You are on page 1of 28

Lý thuyế t về lạ m phá t củ a trườ ng

phá i chính hiệ n đạ i và vậ n dụ ng và o


Việ t Nam hiệ n nay

1
Mục lục
A. LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................................
B. Nội dung ..............................................................................................................................
I. Những vấn đề cơ bản về lạm phát......................................................................................
1. Khái niệm lạm phát ..............................................................................................................
2. Quy mô lạm phát ..................................................................................................................
3.Tác hại của lạm phát ..............................................................................................................
4. Nguyên nhân của lạm phát....................................................................................................
a. Lạm phát theo thuyết tiền tệ ..............................................................................................
b. Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy.......................................................................................
c. Lạm phát cầu kéo ...............................................................................................................
d. Lạm phát do thâm hụt ngân sách........................................................................................
e. Lạm phát theo tỷ giá hối đoái ............................................................................................
f. Những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác .............................................................
II. Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong những năm gần đây.........................................
1. Tình hình lạm phát năm 2010 ............................................................................................
2. Tình hình lạm phát 2011 ....................................................................................................
*Nguyên nhân lạm phát năm 2010 và 2011 ...........................................................................
3. Tình hình lạm phát năm 2012 ............................................................................................
*Nguyên nhân lạm phát năm 2012..........................................................................................
4. Tình hình lạm phát năm 2013 ............................................................................................
*Nguyên nhân lạm phát năm 2013..........................................................................................
5. Tình hình lạm phát năm 2014 ............................................................................................
*Nguyên nhân lạm phát năm 2014..........................................................................................
6. Dự báo xu hướng lạm phát năm 2015.................................................................................
III. Các giải pháp của chính phủ để kiểm soát lạm phát...................................................
1. Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt.................................................................................
2. Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm
soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân
sách. .............................................................................................................................................
....
3. Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của
thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. ..........................................
4. Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. ................
5. Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng....................................................................
6. Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về
giá. ...........................................................................................................................................
7. Mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội ..................................................
8. Những biện pháp cấp thiết của chính phủ ..........................................................................
C. Kết thúc.............................................................................................................................

2
A.LỜI MỞ ĐẦU

Vấn đề lạm phát, chống lạm phát, kiềm chề và kiểm soát lạm phát là một trong
những vấn đề đầu tiên trong việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước và
cũng là vấn đề mà các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và các nhà quản lí đã dày công
nghiên cứu và có nhiều tranh cãi. Lạm phát, nó luôn là con dao hai lưỡi. Một mặt nó
kích thích tăng trưởng kinh tế.Mặt khác khi lạm phát cao và không kiểm soát được thì
nó lại để lại hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế cũng như xã hội.Vấn đề đặt ra
là phải giữ lạm phát ở mức nào là phù hợp để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao. Và
khi lạm phát bùng nổ thì những biện pháp nào là hữu hiệu để khống chế và kiểm soát
nó. Gần đây, lạm phát cao đã xảy ra đối với nền kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là
trong những năm trở lại đây. Hiện tượng này đã gây nên sự chú ý quan tâm của mọi
tầng lớp dân cư, của Chính phủ và các nhà nghiên cứu. Người dân có những phản ứng
đa dạng, rất nhiều người đã có những quan điểm khác nhau về vấn đề lạm phát và
kiềm chế lạm phát và Chính phủ cũng liên tiếp đưa ra các chính sách nhằm kiềm chế
lạm phát. Bởi vai trò quan trọng của lạm phát đối với nền kinh tế nước nhà cũng như
thế giới nóí chung nên nhóm 4 chúng em đã chọn đề tài “Tình hình lạm phát những
năm gần đây và các giải pháp của chính phủ nhằm kiểm soát lạm phát” để nghiên cứu.
Đây là một vấn đề kinh tế phức tạp và có nhiều quan điểm khác nhau. Với thời gian và
khả năng hạn chế chúng em mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô và các
bạn để bài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.

3
B.Nội dung
I. Những vấn đề cơ bản về lạm phát
1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung hầu hết các hàng hóa,
dịch vụ so với thời điểm một năm trước đó trong một thời gian nhất định. Tức là khi giá trị
của hàng hóa dịch vụ tăng lên đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền giảm đi cùng với một số
tiền nhất định.
→Vậy lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian.
Nói một cách cụ thể hơn, lạm phát là hiện tượng giảm mãi lực của đồng tiền. Điều này
đồng nghĩa với ‘‘vật giá leo thang’’ giá cả hàng hóa dịch vụ tăng cao khiến với cùng một số
lượng tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn hoặc phải trả một giá cao hơn với cùng
loại hàng hóa dịch vụ đó.
* Đo lường lạm phát :
Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất định, các nhà
thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức
giá chung.
Tỷ lệ lạm phát là chi tiêu phản ánh tỷ lệ tăng thêm hay giảm bớt đi của mức giá chung kỳ
nghiên cứu so với kỳ gốc.
Tỷ lệ lạm phát được tính theo công thức sau:
gp = (log Po - log P-1) x 100%
Trong đó:
gp : tỷ lệ lạm phát (%)
P-1: chỉ số giá thời kỳ nghiên cứu
Po: chỉ số giá thời kỳ gốc
2. Quy mô lạm phát
Người ta thường chia lạm phát thành 3 loại tùy theo mức độ của tỉ lệ lạm phát:
 Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải là loại lạm phát một con số, biểu hiện mức tăng giá ở tỷ lệ thấp, dưới
10% một năm. Chính phủ các nước luôn mong muốn duy trì một tỷ lệ lạm phát nhất định ở
mức độ vừa phải (lạm phát mục tiêu) vì nó mang lại tác dụng tốt cho nền kinh tế. Thông
thường, mức lạm phát mục tiêu nằm trong giới hạn của mức lạm phát vừa phải. Với mức lạm
phát này, giá cả tăng chậm đến nỗi người ta không cảm nhận 4 là đang có lạm phát và do đó
được coi như là giá cả tương đối ổn định. Trong trường hợp này, dân chúng vẫn còn tin vào
giá trị đồng tiền.
 Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã là loại lạm phát hai hay ba con số trong vòng một năm (từ 10% đến
100%). Với mức lạm phát này, mức độ tăng giá gây tác hại nghiêm trọng đối với nền kinh tế,
thể hiện bằng đồng tiền mất giá một cách nhanh chóng. Trong trường hợp này người dân
tránh giữ tiền mặt mà muốn bảo tồn của cải dưới dạng phi tiền tệ. Việt Nam trong những năm
của thập niên 80 rơi vào tình trạng lạm phát này. Giá cả luôn luôn tăng ở mức 3 con số.
 Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là loại lạm phát với tốc độ tăng giá từ bốn, năm con số trở lên trong vòng
một năm. Đồng tiền bị mất giá đến mức chóng mặt. Dân chúng chìm ngập trong khối tiền để
tìm kiếm một chút ít hàng hóa vì hàng hóa đều hết sức khan hiếm. Trong trường hợp này,
chức năng quan trọng đầu tiên của tiền là làm phương tiện trao đổi bị triệt tiêu. Tiền có sẵn
nhưng không mua được hàng hóa vì không ai muốn bán hàng hóa để đổi lấy những đồng tiền
bị mất giá quá mức.
3.Tác hại của lạm phát
- Chi phí mòn giày: vì lạm phát làm xói mòn giá trị thực tế của số tiền mà chúng ta nắm giữ
nên để tránh sự mất giá của đồng tiền mọi người sẽ giữ ít tiền trong ví của mình hơn và một

4
trong những cách để thực hịên điều đó là đến ngân hàng thường xuyên hơn, tức là giữ tài sản
dưới dạng tiền gửi ngân hàng. Chi phí bỏ ra để giảm lượng tiền nắm gĩư được gọi là chi phí
mòn giày của lạm phát. Vì chúng ta phải đến ngân hàng thường xuyên hơn nên giày của
chúng ta mòn nhanh hơn,bên cạnh đó chúng ta phải mất đi thời gian và sự tiện lợi để nắm giữ
ít tiền hơn – cái mà chúng ta không phải trả khi không có lạm phát.Chi phí mòn giày tương
đối nhỏ đối với các quốc gia có lạm phátvừa phải. Chi phí mòn giày rất lớn đối với các quốc
gia siêu lạm phát.

- Chi phí thực đơn: hầu hết các doanh nghiệp không thay đổi giá hằng ngày, mà thường thông
báo giá và giữ ổn định trong khoảng thời gian vài tuần, vài tháng, năm. Các doanh nghiệp
không thường xuyên thay đổi giá cả bởi vì họ phải chịu chi phí cho việc thay đổi giá. Chi phí
cho vịêc thay đổi giá gọi là chi phí thực đơn, một thuật ngữ rút ra từ chiphí in thực đơn mới
của các nhà hàng. Chi phí thực đơn bao gồm chiphí quyết định giá mới, chi phí in bảng giá và
catalô mới, chi phí gửi bảng giá và catalô mới cho đối tác và khách hàng, chi phí quảng cáo
giá mới và thậm chí cả chi phí giải thích cho khách hàng tại sao có sựthay đổi giá.Lạm phát
làm tăng chi phí thực đơn mà doanh nghiệp phải chịu. Khi lạm phát cao, chi phí doanh
nghiệp tăng rất nhanh do sự thay đổi giá nhiều lần trong kỳ.

- Sự biến động của giá tương đối và phân bổ sai nguồn lực: các nềnkinh tế thị trường thường
dựa vào giá tương đối để phân bổ nguồn lực.Người tiêu dùng quyết định mua một thứ hàng
hoá bằng cách so sánh chất lượng và giá cả của các loại hàng hoá và dịch vụ khác
nhau.Thông qua những quyết định này, họ quyết định phân bổ các nhân tố sản xuất khan
hiếm cho các ngành và doanh nghiệp. Khi lạm phát càng cao thì sự thay đổi tự động trong giá
tương đối càng lớn, các quyết định của khách hàng bị biến dạng và thị trường mất khả năng
phân bổnguồn lực một cách có hiệu quả.

- Những biến dạng của Thuế do lạm phát gây ra: các nhà lập pháp thường không tính đến
lạm phát khi soạn thảo các luật thuế. Các nhà kinh tế đã nghiên cứu các luật thuế và kết luận
rằng lạm phát có xu hướng làm tăng gánh nặng thuế đánh vào các khoản thu nhập kiếm được
từ tiết kiệm.Vì vậy, khi lạm phát làm tăng gánh nặng thuế đánh vào các khoản tiết kiệm, nó
có xu hướng làm giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.

- Nhầm lẫn và bất tiện: các nhà kế toán phản ánh sai các khoản thu nhập của doanh nghiệp
khi giá cả tăng thường xuyên. Vì lạm phát làm cho đồng tiền có giá trị thực tế không giống
nhau vào các thời điểm khác nhau, nên việc tính toán lợi nhuận của công ty - phần chênh
lệchgiữa các khoản thu và chi phí - sẽ phức tạp hơn khi nền kinh tế có lạm phát. Do vậy,
trong chừng mực nào đó, lạm phát làm cho các nhà đầu tư khó phân biệt giữa các doanh
nghiệp làm ăn kém hiệu quả và do vậy cản trở thị trường tài chính trong việc phân bổ các
khoản tiết kiệm của nền kinh tế cho các loại đầu tư khác nhau.

- Tác hại đặc biệt của lạm phát không dự kiến: tái phân phối của cải một cách tuỳ tiện. Lạm
phát bất ngờ phân phối lại của cải giữa các thành viên trong xã hội không theo công lao và
nhu cầu của họ. Sự phân phối này xảy ra vì trong nền kinh tế có rất nhiều khoản vay được
tính bằng đơn vị tính toán là tiền. Khi giá cả thay đổi không đoán trước được nó sẽ phân phối
lại của cải giữa người đi vay và người cho vay. Nếu lạm phát có thể dự đoán trước được thì
người đi vay và người cho vay đã tính đến lạm phát khi đưa ra lãi suất danh nghĩa.
4. Nguyên nhân của lạm phát
a. Lạm phát theo thuyết tiền tệ
Kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá… có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát.
Chẳng hạn thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá lương thực tăng lên.

5
Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá hàng tiêu dùng tăng lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản
xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm
lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo các cách sau:
Theo thuyết tiền tệ:Theo quan điểm của các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ,khi cung tiền
tệ tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát,được thể hiện qua mô hình sau:

Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1,với sản lượng đạt ở mức sản lượng tự 7 nhiên Yn tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả P1 đường giao nhau với đường tổng cung AD1. Khi cung
tiền tệ tăng lên thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2. Trong một thời gian rất
ngắn,nền kinh tế sẽ chuyển động đến điển 1 ` và sản phẩm tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên,
tức là đạt tới Y1(Y1>Yn).Điều đó đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên,tiền lương tăng lên và giảm tổng cung –đường tổng cung dịch chuyển vào
đến AS2.Tại đây nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm trên đường tổng
cung dài hạn.Ở điểm cân băng mới(điểm2),mức giá đã tăng từ P1 đến P2.
Cung tiền tệ tiếp tục tăng ,đường tổng cầu lại dịch chuỷen ra đến AS3,nền kinh tế đạt
tới mức cân bằng mới tại điểm 3.Tại đây mức giá gcả đã tăng lên đến P3.Nếu cung tiền tệ vẫn
tiếp tục diễn ra và nền kinh tế đạt tới mức giá cả ngày càng cao hơn ,lạm phát tăng cao.
b. Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy

6
Lạm phát này xảy ra do những cú sốc tiêu cực hoặc do kết quả của những cuộc đấu
tranh đòi tăng lương gây ra. Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy được thể hiện qua mô hình sau:

Lúc đầu nền kinh tế ở điểm1, là giáp điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng
cung AS1,với mức sản lượng tự nhiên(sản lượng tiềm năng)và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do
mong muốn có được mức sống cao hơn hoặc do cho rằng tỷ lệ lạm phát dự tính trong nền
kinh tế sẽ tăng cao,những người công nhân đấu tranh đòi tăng lương.Vì tỷ lệ thất nghiệp đang
ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên những đòi hỏi tăng lương của công nhân dễ được giới
chủ chấp nhận,ảnh hưởng của việc tăng lương(cũng giống như ảnh hưởng của những cú sốc
cung tiêu cực)làm đường tổng cung AS1 dịch chuyển vào đến AS2.
Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm1 ` -giao điểm của đường tổng cung 8 mới AS2 và
đường tổng cầu AD1.Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản lượng tự nhiênY 1 (Y 1 < Yn )
và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên,đồng thời mức giá cả tăng lên đến P
1 .Vì mục đích muốn duy trì một mức công ăn việc làm cao hơn hiện tại,Chính phủ sẽ thực
hiện các chính sách điều chỉnh năng động nhằm tác động lên tổng cầu,làm tăng tổng cầu,lúc
này đường tổng cầu AD1 dịch chuyển ra AD2,nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tiềm
năng,và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tại điểm cân băng- điểm2,mức giá cả tăng lên đến P2.
Các công nhân đã được nhượng bộ và được tăng lương vẫn có thể tiếp tục đòi tăng
lương lên cao hơn.Đồng thời,những sự nhượng bộ đó đã tạo ra sự chênh lệch về mức lương
trong tầng lớp công nhân,tình trạng đòi tăng lương lại tiếp diễn,kết quả là đường tổng cung
lại dịch chuyển vào đến AS3 ,thất nghiệp lại tăng lên cao hơn mức tỷ lệ tự nhiên và Chính
phủ lại thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động làm dịch chuyển đường tổng cầu AD3
để đưa nền kinh tế trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên,mức giá cả
cũng tăng lên đến P3 .Nếu quá trình này cứ tục tiếp diễn thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục
của mức giá cả,đây là tình trạng lạm phát chi phí–đẩy.
c. Lạm phát cầu kéo

7
Một trường hợp khác vì mục tiêu công ăn việc làm cao,cũng dẫn đến lạm phát cao ,đó
là lạm phát cầu -kéo được thể hiện qua mô hình sau:

Giả sử ban đầu nền kinh tế đang đạt tới mức sản lượng tiềm năng,và tỷ lệ thất nghiệp
đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên,nền kinh tế đạt mức cân bằng ở điểm 1.Nếu các nhà
hoạch định chính sách sẽ hoạch định và theo đuổi một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên.
Để đạt được mục tiêu này, Nếu các nhà hoạch định chính sách sẽ phải đưa ra những
biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản 9 lượng tiềm năng, mức chỉ tiêu
sản lơng cần đạt được đó làYt (Yt>Yn).Các biện pháp mà họ đưa ra sẽ tác động lên tổng
cầu,đường tổng cầu sẽ dịch chuyển ra đến AD2 ,nền kinh tế chuyển đến điểm 1 ` (giao điểm
giữa đường tổng cầu mới AD2 và đường tổng cung ban đầu AS1).Sản lượng bây giờ đã đạt
tới mức Y1 lớn hơn sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên đã đạt được.
Vì hiện nay,tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế là thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
nên tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ di chuyển vào đến AS2 ,đưa nền kinh tế từ
điểm 1` chuyển sang điểm 2 ` .Nền kinh tế quay trở về mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 cao hơn P1.
Đến lúc này,tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn mục tiêu mà các nhà hoạch định chính sách
cần đạt được.Do đó họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách lam tăng tổng cầu.Quá trình này
cứ tiếp diễn liên tục và đẩy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn.
d. Lạm phát do thâm hụt ngân sách
Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và
gây ra lạm phát cao.
Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bằng biện pháp
phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường tài chính để vay tiền trong dân chúng, bù đắp
cho phần bị thiếu hụt. Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó,không
tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. Một biện pháp khác. Chính phủ có thể sử
dụng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước là phát hành tiền .Biện pháp này trực tiếp
làm tăng thêm cơ số tiền tệ,do đó tăng cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ
lạm phát.Tuy nhiên ở các nước đang phát triển,do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát
hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù đắp cho thâm hụt ngân sách là rầt khó thực hiện. Đối với

8
các quốc gia này,con đường duy nhất đối với họ là “sử dụng máy in tiền”. Vì thế,khi tỷ lệ
thâm hụt ngân sách của các quốc gia đó tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát
tăng. Do vậy, trong mọi trường hợp,tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao,kéo dài là
nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát.
e. Lạm phát theo tỷ giá hối đoái
Tỷ hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây
ra lạm phát.
Thứ nhất, khi tỷ giá tăng ,đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của những
người sản xuất trong nước,muốn kéo giá hàng lên cao theo mức tăng của tỷ giá hối đoái.
Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu, hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí về
nguyên liệu tăng lên,lại quay trở về lạm phát phí - đẩy như đã phân tích ở trên.Việc tăng giá
cả của nguyên liệu và hàng hóa nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá
cả ở rất nhiều hàng hóa 10 khác, đặc biệt là các hàng hóa của những ngành có sử dụng
nguyên liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
f. Những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác
* Nguyên nhân chủ quan: chính sách quản lý kinh tế không phù họp của nhà nước như chính
sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất... làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, kinh tế
tăng trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm
hụt thì điều tất yếu là nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền. Đặc biệt đối với một số quốc
gia, trong những điều kiện nhất định, nhà nước chủ trương dùng lạm phát như một công cụ để
thực thi chính sách phát triển kinh tế.
* Nguyên nhân khách quan: thiên tai, chiến tranh, tình hình biến động của thị trường nguyên
vật liệu, nhiên liệu trên thế giới...

II. Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong những năm gần đây
1.Tình hình lạm phát năm 2010
Tình hình diễn biến lạm phát 2010 rất phức tạp:

Tổng cục thống kê tuyên bố chỉ số giá CPI tháng 12/2010 tăng 1,98% mức cao nhất
kể từ đầu năm 2010. Như vậy lạm phát cả năm 2010 là 11,75% ứng với CPI 12/2010 so với

9
tháng 12/2009 vượt quá mức chỉ tiêu kế hoạch về lạm phát đặt ra cho năm này là 9,19%. Vẫn
đúng với qui luật tăng cao trong các tháng đầu năm và cuối năm hai điểm khác biệt giữa chỉ
số giá tiêu dùng năm 2010 là mức tăng có độ vênh lớn, tháng cao nhất so với tháng thấp nhất
lệch nhau hơn 1,5% . Trong khi đó xu hướng diễn biến chỉ số giá khá liền mạch với các bước
chuyển chỉ trong thời gian thời gian ngắn. Ba tháng đầu năm CPI tăng cao (tháng 1 là 1,36%,
tháng 2 là 1,96%, tháng 12 3 là 0,75%) nhưng sau đó có liền 5 tháng tăng thấp gần về mức
0% (tháng 4, tháng 5, tháng 6) để rồi lại vượt lên 1% thì 2 tháng cuối năm CPI đạt mức tăng
gần 2% như tháng 12 1,98% tạo thành xu hướng tăng mạnh mẽ đẩy lo ngại lạm phát những
tháng đầu năm 2011 dấy lên.
Trong tháng 12, CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,31% trong đó nhóm
lương thực tăng 4,67%, thực phẩm tăng 3,28% so với tháng 11. Ngành bưu chính viễn thông
giảm nhẹ 0,02% so với tháng trước.
Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp đó là hàng ăn
(16,18%), nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Các ngành Giao thông, hàng hóa & dịch vụ
khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá
với mức giảm gần 6% trong năm 2010. Trong năm 2010, chỉ số giá vàng tăng 36,72%, chỉ
giá USD tăng 7,63%. Về CPI của các vùng miền, đáng chú ý là chỉ số CPI khu vực nông thôn
tháng 12 tăng 2,04%; cao hơn 1,87% của khu vực thành thị.
2. Tình hình lạm phát 2011

Diễn biến lạm phát năm 2011 khá phức tạp, thể hiện ở việc tăng cao những tháng đầu năm
và lạm dần từ quý II. Trong 4 tháng cuối năm, lạm phát có dấu hiệu giảm tốc chỉ táng dưới
1% mỗi tháng.
Lạm phát liên tiếp bị đẩy lên, CPI theo tháng tăng 2,20% vào tháng 3. Chưa kịp hết ngỡ
ngàng về sự gia tốc sau Tết Nguyên Đán, CPI lập tức đạt đỉnh vào tháng 4 tăng tới 3,32% cao
hơn so với mục tiêu kiềm chế ở 7% mà Quốc hội thông qua đầu năm.
Dù giảm đôi chút ở tháng sau đó, nhưng con số CPI tháng 5 tăng 2,21% thực sự làm phát
hoảng dòng tiền trên thị trường chứng khoán.
Phản ứng trước các điều chỉnh CPI tháng 6 hạ nhiệt xuống mức tăng 1,09% khép lại nửa
đầu năm đầy sóng gió. Tuy nhiên lạm phát Việt nam chưa dừng lại ở đó , lạm phát tháng 7
lên đến đỉnh điểm tăng 1,17% so với cùng kỳ năm 2010 và tăng xấp xỉ 1,5% so với ngày đầu

10
tiên của năm 2011. :lạm phát tháng này của Việt Nam ở mức cao nhất Châu Á và đứng nhì
thế giới.
Diễn biến của qui luật rất mờ nhạt diễn biến chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2011 nổi trội ở
hai đột biến đến từ các mức tăng kỷ lục mới trong tháng 4 và tháng 7.
CPI tháng 11 năm 2011 tăng 18,62% so với cùng kỳ năm 2010. Theo đó, CPI tăng 0,39%
so với tháng 11/2011 và so với tháng 12/2011 tăng 0,53%.
Tổng kết lại tỷ lệ lạm phát cả năm 2011 lên tới 18,58% với chỉ số giá cả các mặt hàng
lương thực phẩm , nhà ở , giáo dục và giao thông tăng mạnh nhất.
*Nguyên nhân lạm phát năm 2010 và 2011
+ Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế ở mức độ cao bằng mọi giá: Ngày 8/10/2010 chính
phủ đặt ra những chỉ tiêu phát triển không thực tế:7%-7,5% mỗi năm trong 5 năm tới và 7%-
8% trong năm 2011-2020. Trong khi đó, kinh tế Việt Nam trải qua nạn lạm phát 11,75% vào
năm 2010 cao hơn tất cả các nước láng giềng. Nhà nước không thể nhắm vào mức phát triển
kinh tế cao trong khi trong khi cần phải chế ngự lạm phát. Để đạt được mục tiêu phát triển
chính phủ gia tăng chương trình đầu tư công qua các doanh nghiệp nhà nước và hậu quả là
làm tăng mức cầu về tín dụng. Do đó có thể nói rằng phần lớn lạm phát hiện nay phần lớn là
do SỨC CẦU KÉO.
+ Do tính qui luật về quan hệ cung cầu hàng hóa theo mùa trong năm Năm 2010
Nhìn vào diễn biến chỉ số CPI giữa các tháng trong năm 2010 cho thấy, chỉ số CPI tăng
cao chủ yếu vào đầu năm và cuối năm, tập trung là vào dịp trước và sau Tết Nguyên đán,
cũng như Tết Dương lịch. Đây là khoảng thời gian cầu tăng mạnh di tiêu dùng cuối năm, dịp
Tết nhưng cung hạn chế do thời tiết mùa vụ của sản xuất. Riêng tháng 12/2010 chỉ số CPI
tăng cao nhất tới gần 2%. Đóng góp chủ yếu vào con số này là mức tăng giá của khu vực và
dịch vụ ăn uống, tăng 3,31%(riêng lương thực tăng 4,67%). Cũng trong tháng này giá nhà ở
và vật liệu xây dựng cũng tăn mạnh tơi 2,53%.
Năm 2011 Nhìn trên các chỉ số cụ thể từng tháng, CPI năm 2011 có 3 điểm đáng lưu ý.
Thứ nhất, đấy là năm có mức độ tăng giá trong 1 tháng rất cao, tháng 4 vọt lên mức 3,32%.
Thứ hai, ngoài mức tăng đột biến, khoảng cách giữa các tháng tăng cao nhất và tháng giảm
thấp nhất cũng rất lớn, lên đến 2,96%( so sánh mức tăng 3,32% với mức giảm 0,36%)
Thứ ba, diễn biển chỉ số giá năm nay phá vỡ tính chu kỳ của các năm trước đó. Trong khi
những năm trước đó, nbieeur đồ chỉ số giá diễn biến theo hình parapol ngược, tức là tăng cao
ở những tháng đầu năm và cuối năm dương lịch, tăng thấp hoặc giảm ở những năm đầu quí 2
và khá ổn định ở những tháng giữa năm thì năm 2011 có sự đột biến mạnh ở quí I và giữa quí
II sau đó giảm tốc mạnh mẽ ở những tháng cuối năm. Nếu để ý kỹ ta thấy rất giống diễn biến
CPI 2008.

11
+ Do chính sách xã hội hóa học tập và giá của một số mặt hàng do nhà nước quản lý định
hướng giá sang cơ chế thị trường.
- Chính phủ cho phép điều chỉnh mức thu học phí từ tháng 9 và tháng 10 năm 2010. Bước
vào năm học mới, nhu cầu mua sắm đồ dùng học tập cùng với việc thực hiện lộ trình xã hội
hóa về học phí, phần lớn UBNN các tỉnh đã điều chỉnh tăng học phí lên mức khá cao dẫn đến
chỉ số giá điều chỉnh của giáo dục tăng lên mức đột biến. Năm 2010 đồ dùng học tập, học
phí.. là nhóm hàng tăng giá cao nhất với mức tăng 19,38%..
- Việc thực hiện lộ trình với một số hàng hóa, dịch vụ như:
• Điều chỉnh tăng giá điện từ ngày 1/3/2010
• Tăng giá nước sinh hoạt
• Xăng dầu: thực hiện 3 lần điều chỉnh tăng giá trong năm 2010, tăng đột biến từ
16400 đồng lên 19300 đồng và lên 21300 đồng trong năm 2011
• Tăng giá bán than
• Tăng mức lương có bản
Cụ thể:
 Theo nghị quyết số 11/NQ-CP ban hành ngày 24/2/2011, nhà nước cho phep gia tăng
giá xăng dầu trong nước cho phù hớp với giá xăng dầu trên thế giới và giá điện trong
nước theo cơ chế thị trường. Tăng giá điện và xăng ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực kinh
tế và trực tiếp làm nạn lạm phát trầm trọng hơn. Đây là hiện tượng chi phí đẩy.
Điện ở Việt Nam cũng được chính phủ bao cấp lâu nay. Giá thành cao hơn giá bán.
Giá điện trung bình tại Việt Nam hiện nay là 5,2 cent/kWh ( tính theo USD) chỉ bằng
một nửa so vơi sgias điện các nước trong khu vực. Chi phí sản xuất ra 1 kWh điện
trung bình từ 7 đến 12 cent. Việc hủy bỏ bao cấp là cần thiết và nhà nước đã cho
phép tăng giá điện 15,3% bắt đầu có hiệu lực vào tháng 3. Và mặc dù đã được điều
chỉnh tăng giá điện vào đầu năm 2011, nhưng do thiếu nợ chồng chất hàng nghìn tỷ
đồng nên Tập đoàn Điện lực Việt Nam vẫn tiếp tục đề xuất tăng giá lần hai, với mức
dự kiến tăng 11% vào tháng 11.

 Việc tăng giá xăng là một việc không thể tránh được vì giá xăng đầu trên thế giói
tăng và Việt Nam là một nước nhập cảng xăng dầu nhiều hơn gấp bội lượng xăng dầu
xuất khẩu

12
+ Do thiên tai
Lúa ở miền Bắc bị sâu bệnh đặc biệt là bị bệnh rầy. Tiếp đến là vụ đông ở miền bắc bị khô
hạn nặng, rét đậm kéo dài. Miền Trung và Tây Nguyên bị bão lụt gây thiệt hại nặng nề nhất
từ hàng chục năm qua, mùa màng vừa bị thiệt hại, thức ăn và vật tư nông nghiệp, máy móc
thiết bị nông nghiệp bị mât hay hư hỏng. Dịch cúm gia cầm, bệnh dịch lở mồm long móng…
+ Do tác động của thị trường thế giới
Sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhiều quốc gia đã lâm vào cảnh nợ
công tăng cao và thất nghiệp gia tăng, nhiều năm liền đã sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng
để kích hoạt cho nền kinh tế. Đặc biệt với nền kinh tế lớn nhất thế giới, khi chính phủ Mỹ liên
tục đổ tiền ra cùng với chính sách hạ thấp mức lãi xuất dưới mức cơ bản xuống còn 0.25%/
năm thì giá trị đồng đola liên tục rơi mạnh xuống so với các đồng tiền mạnh khác- một biểu
hiện cụ thể của cuộc chiến tiền tệ, gây hiệu ứng đến toàn cầu và tạo áp lực tăng giá vàng, bạc,
hàng hóa tiêu dùng khác tính bằng đola Mỹ, áp lực lạm phát do đó gia tăng
+ Việc phá giá đồng tiền Việt Nam và xuất nhập khẩu Trong năm 2010 tỷ giá trên thị trường
tự do tăng tăng trên 10% và tỷ giá giao dịch của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng tăng
5,9%. TỶ giá chính thức từ cuối năm 2009 đến năm 2010 được ngân hàng nhà nước điều
chỉnh tăng hai lần. Đợt điều chỉnh ngày 18/8/2010 tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng
Việt Nam và đôla Mỹ tăng 2,1% . Mục đích của việc điều chỉnh này nhằm khuyến khích xuất
khẩu hạn chế nhập siêu. Trong 15 tháng vừa qua Việt Nam đã phá giá VNĐ tất cả 4 lần và
trong khoảng thời gian này giá trị của VNĐ đã giảm tổng cộng khoảng 20% so với đồng đôla.
Tuy nhiên đồng Việt Nam mất giá cũng làm tăng lạm phát vì giá sản phẩm và giá nguyên liệu
nhập khẩu sẽ gia tăng tính theo VNĐ.
+ Do tác động của quá trình đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng
Do quá trình đô thị hóa gia và phát triển cơ sở hạ tầng , diện tích đất đai tiếp tục bị thu hẹp.
Các dự án nhà ở khách sạn, du lịch sinh thái, khu công nghiệp,.. Việc thu hồi đất nông nghiệp
làm cho diện tích đất trồng trọt giảm, mặt khác người dân có tiền từ đền bù giải phóng mặt
bằng, đền bù tài sản và hoa màu trên đất nên tăng tiêu dùng. Cũng do quá trình đô thị hóa giá
thuê nhà trong nắm 2010 bình quân tăng lên 20% nhất là giá cho người có thu nhập thấp và
trung bình thuê, như sinh viên, người lao động Nhu cầu xây dựng tăng tác động đến giá cả
mặt hàng vật liệu xây dựng là các mặt hàng có tỷ lệ tăng khá cao là hàng nhập ngoại hay
nguyên liệu nhập ngoại
+ Do tác động của lãi xuất
Mức lãi xuất cho vay gây khó khắn rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghệp của người dân tạo sức ép đẩy giá thành vật tư, hàng hóa và dịch vụ tác động lên giá
bán và tạo sức ép lên mặt bằng giá. Nhiều dự án triển khai dở dang nếu tiếp tục vay vốn thì
thu lỗ vì lãi suất cao, nếu khong vay vốn thì máy móc thiết bị bỏ không vẫn phải khấu hao,
xuống cấp vì tác động cảu thiên nhiên, chi phí bảo vệ, trả lãi 18 vốn vay đầu tư, chậm trả nợ

13
gốc, người lao động thiếu việc làm, ảnh hưởng ngay đến chất lượng tín dụng vì nợ quá hạn có
nguy cơ
+ Do biến động về giá vàng và diễn biến tâm lý của người dân
Lạm phát trong nền kinh tế đang ảnh hưởng đến nhiều mặt đời sống xã hội, đặc biệt là giá
các loại hàng hóa trên thị trường.
- Các chính sách quản lý của nhà nước nhằm mục tiêu điều hanh tốt hơn nền kinh tế
nhưng đôi khi chính yếu tố tâm lý của ngươi dân lại làm nảy sinh lạm phát tâm lý.
- Tâm lý người dân rất nhạy cảm với lạm phát và thướng có phản ứng đôi khi quá mức
càng đẩy lạm phát lên cao.
- Tâm lý không tích trữ đồng Việt Nam trong nhà

Giá vàng lên cơn sốt vào nhiều thời điểm cộng với diễn biến thất thường của tỷ giá
VNĐ/USD trên thị trường tự do, tác động lớn đến tâm lý của người dân về lạm phát và sự
mất giá của đồng tiền Việt Nam, góp phần tác động đến mặt bằng giá chung trên thị trường.
+ Nợ công và chi tiêu công qua mức Có thể nói nợ công Việt Nam lên đến mức báo động. Nợ
công ở Việt Nam khoảng 54,6% GDP, nợ nước ngoài 41,5% GDP tương đương khoảng 50 tỷ
USD. Con số này ở mức nguy hiểm nếu so với dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ khoảng 14-
15 tỷ USD.
Về chi tiêu công: Không thể phủ nhận sự cần thiết của đầu tư công. Nhưng nhà nước chỉ nên
tham gia vào những lĩnh vực đem lại lợi ích cho cả nền kinh tế nhưng tư nhân không có động
cơ để làm hoặc làm không có hiệu quả. Trêm thực tế nhà nước tham gia quá nhiều vào các
hoạt động kinh tế và nhiều khi còn cạnh tranh với và chen lấn khu vực tư nhân.Với mức chi
tiêu của khu vực công từ 35-40% GDP là 1 mức quá cao. Mức chi tiêu này ắt hẳn là một
mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng và những hợp đồng có nhiều ưu ái cho 1 số đối tượng.
+ Do vấn đề tiền tệ Có thể nói kênh tiền tệ qua hệ thống ngân hàng không phải nguyên
nhân chủ yêu gây ra lạm phát cao năm 2010
- Mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng
đến hết năm 2010 không phải là cao
- Năm 2011 chỉ số gái tiêu dùng CPI tăng khá cao đe dọa mục tiêu kiềm chế lạm phát
trong năm dưới mức hai con số. Diễn biến nêu trên đã ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin của
người dân, thị tường và các nhà đầu tư.
3. Tình hình lạm phát năm 2012

14
Hàng năm, CPI thường tăng mạnh vào tháng Tết thì năm 2012 lại ngược lại, CPI tăng
mạnh vào tháng 9, giảm sâu vào giữa năm. Đóng góp vào CPI là giá dịch vụ công như y tế,
giáo dục trong khi lương thực, thực phẩm lại tăng thấp.
Mặc dù từ trước, các cơ quan dự báo và Chính phủ đều nhận định cho rằng, lạm phát năm
2012 sẽ được kiềm giữ ở 1 con số và sẽ dao động trong khoảng từ 7,5-8%, tuy nhiên, con số
lạm phát công bố chiều nay từ Tổng cục Thống kê (TCTK) lại thấp hơn nhiều, chỉ ở mức
6,81%,xấp xỉ mức tăng 6,52% của năm 2009.
Riêng tháng 12, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,27% so với tháng trước. Tính bình
quân cả năm, CPI năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân năm 2011.
Mức tăng CPI năm nay được cho là thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75% của năm
2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011 nhưng là năm giá có nhiều biến động bất thường.
Bất thường của CPI năm 2012 là giá lương thực - thực phẩm lại tăng thấp, thậm chí giảm,
tăng cao ở những ngành dịch vụ công, do Nhà nước quản lý giá.
Theo quan sát của cơ quan thông kê, khác thông lệ, trong năm 2012, CPI tăng không quá
cao vào hai tháng đầu năm 2012 (tăng 1% vào tháng 1 và tăng 1,37% vào tháng 2) nhưng lại
tăng cao nhất vào tháng 9 với mức tăng 2,20%, chủ yếu do tác động của nhóm thuốc và dịch
vụ y tế và nhóm giáo dục.
Trong năm, có tới 7 tháng CPI chỉ tăng dưới 1% và hầu hết các tháng chỉ tăng dưới 0,5%.
Một điều khác thường nữa của thị trường giá cả trong nước năm nay là CPI không giảm
vào sau Tết Âm lịch mà giảm vào 2 tháng giữa năm là tháng 6 và tháng 7. Hai tháng nay, chỉ
số giá thậm chí có giá trị âm.
Về nhóm hàng, CPI bình quân của nhiều nhóm hàng năm 2012 có mức biến động nhiều
và khác xu hướng so với năm trước. Cụ thể, nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng thấp hơn
mức tăng chung: Lương thực tăng 3,26%, và thực phẩm tăng 8,14% trong khi CPI bình quân
chung tăng 9,21%. Hồi năm 2011, đây là nhóm hàng có chỉ số giá tăng cao nhất và cao hơn
nhiều so với mức tăng chung: mức tăng giá của nhóm lương thực là 22,82%, của nhóm thực
phẩm là 29,34% trong khi CPI bình quân chung tăng 18,58%.
Nổi lên về mức tăng giá mạnh trong năm 2012 là nhóm dịch vụ y tế và giao dịch. Chỉ số
giá của nhóm y tế có sự thay đổi lớn mức tăng mạnh 20,37%, cao hơn nhiều lần mức tăng
4,36% của năm 2011. Còn nhóm giao dịch thì trong hai năm qua đã duy trì mức tăng cao.
Năm 2011, giá cả nhóm này tăng 23,18%, năm 2012 tăng 17,07%.
Trong khi, ở chiều ngược lại, chỉ số giá nhóm bưu chính viễn thông vẫn duy trì mức
giảm. Năm 2011 giảm 5,06% và đến năm nay giảm 1,11%.

15
Nằm ngoài rổ tính giá, chỉ số giá vàng tháng 12/2012 tăng 0,46% so với tháng trước;
tăng 0,4% so với tháng 12/2011. Chỉ số giá USD tháng 12/2012 tăng 0,03% so với tháng
trước; giảm 0,96% so với tháng 12/2011.
Ngoài ra, TCTK cũng cung cấp thêm về chỉ số giá một số yếu tố đầu vào, tác động đến
doanh nghiệp. Trong đó, cước vận tải năm 2012 tăng 13,2% so với năm trước với mức tăng
giá cước tại dịch vụ vận tải hàng hóa là 7,82%. Chỉ số giá cước vận tải đường sắt năm 2012
tăng 15,49% so với năm 2011; đường bộ và xe buýt tăng 9,98%; đường thủy tăng 7,84%;
đường hàng không tăng 31,97%;
Chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất năm 2012 tăng 9,04% so với năm
2011. Trong đó chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất của một số ngành tăng
cao có máy móc thiết bị chưa phân được vào đâu tăng 15,68%; sản phẩm từ cao su, khoáng
phi kim loại tăng 14,9%; dệt, trang phục, da và các sản phẩm có liên quan tăng 13,99%; sản
phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 13,17%.
*Nguyên nhân lạm phát năm 2012
Việc tăng nhanh CPI trong một số tháng của năm 2012 tập trung chủ yếu là do giá xăng
dầu tăng cao, thêm vào đó là giá dịch vụ y tế. Việc tăng giá của các nhóm hàng này, ngoài
yếu tố quốc tế còn do việc quản lý giá các mặt hàng này còn chưa tốt. Tình trạng quản lý giá
như vậy là một trong những yếu tố gây lạm phát kỳ vọng. Đây là vấn đề cần được khắc phục
để hạn chế kỳ vọng lạm phát của những năm tiếp theo. Xu hướng giảm của CPI trong năm
2012 có thể thấy chưa có yếu tố bền vững, bởi:
 Thứ nhất, hiện tại, việc giá nguyên - nhiên liệu, giá thực phẩm trên thị trường thế
giới có xu hướng giảm. Tuy nhiên, việc giảm giá các mặt hàng này trên thị trường
quốc tế có thể chỉ mang tính chu kỳ và là hệ quả tất yếu của giai đoạn kinh tế suy
thoái. Do 22 vậy, trong trung hạn vẫn cần hết sức chú ý xu hướng biến động khó
lường của yếu tố này trong việc tác động đến sự gia tăng chỉ số CPI của Việt Nam.
 Thứ hai, bối cảnh kinh tế hiện nay cũng đã tác động mạnh làm suy giảm cầu tiêu
dùng nội địa thấp hơn nhiều so với dự báo, tín dụng ngân hàng tạm thời suy giảm...
Nhân tố này sẽ được khắc phục cùng với sự phục hồi kinh tế trong nước. Do vậy,
nhân tố này chỉ mang tính tạm thời làm giảm tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng. Tuy
nhiên, nếu các biện pháp của Chính phủ để phục hồi tăng trưởng kinh tế không hiệu
quả, thì sự suy giảm sức mua sẽ là nhân tố gây nên tình trạng giảm phát kéo dài.
 Thứ ba, diễn biến của cán cân thanh toán chưa đủ bền vững để hỗ trợ giảm sức ép về
tỷ giá. Mặc dù, hoạt động thương mại của Việt Nam trong đó chủ yếu là xuất khẩu
các hàng thiết yếu không ảnh hưởng lớn bởi sự suy giảm thương mại toàn cầu, thậm
chí trong một vài trường hợp, dưới tác động thu nhập giảm tiêu dùng ở một số nước
Phát triển đã hướng sang các hàng hóa xuất xứ từ các nước đang phát triến như Việt
Nam. Đây có thể là một trong những nhân tố hỗ trợ cán cân thương mại Việt Nam
vào nửa đầu năm 2012. Tuy nhiên nếu trong giai đoạn tới, cơ cấu xuất nhập khẩu của
Viêt Nam chưa có những thay đổi căn bản thì chỉ ngay khi kinh tế toàn cầu có
khuynh hướng phục hồi thì Việt Nam lại phải đối mặt với tình trạng nhập siêu.
 Thứ tư, là mặc dù lạm phát hiện tại đang giảm tốc song kể cả khi đẩy lùi về mức một
con số vào cuối năm thì vẫn còn cao hơn so với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
 Thứ năm, tính bền vững trong tăng trưởng kinh tế chưa cao, năng suất lao động thấp,
mặc dù Việt Nam đang nỗ lực chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng
sang chiều sâu, song quá trình chuyển đổi này phải có thời gian, và vốn vẫn là nhân
tố quan trọng để tăng trưởng kinh tế, trong khi đó năng lực quản lý sử dụng vốn cao
khó có thể cải thiện nhanh. Do vậy nếu thực hiện các giải pháp vĩ mô không thận
trọng thì nguy cơ lạm phát vẫn hiện hữu.
4. Tình hình lạm phát năm 2013

16
Thống kê cho thấy, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng
trước và tăng 6,04% so với tháng 12/2012.
Đây là năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Chỉ số giá
tiêu dùng bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với bình quân năm 2012.
Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng có chỉ số giá
tháng 12/2013 so với tháng trước tăng cao nhất với mức tăng 2,31%; may mặc, mũ nón,
giày dép tăng 0,57%, hàng ăn dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tăng 0,17%; đồ uống và
thuốc lá tăng 0,27%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,25%; văn hóa, giải trí và du lịch
tăng 0,13%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,08%; giáo dục tăng 0,02%. Các nhóm hàng hóa
và dịch vụ còn lại chỉ số giá giảm: Gồm giao thông vận tải 0,23%, bưu chính viễn thông
giảm 0,01%.
Về tăng trưởng GDP, số liệu chính thức từ Tổng cục Thống kê cho biết, Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) năm 2013 ước tính tăng 5,42% so với năm 2012. Trong đó, quý
I tăng 4,76%, quý II tăng 5,00%, quý III tăng 5,54%, quý IV tăng 6,04%. Mức tăng
trưởng năm nay tuy thấp hơn mục tiêu tăng 5,5% nhưng cao hơn mức tăng 5,25% của
năm 2012 và có tín hiệu phục hồi.
Trong mức tăng 5,42% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 2,67%, xấp xỉ mức tăng của năm trước, đóng góp 0,48%%, khu vực công nghiệp và
xây dựng tăng 5,43%, thấp hơn mức tăng 5,75% của năm trước, đóng góp 2,09%, khu
vực dịch vụ tăng 6,56% cao hơn mức tăng 5,9% của năm 2012, đóng góp 2,85%.
Tổng Cục Thống kê đánh giá, sản xuất công nghiệp đã có dấu hiệu phục hồi, nhát là
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã có chuyển biến rõ nét. Chỉ số tồn kho, tiêu thụ đã
diễn biến tích cực. Trong đó, chỉ số sản xuất ở một số ngành tăng cao như dệt may, sản
xuất da, sản xuất thiết bị điện...
Đáng chú ý, chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chỉ còn tăng 9,2% so với cùng kỳ
năm trước.
Về cơ cấu trong quy mô nền kinh tế cả năm, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản
chiếm tỷ trọng 18,4%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,3% và khu vực dịch
vụ chiếm 43,3% (năm 2012 các tỷ trọng tương ứng là 38,6% và 41,7%). Xét về góc độ
sử dụng GDP năm nay, tiêu dùng cuối cùng tăng 5,36% so với năm 2012, đóng góp
3,72% vào mức tăng chung; tích lũy tài sản tăng 5,45%, đóng góp 1,62%, chênh lệch
xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 0,08% cho xuất siêu.
*Nguyên nhân lạm phát năm 2013
Bước vào năm 2013, tuy tình hình có cải thiện hơn, nguyên nhân lạm phát là do:
Thứ nhất, nguy cơ tái lạm phát cao kèm theo sự trì trệ của thị trường sẽ làm cho tình
hình khó khăn thêm. Mặc dù CPI 8 tháng đầu năm 2013 chỉ tăng 3,53% so với tháng
12/2012, nhưng nguy cơ lạm phát vẫn “rình rập” khi mà nguyên nhân bên trong của nền
kinh tế chưa được giải quyết.
Thứ hai, tình hình nợ xấu chưa được cải thiện, nên dòng tín dụng vẫn bị tắc nghẽn,
nền kinh tế không hấp thụ được vốn. Tình trạng thừa tiền, thiếu vốn còn kéo dài. Khả
năng tiếp cận vốn của DN vẫn còn khó khăn, nhất là DN vừa và nhỏ.
Thứ ba, khả năng kéo giảm lãi suất cho vay không nhiều; khó đáp ứng sự mong đợi
của DN, do hoạt động kém hiệu quả của DN lẫn hệ thống ngân hàng thương mại. Nếu
lạm phát kỳ vọng cả năm là 7%, thì việc kéo giảm lãi suất tiết kiệm tiền gửi có kỳ hạn
không còn nhiều dư địa và lãi suất cho vay vẫn còn khá cao, đặc biệt là lãi suất vay trung
- dài hạn. Điều này sẽ không kích thích được các DN đang có thị trường mở rộng đầu tư
và vẫn là nguy cơ làm tăng nợ xấu đối với những DN đang nỗ lực phục hồi sản xuất.
Thứ tư, những nỗ lực để làm “ấm” thị trường bất động sản chưa thể mang lại kết
quả, nên thanh khoản của thị trường này khó được cải thiện. Gói hỗ trợ lãi suất 30.000 tỷ
đồng để hỗ trợ thị trường bất động sản cho đến nay chưa mang lại kết quả đáng kể. Một

17
khi thanh khoản của thị trường bất động sản chưa cải thiện, thì việc xử lý nợ xấu của
ngân hàng thương mại cũng sẽ khó khăn.
Cộng với đó là, trong năm 2013 tình hình kinh tế thế giới còn diễn biến thất thường,
có tác động bất lợi đối với những nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế Việt Nam. 24
Với tình hình trên, tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XIII đã xác định mục tiêu kinh tế
tổng quát của năm 2013 là: “Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát thấp hơn, tăng
trưởng cao hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng...”, với tốc độ tăng GDP khoảng 5,5% và
kiểm soát CPI dưới 8%.
Để thực hiện các mục tiêu trên, Chính phủ đang có nhiều nỗ lực để tạo niềm tin cho
thị trường thông qua một “gói giải pháp hỗ trợ thị trường” nhằm: giải quyết hàng tồn
kho; xử lý nợ xấu và tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản. Ba vấn đề này có
quan hệ nhân quả với nhau, nên không thể giải quyết riêng rẽ. Ngày 07/01/2013, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết 01 và 02 để hỗ trợ thị trường. Khác với gói giải pháp kích
cầu thực hiện năm 2009, gói giải pháp hỗ trợ thị trường lần này tập trung vào khâu xử lý
“điểm nghẽn” của tín dụng và tăng sức mua của thị trường, trong đó quan tâm đặc biệt
đến tồn kho sản phẩm bất động sản. Cụ thể, với các giải pháp về tín dụng áp dụng biện
pháp cho vay mới các DN có khả năng tồn tại và phát triển; các DN đang thực hiện các
dự án nhà ở đang có thị trường…; ngăn chặn xu hướng tăng số DN phải ngưng hoạt
động, giải thể do thiếu vốn lưu động; mở rộng tín dụng tiêu dùng; giảm lãi suất huy động
tiền gửi và lãi suất cho vay; áp dụng nhiều biện pháp để xử lý nợ xấu, trong đó có việc
thành lập định chế mua bán nợ của Nhà nước (VAMC). Đồng thời, Chính phủ tiếp tục
thực hiện biện pháp hoãn thời hạn nợp thuế, thời hạn nộp tiền sử dụng đất, miễn giãm
thuế... Tại Kỳ họp thứ 5 (tháng 5-6/2013), Quốc hội đã sửa đổi một số điều của Luật
Thuế thu nhập DN và Luật Thuế giá trị gia tăng nhằm miễn giảm thuế cho một số đối
tượng để kích thích thị trường và giảm khó khăn cho DN. Áp dụng thuế suất thu nhập
DN là 22% từ tháng 1/2014 và 20% từ tháng 01/2016 để khuyến khích DN mở rộng đầu
tư, giảm 50% thuế giá trị gia tăng cho nhà giá thấp….
5. Tình hình lạm phát năm 2014
Sau một thời gian dài liên tục đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh tế với tóc độ
cao,môi trường kinh tế vĩ mô ổn định bắt đầu từ cuối năm 2013 và những tháng đầu năm
2014 ,nền kinh tế nước ta đã rơi vào tình trạng lạm phát tăng cao ngoài mức dự
báo .Theo số liệu của tổng cục thống kê ,chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của 9 tháng đầu năm
2014 so với thời điểm cuối năm 2013 đã tăng lên mức 23% và trong năm 2009, có thể tỷ
lệ lạm phát sẽ còn duy trì ở mức trên một con số.
Xét trên từng mặt hoạy động của hệ thồng ngân hàng thì những tác động tiêu cực của
tình hình lạm phát thường được biểu hiện như sau.
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng,chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 12 năm 2014

18
Giá tiêu dùng tháng 12 năm 2014 so với tháng trước giảm 0,68%,trong đó các nhóm
hàng hoá và dịch vụ có giá giảm là:hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,13%,trong đó
lương thực giảm 2,36%; nhà ở vật liệu xây dựng giảm 2,36%;phương tiện đi lại bưu điện
giảm 6,77%.Giá các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng nhẹ :may mặc mũ nón giày dép
tăng 1,01% đồ uống và thuoocf là tăng 0,68%:văn hóa thể thao giải trí tăng 0,66% ;thiết
bị và đồ dùng gia đình tăng 0,6%,dược phẩm y tế tăng 0,35%;giáo dục tăng 0,17%.
Giá tiêu dùng năm 2014 nhìm chung tăng khá cao và diễn biến phức tạp, khác thường
so với xu hướng giá tiêu dùng các năm trước.giá tăng cao ngay từ quí 1 và liên tục tăng
lên trong quí 2,quí 3,nhưng quí 4 liên tục giảm (so với tháng trước tháng 10 giảm
0,19%;tháng 11 giảm 0,76% tháng 12 giảm 0,68%) nên giá tiêu dùng tháng 12 26 năm
2014 so với tháng 12 năm 2013 tăng 19,89% và chỉ số giá tiêu dùng bình quân tăng
22,97%.
Mặc dù giá tiêu dùng năm 2014 tăng khá cao ,nhưng xu hướng diễn biến theo chiều
hướng tích cực vào các tháng cuối năm là do :Kết quả thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải
pháp nhằm kiềm chế lạm phát ,ổn định kinh tế vĩ mô ,đảm bảo an sinh xã hội và tăng
trưởng bền vững trong đó ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát với giải pháp thắt chặt tiền
tệ là nguyên nhân cơ bản giữ cho lạm phát thấp hơn 20%.điều này cũng khẳng định
những giải pháp mà chính phủ đề ra là hoàn toàn đuungs hướng ,kịp thời và đạt kết quả

19
tích cực giá tiêu dùng đã giảm dần từ tháng 10 năm 2014 ;Giá dầu tho và nhiều loại
nguyên liệu hàng hóa khác trên thị trường thế giớ đã giảm mạnh vào những tháng cuối
năm ,tạo thuận lợi cho việc giảm giá đầu vào của sản xuất trong nước ;Tình hình sản xuất
trong nước những tháng cuối năm cũng đã bớt khó khăn hơn ,do tiếp cận các nguồn vốn
và mức độ giải ngân khá hơn. Giá vàng tháng 12 năm 2014 so với những tháng trước
tăng 0,78%;so với tháng 12 năm 2013 tăng 6,83 .
Giá vàng bình quân năm 2014 so với năm 2013 tăng 31,93. Giá đô la Mỹ bình quân
năm 2014 so với năm 2013 tăng 2,35%.
*Nguyên nhân lạm phát năm 2014
Lạm phát thấp trong năm 2014 do những nguyên nhân chủ yếu là:
Thứ nhất, tiêu dùng thấp và mức cải thiện chậm trong khi nguồn cung hàng hoá ổn
định và có xu thế tăng trưởng tích cực hơn . Chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành năm
2014 tăng 7,6% so với năm 2013, cao hơn đáng kể mức tăng 5,9% của năm 2013 nhưng
tăng trưởng tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2014 chỉ đạt 6,3% sau
khi loại trừ yếu tố giá, mặc dù cao hơn giai đoạn 2011 - 2013 nhưng vẫn thấp đáng kể so
với các năm có tăng trưởng cao và lạm phát thấp. Thêm nữa, tăng trưởng cung tiền và tín
dụng thấp trong năm 2013 - 2014 cũng góp phần đáng kể kiềm chế tốc độ tăng lạm phát.
Tính đến ngày 22/12/2014, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán ở mức 15,99%, tăng
trưởng tín dụng ở mức 12,62% so với cuối năm 2013, cao hơn không đáng kể so với mức
bình quân giai đoạn 2011 - 2013 và bằng một nửa giai đoạn 2006 - 2010. Mặc dù tăng
trưởng tín dụng và cung tiền năm 2014 cao hơn năm 2013 nhưng tình hình sản xuất gặp
nhiều khó khăn nên khả năng hấp thụ vốn còn hạn chế , phần lớn các luồng tiền đều luân
chuyển trong hệ thống ngân hàng , do đó không gây ra tác đôṇ g tiêu cực đáng kể n ào
đối vớ i laṃ phát.
Thứ hai, sự ổn định của thị trường ngoại hối cùng với mức điều chỉnh tăng tỷ giá
thấp 1% trong năm 2013 - 2014, việc điều chỉnh giảm liên tục các mức lãi suất cho vay
cũng góp phần kiềm chế đáng kể tốc độ tăng lạm phát.
Thứ ba, quán triệt Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2011 vớ i nhiêṃ vụ quan
troṇg là ổn điṇ h vĩ mô, kiểm soá t laṃ phá t nên trong năm 2014, lạm phát chủ yếu chịu
sự tác động của việc điều chỉnh giá các mặt hàng cơ bản như giá dị ch vụ y tế , giáo dục,
giá xăng dầu. Tuy giá các mặt hàng cơ bản này có sự điều chỉnh nhưng nhìn chung, mức
ảnh hưởng không lớn và không gây ảnh hưởng kéo dài1 .
Thứ tư, giá cả hàng hoá thế giới có mức tăng thấp và vẫn tiếp tục xu hướng giảm.
Tính bình quân 11 tháng đầu năm 2014, chỉ số giá hàng hoá chung thế giới đã giảm 4,2%
so vớ i bình quân cùng kỳ năm 2013, trong đó lương thực - thực phẩm giảm 3,75%,
nguyên liêụ công nghiêp ̣ giảm 5,4% (nguyên liêụ thô công nghiêp ̣ giảm 2,74%, kim loaị
giảm 9,66%), năng lượng giảm 4,57% (giá dầu thô giảm 4,33%). Do giá cả hàng hoá thế
giới giảm nên giá hàng hoá nhập khẩu cũng giảm , riêng giá xăng dầu nhập khẩu vào
Việt Nam trong năm 2014 đã có 19/24 lần điều chỉnh giảm giá, mức điều chỉnh giảm giá
xăng dầu ngày 22/12/2014 đã khiến giá xăng và dầu diesel giảm khoảng 26%, dầu hoả
giảm 22%, mazut giảm 28,2% so với cuối năm 2013, đây là nguyên nhân chính khiến giá
của nhóm hàng giao thông giảm mạnh trong năm 2014 và góp phần gián tiếp làm giá của
các nhóm hàng khác cũng giảm theo.
6. Dự báo xu hướng lạm phát năm 2015
Một số dự báo quốc tế và trong nước đều cho rằng , lạm phát Việt Nam năm 2015 sẽ
tăng ở mức thấp nhưng cao hơn đáng kể so với lạm phát năm 2014. Áp lực lạm phát
trong nước do tác động của giá thế giới trong năm 2015 không lớn. Dự báo của IMF
(tháng10/2014) và WB (tháng 12/2014) đều cho rằng, giá cả hàng hoá thế giới trong năm
2015 sẽ giảm so với 2014, trong đó, giá lương thực - thực phẩm sẽ giảm 4 - 5%, giá năng
lượng giảm khoảng 5 - 10%, tuy nhiên, các rủi ro về biến đổi khí hậu và căng thẳng

20
chính trị ở khu vực U-crai-na, I-rắc có thể làm giá lương thực - thực phẩm và giá dầu
tăng. Giá cả hàng hoá của một số nước nhập khẩu chính của Việt Nam được dự báo tăng
trong năm 2015, theo đó, lạm phát tại Trung Quốc tăng 0,2 điểm phần trăm, Hàn Quốc
tăng 0,8 điểm phần trăm Đài Loan tăng 0,6 điểm phần trăm, Nhật Bản tăng 0,4 điểm
phần trăm... điều này có thể khiến giá nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam tăng, góp phần
gia tăng lạm phát trong nước nhưng không đáng kể do giá hàng hoá thế giới và lạm phát
ở các nước trên đều ở mức thấp. Tuy vậy, diễn biến của giá cả hàng hoá thế giới và lạm
phát trong nước không phải lúc nào cũng có cùng xu hướng, lạm phát trong nước vẫn
phụ thuộc lớn vào chính sách điều hành giá của Chính phủ và các yếu tố nội tại của nền
kinh tế.

Một số dự báo lạm phát Việt Nam năm 2015 (%) Ở trong nước, một số yếu tố tác động
đến lạm phát 2015 như:
(i) Thực hiện mục tiêu tăng trưởng năm 2015, tín dụng dự kiến sẽ tăng trưởng cao hơn
so với năm 2014, đồng thời, tỷ giá tiếp tục được điều chỉnh, tuy nhiên, để đảm bảo ổn
định môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, tỷ giá sẽ chỉ được điều chỉnh ở
mức thấp, do đó, ảnh hưởng tới lạm phát là không lớn trong điều kiện giá cả hàng hoá thế
giới được dự báo vẫn tiếp tục ở mức thấp trong năm 2015.
(ii) Lạm phát phi lương thực - thực phẩm đãgiảm tháng thứ 6 liên tiếp. Từ giữa năm
2014 đến nay, lạm phát cơ bản theo phương pháp sắp xếp và lạm phát phi lương thực -
thực phẩm 28 không có sự chênh lêc ̣ h lớn so với mức lạm phát chung. Tính bình quân
cả năm, lạm phát phi lương thực - thực phẩm tăng 4,11%, lạm phát theo phương pháp
sắp xếp tăng 3,96%, gần bằng mức lạm phát bình quân chung cả năm (4,09%). Như vậy,
tính toán những yếu tố gây biến động đến mức lạm phát chung đã được loại bỏ khỏi lạm
phát cơ bản, lạm phát năm 2015 có thể sẽ xoay quanh mức 5% .
(iii) Sự gia tăng tổng cầu do các yếu tố:
(1) Sự hồi phục tích cực hơn của tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm 2015 sẽ hỗ
trợ tốt cho sự phục hồi sản xuất trong nước và gia tăng xuất khẩu phục vụ nhu cầu thế
giới;
(2) Việc ký kết các hiệp định thương mại trong năm 2015 sẽ mở ra nhiều tiềm năng
và cơ hội cho xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là xuất khẩu nông thuỷ sản, điều này có
thể gây tăng giá nông thuỷ sản trong nước;
(3) Đầu tư tư nhân gia tăng do Chính phủ tiếp tục sử dụng các gói hỗ trợ tài chính
nhằm thúc đẩy sản xuất và các nhà đầu tư muốn tranh thủ các cơ hội do lợi thế của việc
ký kết các hiệp định thương mại mang lại;
(4) Tiêu dùng tư nhân được cải thiện do chính sách điều chỉnh tiền lương của Chính
phủ và niềm tin tiêu dùng được phục hồi do sự ổn định của thị trường giá cả trong 2 năm
qua;
(5) Đầu tư của Chính phủ tăng do quá trình hội nhập và việc ký kết các hiệp định
thương mại đòi hỏi cần phải tiến hành một số cải cách như các thay đổi trong hệ thống
thuế, tăng đầu tư giá dục nhằm nâng cao chất lượng lao động, đầu tư vào cơ sở hạ tầng...
(iv) Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách điều chỉnh giá đối với các mặt hàng cơ
bản, theo đó, giá điện, giá dịch vụ giáo dục, giá dịch vụ y tế sẽ tiếp tục tăng trong năm
2015, đặc biệt, giá dịch vụ y tế năm 2015 sẽ bổ sung thêm các chi phí liên quan đến tiền

21
lương, khấu hao tài sản, chi phí nhân công thuê ngoài... Với các nhận định này, lạm phát
của Việt Nam trong năm 2015 được dự báo không vượt quá 7%.
III. Các giải pháp của chính phủ để kiểm soát lạm phát
1. Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt.
Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức
cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng liên tục và đây cũng là nguyên nhân
quan trọng dẫn đến lạm phát ở nước ta. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ
trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ
đầu năm. Ngân hàng nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các
công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được yêu cầu
này. Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính thanh
khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện
cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các
loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát.
Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường.
Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân
trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi
có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn
tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối.
Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Công Thương, Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát việc tuân
thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Ban hành quy định và chế tài xử
lý vi phạm, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt động, thu tài sản; quy định khen,
thưởng đối với việc phát hiện các hành vi vi phạm hoạt động thu đổi, mua bán ngoại tệ,
vàng. Xử lý nghiêm theo pháp luật đối với hành vi cố tình vi phạm.
2. Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân
sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ
lệ thâm hụt ngân sách.
Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện
chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về
cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định
cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các Bộ, địa
phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để
có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong
việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn. Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ
trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước,
rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các
công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những
công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành
phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung
xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ
đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới.
Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức sử dụng ngân sách nhà
nước chịu trách nhiệm tiết giảm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo, tổng kết, sơ kết, đi công
tác trong và ngoài nước... Không bổ sung ngân sách ngoài dự toán, trừ các trường hợp
thực hiện theo chính sách, chế độ, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh
do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Xử lý nghiêm, kịp thời, công khai những sai phạm.

22
Giảm bội chi ngân sách nhà nước, giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của
các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn. Thực hiện rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia,
hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ. Bảo
đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn và an toàn
tài chính quốc gia.
Kiểm tra, rà soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh
nghiệp Nhà nước, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các biện pháp xử lý, loại bỏ các dự án
đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án đầu tư ra nước ngoài.
3. Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh
hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm.
Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là
thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân
tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, việc phát triển sản xuất là giải
pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và
xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, lại không gây phản ứng phụ. Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ
cho các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời
tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính,nhằm thúc
đẩy sản xuất phát triển.
4. Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu.
Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời
sống của nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ,
tích trữ. Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các Hiệp hội
ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao nhiệm vụ cho
các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ
giá cả.
Chủ trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu
trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu,
bảo đảm việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nếu nhập siêu tăng sẽ đe doạ
đến cân đối vĩ mô, đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này
trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Để làm việc này, Chính phủ đang chỉ
đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp: Ngân hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết
ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất
khẩu cho từng trường hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với
hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm
chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt
Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các
cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt
hàng không thiết yếu.
Điều tiết cân đối cung - cầu đối với từng mặt hàng thiết yếu, bảo đảm kết hợp hợp lý,
gắn sản xuất trong nước với điều hành xuất nhập khẩu; tiếp tục chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ các
khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh để đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng
dịch vụ; chỉ đạo điều hành xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu quả, ổn định giá lương thực trong
nước, phối hợp với Bộ Tài chính trong việc điều hành dự trữ quốc gia để bảo đảm an ninh
lương thực; thường xuyên theo dõi sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để kịp thời
có biện pháp điều tiết, bình ổn thị trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu. Chủ động có biện
pháp chống đầu cơ, nâng giá.

23
- Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu, phấn đấu bảo đảm nhập siêu không quá
16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xây dựng quy trình, nguyên tắc kiểm soát nhập khẩu hàng
hóa, vật tư, thiết bị của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu
Chính phủ, vốn do Chính phủ bảo lãnh, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước; phối hợp với
Bộ Tài chính kiểm tra, giám sát bảo đảm thực hiện nghiêm Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ
về việc sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết bị sản xuất trong nước, nhất là các dự án sử dụng máy
móc, thiết bị, vật liệu nhập khẩu; chủ động áp dụng các biện pháp phù hợp kiểm soát nhập
khẩu hàng tiêu dùng, hạn chế nhập siêu.
Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt
theo cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính sách ưu đãi về thuế tại các khu
phi thuế quan theo đúng quy định. Rà soát để giảm thuế đối với các mặt hàng là nguyên liệu
đầu vào của sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được; nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên
mức phù hợp đối với các mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu, tài nguyên, nguyên liệu
thô.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo đảm ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa thiết yếu mà sản
xuất trong nước chưa đáp ứng; hạn chế cho vay nhập khẩu hàng hóa thuộc diện không
khuyến khích nhập khẩu theo danh mục do Bộ Công Thương ban hành.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa
phương tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất
nông nghiệp, nông thôn, tăng xuất khẩu, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, bảo đảm
an ninh lương thực.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhất là thành phố Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, căn cứ tình hình sản xuất, tiêu dùng tại địa phương, chỉ đạo sản xuất,
dự trữ, lưu thông, phân phối hàng hóa thông suốt, trước hết là các hàng hóa thiết yếu như
lương thực, thực phẩm, xăng dầu,...; tăng cường quản lý giá, bình ổn giá trên địa bàn.
Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước tiếp tục đẩy mạnh cổ phần
hoá, tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất, đổi mới quản trị doanh nghiệp để nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm giá sản phẩm hàng hoá, dịch vụ ở mức hợp lý; tập
trung vốn cho ngành nghề sản xuất kinh doanh chính.
5. Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các
cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính
phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải
rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi
người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp
vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả
nền sản xuất xã hội.
Các Bộ, cơ quan, địa phương tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo triển khai quyết liệt, 32ang
cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các quy định về tiết kiệm, chống lãng phí; xây
dựng và thực hiện chương trình tiết kiệm điện, phấn đấu tiết kiệm sử dụng điện 10% theo
Nghị quyết của Chính phủ; đồng thời, áp dụng các biện pháp cần thiết và phù hợp để khuyến
khích, khuyến cáo các doanh nghiệp, nhân dân sử dụng tiết kiệm năng lượng (điện, xăng
dầu), sử dụng các công nghệ cao, công nghệ xanh, sạch, công nghệ tiết kiệm điện
6. Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật
nhà nước về giá.
Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu
cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt
thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua
biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của

24
doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các Tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu
trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ
thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu các Hiệp hội ngành
hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
7. Mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội
Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng
nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ
trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội. Chính phủ đã quyết định tăng 20% mức
lương tối thiểu cho những người lao động thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội . Chính phủ cũng quy định điều chỉnh mức lương
tối thiểu theo hướng tăng lên đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài
tại Việt Nam, lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ
gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động. Riêng với người
lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề), mức lương tối thiểu
quy định cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng. Ngoài ra, khoảng 1,8 triệu
người về hưu và người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội đã được tăng lương 20%, hơn 1,5 triệu
người có công đã được điều chỉnh trợ cấp lên 20% so với mức chuẩn hiện hành.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 289/QĐ-TTg về một số
chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận
nghèo và ngư dân. Theo đó, thực hiện cấp bằng tiền tương đương 5 lít dầu hoả/năm (dầu thắp
sáng) cho các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và hộ nghèo ở những
nơi chưa có điện lưới; điều chỉnh mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo từ 80.000
đồng/người/năm lên 130.000 đồng/người/năm; hỗ trợ 50% mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế đối
với thành viên thuộc hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện; hỗ trợ ngư dân mua
mới, đóng mới tàu đánh bắt hải sản, tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản; hỗ
trợ ngư dân để thay máy tàu sang loại máy mới tiêu hao ít nhiên liệu hơn; hỗ trợ về kinh phí
bảo hiểm thân tàu cho tàu đánh bắt hải sản, tàu dịch vụ phục vụ hoạt động khai thác hải sản
và bảo hiểm tai nạn cho thuyền viên làm việc theo hợp đồng lao động trên các tàu cá, tàu dịch
vụ; hỗ trợ về dầu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu đánh bắt hải sản hoặc tàu cung ứng dịch vụ
cho hoạt động khai thác hải sản
Tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho hộ đồng bào bị thiên tai,
thiếu đói . Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia,
các giải pháp hỗ trợ khác đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Điều quan trọng cần
chú ý là phải xây dựng cơ chế và kiểm tra việc thực thi, bảo đảm nguồn hỗ trợ của Nhà nước
đến đúng đối tượng, không bị thất thoát, tham nhũng.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa
phương:
- Thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội theo các chương trình, dự án, kế
hoạch đã được phê duyệt; đẩy mạnh thực hiện các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội theo
Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ.
- Tập trung chỉ đạo hỗ trợ giảm nghèo tại các địa phương, nhất là tại các xã, thôn, bản
đặc biệt khó khăn; hỗ trợ các hộ nghèo, địa phương nghèo xuất khẩu lao động; cho học sinh,
sinh viên, đại học, cao đẳng, học nghề coshoanf cảnh khó khăn được vay ưu đãi để học tập
- Chỉ đạo các cơ quan, địa phương triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng
các quy định hỗ trợ đối tượng chính sách, người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn (già yếu cô đơn, không nơi nương tựa,...),...
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, cơ quan, địa
phương bố trí kinh phí để thực hiện các chính sách an sinh xã hội theo chuẩn nghèo mới.

25
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công
Thương và các Bộ, cơ quan, địa phương chỉ đạo việc triển khai thực hiện quy định về hỗ trợ
hộ nghèo khi giá điện được điều chỉnh.
Thực hiện nhiệm vụ kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội
trong điều kiện có nhiều khó khăn, nhưng sau nhiều năm đổi mới, tiềm lực của đất nước ta đã
được tăng cường, chính trị, xã hội ổn định; dưới sự lãnh đạo của Đảng, với quyết tâm của cả
hệ thống chính trị, sự đồng thuận, nỗ lực của tất cả các ngành, các cấp, cộng đồng doanh
nghiệp và nhân dân, chúng ta tin tưởng rằng mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, bảo đảm an sinh xã hội sẽ thực hiện được.
8. Những biện pháp cấp thiết của chính phủ
Phải phối hợp đồng bộ
Chống lạm phát là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi sự trả giá và đánh đổi. Để chống lạm
phát đạt kết quả, sự trả giá và đánh đổi là thấp nhất, nhất thiết phải có sự phối hợp đồng bộ
của các cơ quan quản lý nhà nước, sự chấp hành và tổ chức, triển khai thực hiện nghiêm túc
của các cấp chính quyền. Hơn nữa, thị trường thế giới đang biến động, phải theo dõi sát tình
hình, cập nhật đầy đủ thông tin để có các giải pháp phản ứng kịp thời, chính xác, nhằm một
mặt, hạn chế các tác động xấu do những khó khăn khách quan mới nẩy sinh; mặt khác, tận
dụng được thời cơ mới xuất hiện để phát huy tiềm năng tăng trưởng của đất nước, thúc đẩy
kinh tế phát triển cao hơn khi điều kiện thuận lợi.
Chính phủ nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trước toàn Đảng, toàn dân về kiềm
chế lạm phát. Nhưng, công cuộc này chỉ có thể đạt được kết quả khi có sự ủng hộ và đồng
tâm, hiệp lực của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp, của các cơ quan thông
tin đại chúng và của toàn thể nhân dân cả nước.
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, khó khăn thách thức trong quá trình phát triển đi lên có
mặt cũng rất gay gắt, nhưng thời cơ thuận lợi và tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế nước
ta còn rất lớn và rất cơ bản. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và với sự quyết tâm, chung sức chung lòng của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, chúng ta sẽ kiềm chế được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội và tiếp tục đưa nền kinh tế nước ta phát triển bền vững, thực hiện
thắng lợi
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền
a) Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ
quan chủ quản thông tin, truyền thông, báo chí:
- Chỉ đạo các cơ quan thông tin, truyền thông, báo chí bám sát các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước và nội dung của Nghị quyết này thông tin, tuyên truyền đầy đủ, kịp thời,
nhất là các nội dung thuộc lĩnh vực tài chính, tiền tệ, giá cả, các chính sách an sinh xã hội,
chính sách hỗ trợ hộ nghèo trực tiếp chịu tác động của việc thực hiện điều chỉnh giá điện để
nhân dân hiểu, đồng thuận.
- Xử lý nghiêm, kịp thời theo thẩm quyền các hành vi đưa tin sai sự thật, không đúng định
hướng của Đảng và Nhà nước về việc thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
b) Các Bộ, cơ quan, ban ngành Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chỉ đạo và chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, công
khai, minh bạch cho báo chí, nhất là những vấn đề mà dư luận quan tâm.
Tổ chức thực hiện
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương chủ động triển khai thực hiện nghiêm túc, triệt để các nội dung quy
định tại Nghị quyết này; định kỳ hàng tháng, hàng quý, kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị
quyết số 02/NQ-CP và Nghị quyết này, báo cáo Thủ 35 tướng Chính phủ, đồng gửi Bộ Kế
hoạch và Đầu tư để tổng hợp, báo cáo Chính phủ tại phiên họp thường kỳ hàng tháng.

26
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần;
Theo dõi tình hình và kết quả triển khai Nghị quyết của các Bộ, cơ quan, địa phương; tổng
hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại giao ban 15 ngày hàng tháng của Thường trực Chính
phủ.
Trình Thủ tướng Chính phủ để báo cáo Quốc hội về các giải pháp tổng thể, toàn diện phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Đề nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương và các tổ chức thành viên chỉ
đạo các cấp hội tổ chức tốt công tác thông tin, tuyên truyền, vận động để cộng đồng doanh
nghiệp, nhân dân nhận thức đúng, hiểu rõ, tham gia tích cực, thiết thực, tạo đồng thuận cao
trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết. Các hội, hiệp hội ngành nghề tổ chức để cộng
đồng doanh nghiệp tích cực thực hiện các chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà
nước, các nội dung của Nghị quyết.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan Trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc
các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao,
chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện các nội
dung của Nghị quyết này.

27
C.Kết thúc
Khi nghiên cứu về lạm phát, thì những nhà khoa học và toàn xã hội đều khẳng định rằng:
lạm phát luôn luôn là một đề tài lớn, khó và phức tạp.Mỗi khi xuất hiện đều mang theo một
sức tàn phá tiềm ẩn, làm rối loạn nền kinh tế và làm phức tạp xã hội.

Lạm phát luôn luôn và mọi nơi là vấn đề thuộc tiền tệ vì thế mà chúng ta không thể xóa
bỏ lạm phát mà nó luôn tồn tại. Vấn đề đặt ra đối với bất kì quốc gia nào là thực hiện các biện
pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và lạm phát ở mức hợp lý. Sự thành
công trong kiềm chế lạm phát là nhờ sự thông minh, linh hoạt của chính phủ mỗi nước. Ở
Việt Nam, việc kiềm chế lạm phát đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, mở đường cho
sự phát triển kinh tế trong thời gian tới.

Qua nghiên cứu đề tài này, đã giúp chúng em hiểu sâu hơn thế nào là lạm phát.Trong quá
trình thực hiện bài thảo luận này, nhóm em vẫn còn rất nhiều những sai xót, mong thầy cô và
các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến để bài được hoàn thiện hơn. Cám ơn thầy cô và các
bạn đã chú ý lắng nghe.

---THE END---

28

You might also like