You are on page 1of 23

LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

I. Khái niệm và phân loại lạm phát

1. Khái niệm:

Lạm phát là một hiện tượng kinh tế vĩ mô phổ biến và có ảnh hưởng rộng lớn
đến các mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Một ví dụ hết sức nổi bật về lạm phát
là thời kỳ siêu lạm phát mà nước Đức đã trải qua vào đầu những năm 1920.
Người ta cho rằng, siêu lạm phát đã phá hủy toàn bộ hệ thống chính phủ dân
chủ mà nước Dức đã nỗ lực xây dựng sau thất bại trong cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ nhất và tạo cơ sở cho sự trăng tưởng quyền lực của Đảng phát xít do
Hitler đứng đầu. Một loạt nước Mỹ Latin đã trải nghiệm lạm phát rất cao trong
những năm 1982. Việt Nam cũng như phần lớn các nước trong giai đoạn đầu
của quá trình chuyển đổi từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường đều đối mặt với lạm phát cao.

Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để chỉ sự tăng lên theo thời
gian của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm một
năm trước đó. Khi giá trị của hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức
mua của đồng tiền giảm đi, và với cùng một số tiền nhất định, người ta chỉ có
thể mua được số lượng hàn g hoá ít hơn so với năm trước. Do đó, tình trạng
lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả của hai loại hàng hoá vào hai
thời điểm khác nhau, với giả thiết chất lượng hàng hoá không thay đổi.

Thực ra, đây chỉ là một khái niệm dựa trên biểu hiện của lạm phát (symptom-
based definition). Một số nhà kinh tế đã nỗ lực đưa ra định nghĩa về lạm phát
dựa trên nguyên nhân gây ra nó. Theo hướng này, K.Marx cho rằng: "Lạm phát
là hiện tượng tiền giấy tràn ngập các kênh lưu thông, vượt qua nhu cầu của lưu
thông hàng hóa, dẫn tới sự mất giá của đồng tiền và phân phối lại thu nhập
quốc dân.". Hay M. Friedman, đại diện của trường phái tiền tệ hiện đại, cho
rằng: Lạm phát là một điều kiện trong đó có sự dư cầu nói chung tức là lượng
tiền trong nền kinh tế quá nhiều để theo đuổi một khối lượng hàng hoá có hạn.
Và lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là hiện tượng tiền tệ... và nó chỉ có thể
xuất hiện một khi lượng tiền tăng nhanh hơn sản lượng. (Friedman).
Nhiều học giả Việt Nam ủng hộ quan điểm này. Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy
cách tiếp cập này vấp phải một vấn đề là chúng ta chỉ có thể đưa ra định nghĩa
về lạm phát một khi đã xác định trước được nguyên nhân gây ra nó, điều mà
trong thực tế còn có nhiều tranh luận. Nếu quả thật có nhiều nguyên nhân gây ra
lạm phát, thì rõ ràng chúng ta không thể đưa ra một định nghĩa chung về lạm
phát. Hơn nữa, lịch sử phát triển của lạm phát cho thấy lạm phát có thể không
liên quan đến việc lạm dụng chức năng phát hành tiền, tức sự phát hành "dư
thừa", không tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
(Khi người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cướp bóc châu Mỹ, họ chuyển một
lượng lớn vàng về châu Âu và giá cả ở châu Âu đã tăng lên nhanh chóng.).

Nhà kinh tế Eckstein lại có cách tiếp cận khác về lạm phát: “lạm phát cơ bản
xuất hiện trên quỹ đạo tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế với điều kiện là quỹ
đạo này không bị ảnh hưởng của các cú sốc và các thị trường (hàng hoá, tiền
tệ, lao động) ở trạng thái cân bằng dài hạn”

Như vậy, lạm phát được hiểu là lạm phát trong dài hạn mà đã loại bỏ các
nhiễu loạn ngẫu nhiên (như các cú sốc cung) và nó phản ánh xu hướng cơ bản,
ổn định mức tăng giá chung của các loại hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế
trong dài hạn, chứ không phải chỉ là một khoảng thời gian ngắn.
Từ các quan điểm nêu trên, chúng ta có thể đưa ra một khái niệm đủ rộng về
lạm phát như sau:
Lạm phát là hiện tượng tiền tệ khi mà lượng tiền phát hành nhiều hơn lượng
tiền cần thiết trong lưu thông làm cho giá cả tăng nhanh, liên tục và kéo dài
dẫn đến tiền tệ mất giá so với hàng hóa, ngoại tệ và vàng.

Lạm phát không chỉ đơn thuần là sự gia tăng của mức giá chung mà đó phải là
sự gia tăng liên tục của mức giá chung. Nếu như chỉ có một cú sốc xuất hiện
làm tăng múc giá chung, thì mức giá đó chỉ đột ngột bùng lên rồi lại giảm trở lại
mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng tăng giá tạm thời như vậy không được
gọi là lạm phát. Chúng ta sẽ xem xét bảng1 sau đây:

1
Giáo trình Kinh tế học tập 2 của PGS. TS
Thời kỳ Trường hợp 1 Trường hợp 2 Trường hợp 3
Mức giá Lạm phát Mức giá Lạm phát Mức giá Lạm phát
1 100 100 100
2 100 0 100 0 100 0
3 200 100 200 100 150 50
4 100 -50 200 0 175 16,7
5 100 0 200 0 187,50 7,1
6 100 0 200 0 193,75 3,3

Trong mỗi trường hợp, chúng ta giả thiết chỉ có một cú sốc xuất hiện vào thời
kỳ 3 mà trước đó mức giá được ổn định ở mức 100. Trong trường hợp thứ nhất,
mức giá tăng 100% trong thời ktd 3, sau đó giảm 50% trong thời kỳ 4 và lại ổn
định trong các thời kỳ tiếp theo. Như vật, từ thời kỳ 4 mức giá trở về mức ban
đầu giống như trước khi có cú sốc tác động đến nền kinh tế. Trong trường hợp
thứ hai, mức giá tăng 100% trong thời kỳ 3, sau đó ổn định trong các thời kỳ
tiếp theo. Vấn đề trở nên phức tạp hơn trong trường hợp thứ ba, khi mức giá
tăng 50% trong thời kỳ 3, sau đó tăng chậm lại trong các thời kỳ tiếp theo do
mọi người điều chỉnh một phần theo sai số dự báo về lạm phát. Trong trường
hợp này, mức giá chung tăng liên tục và gây ra lạm phát kéo dài nhưng giảm
dần theo thời gian.

Trường hợp ngược lại của lạm phát là giảm phát, diễn ra khi mức giá chung liên
tục giảm. Khi đó, sức mua của đồng nội tệ liên tục tăng.

2. Phân loại:

Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ lệ lạm
phát. Việc phân loại làm phát theo tính chất sẽ được đề cập khi bàn về tác động
của lạm phát. Trên thực tế, việc phân loại lạm phát thường được thực hiện dựa
trên hai tiêu thức đó chính là định lượng và định tính.

a. Phân loại lạm phát căn cứ theo định lượng, căn cứ theo sự biến động của
chỉ số giá cả, lạm phát được chia ra làm 3 loại:

● Lạm phát vừa phải: hay còn được gọi là lạm phát một con số với tỷ lệ
lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi mức
giá tăng chậm và nhìn chung có thể dự đoán được vì tương đối ổn định.
Trong thời kỳ này nền kinh tế vẫn hoạt động bình thường, đời sống của
người lao động ổn định, được biểu hiện qua các tình trạng như: giá cả sản
phẩm tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao và không xuất hiện tình
trạng mua bán hay tích trữ hàng hóa với số lượng lớn,… Lạm phát vừa
phải tạo tâm lý an tâm cho những người lao động chỉ trông chờ vào thu
nhập.

● Lạm phát phi mã: Lạm phát trong phạm vi hai hoặc ba con số một năm
thường được gọi là lạm phát phi mã. Việt Nam và hầu hết các nước
chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường
đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải
cách. Nhìn chung lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian sẽ gây ra
những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền bị
mất giá rất nhanh. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua rất
nhiều bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh
để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy
của cải.

● Siêu lạm phát: Siêu lạm phát là trường hợp lạm phát đặc biệt cao. Định
nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh tế người Mỹ Philip Cagan
đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên. Trong khi lạm phát
50% một tháng có thể không thực sự ấn tượng, nhưng nếu tỷ lệ lạm phát
này được duy trì suốt 12 tháng thì tỷ lệ lạm phát cả năm sẽ lên tới khoảng
13000 phần trăm.

Có một số điều kiện cơ bản gây sa siêu lạm phát. Thứ nhất, các
hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp
định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát đã có xu hướng xuất hiện
trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến, hoặc cách mạng, do sự
căng thẳng về ngân sách chính phủ.

Đặc điểm chung của mọi cuộc siêu lạm phát là sự gia tăng quá mức
trong cung tiền, điều này thường bắt nguồn từ sự cần thiết phải tài
trợ cho thâm hụt ngân sách quá lớn. Một khi lạm phát cao đã bắt
đầu, tình hình thâm hụt ngân sách có thể trở nên không thể kiểm
soát được: lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ thuế tính
theo phần trăm so với GDP, làm tăng thâm hụt ngân sách và chính
phủ sẽ phải dựa nhiều hơn vào phát hành tiền mà điều này đến lượt
sẽ đẩy lạm phát dâng lên cao hơn. Dựa trên các bằng chứng lịch sử,
dương như là thâm hụt ngân sách kéo dài được tài trợ bằng phát
hành tiền trong khoảng từ 10-12% của GDP sẽ gây ra siêu lạm
phát2.

b. Phân loại lạm phát căn cứ theo định tính. lạm phát được chia ra thành hai
nhóm:
 Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng

● Lạm phát cân bằng: tăng tương ứng với thực tế thu nhập của người lao
động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất của từng doanh nghiệp. Do
đó, tình trạng này không ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của người
lao động và nền kinh tế nói chung.

● Lạm phát không cân bằng: tăng không tương ứng với thu nhập của người
lao động. Trên thực tế, tình trạng này thường hay xảy ra.

 Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:

● Lạm phát dự đoán trước được: Là loại lạm phát xảy ra hằng năm trong
thời kỳ tương đối dài với tỷ lệ lạm phát ổn định. Loại lạm phát này có thể
dự đoán được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người
dân đã quen với tình trạng này và không ảnh hưởng nhiều đến đời sống,
kinh tế.

● Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể chưa từng xuất hiện
trước đó. Loại làm phát này ảnh hưởng đến tâm lý và đời sống của người

2
Sachs, J.D. and Larrain, F. (1993)
dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó gây ra biến động với nền kinh tế và
làm giảm niềm tin của nhân dân với chính

II. Nguyên nhân gây ra lạm phát

1. Lạm phát do cầu kéo

Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc
vượt quá mức tự nhiên. Chúng ta sẽ xem xét về các thành tố của tổng cầu.
Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tằng đột biến trong cầu
tiêu dùng và cầu đầu tư. Ví dụ, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng
mạnh tiêu dùng, giá cả của những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạ phát tăng
lên và ngược lại.
Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá
mức chi tiêu chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và
đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng và ngược lại.

Như trong hình minh họa, sự gia tăng của một thành tố nào đó của tổng
cầu sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sang bên phải. Do đường tổng cung cầu
dốc lên trong ngắn hạn, nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng cao hơn và thất
nghiệp thấp hơn, nhưng đồng thời phải đối mặt với lạm phát.

2. Lạm phát do chi phí đẩy

Lạm phát chi phí đẩy có đặc điểm là áp lực làm tăng giá cả xuất phát từ sự tăng
lên của chi phí sản xuất vượt quá mức tăng của năng suất lao động và làm giảm
mức cung ứng hàng hoá của xã hội. Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm
tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc, thuế… Khi giá cả của một
hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp cũng
tăng lên, vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi
nhuận. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế tăng lên được gọi là “lạm phát
do chi phí đẩy”. Trong đồ thị tổng cung – cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm đườn
tổng cung dịch chuyển lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến số
kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản
lượng gairm, cả thất nghiệp và lạm phát đều tăng.

Những yếu tố nêu trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây ra
tác động tổng hợp, làm cho lạm phát có thể tăng tốc. Nếu chính phủ phản ứng
quá mạnh thông qua các chính sách thích ứng, thì lạm phát có thể trở nên không
kiểm soát được, như tình hình của nhiều nước công nghiệp trong thập niên 1970
và đầu thập niên 1980.

VD: Cuộc xung đột giữa Nga và Ucraina diễn ra, khiến cho giá các loại nông
sản như: lương thực, bông; thức ăn chăn nuôi; phân bón; kim loại công nghiệp;
sắt thép xây dựng tăng cao dẫn tới lạm phát.

3. Lạm phát do cơ cấu

Khi tình hình kinh doanh của doanh nghiệp tốt, doanh thu tăng thì đồng nghĩa
họ sẽ tăng phần tiền công cho người lao động. Nhưng cũng có một số doanh
nghiệp tăng tiền công cho người lao động theo “danh nghĩa”.
Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu quả, nên khi phải tăng
tiền công cho người lao động, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành
sản phẩm để đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát.

4. Lạm phát do cầu thay đổi

Xảy ra khi một mặt hàng tăng giá sẽ kéo theo mặt hàng thay thế cũng tăng giá
theo, từ đó xảy ra lạm phát gia tăng do giá hàng hóa thay thế tăng. Khi thị
trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, trong khi lượng cầu về
một mặt hàng khác lại tăng lên và thị trường có người cung cấp độc quyền với
giá cả có tính chất cứng nhắc (chỉ có thể tăng mà không thể giảm, như giá điện
ở Việt Nam), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi
đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng
lên, dẫn đến lạm phát.

VD: Giá dầu khí tăng cao, từ đó giá cao su nhân tạo tăng, nó sẽ khiến cầu về cao
su thiên nhiên tăng từ đó khiến giá cao su thiên nhiên cũng tăng theo.

5. Lạm phát do xuất khẩu

Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường tiêu thụ
lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu
khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút hàng trong nước)
khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất
cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát.

VD: Do nhu cầu sản xuất chip tăng mạnh trên thế giới khiến cầu phốt pho tăng
mạnh, từ đó xuất khẩu phốt pho tăng khiến giá phốt pho tăng cao ở trong nước.

6. Lạm phát do nhập khẩu


Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên
thế giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá
chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.

VD: Giá than thế giới đã tăng gấp 2 lần vào đầu năm 2022 từ đó khiến cho giá
sản phẩm từ than nhập khẩu đã tăng rất mạnh.

7. Lạm phát do chính sách tiền tệ

Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung
ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với
ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước
làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm
phát.

VD: Cuối năm 2009 đến đầu năm 2010 Việt Nam cung tiền ra thị trường tăng
lên đến 30%-40%, trong khi đó GDP chỉ tăng mỗi năm từ 5-7%, từ đó khiến
cho lạm phát năm 2011 tăng phi mã với gần 20%.

III. Tác động của lạm phát

1. Tác động đến sản xuất: giảm sức mua, tăng giá thành sản xuất, giảm đầu
tư...

Lạm phát có tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất trong nền kinh tế.

● Giảm sức mua: Lạm phát làm tăng giá cả của hàng hóa và dịch vụ, làm
giảm sức mua của người tiêu dùng. Khi người tiêu dùng không thể mua
nhiều hàng hóa và dịch vụ như trước đây, nhu cầu tiêu thụ giảm đi. Điều
này ảnh hưởng đến doanh nghiệp và dẫn đến giảm sản xuất và doanh số
bán hàng.
● Tăng giá thành sản xuất: Lạm phát làm tăng giá thành sản xuất do tăng
giá nguyên liệu, tiền lương và các yếu tố sản xuất khác. Khi giá thành
tăng lên, doanh nghiệp phải chịu áp lực tăng giá để bù đắp. Điều này có
thể làm giảm lợi nhuận và khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất.

● Giảm đầu tư: Lạm phát làm suy giảm giá trị đầu tư và tạo ra sự không
chắc chắn về lợi nhuận. Khi lạm phát tăng cao, các nhà đầu tư có thể lo
ngại về giá trị tương lai của các dự án đầu tư và có thể trì hoãn hoặc hạn
chế đầu tư. Điều này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và khả
năng tạo ra việc làm mới.

● Suy giảm năng suất lao động: Lạm phát có thể gây ra sự không ổn định
trong quá trình sản xuất và làm suy giảm năng suất lao động. Khi giá cả
thay đổi không đáng kể và không thể dự đoán, các doanh nghiệp gặp khó
khăn trong việc lập kế hoạch và tối ưu hóa quá trình sản xuất. Điều này
có thể làm giảm hiệu suất và năng suất lao động.

2. Tác động đến tiêu dùng: giảm mua sắm, tăng giá cả, giảm chất lượng sản
phẩm...

Lạm phát có tác động lớn đến hoạt động tiêu dùng và cuộc sống hàng ngày của
mọi người.

● Giảm khả năng mua sắm: Lạm phát làm tăng giá cả của hàng hóa và dịch
vụ, làm giảm sức mua của người tiêu dùng. Khi giá cả tăng lên, người
dân phải trả nhiều hơn cho các mặt hàng và dịch vụ hàng ngày, làm hạn
chế khả năng mua sắm và tiếp cận của họ. Điều này có thể làm giảm chất
lượng cuộc sống và thúc đẩy sự suy giảm tiêu dùng.

● Tăng áp lực tài chính: Lạm phát làm gia tăng áp lực tài chính đối với
người tiêu dùng. Khi giá cả tăng nhanh chóng, người dân cần có khả năng
tài chính đủ để đáp ứng chi phí cao hơn. Điều này có thể gây ra căng
thẳng tài chính và gây khó khăn cho những người có thu nhập trung bình
và thấp.

● Giảm chất lượng sản phẩm: Lạm phát có thể gây áp lực lên các doanh
nghiệp khiến nhiều doanh nghiệp phải giảm chi phí sản xuất và cung cấp
các sản phẩm có chất lượng kém hơn. Doanh nghiệp cần cắt giảm chi phí
nguyên liệu, công nghệ và quản lý chất lượng để tăng lợi nhuận trong bối
cảnh giá cả tăng cao. Điều này có thể làm giảm chất lượng của sản phẩm,
ảnh hưởng đến sự hài lòng và niềm tin của người tiêu dùng.

● Gây ra sự không ổn định trong mua sắm: Lạm phát tạo ra không chắc
chắn về giá cả trong tương lai, làm cho người tiêu dùng khó khăn trong
kế hoạch mua sắm. Người dân có thể trì hoãn việc mua sắm các sản phẩm
không thiết yếu hoặc tiết kiệm hơn để đối phó với tình hình tài chính
không ổn định. Điều này có thể làm giảm sự tiêu thụ và ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.

3. Tác động đến tài chính: giảm giá trị đồng tiền, tăng lãi suất...

Lạm phát có tác động quan trọng đến lĩnh vực tài chính của một nền kinh tế.

● Giảm giá trị đồng tiền: Khi lạm phát gia tăng, một đơn vị tiền tệ sẽ mua
được ít hơn số hàng hóa và dịch vụ so với trước đây. Điều này dẫn đến sự
mất giá trị của đồng tiền và làm suy giảm sức mua của người dân. Giá trị
đồng tiền giảm có thể gây ra không ổn định trong hệ thống tài chính.

● Tăng lãi suất: Khi lạm phát tăng, ngân hàng trung ương có xu hướng tăng
lãi suất để kiềm chế lạm phát và bảo vệ giá trị tiền tệ. Tăng lãi suất làm
tăng chi phí vay và góp phần giảm sự khuyến khích đầu tư và vay mượn
của doanh nghiệp và cá nhân. Điều này có thể ảnh hưởng đến hoạt động
tài chính và đầu tư của các tổ chức và cá nhân.

● Tăng rủi ro tài chính: Lạm phát tạo ra sự không chắc chắn trong môi
trường tài chính. Khi giá cả tăng chóng mặt, người dân và doanh nghiệp
gặp khó khăn trong việc lập kế hoạch tài chính và đầu tư. Sự không chắc
chắn này làm tăng rủi ro tài chính và có thể gây ra sự suy giảm niềm tin
và sự hoảng loạn trong thị trường tài chính.

4. Tác động đến xã hội: gia tăng bất bình đẳng, tăng giá cả chung, gây khó
khăn cho đời sống của người dân.

Lạm phát có tác động mạnh đến xã hội và cuộc sống hàng ngày của người dân.

● Gia tăng bất bình đẳng: Lạm phát có thể gây gia tăng bất bình đẳng trong
xã hội. Người giàu thường có khả năng chống chọi với lạm phát tốt hơn
do có nhiều tài sản và nguồn thu nhập đa dạng. Trong khi đó, những
người thu nhập thấp và những nhóm yếu thế khác có thể gặp khó khăn
lớn hơn trong việc đối phó với giá cả tăng cao và khả năng mua sắm bị
suy giảm. Điều này tạo ra khoảng cách giàu nghèo rõ rệt và tăng bất bình
đẳng xã hội.

● Tăng giá cả chung: Lạm phát làm tăng giá cả của hàng hóa và dịch vụ
chung trong nền kinh tế. Điều này gây khó khăn cho người dân khi phải
trả nhiều hơn cho các mặt hàng cơ bản như thực phẩm, năng lượng và nhà
ở. Tăng giá cả chung cũng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của
người dân và làm giảm khả năng tiếp cận đến các sản phẩm và dịch vụ
cần thiết.

● Gây khó khăn cho đời sống của người dân: Lạm phát gây khó khăn cho
cuộc sống hàng ngày của người dân. Giá cả tăng cao có thể làm giảm khả
năng mua sắm, làm giảm chất lượng cuộc sống và tạo ra áp lực tài chính
đáng kể. Người dân có thể phải tiết kiệm hơn, giới hạn các hoạt động tiêu
dùng và thay đổi thói quen mua sắm để đối phó với giá cả tăng cao và khả
năng mua sắm bị suy giảm.

Tuy nhiên lạm phát không bao giờ cũng chỉ gây nên những tác hại cho nền kinh
tế. Khi tốc độ lạm phát vừa phải đó là từ 2-5% ở các nước phát và dưới 10% ở
các nước đang phát triển sẽ mang lại một số lợi ích cho nền kinh tế như sau:
a. Kích thích tiêu dùng, vay nợ, đầu tư giảm bớt thất nghiệp cho xã hội.
b. Cho phép chính phủ có thêm khả năng lựa chọng các công cụ kích thích
đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng, giúp
phân phối tại thu nhập và các nguồn lực trong xã hội theo các định hướng
mục tiêu và trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc. Tuy nhiên, đây
là công việc khó và đầy mạo hiểm nếu không chủ động sẽ gây nên hậu
quả xấu.

IV. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam

Trong quá khứ Việt Nam có thời gian phải chịu lạm phát phi mã với mức sụt giá
của tiền đồng lên đỉnh hơn 700% vào năm 1987. Kể từ năm 1993, lạm phát đã
được khống chế khá tốt và thường dưới 2 con số.

Giai đoạn từ năm 1999 đến 2001 là thời kì lạm phát thấp nhất của Việt Nam.
Trong khoảng thời gian này, CPI lần lượt chỉ ở mức 0,1% , -0,6% và 0,8%.
Thời kì này gắn liền với giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính Đông Nam Á năm
1997-1998.

Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai đoạn bùng
nổ kinh tế thế giới và tăng giá của nhiều loại hàng hóa, với chỉ số tiêu giá 9,5%
năm 2004 là một ranh giới mỏng manh giữa lạm phát kiểm soát được và lạm
phát cao.

Năm 2005, chỉ số giá 2 tháng đầu năm ở mức 1,1% (tháng 1) và 2 tháng (3,6%)
cũng không phải là thấp.

Năm 2007, chỉ số CPI tăng đến 12,6% và đặc biệt tăng cao vào những tháng
cuối năm.

Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cùng như tình hình lạm
phát ở Việt Nam. CPI đã liên tực tăng cao từ đầu năm và mức cao nhất của CPi
tính theo năm của năm 2008 đã tăng lên đến 30%. Kết thúc năm 2008. chỉ số
CPI tăng 19,89% tính theo trung bình năm tăng 22,97%.
Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều
hàng hóa cũng xuống mức thấp nhất, lạm phát trong nước được khống chế. CPI
năm 2009 tăng 6,52% thấp hơn đáng kể so với những năm gấn đây. Tuy vậy,
mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trến theea giới lại cao
hơn khá nhiều.

Năm 2010, chính phủ đặt mục tiêu CPI cuối kỳ khoảng 7%. Mục tiêu này có thể
không được hoàn thành khi 2 tháng đầu năm CPI đã tăng 3,35%. Ngoài ra, nền
kinh tế hiện nay vẫn còn nhiều yếu tố có thể dẫn đến lạm phát cao trong những
tháng sắp tới.

Năm 2011, tỷ lệ lạm phát phi mã chạm mốc 18,58%. Đây là mức lạm phát cao
nhất trong vòng 11 năm kể từ 2010 đến 2020.

Trong giai đoạn 2011-2015, các chính sách kinh tế được áp dụng một cách hài
hóa. Cụ thể là các chính sách tài khóa và tiện tệ thặt chặt, gia tăng sản xuất,
khuyến khích xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu… Nhờ đó tác động tích cực lên
nền kinh tế và giảm lạm phát.

Tỷ lệ lạm phát đặt mức thấp kỷ lục 0,635 năm 2015. 0,63% là con số đáng kinh
ngạc, một mức lạm phát thấp nhất kể từ khi Việt Nam bắt đầu tính toán mức
lạm phát. Tổng cục thống kê, nguyên nhân chủ yếu do giá xăng dầu trên thế giới
giảm mạnh dẫn đến mức tỷ lệ lạm phát năm 2015 đạt mức xuống thấp.

Trong giai đoạn 2016 - 2020, nền kinh tế được điều hành chặt chẽ nên tỷ lệ lạm
phát luôn ổn định ở mức 4%. Năm 2020 là năm đại dịch Covid-19 có những
chuyến biến phức tạp, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tăng trường của các lĩnh vực,
ngành nghề khác nhau.

Trong thời gian 2021-2022, nền kinh tế đất nước bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch
bệnh COVID-19. Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo, triển khai các biện pháp đảm bảo sản xuất, lưu thồng trong đó có công tác
quản lí, điều hành giá.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, so với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 9
tăng 2,06%; CPI bình quân 9 tháng năm 2021 tăng 1,82% so với cùng kỳ năm
trước, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016, Lạm phát cơ bản 9 tháng tăng 0,88%
CPI tháng 10 năm 2021 ước giảm 0,1%-0,15%; bình quân 10 tháng ước tăng
1,81%-1,83% so với cùng ký năm trước, lạm phát cơ bản 10 tháng ước tăng
0,82%-0,86%.

Giá xăng dầu, giá gas trong tháng 12/2021 giảm theo giá nhiên liệu thế giới;
dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp trên phạm vi cả nước; học phí học kỳ I
năm học 2021-2022 tiếp tục được miễn, giảm tại một số địa phương là các
nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2021 giảm 0,18% so
với tháng trước và tăng 1,81% so với tháng 12/2020. Bình quân năm 2021, CPI
tăng 1,84% so với năm trước, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016. Lạm phát cơ
bản 12 tháng tăng 0,81%.
Năm 2021, trong bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu ngày càng tăng cao, giá
nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất, giá cước vận chuyển liên tục tăng
nhưng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2021 của Việt Nam chỉ tăng
1,84% so với năm trước, thấp nhất trong 6 năm qua, đạt mục tiêu Quốc hội đề
ra, tiếp tục là năm kiểm soát lạm phát thành công.

Theo Tổng cục Thống kê, năm 2022, với sự điều hành năng động, kịp thời, hiệu
quả của Chính phủ, các địa phương, sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, hộ
kinh doanh cá thể, kinh tế vĩ mô nước ta tiếp tục ổn định, tăng trưởng kinh tế
đạt 8,02%, cao nhất ở khu vực châu Á, thuộc nhóm cao trên thế giới. Lạm phát
được kiểm soát ở mức thấp, lạm phát tháng 12/2022 tăng 4,55% so với tháng
12/2021, lạm phát bình quân năm 2022 tăng 3,15% so với năm 2021, đạt mục
tiêu Quốc hội đề ra.

Trong 11 nhóm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2022 công bố, các
nhóm có mức tăng cao gồm: nhóm giao thông tăng tới 11,27%; đồ uống và
thuốc lá tăng 3,15%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3,11%; văn hóa, giải trí và
du lịch tăng 3,1%. Chỉ số giá ăn uống ngoài gia đình thuộc nhóm hàng ăn và
dịch vụ ăn uống tăng 4,94%.

Thị trường hàng hóa và dịch vụ: năm 2022 có sự phục hồi rõ rệt sau hai năm
chịu tác động nặng nề của đại dịch. Hàng hóa có xu hướng tăng giá trong 6
tháng đầu năm, khá ổn định trong quý III, tăng nhẹ trở lại trong quý IV do nhu
cầu mua sắm của người dân vào dịp cuối năm. CPI tháng 12/2022 tăng 4,55%
so với tháng 12/2021, CPI bình quân năm 2022 tăng 3,15% so với năm trước,
thuộc nhóm các nước có mức lạm phát thấp. Giá hàng hóa và dịch vụ tăng, giảm
đan xen do ảnh hưởng bởi giá thế giới, bởi nhu cầu tiêu dùng trong nước và hiệu
quả của chính sách hỗ trợ, các giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ.

a. Về giá xăng dầu: cùng với xu thế biến động giá xăng dầu thế giới, giá
xăng dầu trong nước năm 2022 đã được điều chỉnh 34 đợt, khiến giá xăng
dầu bình quân năm tăng 28% so với năm trước, tác động làm CPI tăng
1,01 điểm phần trăm.

b. Giá gas: trong nước biến động theo giá gas thế giới. Trong năm 2022, giá
bán lẻ gas được điều chỉnh 12 đợt, bình quân năm 2022 giá gas tăng
11,49% so với năm 2021, làm CPI chung tăng 0,17 điểm phần trăm.

c. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng: năm 2022, chỉ số tăng 3,11% do giá
các mặt hàng vật liệu xây dựng như xi măng, sắt, thép tăng cao. Mặc dù
biến động giá vật liệu xây dựng tác động trực tiếp vào CPI không lớn.
Tuy nhiên, vật liệu xây dựng đồng loạt tăng giá sau đại dịch đã làm nhiều
dự án đầu tư xây dựng đang thực hiện bị đội vốn, ảnh hưởng đến hiệu quả
của các dự án và gây áp lực lạm phát đối với nền kinh tế.

Bên cạnh đó, nhóm hàng lương thực, thực phẩm - nhóm chiếm tỷ lệ gần 25%
trong tổng chi tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình, bình quân năm 2022 giá của
hai nhóm này tăng lần lượt 2,44% và 1,62% so với năm 2021, làm CPI chung
tăng 0,44 điểm phần trăm. Giá lương thực tăng chủ yếu do giá gạo trong nước
tăng theo giá gạo xuất khẩu.

Năm 2022, nhiều mặt hàng thực phẩm có chỉ số giá tăng cao, tuy vậy do đảm
bảo nguồn cung, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân nên mặt hàng thịt
lợn lại giảm tới 10,68%, tác động làm CPI chung giảm 0,36 điểm phầm trăm.
Nhóm ăn uống ngoài gia đình: sau khi đại dịch được kiểm soát, nền kinh tế
phục hồi, nhu cầu đi lại, du lịch, ăn uống ngoài gia đình của người dân phục hồi
rõ rệt đã làm cho chỉ số năm 2022 tăng 4,94%, tác động làm CPI tăng 0,43 điểm
phần trăm.

Bên cạnh đó, giá dịch vụ giáo dục từ năm học mới 2022-2023 đã có xu hướng
tăng trở lại, tính bình quân năm 2022 tăng 1,44% so với năm trước. Trong cơ
cấu chi tiêu của hộ gia đình, chi cho giáo dục chiếm tới 6,17%, trong đó dịch vụ
giáo dục chiếm 5,45% nên biến động học phí có tác động lớn tới lạm phát. Năm
học 2021-2022, nhiều địa phương miễn, giảm học phí để chia sẻ khó khăn với
người dân trong đại dịch khiến chỉ số giá nhóm này giảm trong những tháng đầu
năm 2022, tuy nhiên bước sang năm học 2022-2023, chỉ số giá dịch vụ giáo dục
có xu hướng tăng nhanh trong những tháng cuối năm 2022.

Giá điện là mặt hàng thiết yếu trong tiêu dùng của hộ dân cư nên biến động về
giá điện có tác động không nhỏ tới lạm phát. Bình quân năm 2022, chỉ số giá
điện sinh hoạt tăng 3,8% so với năm trước đã tác động trực tiếp làm CPI tăng
0,13 điểm phần trăm, ngược xu hướng năm 2021 biến động giá điện sinh hoạt
làm CPI giảm 0,03 điểm phần trăm. Điều này cho thấy, đại dịch được kiểm soát,
các hoạt động đang trở lại trạng thái trước khi đại dịch diễn ra khiến nhu cầu
tiêu dùng điện cũng tăng cao.

Giá dịch vụ y tế do Nhà nước quản lý, nên trong những năm vừa qua, giá nhóm
dịch vụ này khá ổn định. Bình quân năm 2022, chỉ số giá nhóm thuốc và dịch
vụ y tế tăng 0,4% so với năm trước, làm CPI tăng 0,02 điểm phần trăm, trong đó
thuốc các loại tăng 1,59% và dịch vụ khám sức khỏe tăng 0,04%.

Đại dịch đã ảnh hưởng lớn tới nhu cầu thuê nhà ở. Trong những tháng đầu năm
2022, nhiều lao động di cư về quê chưa quay trở lại làm việc, đồng thời các hộ
dân giảm giá thuê nhà để cùng chia sẻ khó khăn, khiến giá thuê nhà ở bình quân
6 tháng đầu năm 2022 giảm mạnh 13,75% so với cùng kỳ năm trước. Tuy vậy,
trong 6 tháng cuối năm, giá thuê nhà hồi phục trở lại nên bình quân cả năm
2022 giá thuê nhà ở giảm 1,83% làm CPI giảm 0,01 điểm phần trăm.
Thành công trong kiểm soát lạm phát năm 2022 ở mức 3,15% là do Chính phủ
điều hành sát sao, kịp thời và quyết liệt. Các giải pháp về thuế, hỗ trợ và bình ổn
giá, đảm bảo đủ nguồn cung đã phát huy hiệu quả trong hỗ trợ cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người dân, giảm áp lực
đáng kể lên mặt bằng giá.

Dự báo lạm phát năm 2023 của Việt Nam

Bức tranh lạm phát năm 2023 có nhiều nét đáng quan tâm vì giá hàng hóa và
dịch vụ năm 2023 chịu áp lực từ nhiều yếu tố: áp lực lạm phát cầu kéo do thực
hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội làm cho tổng cầu tăng
đột biến, trong khi đứt gãy chuỗi cung ứng chưa được khắc phục; áp lực lạm
phát chi phí đẩy trong bối cảnh USD tăng giá làm tăng chi phí nhập khẩu
nguyên, nhiên vật liệu, bên cạnh đó, khi USD tăng giá do Fed tăng lãi suất sẽ
gây nên áp lực tăng tỷ giá hối đoái giữa VNĐ và USD. Ngoài ra, thiên tai, dịch
bệnh có thể gây tăng giá lương thực, thực phẩm tại một số địa phương bị ảnh
hưởng, tác động làm gia tăng lạm phát.

Ngày 11/11/2022, Quốc hội thông qua Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà
nước năm 2023. Theo đó, từ ngày 01/7/2023, lương cơ sở tăng từ mức 1,49
triệu đồng/ tháng lên mức 1,8 triệu đồng/tháng tương ứng mức lương cơ sở mới
sẽ tăng thêm 20,8% sẽ tác động làm lạm phát tăng 0,67%.

Áp lực lạm phát năm 2023 còn đến từ khả năng điều chỉnh theo lộ trình tăng giá
dịch vụ do Nhà nước quản lý như dịch vụ giáo dục, y tế.

Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất năm 2022 tăng 6,79% so với
năm 2021 và chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa tăng 8,56% dẫn đến chỉ số giá sản
xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,89% so với năm trước; chỉ
số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng 4,24%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ
tăng 3,69%. Chỉ số giá sản xuất của 3 khu vực đều tăng cao hơn lạm phát bình
quân 3,15% năm 2022 sẽ lan tỏa vào giá tiêu dùng năm 2023.
Bên cạnh đó, một số chính sách giúp ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và đời sống của người dân sẽ kết thúc trong năm 2022; thiên tai
và dịch bệnh có thể gây ảnh hưởng đến giá lương thực, thực phẩm tại một số địa
phương bị ảnh hưởng, điều này cũng sẽ tác động làm tăng CPI.

Căn cứ vào các yếu tố tác động nêu trên, dự báo tỷ lệ lạm phát năm 2023 của
kinh tế Việt Nam có thể ở mức 4,5%-5%, tuy vậy trong trung hạn 5 năm 2021-
2025 lạm phát đạt mục tiêu kế hoạch khoảng 4%.)

V. Một số phương án kiểm soát lạm phát

Đối với mỗi một quốc gia việc kiểm soát lạm phát để bảo vệ nền kinh tế luôn
được đặt lên hàng đầu. Có rất nhiều cách để kiềm chế lạm phát được áp dụng
bao gồm:

1. Giảm bớt lượng tiền trong lưu thông:

● Ngừng phát hành tiền vào trong lưu thông nhằm giảm lượng tiền đưa vào
lưu thông trong xã hội.

● Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Đây là biện pháp nhằm giảm lượng cung tiền
vào thị trường. Biện pháp này tác động đến tất cả các ngân hàng và bình
đẳng giữa các ngân hàng với nhau.

● Nâng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tiền gửi: Biện pháp này sẽ làm hạn
chế các ngân hàng thương mại mang các giấy tờ có giá đến ngân hàng
nhà nước để chiết khấu. Ngoài ra việc tăng lãi suất tiền gửi sẽ hút khiến
người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn.

● Ngân hàng trung ương áp dụng nghiệp vụ thị trường mở nhằm bán các
chứng từ có giá cho các ngân hàng thương mại.

● Ngân hàng trung ương bán vàng và ngoại tệ cho các ngân hàng thương
mại.

● Giảm chi ngân sách: Đó là giảm chi tiêu thường xuyên và cắt giảm đầu tư
công.
● Tăng tiền thuế tiêu dùng nhằm giảm bớt nhu cầu chi tiêu cá nhân trong xã
hội, tăng hàng hóa dịch vụ cung cấp trong xã hội.

● Theo dõi sát diễn biến kinh tế và lạm phát thế giới; cập nhật sát tình hình
để có chỉ đạo bảo đảm cân đối cung cầu trong nước.

● Thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, bảo đảm tính chủ động, hiệu quả,
phối hợp với điều hành chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm,
trọng điểm và các chính sách khác để góp phần ổn định kinh tế vĩ mô,
kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, bảo đảm các cân đối lớn của nền
kinh tế…

2. Tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng nhằm cân bằng với tiền trong lưu thông

● Khuyến khích tự do mậu dịch

● Giảm thuế

● Các biện pháp cho hàng hóa nhập khẩu

● Đối với các mặt hàng Nhà nước định giá, các dịch vụ công đang triển
khai lộ trình thị trường, các bộ, ngành, địa phương chủ động trong việc
tính toán, chuẩn bị các phương án giá để triển khai điều chỉnh vào thời
điểm phù hợp với quy định và bối cảnh chung.

● Đối với các mặt hàng cụ thể, các bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm tổ
chức, theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả thị trường các mặt hàng
thuộc lĩnh vực quản lý để có biện pháp điều hành phù hợp. Chủ động tiếp
tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, trong lưu thông để chuẩn
bị các nguồn hàng dự trữ, bình ổn giá cả thị trường.

● Sử dụng linh hoạt, hiệu quả các công cụ, biện pháp điều tiết giá để kiểm
soát, bình ổn thị trường. Tăng cường triển khai hiệu quả và giám sát thực
hiện các biện pháp kê khai giá, niêm yết giá; công khai thông tin về giá;
tổ chức thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, xử lý nghiêm
các hành vi vi phạm pháp luật về giá.
3. Đi vay viện trợ nước ngoài

4. Cải cách tiền tệ

5. Giáo dục và Truyền thông:

● Tăng cường giáo dục về tài chính: Nâng cao nhận thức của người dân về
tài chính cá nhân để họ có thể quản lý tốt hơn trong thời kỳ lạm phát.
● Truyền thông hiệu quả: Thông tin chính xác và minh bạch từ chính phủ
có thể giúp người dân hiểu rõ tình hình và hành động một cách phù hợp.
DANH MỤC THAM KHẢO

1. Giáo trình Kinh tế học tập 2 của PGS.TS. Vũ Kim Dung, - PGS.TS.
Nguyễn Văn Công.
2. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế của Ths. Nguyễn Thị Hạnh (Đại
học Duy Tân)
3.

You might also like