You are on page 1of 8

Cơ sở lý thuyết của lạm phát

1. Khái niệm.
Trong kinh tế vĩ mô, lạm phát là tình trạng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ trong nền
kinh tế tăng lên cao trong một khoảng thời gian nhất định và sự mất giá trị của một loại tiền tệ
nào đó. Khi so sánh với các nước khác thì lạm phát là sự giảm giá trị tiền tệ của một quốc gia
này so với các loại tiền tệ của quốc gia khác. Nói cách khác, khi giá cả tăng lên, một đơn vị tiền
tệ sẽ mất giá trị vì nó mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với thời kì trước. Lạm phát
thường được biểu thị dưới dạng phần trăm, nó cho thấy sức mua của đồng tiền của một quốc gia
giảm. Sự suy giảm sức mua này tác động đến chi phí sinh hoạt chung của công chúng, dẫn đến
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
2. Thước đo lạm phát.
2.1. Đo lường lạm phát theo CPI
CPI (Chỉ số giá tiêu dùng – Consumer Price Index) là chỉ số mức giá tiêu thụ trung bình cho giỏ
hàng hoá hay dịch vụ của một người và chỉ số biểu hiện sự thay đổi về giá cả của hàng hoá, dịch
vụ theo thời gian có đơn vị tính là phần trăm.
Ý nghĩa của CPI:
- Chỉ số giá tiêu dùng như một quy chuẩn biểu hiện tương đối mức độ biến động của giá bán lẻ
hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trong sinh hoạt của người dân vì thế CPI được dùng để theo
dõi những sự thay đổi về chi phí sinh hoạt của người dân qua từng năm, từng tháng. Nếu CPI
tăng thì mức giá trung bình của hàng hoá, dịch vụ sẽ tăng và ngược lại.
- Sự biến động của CPI có thể gây ra lạm phát hoặc giảm phát và khi giá cả tăng tới mức
không thể kiểm soả nổi thì lạm phát sẽ trở thành siêu lạm phát.
Công thức tính chỉ số giá tiêu dùng CPI:
chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t
CPIt = x 100%
c h i p hí để mua gi ỏ hà ng h o á k ỳ c ơ s ở

Hay: CPIt =
∑ t 0
p ι qι
x 100%
∑ p 0ι q0ι
Trong đó:
 CPIt : là chỉ số tiêu dùng năm t
t
 pι : mức giá của sản phẩm i trong năm t
 pι : mức giá của sản phẩm i trong năm 0
0

0
 q ι : sản lượng sản phẩm i trong năm 0
Năm 0 là năm gốc
2.2. Đo lường lạm phát theo PPI
PPI (Chỉ số giá sản xuất – Producer Price Index) chỉ số này được sử dụng để đo lường sự thay
đổi trong giá thành sản phẩm tại các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất từ nguyên liệu
đầu vào cho đến sản phẩm cuối cùng.
Ý nghĩa của PPI
- PPI là một chỉ số hữu dụng về xu hướng đối với giá cả và phản ánh trước xu hướng chỉ số
giá tiêu dùng CPI. Khi giá cả sản xuất tăng thì sau đó một vài tháng chỉ số giá tiêu dùng cũng
sẽ tăng.
- PPI mô tả mức độ thay đổi giá cả trung bình trong rổ hàng hoá cố định được mua bởi nhà sản
xuất và đo lường sự lạm phát trong khu vực sản xuất của một quốc gia.
Công thức tính chỉ số giá sản xuất PPI:
chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t
PPIt = x 100%
c h i p hí để mua gi ỏ hà ng h o á k ỳ c ơ s ở

2.3. Đo lường lạm phát theo GDP


Chỉ số giảm phát (tGDP) hay còn được gọi là Chỉ số điều chỉnh GDP ( DGDP ) là chỉ số tính theo
phần trăm phản ánh mức giá chung của tất cả loại hàng hoá,m dịch vụ sản xuất trong nước.
Công thức tính chỉ số giảm phát GDP:
GDP danh nghĩa
GDP = x 100%
GDP t hự c t ế

3. Cách tính tỷ lệ lạm phát.


Để đo lường mức độ lạm phát của nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất định, các nhà
thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá
chung. Tỷ lệ lạm phát là phần trăm thay đổi trong mức giá từ giai đoạn này sang giai đoạn kế
tiếp.
3.1. Công thức tính tỷ lệ lạm phát
3.1.1. Tính theo CPI
Tỷ lệ lạm phát kỳ hiện tại =
Chỉ số giá tiêu dùng CPI hiệntại−Chỉ số giá tiêu dùng CPI kỳ trước
x 100%
Chỉ số giá tiêu dùng CPI kỳ trước

P 0−P−1
Hay Tỷ lệ lạm phát kỳ hiện tại = x 100%
P−1

Trong đó:
 P0 : mức giá cả trung bình của kỳ hiện tại
 P−1 : mức giá cả của kỳ trước

3.1.2. Tính theo GDP


Chỉ số giảm phát GDP hiệntại – Chỉ số giảm phát GDP kỳ trước
Tỷ lệ lạm phát kỳ hiện tại = x
Chỉ số giảm phát kỳ trước
100%

4. Phân loại lạm phát.


4.1. Phân loại lạm phát dựa vào mức độ
4.1.1. Lạm phát vừa phải (lạm phát cơ bản)
Mức độ lạm phát dưới 10%. Đó là mức lạm phát mà bình thường nền kinh tế trải qua và ít gây
tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Trong thời gian này, nền kinh tế vẫn hoạt động bình thường,
đời sống người lao động tương đối bình ổn. Nó được thể hiện qua sự tăng chậm của giá cả hàng
hóa dịch vụ, lãi suất tiền gửi không cao, hàng hóa không được mua bán với số lượng lớn,…
Ngoài ra, có thể kích thích sản xuất vì giá tăng nhẹ sẽ làm tăng lợi nhuận và kích thích doanh
nghiệp tăng thêm sản lượng. Lạm phát vừa phải làm yên lòng cho những người lao động chỉ dựa
vào thu nhập. Ở Việt Nam, tỷ lệ lạm phát đang nằm trong mức vừa phải.
4.2. Lạm phát phi mã (lạm phát cao)
Mức độ lạm phát từ 10% đến dưới 1000% /năm. Lạm phát phi mã có tác động tiêu cực đến
nền kinh tế và gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội, chính trị cho đất nước.
Lạm phát này làm cho giá cả chung tăng lên nguyên nhân là do biến động về phía tổng cung
hay tổng cầu. Trong trường hợp như vậy, đồng tiền mất giá rất nhanh đến mức mọi người có
xu hướng chỉ giữ một lượng tiền mặt tối thiểu đủ cho giao dịch hàng ngày. Lúc này, người
dân có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản, cho vay tiền ở mức lãi suất bình
thường và chuyển sang sử dụng vàng hoặc ngoại tệ để làm phương tiện thanh toán cho các
giao dịch có giá trị lớn và tích trữ của cải. Khi mức độ lạm phát như vậy kéo dài và không
được kiểm soát sẽ có tác động lớn đến nền kinh tế, và có thể dẫn đến những thay đổi nghiêm
trọng về kinh tế.
4.2.1. Siêu lạm phát
Mức độ lạm phát rất lớn khoảng 1000% trở lên. Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát tăng đột
biến với tốc độ cao vượt qua giới hạn của tốc độ lạm phát phi mã làm tăng lưu thông tiền tệ,
giá cả hàng hóa tăng nhanh không ổn định, tiền tệ mất giá nhanh chóng, tiền lương thực tế
của người lao động bị giảm mạnh khiến cho thông tin thị trường không còn chính xác, thị
trường biến đổi và hoạt động kinh doanh rối loạn. Mặc dù hiện tượng này không phổ biến
lắm nhưng nó đã từng xảy ra trong lịchsử, chẳng hạn như Trung Quốc, Brazil, Đức…
Nguyên nhân chính dẫn đến siêu lạm phát là sự tác động của những cuộc chiến tranh cũng
như các vấn đề về chính trị gây ra hậu quả nghiệm trọng, ảnh hưởng nặng nề đến toàn bộ hệ
thống tài chính và tiền tệ của cả nền kinh tế. Một đặc điểm chung của tất cả các cuộc siêu
lạm phát là sự gia tăng quá mức của cung tiền. Điều này thường bắt nguồn từ nhu cầu tài trợ
cho thâm hụt ngân sách có thể trở nên không kiểm soát được. Trên thực tế, siêu lạm phát là
cực kỳ hiếm gặp.
4.3. Phân loại lạm phát dựa vào định tính:
Lạm phát có thể được phân thành nhiều loại khác nhau, tuỳ theo tính chất mà người ta phân lạm
phát thành những loại cơ bản sau:
- Lạm phát cân bằng: Tăng phù hợp với hình thức hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh
nghiệm và tăng tương ứng với mức thu nhập thực tế của người lao động. Vì thế nên sẽ không
ảnh hưởng đến cuộc sống của người lao động hàng ngày hay cả nền kinh tế nói chung.
- Lạm phát không cân bằng: Mức tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động.
Trong thực tế, loại lạm phát này khá phổ biến.
- Lạm phát dự đoán trước: Lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dài với tỉ lệ lạm phát
hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể dự đoán trước được tỉ lệ lạm phát
cho những năm tiếp sau. Người dân đã quen với tình trạng này và hầu như không tác động
nhiều đến đời sống và kinh tế.
- Lạm phát không dự đoán trước: Là lạm phát xảy ra ngoài dự kiến của người dân về quy mô,
cường độ cũng như mức độ tác động, dẫn đến những thay đổi đột ngột mà trước đó chưa
từng xảy ra. Do vậy, nó làm ảnh hưởng đến đời sống và thói quen của mọi người vì họ đều
chưa kịp thích nghi. Do đó làm cho nền kinh tế có nhiều biến động và làm giảm sự tin tưởng
của nhân dân với chính quyền.

5. Quy định về lạm phát


Theo như các khoản ở Điều 3 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 quy định liên quan đến
lạm phát như sau:
Điều 3. Chính sách tiền tệ quốc gia và thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ quốc gia
1. Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu
lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.
2. Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ
số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
3. Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định trong việc
đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
4. Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm. Thủ tướng Chính phủ,
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để
thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ.

6. Nguyên nhân lạm phát.


6.1. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát cầu kéo là lạm phát do tổng cầu (AD - Aggregate Demand) (hay còn gọi là tổn chi tiêu
của xã hội) tăng lên, vượt quá mức cung ứng hàng hoá của xã hội, dẫn đến áp lực tăng giá cả.
Tổng cầu phản ánh những nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội. Những nhu cầu này bao
gồm nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ của các hộ gia đình, của doanh nghiệp, chính phủ và nhu
cầu hàng hoá xuất khẩu của thị trường nước ngoài.
Hình 1: Lạm phát cầu kéo
Bản chất của lạm phát do cầu kéo là chỉ tiêu quá nhiều tiền để mua 1 lượng cung hạn chế về
hàng hóa có thể sản xuất được, trong điều kiện thị trường lao động đã đạt trạng thái cân bằng.
Khi cầu tăng mạnh đường A D0 dịch chuyển lên trên A D1, giá cả tăng nhanh từ P0 đến P1.
6.2. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát do chi phí đẩy xảy ra khi có các cơn sốc về giá cả của thị trường đầu vào, đặc biệt là
các vật tư cơ bản (các vật tư thường dùng trong các ngành sản xuất như xăng, dầu, điện,…). Giá
cả của các vật tư làm tư liệu sản xuất hàng hóa đột ngột tăng trưởng là kết quả của các vấn đề:
Tài nguyên thiên nhiên, thiên tai, kinh tế, chính trị, chiến tranh,…
Hình 2: Lạm phát do chi phí đẩy

Đây là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển lên trên. Tuy tổng cầu
không thay đổi nhưng giá cả đã tăng lên và sản lượng giảm xuống.
Khi giá cả thị trường tăng → Lợi nhuận giảm →Thu hẹp quy mô sản xuất →Tổng cung giảm
(AS dịch chuyển lên trên)→ giá tăng và sản lượng giảm → thất nghiệp tăng lên. Đây là loại lạm
phát nghiêm trọng bởi tình trạng vừa đình đốn, vừa lạm phát – gọi là “đình lạm”. Khắc phục tình
trạng này bằng cách chính phủ nên quản lý giá cả đối với đầu vào cơ bản.
6.3. Lạm phát do cầu thay đổi
Trong trường hợp lượng cầu về một mặt hàng giảm đi trong khi lượng cầu về một mặt hàng
khác tăng lên, nếu thị trường có nhà cung cấp độc quyền và giá cả trên thị trường mang tính chất
cứng nhắc (chỉ tăng mà không giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm sẽ vẫn giữ nguyên giá.
Trong khi đó, mặt hàng mà lượng cầu tăng sẽ tăng giá, dẫn đến mức giá chung trên thị trường
tăng lên, gây nên lạm phát.
6.4. Lạm phát do cơ cấu
Khi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả trên thị trường, mức lợi nhuận của các doanh nghiệp
do đó cũng tăng lên. Nhờ đó mà tiền công danh nghĩa của người lao động cũng được tăng lên.
Ngược lại, khi các doanh nghiệp không làm ăn hiệu quả và không đạt được mức lợi nhuận kỳ
vọng, doanh nghiệp không thể tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Lạm phát do cơ
cấu xảy ra khi các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận kỳ
vọng, các doanh nghiệp buộc phải tăng giá thành sản phẩm. Điều này gây áp lực cho nền kinh
tế, do đó, dẫn đến lạm phát.
6.5. Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng khiến lượng sản phẩm huy động phục vụ cho hoạt động xuất khẩu tăng, đồng
thời lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm, dẫn đến tổng cung thấp hơn tổng cầu.
Sự mất cân bằng giữa tổng cung và tổng cầu là một trong những nguyên nhân gây nên lạm phát
6.6. Lạm phát do nhập khẩu
Khi mức giá nhập khẩu các hàng hoá dịch vụ tăng lên (do nhu cầu trong nước tăng hoặc nhà
cung cấp nước ngoài tăng giá hay đồng nội tệ xuống giá so với ngoại tệ), giá thành tiêu thụ sản
phẩm nhập khẩu trong nước theo đó cũng tăng lên. Điều này khiến mức giá chung các sản phẩm,
dịch vụ trong nước khác cũng bị áp lực tăng giá, dẫn đến lạm phát.
6.7. Lạm phát do cung tiền tệ
Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ
vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương
mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là
nguyên nhân gây ra lạm phát.
6.8. Lạm phát do tỷ giá hối đoái
Lạm phát do tỷ giá hối đoái là khi tỷ giá tăng thì giá trị của đồng bản tệ bị giảm xuống (do các
yếu tố về chính trị, kinh tế trên thế giới). Khi đó, những doanh nghiệp sản xuất hàng hóa muốn
đẩy mức giá hàng hóa của họ tăng lên tương ứng theo tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá tăng, những chi
phí về nguyên liệu hàng hóa nhập khẩu tăng lên vì thế sẽ đẩy cho giá cả của hàng hóa tăng lên
cao dẫn đến lạm phát.
Ngoài những nguyên nhân trên, lạm phát còn được sinh ra bởi những sai lầm trong những chính
sách vĩ mô của nhà nước như chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách việc làm,…
7. Ảnh hưởng của lạm phát.
Lạm phát đang là một trong những nguyên nhân khiến cho nền kinh tế suy thoái, kinh tế chính trị
bất ổn, dẫn đến đời sống của con người càng thêm phần cơ cực. Nhưng xét về góc độ tạo ra lợi ích
cho xã hội, lạm phát còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống của con người
trong xã hội.
7.1. Tác động tích cực
Lạm phát không phải lúc nào cũng gây nên những thiệt hại cho nền kinh tế của nhà nước. Mặc
khác khi tốc độ lạm phát vừa phải nằm trong khoảng 2 đến 5% ở các nước phát triển và 10% đối
với các nước đang phát triển sẽ mang lại một lợi ích kinh tế như: Kích thích tiêu dùng, đầu tư,
sản xuất, đa dạng sản phẩm hàng hóa đáp ứng tiêu dùng và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội
hoặc chính phủ có thêm khả năng lựa chọn công cụ kích thích đầu tư ở những lĩnh vực chưa phổ
biến thông qua việc mở rộng tín dụng, phân phối lại nguồn thu nhập và đầu tư có chọn lọc về
nguồn nhân lực theo định hướng mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra. Dù vậy, cần phải cân
nhắc kĩ lưỡng trước khi ra quyết định bởi việc này thực sự khó đối với một nước đang phát triển
như Việt Nam.
7.2. Tác động tiêu cực
Lạm phát ở các nước trên thế giới khi tăng cao và liên tục tác động xấu đến mọi mặt của đời
sốngkinh tế, chính trị và xã hội của đất nước.
7.2.1. Lãi suất
Việc tác động trực tiếp lên lãi suất sẽ dẫn đến việc ảnh hưởng đến các yếu tố khác của nền
kinh tế. Nhằm duy trì hoạt động ổn định, ngân hàng cần ổn định lãi suất thực. Ta có công
thức:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát
Vì khi tỷ lệ lạm phát tăng cao nhưng muốn giữ lãi suất thực ổn định và dương thì lãi suất
danh nghĩa phải tăng và khi lãi suất danh nghĩa tăng lên theo. Lãi suất danh nghĩa tăng dẫn
đến suy thoái nền kinh tế và thất nghiệp gia tăng
7.2.2. Thu thập thực tế
Mối quan hệ giữa thu nhập thực tế và thu nhập danh nghĩa của người dân được thể hiện
thông quatỷ lệ lạm phát. Nếu tỷ lệ lạm phát tăng mà thu nhập danh nghĩa của người lao động
không tăng thì thu nhập thực tế sẽ giảm. Từ đó, ta có công thức sau:
Thu nhập thực tế = Thu nhập danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của các tài sản không có lãi mà nó còn làm giảm
giá trịcủa các tài sản có lãi, làm giảm thu nhập thực từ các khoản lợi tức cũng như các khoản
lãi. Vì chính sách thuế nhà nước được tính dựa trên thu nhập danh nghĩa. Khi tỷ lệ lạm phát
tăng cao, người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa dù cho thuế suất vẫn không tăng. Do đó, thu
nhập ròng (thực) của những người cho vay sẽ bằng thu nhập danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát
bị giảm xuống sẽ tác động đáng kể đến nền kinh tế xã hội. Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái,
tỷ lệ thất nghiệp tăng, đời sống của người lao động trở nên khó khăn hơn, niền tin của công
chúng vào chính phủ sẽ sụt giảm.
7.2.3. Phân bố thu nhập
Khi lạm phát tăng lên, giá trị của đồng tiền giảm xuống và người đi vay được nhận được lợi
nhuận bằng cách vay vốn để đầu cơ kiếm lời. Điều này làm tăng nhu cầu vay vốn trong nền
kinh tế và làm lãi suất tăng lên. Lạm phát cao còn gây ra hành vi đầu cơ của những người có
tiền lấy tiền của mình để vơ vét hàng hóa, tài sản, tạo nên sự mất cân đối cung - cầu trầm
trọng, thị trường hàng hóa và giá cả hàng hóa tăng nhanh chóng. Cuối cùng, người vốn đã
nghèo sẽ càng nghèo hơn. Thậm chí họ còn không đủ khả năng chi trả những hàng hóa tiêu
dùng cơ bản, và những nhà đầu cơ trở nên giàu hơn qua việc vơ vét sạch hàng hóa. Lạm phát
như vậy có thể tàn phá nền kinh tế dẫn đến chênh lệch lớn về thu nhập và mức sống giữa
người giàu và người nghèo.
7.2.4. Nợ quốc gia
Lạm phát gia tăng dẫn đến chính phủ được lợi vì người dân cần phải đóng thuế nhiều hơn.
Tuy nhiên, nhược điểm của điều này là khi lạm phát tăng lên, nợ quốc gia sẽ trở nên nghiêm
trọng. Bởi vì nếu cùng một số tiền chi trong quá trình chưa lạm phát thì chỉ trả với “a” phí,
nhưng trong tình trạng lạm phát thì phải trả với “a + n” phí. Kết quả là nợ quốc gia ngày
càng tăng.

You might also like