nuôi con..........................................................................................................6
1.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con................................................................................8
2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ CẤP DƯỠNG NUÔI
CON KHI VỢ CHỒNG LY HÔN.....................................................................................................8
2.1. Một số vướng mắc trong thực tiễn ấp dụng quy định pháp luật về vấn đề cấp dưỡng
nuôi con khi vợ chồng ly hôn..........................................................................................................8
2.1.1. Vướng mắc về căn cứ xác định mức cấp dưỡng nuôi con................................................8
2.1.2. Vướng mắc về thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng................................................10
2.1.3. Vướng mắc về nghĩa vụ của cha, mẹ khi chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng............11
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề cấp dưỡng nuôi con
khi vợ chồng ly hôn........................................................................................................................12
KẾT LUẬN........................................................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................14

1
MỞ ĐẦU
Cũng như những mối quan hệ gia đình khác, quan hệ giữa cha mẹ và con chịu
sự ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các quy phạm đạo đức và quy phạm pháp luật. Bên
cạnh sự gắn kết về mặt tình cảm, cha mẹ có rất nhiều quyền và nghĩa vụ mang tính
tài sản đối với con. Thông thường, cha mẹ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con. Tuy vậy, trên thực tế cũng có không ít các trường hợp cha mẹ không có điều
kiện để chung sống cùng con, điển hình nhất là trường hợp cha mẹ ly hôn. Việc đặt
ra nghĩa vụ cấp dưỡng trong những hoàn cảnh như vậy có ý nghĩa rất lớn đối với
quá trình phát triển của người con và việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ
thể khác có liên quan. Trong bài tiểu luận này, người viết sẽ trình bày và phân tích
những vấn đề pháp lý và thực tiễn phát sinh trong quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ
đối với con. Từ các quy định của pháp luật hôn nhân - gia đình hiện hành, các vấn
đề thực tế, bài tiểu luận nêu một số đề xuất nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
vấn đề thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tiễn.

1
NỘI DUNG

1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ CẤP DƯỠNG
NUÔI CON KHI VỢ CHỒNG LY HÔN
1.1. Khái niệm “cấp dưỡng nuôi con”
Cấp dưỡng theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết
thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người
đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu.

Về bản chất, quan hệ cấp dưỡng tồn tại giữa hai chủ thể, một bên là người có
nghĩa vụ cấp dưỡng và một bên là người nhận cấp dưỡng (người chưa thành niên,
người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình; người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật HN và GĐ năm
2014). 

Theo quy định của Luật HNGĐ 2014, quan hệ cấp dưỡng được đặt ra khi
người con chưa thành niên hoặc đã thành niên không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình1. Cha mẹ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong
trường hợp không chung sống với con hoặc chung sống cùng con nhưng vi phạm
nghĩa vụ nuôi dưỡng.2 Thông thường, cha, mẹ chung sống cùng con để có điều kiện
thuận lợi cho việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ. Tuy vậy, cũng có những trường hợp
trẻ chỉ chung sống với cha hoặc với mẹ. Cha mẹ không cùng nhau chung sống với
con khi họ đã ly hôn hoặc hai người không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Lúc

1
Điều 110 Luật HNGĐ 2014.
2
Xem Mục 1, Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con, Luật HNGĐ 2014.

2
này, người trực tiếp chung sống cùng con thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, người
còn lại (không chung sống với con) phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng


Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì nghĩa vụ cấp
dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con. Quan hệ cấp dưỡng là một trong các
quan hệ đặc trưng trong lĩnh vực HN và GĐ. Đây là một quan hệ pháp luật có điều
kiện, tương ứng với mỗi quan hệ khác nhau giữa các thành viên trong gia đình với
những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các chủ thể trên cơ sở quan
hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Theo đó, tại khoản 1 Điều 107 Luật
HN và GĐ năm 2014 đã xác định rõ: “Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa
cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu;
giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của
Luật này”. Các chủ thể này có thể là thành viên trong gia đình hoặc không phải là
thành viên trong gia đình nhưng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Trên cơ sở
kế thừa các quy định của Luật HN và GĐ năm 2000, Luật HN và GĐ năm 2014
vẫn quy định đầy đủ về vấn đề cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình như:
Khái niệm cấp dưỡng, điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng, mức cấp dưỡng,
phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng. Luật
HN và GĐ năm 2014 cũng đã mở rộng phạm vi quy định về quyền và nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột (Điều 114), đây là quy định mới
so với các văn bản Luật HN và GĐ trước đó.
Thứ hai, quan hệ cấp dưỡng không chỉ là quan hệ nhân thân mà còn mang tính
tài sản, song không mang tính đền bù ngang giá. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải
chu cấp một số tiền hoặc tài sản nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu
cho người được cấp dưỡng. Khi thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, luôn có sự chuyển
giao một phần lợi ích nhất định từ phía người cấp dưỡng sang người được cấp

3
dưỡng. Trường hợp bên có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về
kinh tế, không thể thực hiện việc cấp dưỡng thì tuy nghĩa vụ cấp dưỡng chưa chấm
dứt, nhưng ý nghĩa thực tế của nghĩa vụ này cũng hầu như không có, bởi vì lợi ích
tài sản của nghĩa vụ không còn tồn tại.
Quan hệ cấp dưỡng không mang tính đền bù ngang giá do yếu tố tình cảm giữa các
chủ thể. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện một cách tự nguyện, không tính toán
đến giá trị tài sản đã cấp dưỡng, không đòi hỏi người được cấp dưỡng phải hoàn lại
một số tiền tương ứng. Do nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ được đặt ra khi có những điều
kiện nhất định. Vì vậy, quan hệ cấp dưỡng không mang tính đền bù tương đương.
Thứ ba, nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không
thể chuyển giao cho người khác. Bên có nghĩa vụ cấp dưỡng không thể cam kết sẽ
dùng nghĩa vụ khác để thay thế, bù trừ nghĩa vụ cấp dưỡng như là bồi thường thiệt
hại hay phạt vi phạm. Nghĩa vụ cấp dưỡng này cũng không thể sử dụng làm cơ sở
đảm bảo cho những nghĩa vụ khác; đồng thời, chủ thể có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng
không thể chuyển giao nghĩa vụ cấp dưỡng cho bất cứ ai. Đây cũng là một đặc
trưng xuất phát từ tính chất của quyền nhân thân “...là quyền dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có
liên quan quy định khác”.
Thứ tư, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh trong điều kiện nhất định. Quan hệ
cấp dưỡng là quan hệ phái sinh, tức là khi quan hệ nuôi dưỡng không thực hiện
được hoặc thực hiện không đầy đủ thì lúc đó quan hệ cấp dưỡng mới xuất hiện.
Trong thực tế, không chỉ do người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng không thực hiện
nghĩa vụ đó thì nghĩa vụ cấp dưỡng mới phát sinh. Bất kỳ thành viên nào trong gia
đình cũng có thể rơi vào hoàn cảnh không đầy đủ hoặc thiếu hụt về phương diện
nào đó; song chỉ khi người đó có sự thiếu hụt về vật chất, làm ảnh hưởng trực tiếp
đến cuộc sống của họ thì nghĩa vụ cấp dưỡng mới đặt ra. Điều này biểu hiện ở chỗ,
người đó gặp khó khăn, túng thiếu hoặc không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình. Trong quan hệ cấp dưỡng này, chủ thể không chỉ là thành
4
viên gia đình trong mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng mà còn phải
thoả mãn những điều kiện nhất định về độ tuổi, tình trạng nhân thân, tài sản...
Thứ năm, việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thông qua lương tâm,
đạo đức, dư luận xã hội và cả các biện pháp cưỡng chế thi hành. Quan hệ huyết
thống là gốc rễ hình thành mối quan hệ gắn bó, khăng khít giữa các thành viên
trong gia đình. Khi các thành viên trong gia đình không thể trực tiếp chăm sóc nhau
thì họ thực hiện nghĩa vụ thông qua việc cấp dưỡng. Việc thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng trước hết xuất phát từ ý thức, trách nhiệm của bên thực hiện cấp dưỡng.
Pháp luật cũng đã đưa ra các chế tài nhằm xử lý những trường hợp trốn tránh nghĩa
vụ cấp dưỡng, không chỉ trong pháp luật dân sự, HN và GĐ mà còn trong pháp luật
hình sự...
1.3. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con
Theo quy định của Luật HNGĐ 2014, quan hệ cấp dưỡng được đặt ra khi
người con chưa thành niên hoặc đã thành niên không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình3. Cha mẹ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong
trường hợp không chung sống với con hoặc chung sống cùng con nhưng vi phạm
nghĩa vụ nuôi dưỡng4. Thông thường, cha, mẹ chung sống cùng con để có điều kiện
thuận lợi cho việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ. Tuy vậy, cũng có những trường hợp
trẻ chỉ chung sống với cha hoặc với mẹ. Cha mẹ không cùng nhau chung sống với
con khi họ đã ly hôn hoặc hai người không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Lúc
này, người trực tiếp chung sống cùng con thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, người
còn lại (không chung sống với con) phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

Thực tế cho thấy, cha mẹ có thể không (thường xuyên) cùng chung sống dưới
một mái nhà với con, nhưng nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn không được đặt ra nếu giữa
họ tồn tại mối quan hệ hôn nhân. Luật HNGĐ 2014 không định nghĩa thế nào là
việc cha, mẹ “chung sống” cùng với con hoặc ngược lại. Theo chúng tôi, nếu cha
3
Điều 110 Luật HNGĐ 2014.
4
Xem Mục 1, Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con, Luật HNGĐ 2014.
5
mẹ vẫn tồn tại quan hệ hôn nhân thì họ cùng có nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái (vấn
đề chỉ là cách thức chăm sóc, nuôi dưỡng con cái của mỗi gia đình có thể khác biệt
- thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp). Việc con không chung sống cùng với
cha hoặc mẹ nên được nhìn nhận dưới góc độ pháp lý. Cha, mẹ lúc này thường
không có sự ràng buộc trong mối quan hệ nhân thân, tình cảm, họ có chỗ ở riêng
biệt và việc phải lựa chọn tại một thời điểm cụ thể chỉ sống với cha hoặc mẹ là điều
tất yếu.

1.4. Mức cấp dưỡng nuôi con

Theo Điều 116 Luật HNGĐ 2014, mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp
dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn
cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu
thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án
giải quyết. Việc xác định mức cấp dưỡng giữa cha mẹ với con dựa trên hai yếu tố
chính: các nhu cầu chính đáng cần được đáp ứng của người con và khả năng tài
chính trên thực tế của cha, mẹ.

Thứ nhất, mức cấp dưỡng được xác định dựa trên nhu cầu thiết yếu của người
con được cấp dưỡng. Ngoại trừ những nhu cầu chung mà bất cứ một cá nhân nào
cũng cần được đáp ứng để duy trì sự sống (như ăn, mặc, ở), nhu cầu thiết yếu của
mỗi người thường được xác định dựa trên độ tuổi. Càng ở độ tuổi phát triển, nhóm
nhu cầu thiết yếu càng có xu hướng mở rộng hơn. Chẳng hạn, bên cạnh những nhu
cầu cơ bản để duy trì sự sống, người ta bắt đầu hình thành nhu cầu học tập, đi lại,
thông tin liên lạc. Cùng với đó, nhu cầu thiết yếu còn được xác định trên hoàn cảnh
cụ thể của mỗi người. Có những nhu cầu là cần thiết với người này nhưng với
người khác lại không được đặt ra. Ví dụ như với một số người, việc khám, chữa
bệnh là vô cùng cần thiết, nhưng cũng có những người gần như không có nhu cầu
này trên thực tế. Vì vậy, mặc dù nhu cầu thiết yếu là những yêu cầu cơ bản đối với

6
tất cả mọi người, nhưng việc xác định nhu cầu cụ thể của một người trên thực tế lại
cần có sự xem xét cẩn trọng từ nhiều yếu tố và cơ sở khác nhau5. 

Dưới góc độ văn bản pháp luật và thực tiễn xét xử, có thể nhận thấy rằng, liên
quan đến người được cấp dưỡng, mức cấp dưỡng chủ yếu được xác định dựa trên
nhu cầu thiết yếu của người này. Tuy vậy, việc giới hạn mức cấp dưỡng trong
phạm vi những nhu cầu thiết yếu trong một số trường hợp là chưa thực sự hợp lý.
Khi xét đến mức cấp dưỡng cho người con, pháp luật Hoa Kỳ luôn dành một sự
quan tâm đặc biệt đến hoàn cảnh về mọi mặt của người con. Theo đó, các yếu tố
được chú trọng bao gồm: nguồn tài chính của con, mức sống mà người con có thể
được hưởng nếu cha mẹ không ly hôn, điều kiện về thể chất, tinh thần và những
nhu cầu về giáo dục của trẻ. 6 Điều này cho thấy việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
của cha, mẹ luôn hướng đến sự ổn định trong đời sống của con. Nói cách khác,
pháp luật hỗ trợ tối đa để quyền lợi của trẻ không thay đổi trong hoàn cảnh được
nuôi dưỡng hay cấp dưỡng. Nhu cầu thiết yếu lúc này chỉ được xem xét như là một
trong những yếu tố để xác định điều kiện sống của trẻ. 

Thứ hai, mức cấp dưỡng được xác định trên khả năng tài chính của cha
mẹ. Khả năng tài chính của cha mẹ có thể được đánh giá thông qua giá trị tài sản
mà cha, mẹ sở hữu, nguồn thu nhập cũng như những nghĩa vụ tài sản mà cha, mẹ
phải thực hiện. Trong đó, việc xác định nguồn thu nhập của cha mẹ không phải là
điều đơn giản. Khái niệm “thu nhập” được hiểu rất khác biệt đối với từng ngành
luật khác nhau.7 Thu nhập được xác định để tính mức cấp dưỡng nên là những
nguồn thu có tính ổn định. Điều này xuất phát từ tính chất quan hệ cấp dưỡng giữa
cha mẹ và con. Thông thường, mức cấp dưỡng được định sẵn trong một khoảng

5
Trong một vụ việc, Toà án đã tuyên người cha có nghĩa vụ cấp dưỡng với số tiền 365.000 đồng/tháng cho mỗi
người con. Tuy vậy, thực tế người con trai mắc chứng bệnh “U sun suon (Uoo) phải điều trị khá lâu dài”
6
John De Witt Gregory, Peter N. Swisher, Robin Fretwell Wilson (2013), Understand family law, LexisNexis, 4th,
pp. 386.
7
Chẳng hạn như Luật Thuế thu nhập cá nhân hay luật dân sự, Luật HNGĐ sẽ có những cách nhìn không hoàn toàn
đồng nhất về “thu nhập”.
7
thời gian dài, những khoản thu nhập tăng hoặc giảm có tính “đột biến” chỉ nên
được xác định để yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng. Việc thực hiện nghĩa vụ này
cần được diễn ra một cách ổn định để không tạo nên biến động lớn trong đời sống
của con được cấp dưỡng.

1.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con

Theo Điều 118 Luật HNGĐ 2014, quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con
chấm dứt khi thuộc một trong các trường sau: (i) con đã thành niên và có khả năng
lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình; (ii) con đã được nhận làm con nuôi; (iii)
con được bên cha mẹ cấp dưỡng trực tiếp nuôi dưỡng; (iv) một trong hai bên chết.
Theo logic được thể hiện bởi Luật HNGĐ: cha mẹ chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp
dưỡng nếu con chưa thành niên. Khi người con đã thành niên, có khả năng lao động
thì quyền và nghĩa vụ này sẽ tự động chấm dứt. Điều này đã dẫn đến một kết quả
ngầm định rằng: khi người con đủ 18 tuổi và có khả năng lao động thì quan hệ cấp
dưỡng sẽ chấm dứt.

2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ CẤP


DƯỠNG NUÔI CON KHI VỢ CHỒNG LY HÔN
2.1. Một số vướng mắc trong thực tiễn ấp dụng quy định pháp luật về vấn đề
cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn

2.1.1. Vướng mắc về căn cứ xác định mức cấp dưỡng nuôi con

Trong các vụ án ly hôn mà Tòa án thụ lý giải quyết hiện nay, hầu như đương
sự chỉ tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con. Chẳng hạn như một bên đương sự yêu
cầu được quyền nuôi con sẽ yêu cầu bên còn lại có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con
với một số tiền cụ thể hoặc chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bên không trực tiếp nuôi con sẽ có ý kiến không
đồng ý cấp dưỡng hoặc chỉ đồng ý mức cấp dưỡng thấp hơn yêu cầu của bên kia

8
hoặc có ý kiến yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Trong những
trường hợp như vậy, Tòa án phải xem xét để quyết định mức cấp dưỡng.

Theo quy định tại Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì khi
quyết định mức cấp dưỡng nuôi con, Tòa án phải căn cứ vào hai yếu tố đó là việc
cấp dưỡng phải đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng và phải căn
cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Hiện nay,
chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là “thu nhập, khả năng thực tế của người
có nghĩa vụ cấp dưỡng” và “nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng” theo quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Trước đây, theo khoản 1 Điều 16
Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Nghị định 70/2001/NĐ-CP ) thì “khả
năng thực tế của người có nghĩa cấp dưỡng là người có thu nhập thường xuyên
hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi
phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó”. Còn theo khoản 2 Điều 16
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì: “Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng
được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được
cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học,
khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống
của người được cấp dưỡng”.

Tuy nhiên, với những quy định như vậy, rất khó để Tòa án có thể tính toán
được thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng như tính
toán nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Từ vướng mắc trong thực tiễn
như vậy, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 được ban hành và có hướng dẫn như sau: “Tiền cấp dưỡng nuôi con bao
gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các
bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng
9
trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi
con cho hợp lý”.

Thực tiễn giải quyết tại các Tòa án trước đây và hiện tại thường vận dụng quy
định tại khoản 2, phần III của Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của
TANDTC, cụ thể là “Toà án phải xem xét đến khả năng kinh tế nói chung và thu
nhập nói riêng của người phải đóng góp phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói
chung và thu nhập nói riêng của người nuôi dưỡng con. Trong đó mức đóng góp
phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới 1/2 (một phần hai) mức
lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một
người con” để làm căn cứ giải quyết.

Tuy nhiên, hiện nay cũng có quan điểm cho rằng các hướng dẫn tại Công văn
số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC và Nghị quyết số 02/2000/NQ-
HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC không còn hiệu lực thi
hành và không còn phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Cho nên Tòa án căn cứ
vào hướng dẫn của các văn bản này để quyết định mức cấp dưỡng thông thường là
bằng ½ tháng lương cơ sở là không đúng quy định pháp luật. Điều này dẫn đến
thực tế là mức cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án không đáp ứng được chi phí
tối thiểu cho việc nuôi dưỡng con chưa thành niên.

2.1.2. Vướng mắc về thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ quy định về thời điểm chấm dứt
nghĩa vụ cấp dưỡng tại Điều 114 mà không quy định thời điểm vợ hoặc chồng thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn là từ lúc nào. Dẫn đến hiện
nay trong thực tiễn có nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm thực hiện cấp
dưỡng nuôi con.

Có quan điểm cho rằng mặc dù chưa có quy định cụ thể trường hợp vợ chồng
ly hôn có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con thì thời điểm cấp dưỡng nuôi con được

10
tính từ lúc nào, tuy nhiên theo khoản 1 Điều 482 của BLTTDS năm 2015 thì
“Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay
mặc dù có thể bị kháng cáo, khiếu nại, kháng nghị, kiến nghị: a) Bản án, quyết định
về cấp dưỡng,…”. Từ quy định này có thể hiểu nghĩa vụ cấp dưỡng phãi được thực
hiện nay khi Tòa án ban hành bản án hoặc quyết định về cấp dưỡng. Vì vậy, khi ra
Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự hoặc ra bản
án thì Tòa án cần thiết phải ghi rõ thời điểm cấp dưỡng nuôi con. Thời điểm cấp
dưỡng nuôi con tính từ ngày Tòa án lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và
hòa giải thành hoặc tính từ ngày tuyên án.8

Tuy nhiên, cũng còn có quan điểm cho rằng Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 chỉ có quy định về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con do vợ
chồng thỏa thuận. Trường hợp không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết. Vì pháp luật không có quy định thời điểm vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn từ lúc nào nên Tòa án không cần phải ghi thời điểm
vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con vào quyết định, bản án của
Tòa án. Cho nên thời điểm cấp dưỡng nuôi con được tính từ ngày vợ hoặc chồng
gửi đơn yêu cầu thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự để yêu cầu thi hành bản
án, quyết định của Tòa án.

2.1.3. Vướng mắc về nghĩa vụ của cha, mẹ khi chậm thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng

Thực tiễn cho thấy không phải trường hợp nào cha, mẹ là người có nghĩa vụ
cấp dưỡng nuôi con cụng thực hiện đúng nghĩa vụ cấp dưỡng như thỏa thuận tại
Tòa hoặc theo quyết định của Tòa án. Điều này làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
chính người con. Nhưng nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mà chậm thực

8
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/trao-doi-y-kien/vuong-mac-ve-cap-duong-nuoi-con-trong-cac-vu-an-ly-hon

11
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì có phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ không
vẫn còn quan điểm khác nhau.

Có trường hợp Tòa án buộc người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải
chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm
2015 nhưng có trường hợp thì không. Theo quy định tại Điều 117 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014 thì: “Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng
tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.”. Còn theo quy định tại điều
282 Bộ luật Dân sự 2015 thì: “Nghĩa vụ được thực hiện theo định kỳ theo thỏa
thuận, theo quy định của pháp luật hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Việc chậm thực hiện nghĩa vụ theo từng kỳ cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa
vụ.”. Như vậy, về bản chất chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (bằng tiền) cũng có
tính chất như chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền nên theo quy định tại Điều 357
BLDS năm 2015 thì người chậm thực người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự
năm 2015. Điều này sẽ hạn chế người có nghĩa vụ cấp dưỡng cố tình chậm trễ thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong giai đoạn thi hành án.

2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề cấp
dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn
Nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề cấp dưỡng nuôi con khi vợ
chồng ly hôn và việc áp dụng trên thực tiễn, bài tiểu luận đề xuất một số kiến nghị
sau:

Thứ nhất, để Tòa án quyết định mức cấp dưỡng nuôi con đảm bảo hài hòa hai
yếu tố: thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng với nhu cầu
thiết yếu của người được cấp dưỡng là rất khó khăn. Bởi vì trong nhiều trường hợp
nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng thì lớn hơn thu nhập, khả năng thực tế
của người có nghĩa vụ cấp dưỡng; nhiều trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng
không có việc làm ổn định hoặc không có việc làm nên thu nhập của họ thấp và
12
thậm chí là không đủ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của chính bản thân họ. Chính vì
vậy mà nhiều trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không đáp ứng được nhu
cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Từ đó, quyết định về mức cấp dưỡng của
Tòa án đôi khi không thực hiện được trên thực tế. Theo tác giả, mức cấp dưỡng để
Tòa án quyết định trong tình hình hiện nay là không thấp hơn 2/3 mức lương cơ
bản hoặc không được thấp hơn 30% mức thu nhập bình quân của người có nghĩa vụ
cấp dưỡng trong 06 tháng liền kề.

Thứ hai, cần có hướng dẫn bản án, quyết định của Tòa án có quyết định về cấp
dưỡng thì cần phải ghi thời điểm cấp dưỡng như sau: “Bản án, quyết định của Tòa
án có quyết định về cấp dưỡng thì phải ghi thời điểm cấp dưỡng. Thời điểm cấp
dưỡng tính từ ngày Tòa án lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải
thành hoặc tính từ ngày tuyên án”.

Thứ ba, cần hướng dẫn người chậm thực người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự
năm 2015 như sau: “Trong Bản án, quyết định của Tòa án có quyết định về cấp
dưỡng thì phải buộc người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu tiền lãi
chậm thực hiện nghĩa vụ theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015”.

KẾT LUẬN
Ly hôn là điều mà không ai trong quan hệ hôn nhân mong muốn xảy ra. Việc
cha mẹ không còn chung sống cùng với con có thể ảnh hưởng rất nhiều tới sự phát
triển của trẻ, cả về mặt tinh thần và mặt vật chất. Việc đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng
trong trường hợp vợ chồng ly hôn có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình phát triển của
người con và việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể khác có liên quan.
Trong bài tiểu luận này, người viết đã trình bày và phân tích những quy định của
pháp luật Việt Nam về vấn đề cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn. Bên cạnh đó, bài tiểu
luận cũng đã nêu lên các bất cập phát sinh trong và thực tiễn giải quyết quan hệ cấp

13
dưỡng giữa cha mẹ đối với con. Từ các, bài tiểu luận nêu ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi
vợ chồng ly hôn và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tiễn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
2. Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007.
3. Phạm Thái Quý (2011), “Trao đổi về việc xác định cha mẹ cho con và cấp
dưỡng nuôi con”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 20.
4. Bản án số 33/2011/HNGĐ-PT của Toà án nhân dân tỉnh Long An.
5. John De Witt Gregory, Peter N. Swisher, Robin Fretwell Wilson (2013),
Understand family law, LexisNexis, 4th, pp. 387.
6. Websites:

https://vksndtc.gov.vn/cong-tac-kiem-sat/nghia-vu-cap-duong-theo-quy-dinh-
cua-phap-luat-hon-d10-t8739.html

https://tapchitoaan.vn/bai-viet/trao-doi-y-kien/vuong-mac-ve-cap-duong-nuoi-
con-trong-cac-vu-an-ly-hon

https://luatvietnam.vn/dan-su/cap-duong-sau-ly-hon-568-34487-article.html

14

You might also like