You are on page 1of 20

BÀI TẬP NHÓM GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG LS.

DS 09
Ngày thực hiện: 9/9/2021
Môn: Kỹ năng cơ bản của LS khi tham gia giải quyết các vụ, việc Dân Sự
Lớp E1- Nhóm 5 -Khóa 23.1 Lớp Đào tạo ngày T7, CN
Đề bài: Với tư cách Luật sư của Bị đơn, hãy trình bày những nội dung
chính cần lập luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị đơn (Công ty
TNHH YD Việt Nam).
=======o0o=======

MỤC LỤC

A/ DANH SÁCH NHÓM ........................................................................................................ 2


B/ NGHIÊN CỨU HỒ SƠ ...................................................................................................... 1
I/ Tóm tắt hồ sơ .................................................................................................................. 1
1. Các bên đương sự:.................................................................................................... 1
2. Tóm tắt tranh chấp ................................................................................................... 1
II/ Danh mục các VB QPPL được áp dụng: ......................................................................... 3
III/ Nhận định sơ bộ về những điểm lợi thế và bất lợi cho bị đơn .......................................... 3
1. Hỏi Nguyên đơn ....................................................................................................... 5
2. Hỏi bị đơn ................................................................................................................ 5
C/ VIẾT LUẬN CỨ BẢO VỆ BỊ ĐƠN .................................................................................... 6
I/ Phần trình bày của phía bị đơn........................................................................................ 6
II/ Luận cứ bảo vệ cho bị đơn ............................................................................................. 7
1. Cơ sở pháp lý xác định hành vi vi phạm làm cơ sở cho yêu cầu KK của nguyên đơn là thiếu
căn cứ và trái quy định của PL ......................................................................................... 8
2. Các nội dung tranh chấp đưa ra trong YCKK thiếu căn cứ pháp lý: ........................... 11
III/ Dự kiến phản biện với trình bày của Nguyên đơn: ....................................................... 16

1
A/ DANH SÁCH NHÓM

STT Họ và tên Ngày sinh Số báo Mức độ Ghi chú


danh tham gia
1 Bùi Minh Thông 26/02/1998 448 A
2 Nguyễn Thị Thơ 09/02/1997 452 A
3 Nguyễn Thị Phương Thùy 05/11/1994 458 A
4 Lưu Thị Minh Thủy 27/06/1997 461 A
5 Nguyễn Thị Trang 11/9/1998 493 A
6 Trần Huyền Trang 09/11/1996 500 A
7 Dương Văn Trọng 12/02/1995 504 A
8 Triệu Thị Uyên 04/10/1995 510 A
9 Phạm Đức Vương 09/03/1998 519 A
10 Dương Ngô Thu 22/11/1986 535 A
11 Nguyễn Thị Ngọc Thủy 03/9/1981 536 A
12 Phạm Tuấn Hào 16/11/1983 549 A
13 Nguyễn Đức Tâm 02/10/1991 556 A
14 Trần Thị Kim Hương 09/03/1988 557 A

2
B/ NGHIÊN CỨU HỒ SƠ

I/ Tóm tắt hồ sơ

1. Các bên đương sự:


+) Nguyên Đơn: Trần Thị Thu (“bà Thu”)
- CMTND: 031182000xxx cấp ngày 26/8/2015 do CA TP Hải Phòng cấp
- Địa chỉ thường trú: Số 6xx, phố Đ, phường Hoàng Văn Thụ, Quận Hồng Bàng, TP
Hải Phòng.
+) Bị Đơn: Công ty TNHH YD Việt Nam (“Công ty YD”)
- Trụ sở: Lô 12xx khu công nghiệp NM – Hải Phòng, TP Hải Phòng (KM 13, Huyện
An Dương, TP Hải Phòng)
- Người đại diện theo pháp luật: Ông Shuhei – Chức vụ: Tổng Giám đốc
2. Tóm tắt tranh chấp

Trước thời điểm bà Thu khởi kiện Công ty YD ra tòa án


 Ngày 17/10/2008, bà Thu và Công ty YD cùng nhau thỏa thuận ký kết Hợp đồng lao
động (“HĐLĐ”) với một số nội dung liên quan:
- Thời hạn hợp đồng là: không xác định thời hạn, từ ngày 17/10/2008
- Trình độ chuyên môn: Kế toán
- Chức danh: Kế toán trưởng.
- Địa điểm làm việc: Văn phòng
 Ngày 05/12/2015, Công ty YD gửi thông báo số 05/2015/TB (“Thông báo 05”) cho
bà Thu với nội dung: đúng 9 giờ sáng ngày 15/12/2015 đến Công ty để làm rõ sai
phạm kế toán.
 Ngày 09/12/2015, bà Thu trở lại Công ty YD để tiếp tục làm việc theo HĐLĐ (sau
nghỉ chế độ thai sản). Tuy nhiên, bà Thu không được bảo vệ Công ty YD cho vào
làm việc.
 Ngày 15/12/2015, trong cuộc họp đề cập tại Thông báo 05, Công ty YD xác định bà
Thu có những sai phạm cá nhân
 Ngày 20/12/2015, Công ty YD gửi Thông báo số 07/2015/TB cho bà Thu với nội
dung: đúng 9 giờ ngày 25/12/2015, mời bà Thu đến Công ty YD để tham gia cuộc
họp Hội đồng kỷ luật lao động đối với bà Thu.
 Ngày 22/12/2015, bà Thu đã uỷ quyền cho Công ty Luật K thực hiện các nội dung
công việc liên quan tới giải quyết tranh chấp với Công ty YD.

1
 Ngày 25/12/2015, tại cuộc họp Hội đồng kỷ luật lao động tại công ty YD, YD tiếp
tục cho rằng bà Thu đã có một số sai phạm. Nội dung cuộc họp được Công ty YD
Việt Nam tiến hành lập biên bản.
 Ngày 30/12/2015, bà Thu nhận được Thông báo của Công ty YD và Quyết định số
S008-14/QĐ của ông Shuhei với nội dung mời bà Thu quay lại làm việc tại Công ty
YD vào 8 giờ ngày 05/01/2016. Quyết định S008-14/QĐ có một số nội dung chính
sau:
- Căn cứ “yêu cầu sản xuất của Công ty”
- Bố trí bà Thu từ vị trí kế toán tại Văn phòng sang kế toán phụ trách quản lý
kho rác từ ngày 05/01/2016.
- Lương và các chế độ áp dụng theo Điều 31 BLLĐ 2012 về “Chuyển người lao
động làm công việc khác so với hợp đồng lao động”.
Bà Thu khởi kiện Công ty YD ra tòa án
 Ngày 06/07/2016, bà Thu đã gửi đơn khởi kiện Công ty YD tới TAND huyện AD và
được tòa án xác nhận, TP. Hải Phòng đề nghị TAND huyện AD, TP. Hải phòng xem
xét giải quyết các vấn đề sau:
- Buộc Công ty YD bồi thường thiệt hại cho bà Thu do hành vi sa thải trái pháp
luật, cụ thể:
(i) Thanh toán toàn bộ tiền lương cho bà Thu kể từ ngày 09/12/2015 đến
hết ngày 09/7/2016 (07 tháng) theo mức lương bà Thu được hưởng
21.733.600 đồng/01 tháng, tổng số là 152.135.200 đồng.
(ii) Thanh toán tiền trợ cấp thôi việc: Bà Thu bắt đầu làm việc tại Công ty
YD vào ngày 17/7/2006 cho đến thời điểm hiện tại. Tổng số tiền Công
ty YD phải trả cho bà Thu là 179.302.200 đồng.
(iii) Buộc Công ty YD thực hiện ngay việc chốt sổ Bảo hiểm xã hội cho Trần
Thị Thu.
 Ngày 14/08/2016, Công ty YD ra Biên bản xử lý vi phạm kỷ luật lao động đối với
bà Thu số 01/2016-BB/VPKL với hai nội dung chính:
(i) bà Thu không tham gia cuộc họp xử lý kỷ luật lao động dù đã có thông báo
03 lần.
(ii) Công ty YD đưa ra lỗi rằng bà Thu được công ty giao việc sau thời gian nghỉ
thai sản nhưng bà Thu không đồng ý với công việc được giao và tự ý bỏ về,
Công ty YD đã 3 lần thông báo tới bà Thu để thực hiện HĐLĐ nhưng bà Thu
vẫn không tới làm việc.
 Ngày 15/08/2016, Công ty TNHH YD Việt Nam đã ra quyết định số 02-QĐ/HĐKL
xử lý kỷ luật lao động với hình thức sa thải bà Thu do vi phạm nội quy công ty.
 Ngày 13/11/2016, tại phiên hoà giải,các bên đã thống nhất sẽ chốt sổ, trả sổ bảo hiểm
cho bà Thu. Còn lại, các bên không thống nhất về các vấn đề thời gian vào làm việc

2
chủa bà Thu, về mức lương, về chấm dứt HĐLĐ, về thời gian yêu cầu hưởng lương
và về trợ cấp thôi việc.
 Ngày 27/04/2017, tại phiên hoà giải, các bên thống nhất mức lương bà Thu được
hưởng trong 6 tháng liền kề là 20.393.000, về thời điểm vào làm việc của bà Thu, về
việc chốt sổ, trả sổ. Các bên không thống nhất về yêu cầu nhận trở lại làm việc, về
việc chấm dứt họp đồng lao động về thời gian yêu cầu hưởng lương, về trợ cấp thôi
việc, về thời điểm chốt sổ bảo hiểm.
 Ngày 11/05/2017, bà Thu đã gửi đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện tới TAND huyện
AD bổ sung yêu cầu buộc Công ty YD huỷ biên bản xử lý kỷ luật lao động ngày
20/03/2016 với hình thức sa thải bà Thu, buộc Công ty YD khôi phục lại quyền lợi
của bà Thu, buộc Công ty YD bồi thường cho bà Thu số tiền là 453.744.250 đồng.
 Ngày 02/08/2017, tại phiên hoà giải, kết quả lần hoà giải này giống như lần trước.
 Ngày 22/08/2017, TAND huyện AD ra Quyết định số 01/2017/QĐST-LĐ quyết định
đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm về việc tranh chấp về xử lý kỷ luật theo hình thức sa thải.

II/ Danh mục các VB QPPL được áp dụng:

1) Bộ luật dân sự năm 2015


2) Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
3) Bộ luật lao động năm 2012
4) Thông tư số 26/2013/TT-BLĐTBXH ngày 18/10/2013 Ban hành danh mục công việc
không được sử dụng lao động nữ.
5) Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số nội dung của BLLĐ.
6) Luật Kế toán năm 2003: Khoản 7, Điều 14 và Khoản 4 Điều 51

III/ Nhận định sơ bộ về những điểm lợi thế và bất lợi cho bị đơn

1. Những điểm lợi thế của bị đơn:

Bị đơn có một số điểm lợi thế như sau:


(i) Công ty không ban hành bất kỳ một QĐ sa thải trái pháp luật nào: Công
ty YP không ban hành QĐ sa thải nào căn cứ và dựa trên Biên bản Xử lý
vi phạm kỷ luật lao động ngày 20/3/2016. QĐ sa thải số 02/QĐ-HĐKL
ngày 15/8/2016 là QĐ sa thải được ban hành theo đúng quy trình và quy
định pháp luật về sa thải.
(ii) Công ty điều chuyển công việc lần thứ 2 là Kế toán thống kê cho bà Thu
là công việc vẫn đúng chuyên môn và kinh nghiệm với các điều kiện phù
hợp như làm tại văn phòng, đúng chuyên ngành kế toán. Việc giảm lương
là việc điều chỉnh phù hợp vì phạm vi công việc của bà Thu đã giảm xuống,
và mức giảm không dưới 85% mức lương cũ theo quy định.
(iii) Bà Thu không tuân thủ các yêu cầu của Công ty khi HĐLĐ vẫn còn hiệu
lực: Biên bản họp ngày 25/12/2015 bà Thu đã ký xác nhận nội dung có kết
3
luận bà làm mất hồ sơ (bút lục 26) và bà đã không bổ sung hồ sơ theo yêu
cầu trong buổi họp này.
(iv) Bà Thu không khiếu nại về việc điều chuyển công việc mà bà cho là không
phù hợp lên công đoàn cơ sở và công đoàn cấp trên: Bà Thu được cty YD
điều chuyển sang vị trí khác do nhu cầu Sxkd và thực tế khi bị điều chuyển
Bà Thu không khiếu nại về việc điều chuyển công việc mà bà cho là không
phù hợp lên công đoàn cơ sở và công đoàn cấp trên: Bà Thu không khiếu
nại nội dung này, thay vào đó cáo buộc công ty sa thải và đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật lên BQL KKT mà không có cơ
sở pháp lý.
(v) Bà Thu không gia họp các buổi họp tổ chức kỷ luật: Công ty đã gửi giấy
mời họp 3 lần đến địa chỉ nhà bà Thu và có người tiếp nhận, nhưng bà Thu
đều không có mặt. Công ty đã tiến hành lập các Biên bản họp xử lý kỷ luật
vắng mặt theo đúng quy định
(vi) Mức hưởng lương và thời gian yêu cầu hưởng lương của bà Thu thiếu căn
cứ pháp lý: Mức hưởng lương yêu cầu không đúng theo HĐLĐ và
PLHĐLĐ, đồng thời yêu cầu thời gian hưởng lương không đúng do xác
định căn cứ chấm dứt quan hệ lao động chưa đúng.
(vii) Các yêu cầu đồi bồi thường và trợ cấp thôi việc và thời gian chốt BHXH
chưa có căn cứ: Do việc xác định sai căn cứ chấm dứt quan hệ lao động
nên các yêu cầu này đều chưa đủ căn cứ pháp lý

2. Những điểm bất lợi cho bị đơn:

Bên cạnh điểm lợi thế, bị đơn có một số điểm bất lợi như sau:
(i) Công ty không thông báo đầy đủ khi không bố trí công việc cũ cho người
lao động: Công ty đã không chủ động thông tin cho người lao động biết
trước, cũng không đưa ra lý do hợp lý, thuyết phục về sự cần thiết của việc
tạm đình chỉ làm việc
(ii) Công ty tổ chức họp xử lý kỷ luật với lao động đang nuôi con dưới 12
tháng: Việc tổ chức và lập các biên bản xử lý kỷ luật với lao động đang
nuôi con dưới 12 tháng của Công ty là chưa đúng quy định. Đồng thời việc
điều chỉnh mức lương thấp đi còn 85% so với mức lương hiện hành trong
thời kỳ đang nuôi con nhỏ và vừa kết thúc nghỉ thai sản là không đúng quy
định.
(iii) Quyết định điều chuyển số S008-14 ngày 30/12/2015 về điều chuyển vị trí
làm việc Kế toán kho rác là trái với nội dung về địa điểm làm việc quy
định tại HĐLĐ đã ký. Ngoài ra môi trường tại Kho rác tuy không vi phạm
vào danh mục các công việc không bố trí cho lao động nữ, nhưng có nguy
cơ gây tổn hại sức khỏe cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ đang nuôi con nhỏ
như Bà Thu.
(iv) Bà Thu không phải là người trực tiếp nhận các thông báo họp xử lý kỷ luật
mà Công ty gửi tới địa chỉ thường trú của bà.

4
IV/ Chuẩn bị kế hoạch hỏi

1. Hỏi Nguyên đơn

1) Bà cho biết, trước khi nghỉ sinh, bà đang giữ chức vụ gì tại công ty? Mức lương là
bao nhiêu?
2) Con bà sinh từ ngày tháng năm nào?
3) Sau khi hết thời gian nghỉ thai sản bà có đến công ty không? Bà có chứng cứ gì chứng
minh là bảo vệ không cho bà vào làm việc không?
4) Sau khi bảo vệ không cho bà vào làm việc, bà có thông báo việc này cho ai trong
Công ty không? Bà thông báo bằng hình thức nào? Tới ai?
5) Bà có biết sai phạm của bà về nghiệp vụ kế toán trong công ty không?
6) Sau khi công ty điều chuyển bà làm kế toán bộ phận khác, tại sao bà lại không đồng
ý?
7) Khi có quyết định điều chuyển công tác bà có thực hiện quyền khiếu nại lên cơ quan
đại diện của người lao động hay không?
8) Tại sao bà lại tự ý bỏ việc sau khi nhận quyết định điều chuyển?
9) Công ty YD đã nhiều lần Thông báo đến chị về tiếp tục thực hiện Hợp đồng lao động
vào các ngày 10/3, 13/3 và 17/3/2016 nhưng tại sao chị không chấp hành cũng không
có lí do chính đáng?
10) Bà có nắm rõ Nội quy lao động của Công ty hay không? Vậy việc tự ý nghỉ việc
không có lý do quá 5 ngày cộng dồn trong 1 tháng có thuộc trường hợp xử lý kỷ luật
không ? kỷ luật dưới hình thức nào?

2. Hỏi bị đơn

1) Sau khi bà Thu nghỉ thai sản, Công ty đã cử ai để đảm nhiệm thay công việc của bà
Thu?
2) Trong quá trình người này làm việc có phát hiện ra sai phạm nào trong sổ sách kế
toán hay nghiệp vụ kế toán không?
3) Sau khi tiếp nhận được thông tin từ kế toán mới, Công ty đã có biện pháp gì?
4) Công ty kiểm toán độc lập đã đưa ra khuyến cáo nào cho Công ty?
5) Bà Thu có tham gia các buổi làm việc tại Công ty vào các ngày 15/12 và 25/12/2015
hay không? Tại các buổi làm việc này, bà Thu có hợp tác theo các yêu cầu của Công
ty hay không?
6) Tại sao Công ty lại điều chuyển công tác bà Thu sang đơn vị khác? Sau khi Công ty
ra quyết định điều chuyển Công tác, bà Thu có quay trở lại làm việc hay không?
7) Công ty có gửi Thông báo mời bà Thu quay trở lại làm việc hay không?
8) Phía công ty có nhận được phản hồi chính thức từ chị Thu khi công ty ra quyết định
điều chuyển công tác hay không?
9) Bà Thu có tham gia các phiên họp xử lý kỷ luật này hay không?

5
10) Nội quy lao động của Công ty quy định về các trường hợp phải xử lý kỷ luật sa thải
như thế nào?
11) Công ty đã mời mấy lần bà Thu lên đối thoại để giải quyết?
12) Bà Thu có tham dự cuộc họp về việc kỉ luật lao động do công ty tổ chức ngày
14/08/2016?

C/ VIẾT LUẬN CỨ BẢO VỆ BỊ ĐƠN

I/ Phần trình bày của phía bị đơn

Kính thưa HĐXX, thưa vị đại diện VKS, thưa các vị luật sư đồng nghiệp cùng các
vị có mặt tại phiên tòa ngày hôm nay

Sau đây tôi thay mặt bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn như sau:

Ý kiến đối với các nội dung trong yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như sau:

- Thứ nhất, về yêu cầu thanh toán toàn bộ tiền lương từ ngày 9/12/2015 đến khi
chính thức nhận lại do hành vi sa thải trái pháp luật của công ty YD. Phía bị đơn chỉ đồng ý
một phần yêu cầu này của nguyên đơn, những yêu cầu còn lại bị đơn không đồng ý. Cụ thể
như sau:

Do việc sa thải của bà Thu của công ty YD căn cứ vào việc bà Thu chưa chấm dứt hợp đồng
lao động, mà không đến công ty làm việc liên tục dù đã được thông báo nhiều lần, do vậy,
Công ty chỉ đống ý thanh toán cho bà Thu cho những ngày bà Thu được bảo vệ Công ty có
xác nhận đến Công ty trong giai đoạn từ ngày 9/12/2015 đến ngày 14/8/2016; cụ thể như
sau: “từ ngày 9/12/2015 đến nửa ngày ngày 5/1/2016, tổng cộng là 26,5 ngày làm việc với
mức lương được hưởng là 20.393.000 VNĐ/ tháng cho thời gian làm việc theo quy định 48
giờ/ tuần.”

-Thứ hai, về yêu cầu thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho thời gian bắt đầu làm việc
từ ngày 17/7/2016 cho đến thời điểm hiện tại với số tiền 25.491.250 VNĐ vì hành vi sa thải
pháp luật của công ty YD. Phía bị đơn không đồng ý toàn bộ yêu cầu này của nguyên đơn:

Do việc sa thải bà Thu của công ty YD là hợp pháp, tuân thủ theo đúng các quy định của
pháp luật liên quan đến sa thải. vì vậy. căn cứ theo Khoản 1 Điều 48 của Luật Lao động
năm 2012 quy định các trường hợp người lao động được người sử dụng lao động chi trả trợ
cấp thôi việc nêu tại Điều 36 của luật này, trợ cấp thôi việc không dành cho lao động bị xử
lý kỷ luật sa thải. (theo Khoản 8 Điều 36 Luật Lao động 2012). Vì vậy, bà Thu không được
hưởng trợ cấp thôi việc theo quy định

- Thứ ba, về yêu cầu chốt số BHXH cho tới thời điểm xét xử vụ án, phía bị đơn
không đồng ý với yêu cầu này của nguyên đơn.

Do đã đề cập, việc sa thải bà Thu của công ty YD ngày 15/8/2016 là đúng pháp luật do vậy
công ty chỉ đồng ý chốt sổ bảo hiểm cho bà Thu đến ngày 9/12/2015 – là thời điểm bà có
làm việc thực tế tại Công ty đủ số ngày tối thiểu theo quy định để tham gia bảo hiểm. Công
ty đã chốt sổ với bảo hiểm và sẽ trả sổ cho bà Thu.
6
- Thứ tư, về yêu cầu hủy Biên bản xử lý kỷ luật ngày 20/03/2016, phía bị đơn không
đồng ý với yêu cầu này.

Do Biên bản xử lý kỷ luật ngày 20/3/2016 là một văn bản hành chính thông thường ghi lại
nội dung của buổi họp xử lý kỉ luật lao động của Công ty, đồng thời Công ty không ban
hành bất kỳ một Quyết định sa thải nào từ biên bản kỷ luật này, do vậy chưa phát sinh hành
vi sa thải bà Thu của công ty YD. Vì vậy biên bản này không đồng thời là Quyết định sa
thải, nên biên bản này không trái pháp luật.

- Thứ năm, về yêu cầu bổ sung đồi bồi thường 4 tháng tiền lương theo HĐLĐ, Phụ
lục HĐLĐ ký ngày 1/1/2015 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3, Điều 42 của Luật lao
động 2012, phía bị đơn hoàn toàn không đồng ý với nội dung này.

Do trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động của bà Thu là trường hợp bị xử lý kỷ luật sa
thải không phải là trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật của người sử
dụng lao động căn cứ vào khoản 2, khoản 3 Điều 42, nên Công ty YD không phát sinh trách
nhiệm bồi thường cho bà Thu.

Trên đây là toàn bộ ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, mong Hội
đồng xét xử xem xét. Tôi xin hết, mời HĐXX tiếp tục làm việc.

II/ Luận cứ bảo vệ cho bị đơn

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


ĐOÀN LUẬT SƯ TP. HP Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ NHÓM 23 Thành phố HP, ngày tháng năm
E1.N5

LUẬN CỨ BẢO VỆ CỦA LUẬT SƯ


CHO BỊ ĐƠN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM
VỤ ÁN Lao động số 04/2017/TLST-LĐ ngày 14/10/2016 về “tranh chấp về xử lý kỷ
luật theo hình thức sa thải”

Kính thưa Hội đồng xét xử


,
Kính thưa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân,

Thưa các luật sư đồng nghiệp, cùng toàn thể quý vị đang có mặt tại phiên tòa hôm nay!

Tôi, Luật sư ……………………….., thành viên của Đoàn Luật sư TP.HP, thuộc Văn phòng
Luật sư Nhóm 23E1.N5. Hôm nay, tôi có mặt tại phiên toà với tư cách bảo vệ cho Công ty
TNHH YD Việt Nam (Công ty YD) – là bị đơn trong vụ án Lao động thụ lý số
04/2017/TLST-LĐ ngày 14/10/2016 về “tranh chấp về xử lý kỷ luật theo hình thức sa thải”
được Tòa án nhân dân TP HP đưa ra xét xử.

7
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đồng thời lắng nghe các bên trình bày tại
phiên tòa ngày hôm nay, đối chiếu với các quy định pháp luật hiện hành, tôi xin được đưa
ra quan điểm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ tôi – Công ty YD và đồng
thời là bị đơn của vụ án. Tôi hy vọng rằng lời bảo vệ tại phiên tòa hôm nay sẽ góp phần làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án một cách toàn diện, đầy đủ, nhằm giúp Hội đồng xét
xử xem xét, cân nhắc đưa ra phán quyết công minh, thấu tình đạt lý.

Thưa HĐXX,

Tôi cho rằng những nội dung trong yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn đưa ra là không
có đầy đủ căn cứ theo quy định pháp luật bởi các lý do sau:

1. Cơ sở pháp lý xác định hành vi vi phạm làm cơ sở cho yêu cầu KK của nguyên đơn là
thiếu căn cứ và trái quy định của PL

- Từ điển Tiếng Việt ghi nhận: “Biên bản là một loại văn bản ghi chép lại những sự
việc đã xảy ra hoặc đang xảy ra. Biên bản không có hiệu lực pháp lý thi hành mà
chủ yếu để dùng làm chứng cứ chứng minh các sự việc thực tế đã xảy ra.”; và “Quyết
định là việc công bố hay công nhận một vấn đề đối với tổ chức hay cá nhân nào đó
có tính chất thực thi bắt buộc.”

Theo nội dung được trình bày trong biên bản xử lý lỷ luật ngày 20/03/2016, cho thấy:
Đây chỉ là một văn bản hành chính thông thường để ghi nhận ý kiến của đại diện Công ty
YD và Bà Thu về những sai phạm của bà Thu trong quá trình giao công việc mới sau quá
trình thai sản. Việc bà Thu không chấp hành công việc mà công ty giao cho bà sau kỳ nghỉ
thai sản, đồng thời có thái độ không tuân thủ yêu cầu đến làm việc. Đồng thời ghi nhận hình
thức kỷ luật đối với bà Thu là sa thải. Trên thực tế, Công ty chưa áp dụng hình thức xử lý
kỷ luật sa thải đối với bà Thu, vì theo quy định, Quyết định sa thải phải được ghi nhận bằng
một quyết định riêng theo trình tự, thủ tục về xử lý kỷ luật quy định tại điều 30 Nghị định
05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Bộ luật lao động năm 2012. Do đó, biên
bản này không đồng thời là một quyết định xử lý kỷ luật, và Công ty chưa ban hành Quyết
định kỷ luật lao động sa thải đối với bà Thu nên chưa phát sinh hành vi vi phạm về xử lý kỷ
luật sa thải trái pháp luật.
- Căn cứ khoản 8 Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về các trường hợp
chấm dứt hợp đồng lao động: “8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy

8
định tại khoản 3 Điều 125 của Bộ luật này.” ; và theo quy định tại khoản 1, Điều 31
của Nghị định 05/2015/NĐ-CP, căn cứ để ban hành việc kỷ luật sa thải đối với người
lao động tự ý bỏ việc “Áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động
tự ý bỏ việc 05 ngày làm việc cộng dồn trong phạm vi 30 ngày kể từ ngày đầu tiên tự
ý bỏ việc hoặc 20 ngày làm việc cộng đồn trong phạm vi 365 ngày kể từ ngày đầu
tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng”

Như vậy, thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động giữa Công ty YD và bà Thu được xác
định kể từ thời điểm Công ty YD áp dụng hình thức kỷ luật sa thải với bà Thu tại Quyết
định số 02/QĐ-HĐKL ngày 15/8/2016 của Công ty YD, bởi vì: Ngày 20/3/2016 Công ty
TNHH YD đã họp xử lý kỷ luật lao động với hình thức đưa ra từ phía công ty là kỷ luật sa
thải bà Trần Thị Thu với lý do tự ý nghỉ việc 05 ngày không có lý do chính đáng. Biên bản
họp xử lý kỷ luật lao động sa thải ngày 20/3/2016 bà Thu đã nhận được. Nhưng công ty mới
chỉ họp xử lý kỷ luật chứ chưa ban hành Quyết định sa thải nên quan hệ lao động giữa hai
bên vẫn còn đến ngày Công ty chính thức có Biên bản xử lý kỷ luật lao động ngày 14/8/2016
và ban hành Quyết định số 02/QĐ-HĐKL ngày 15/08/2016 kỷ luật sa thải bà Thu.

Đồng thời, do trong nội dung YCKK, bà Thu chỉ khởi kiện đối với Biên bản xử lý
kỷ luật ngày 20/3/2016, không đề cập tới Biên bản xử lý ngày 14/8/2016 và Quyết định sa
thải ngày 15/8/2016 của Công ty không thuộc phạm vi giải quyết của vụ án này nên Công
ty không trình bày và không cung cấp các tài liệu liên quan đến quy trình ban hành Quyết
định sa thải.
Thực tế, căn cứ để xác định việc chấm dứt quan hệ lao động giữa bà Thu và Công ty YD
chính là QĐ số 02/QĐ-HĐKL ngày 15/8/2016. Đây là một Quyết định xử lý kỷ luật sa
thải đúng quy định của pháp luật bởi các lí do sau:

a) Một là: Căn cứ ra quyết định là đúng pháp luật:

- Căn cứ khoản 3 Điều 126 Bộ Luật lao động 2012: “Áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa
thải” khi “3. Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày
cộng dồn trong 01 năm mà không có lý do chính đáng”. Đồng thời, căn cứ Điều 126 Bộ
Luật Lao động năm 2012 quy định “lý do chính đáng” là: “Các trường hợp được coi là có
lý do chính đáng bao gồm: thiên tai, hoả hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của

9
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và các trường hợp khác được quy định trong
nội quy lao động”

Tại Biên bản xử lý vi phạm kỷ luật lao động ngày 14/08/2016 và Quyết định xử lý
kỷ luật ngày 15/08/2016 công ty TNHH YD xác định lý do là bà Trần Thị Thu có hành vi
tự ý bỏ việc quá 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng mà không có lý do chính đáng. Ngoài ra,
bà Thu không cung cấp được bằng chứng chứng minh bà nghỉ có lý do chính đáng. Bên
cạnh đó, Nội quy lao động của Công ty TNHH YD Việt Nam (bút lục: 77) quy định: “Áp
dụng hình thức kỷ luật sa thải đối với lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong một
tháng mà không có lý do chính đáng”.

 Vì vậy, Công ty kỷ luật sa thải đối với bà Thu là có cơ sở, vừa đúng với nội quy lao
động của công ty vừa tuân theo quy định của pháp luật lao động hiện hành

b) Hai là, trình tự thủ tục ra quyết định xử lý ký luật đúng quy định của pháp luật:

Quyết định sa thải bà Trần Thị Thu của công ty TNHH YD Việt Nam được ra căn cứ
vào Điều 123 Bộ luật lao động 2012; Điều 30 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP. Theo đó, trình
tự ra quyết định xử lý kỷ luật là: Người sử dụng lao động gửi thông báo bằng văn bản.. trước
khi tiến hành cuộc họp => Cuộc họp tiến hành khi có đầy đủ các thành phần tham dự...=>
Cuộc họp xử lý kỷ luật phải được lập thành văn bản và được các thành viên tham dự thông
qua trước khi kết thúc cuộc họp.

Theo đó, thành phần tham dự cuộc họp xử ký kỷ luật ngày 14/8/2016 (bút lục: 39-
40), gồm đại diện của người sử dụng lao động là ông Shuhei- người đại diện theo pháp luật
của công ty TNHH YD Việt Nam, bà Phạm Thị Hồng - đại diện ban chấp hành công đoàn
cơ sở cùng một số cá nhân khác tại công ty.

Mặc dù công ty đã 03 lần gửi thông báo tham dự phiên họp xử lý kỷ luật đến bà Trần
Thị Thu vào các ngày 20/7/2016; 27/7/2016 và 14/8/2016 đến địa chỉ thường trú của bà
Trần Thị Thu, bà có nhận được các thông báo này nhưng đã không có mặt tại buổi họp cũng
như không có bất cứ ý kiến phản hồi nào đối với Công ty.

Cuộc họp xử lý kỷ luật có đầy đủ chữ ký của đại diện công ty, đại diện công đoàn cơ
sở, người lập biên bản là phù hợp với quy định của pháp luật.

Tuy nhiên bà Trần Thị Thu và người đại diện theo ủy quyền lại cho rằng bà Thu
không được mời dự cuộc họp kỷ luật sa thải. Điều này là không có cơ sở, bởi lẽ bà Thu đã

10
được mời dự cuộc họp 03 lần vẫn không có mặt mà không có bất cứ thông báo phản hồi nào
cho phía công ty.

c) Ba là, Việc ra quyết định xử lý kỷ luật vẫn còn thời hiệu:

Căn cứ vào điều 124 Bộ luật lao động năm 2012, đối với trường hợp kỷ luật sa thải
vì tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong một tháng mà không có lý do chính đáng thì thời
hiệu ra quyết định kỷ luật là 06 tháng kể từ thời điểm xảy ra hành vi vi phạm.

Như vậy, ngày 17/03/2016 Công ty gửi thông báo cuối cùng cho bà Thu tiếp tục đi làm,
thực hiện hợp đồng nhưng bà Thu không đi làm. Vì vậy, công ty xác định thời hạn từ ngày
17/03/2016 đến 14/8/2016 là thời hiệu ra quyết định kỷ luật sa thải đối với bà Thu là đúng
với quy định của pháp luật, và vẫn còn thời hiệu ra quyết định kỷ luật là có cơ sở.

2. Các nội dung tranh chấp đưa ra trong YCKK thiếu căn cứ pháp lý:

1.1. Xác định bản chất của việc chấm dứt hợp đồng lao động của bà Thu:

- Căn cứ tại Khoản 2 Điều 4 của Hợp đồng lao động số YC-S008/PLHĐ-2008 ngày
17/10/2008 quy định quyền của Công ty YD như sau: “ Điều hành người lao động
hoàn thành công việc đã quy định trong hợp đồng (bố trí, điều chuyển, tạm ngừng
việc)” và “… kỷ luật lao động NLĐ theo nội quy lao động của công ty”
- Căn cứ Khoản 1, khoản 2, Điều 129, BLLĐ 2012: “ Người sử dụng lao động có
quyền tạm đình chỉ công việc của người lao động khi vụ việc vi phạm có những tình
tiết phức tạp, nếu xét thấy để người lao động tiếp tục làm việc sẽ gây khó khăn cho
việc xác minh….” và “Thời hạn tạm đình chỉ công việc không được quá 15 ngày,…”

Theo trình bày từ phía nguyên đơn, bà Thu nghỉ thai sản từ tháng 6/2015 đến ngày
9/12/2015 thì bà Thu quay lại công ty làm việc. Khi đến Công ty, bà đã nhận được Thông
báo 05 ngày 5 tháng 12 năm 2015 (bút lục 16) với yêu cầu tạm dừng làm việc của bà Thu
trong vòng 5 ngày (9/12/2015~13/12/2015) vì lý do công ty đang điểu tra làm rõ một số sai
phạm trong kế toán và hẹn bà Thu ngày 15/12/2015 tới công ty và mang theo hồ sơ cá nhân.
Đồng thời, trong Biên bản họp kỷ luật ngày 25/12/2015, Ban giám đốc Công ty đã nêu
rõ những vi phạm của bà Thu, đặc biệt là các vi phạm liên quan đến việc cần phải áp dụng
biện pháp tạm đình chỉ công việc trong 5 ngày với lý do như sau: (i) kế toán mới và kiểm
toán đã tìm lỗi sai về hệ thống quản lý kế toán (bút lục 52) và việc bà Thu có sai phạm làm
thất thoát tài sản công ty; đồng thời (ii) bà Thu không đảm bảo các quy định tại Khoản 7
Điều 14 về các hành vi bị nghiêm cấm và Khoản 4, Điều 51 của Luật kế toán 2003, đã vi
phạm quy định về nghiêm cấm “kế toán kiêm làm kế toán, thủ kho, thủ quỹ hoặc mua, bán
tài sản, trừ doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể”. Theo bút lục 63-64, Công ty TNHH
YD là công ty TNHH từ hai thành viên trở lên có vốn đầu tư nước ngoài, nên không phải là
11
doanh nghiệp tư nhân hay hộ kinh doanh cá thể; (iii) Bà Thu không tiến hành bàn giao dữ
liệu dù công ty yêu cầu nhiều lần và (iv) bà Thu sử dụng Teamviewer để điều khiển hệ thống
công việc Công ty khi đang trong giai đoạn nghỉ thai sản không có mặt tại Công ty.
 Thông báo số 05 và các biện pháp áp dụng tạm đình chỉ nhằm ngăn ngừa sự cản trở
điều tra sai phạm của bà Thu mà công ty đã thực hiện là cần thiết. Đồng thời, nhận
thức rõ được nguy cơ rủi ro pháp lý khi vi phạm Luật Kế toán, Công ty buộc phải
đưa ra quyết định điều chuyển công việc của bà Thu.

- Căn cứ Điều 158 Bộ Luật lao động 2012 về Bảo đảm việc làm cho lao động nữ nghỉ
thai sản thì “ trường hợp việc làm cũ không còn thì người sử dụng lao động phải bố
trí việc làm khác cho họ.”

Khi bà Thu quay lại làm việc, Công ty đã tuyển được người mới thay thế trong suốt 6
tháng nghỉ sinh. Đồng thời, hiểu rõ bà Thu đang trong thời gian nghỉ sinh con, là thời gian
nhạy cảm với người phụ nữ nên Công ty không áp dụng ngay các biện pháp kỷ luật mà chỉ
chuyển bà Thu sang vị trí kế toán kho rác ngày 30/12/2015 (bút lục 17). Thực tế, bà Thu
không đồng ý với Quyết định bố trí công việc tạm thời này và tự ý bỏ về. Tuy không đồng
ý với QĐ điều chuyển của Công ty, nhưng bà Thu không có ý kiến lên Công đoàn cơ sở hay
bất kỳ Công đoàn cấp trên của BQL KTT về nội dung này mà chỉ khiếu nại và cáo buộc
công ty có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Khi nhận được thông tin
phản hồi từ phía Công ty qua điện thoại, Ban Quản lý và Công đoàn Khu kinh tế HP đã yêu
cầu Công ty phải bố trí công việc khác phù hợp với bà Thu và liên hệ để bà Thu quay trở lại
làm việc. Công ty cũng đã gửi Quyết định thay thế số S008- 15 ngày 06/01/2016 bố trí bà
Thu làm kế toán viên thống kê, Ban quản lý khu kinh tế Hải Phòng có xác nhận nội dung
này theo công văn số 54/BQL-LĐ ngày 12-01-2017 trả lời TAND huyện AD (bút lục 103),
nhưng bà Thu vẫn không quay lại làm việc tại Công ty mặc dù Công ty đã gửi thông báo 03
lần bằng văn bản (đây chính là lý do mà Ban Quản lý đã đề cập trong văn bản số 619/BQL-
LĐ ngày 01/4/2016 bút lục số 28 rằng “bà Thu từ chối không làm việc”).
 Công ty đã nỗ lực điều chỉnh để bố trí công việc khác cho bà Thu sau thời gian nghỉ
thai sản.
- Căn cứ Khoản 1 Điều 160 về công việc không được bố trí với lao động nữ “ Công
việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi con theo danh mục do Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành” đồng thời đối
chiếu với danh mục 77 công việc nêu tại Thông tư 26/2013/TT-BLĐTBXH, thì các
công việc “Kế toán kho rác” hay “kế toán thống kê” đều không thuộc danh mục công
việc ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi con cho phụ nữ.

12
Thực tế, ngày 30/12/2015, Công ty đã mời bà quay lại làm việc và bố trí các công
việc cho bà Thu, nhưng bà Thu đã từ chối và bỏ về và tiếp tục không đến làm việc
tại công ty vì sự điều chuyển này.
 Hành vi tự ý bỏ về và tự ý không đến làm vì cho rằng công việc ảnh hưởng tới việc
nuôi con của bà Thu là trái pháp luật.
- Căn cứ khoản 8 Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về các trường hợp chấm
dứt hợp đồng lao động: “8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại khoản
3 Điều 125 của Bộ luật này.” Như vậy, thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động giữa Công
ty YD và bà Thu được xác định kể từ thời điểm Công ty YD áp dụng hình thức kỷ luật sa
thải với bà Thu tại Quyết định số 02/QĐ-HĐKL ngày 15/8/2016 của Công ty YD.
 Thực chất, việc chấm dứt mối quan hệ lao động giữa bà Thu và Công ty YD là dựa
vào Quyết định xử lý kỷ luật lao động số 02-QĐ/HĐKL ngày 15/08/2016.

1.2. Mức lương và thời gian yêu cầu hưởng lương của nguyên đơn là thiếu cơ
sở pháp lý:

- Căn cứ khoản 1, 2 Điều 90 Bộ Luật Lao động năm 2012 quy định về tiền lương:1.
Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để thực
hiện công việc theo thỏa thuận.” và “2. Tiền lương trả cho người lao động căn cứ
vào năng suất lao động và chất lượng công việc.”. Căn cứ khoản 2 Điều 21 Nghị
định 05/2015/NĐ-CP quy định về tiền lương: “2. Tiền lương trả cho người lao động
được căn cứ theo tiền lương ghi trong hợp đồng lao động, năng suất lao động, khối
lượng và chất lượng công việc mà người lao động đã thực hiện.”.
Dựa vào Bản ghi quá trình đóng BHXH, BNTN ngày 29/7/2017 của BHXH huyện AD,
thành phố Hải Phòng tại Bút lục số 109-113; dựa vào Bút lục số 71 về Phụ lục HĐLĐ ký
ngày 1/1/2015, mức lương cơ bản của Bà Thu là 20.393.600 VNĐ. Đồng thời căn cứ vào
các nội dung thống nhất trong biên bản hòa giải (bút lục 134(, các bên đã thống nhất mức
hưởng lương 6 tháng liền kề của bà Thu là 20.393.600 VNĐ.
 yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi mức lương được hưởng là 21.733.600 đồng là
không có cơ sở pháp lý.
Đồng thời, phía bị đơn giữ nguyên quan điểm bà Thu chỉ được nhận lương những ngày
bà Thu đến công ty trong khoảng từ 9/12/2015 đến ½ ngày 5/1/2016, tổng cộng là 26,5 ngày
làm việc, bởi:
Thực tế, tháng 6/2015 bà Thu nghỉ thai sản đến ngày 9/12/2015 thì đi làm trở lại.
Trong thời gian bà Thu nghỉ thai sản thì Công ty đã tuyển kế toán mới làm thay công việc
13
của bà Thu. Như trình bày ở trên, do kế toán mới đã phát hiện bà Thu có một số sai sót về
kế toán trong thời gian làm việc gây tổn thất tài sản công ty, đồng thời việc kiêm nhiệm của
bà Thu là vi phạm điều nghiêm cấm của Luật kế toán nên Công ty không thể để bà Thu tiếp
tục đảm nhận vị trí làm việc này. Vì vậy khi bà Thu đi làm, ngày 30/12/2015 Tổng giám
đốc Công ty đã ra Quyết định 008-14 điều chuyển bà Thu làm kế toán ở bộ phận khác từ
ngày 5/1/1016 nhưng bà Thu không đồng ý và tự ý bỏ về. Sau khi bà Thu có khiếu nại, Công
ty đã hủy bỏ Quyết định điều chuyển số 008-14, ra Quyết định số 008-15 ngày 6/1/2016 bố
trí cho bà Thu làm kế toán thống kê nhưng bà Thu cũng không trở lại làm việc. Công ty đã
3 lần gửi thông báo yêu cầu bà Thu đến nhận quyết định và làm việc nhưng bà Thu không
đến mà vẫn tiếp tục nghỉ.
Cho đến thời điểm trước ngày ra Quyết định số 02/QĐ-HĐKL thì giữa bà Thu và
Công ty chưa có bất kỳ một văn bản chính thức nào để xác định là chấm dứt mối quan hệ
lao động giữa hai bên cũng như chấm dứt hợp đồng lao động đã ký kết. Vì vậy, căn cứ tính
lương vẫn được thực hiện theo quy định tại HĐLĐ ngày 17/10/2008: Bà Thu sẽ được nhận
lương phụ thuộc thời gian bà Thu đến làm việc tại Công ty và được chấm công hay được
bảo vệ xác nhận.
Như liệt kê trong các văn bản tự khai và khiếu nại, đơn KK, kể từ thời điểm chấm
dứt thai sản cho đến thời điểm đem vụ án ra xét xử hiện tại, bà Thu mặc dù đã trở lại công
ty để làm việc, và được Công ty nhiều lần yêu cầu quay lại làm việc, nhưng thời gian thực
tế bà có mặt tại Công ty chỉ gồm một số ngày bà xuất hiện để họp kỷ luật và/ hoặc nhận
thông báo. Tuy nhiên, do Công ty đã gửi Thông báo 05 về tạm đình chỉ làm việc và có
Thông báo ngày 30/12/2015 về việc mời bà Thu quay lại làm việc ngày 5/1/2016, nên Công
ty đồng ý thanh toán toàn bộ 100% lương cho bà Thu trong suốt thời gian này. Vì bà Thu
từ chối tiếp nhận việc điều chuyển và không đến Công ty kể từ sau buổi sáng ngày 5/1/2016,
do vậy, không có cơ sở nào để bà Thu yêu cầu Công ty thanh toán tiền lương cho những
ngày mình không làm việc. Và thực tế, việc tính lương 26,5 ngày cho mức lương được
hưởng theo quy định cho 48 giờ/ tuần là cách tính lương có lợi cho người lao động, thể hiện
thiện chí của Công ty.
 Yêu cầu tính thời gian yêu cầu hưởng lương của bà Thu là trái pháp luật. Công ty
YD, vì thiện chí giải quyết tranh chấp phát sinh đã đề xuất thanh toán chi phí thực tế
đến công ty (3 lần) và toàn bộ 100% lương trong thời gian tạm ngừng làm việc và
thời gian sắp xếp công việc chính thức: 26,5 ngày.

1.3. Yêu cầu hưởng trợ cấp thôi việc và bồi thường của nguyên đơn là trái pháp
luật:

- Căn cứ Khoản Điều 42 Bộ Luật Lao động năm 2012 quy định về nghĩa vụ của người
sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật có nghĩa
14
Công ty YD có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật với bà Thu
theo quy định tại Điều 38 Bộ Luật Lao động năm 2012.

Do việc sa thải bà Thu của công ty YD là hợp pháp, tuân thủ theo đúng các quy định của
pháp luật liên quan đến sa thải. vì vậy. căn cứ theo Khoản 1 Điều 48 của Luật Lao động
năm 2012 quy định các trường hợp người lao động được người sử dụng lao động chi trả trợ
cấp thôi việc nêu tại Điều 36 của luật này, trợ cấp thôi việc không dành cho lao động bị xử
lý kỷ luật sa thải. (theo Khoản 8 Điều 36 Luật Lao động 2012). Vì vậy, bà Thu không được
hưởng trợ cấp thôi việc theo quy định. Đồng thời, do trường hợp chấm dứt hợp đồng lao
động của bà Thu là trường hợp bị xử lý kỷ luật sa thải không phải là trường hợp đơn phương
chấm dứt hợp đồng trái pháp luật của người sử dụng lao động căn cứ vào khoản 2, khoản 3
Điều 42, nên Công ty YD không phát sinh trách nhiệm bồi thường cho bà Thu

Trên thực tế, khi bà Thu khởi kiện lần đầu tại Tòa án theo YCKK ngày 6/7/2016, thì Công
ty chưa có Quyết định sa thải bà Thu nên bà Thu không thể yêu cầu Công ty bồi thường cho
hành vi chưa phát sinh. Mà thực tế, mối quan hệ lao động giữa bà Thu và công g ty YD bị
chấm dứt theo quy định tại khoản 8 Điều 36 Bộ Luật lao động năm 2012.

 Yêu cầu của Nguyên đơn về trợ cấp thôi việc và bồi thường là trái pháp luật.

1.4. Yêu cầu về thời điểm chốt bảo hiểm thiếu cơ sở pháp lý:

Như đã trình bày tại Phiên hòa giải ngày 02/08/2017 tại Trụ sở TAND huyện AD thành
phố Hải Phòng. Do phát hiện ra nhiều vấn đề sai phạm cần phải điều tra làm rõ nên công
ty YD đã ra thông báo số 05-2015/TB (bút lục số 16) để tạm đình chỉ công việc của bà
Thu. Căn cứ điều 129 BLLĐ 2012, công ty YD có quyền tạm đình chỉ công việc của
bà Thu và thời hạn đình chỉ theo pháp luật quy định tối đa là 90 ngày

+ Căn cứ theo quy định tại khoản 7 Điều 42 Quyết định 595/QĐ-BHXH quy định về
việc đóng BHXH trong thời gian tại đình chỉ công tác để điều tra, như vậy, theo quy
định trên người lao động bị tạm đình chỉ công tác để điều tra, xem xét có vi phạm pháp
luật hay không thì người lao động và đơn vị được tạm dừng đóng BH xã hội, BH thất
nghiệp, BH tai nạn lao động, Bệnh nghề nghiệp nhưng vẫn phải đóng BHYT hằng tháng
bằng 4,5% của 50% mức tiền lương tháng mà người lao động được hưởng theo quy định
của pháp luật. Sau thời gian tạm đình chỉ công tác nếu được xác định bị oan, sai, không
vi phạm pháp luật thì thực hiện việc đóng bù BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN trên tiền
lương tháng đóng BHXH bắt buộc và truy đóng BHYT trên số tiền lương được truy
lĩnh, không tính lãi đối với số tiền truy đóng. Còn trường hợp xác định người lao động
là có tội thì không thực hiện việc đóng bù BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN và không
phải truy đóng BHYT.
-> Quyết định tạm đình chỉ của công ty YD qua thông báo số 05/2015/TB là đúng
quy định của pháp luật và trong thời gian tạm đình chỉ, công ty YD được tạm dừng
đóng BHXH từ tháng 12/2015 (bút lục số 109). Thời hạn tạm đình chỉ từ 09/12/2015
đến 05/01/2016 là vẫn trong thời hạn đình chỉ (<90 ngày)
- Căn cứ khoản 3 Điều 85 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định về mức đóng và phương
thức đóng của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc: “3. Người lao động không
làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không đóng
15
bảo hiểm xã hội tháng đó. Thời gian này không được tính để hưởng bảo hiểm xã hội, trừ
trường hợp nghỉ việc hưởng chế độ thai sản.”. Căn cứ khoản 4 Điều 86 Luật Bảo hiểm xã
hội năm 2014 quy định về mức đóng và phương thức đóng của người sử dụng lao động: “4.
Người sử dụng lao động không phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy
định tại khoản 3 Điều 85 của Luật này.”.
Như đã trình bày ở trên, bà Thu đã không đến công ty để thực hiện công việc được
giao từ ngày 06/01/2016, căn cứ quy định nêu trên, Công ty YD không phải đóng bảo hiểm
xã hội cho bà Thu kể từ thời điểm tháng 1 năm 2016.

Đối với vấn đề này, Khoản 5 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã quy định
người sử dụng lao động “Phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội trả sổ bảo hiểm xã hội
cho người lao động, xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi người lao động chấm
dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật”.
-> Như vậy, việc công ty chốt sổ bảo hiểm đến 9/12/2015 là có căn cứ và Do đó, yêu
cầu của bà Thu về thời gian chốt sổ bảo hiểm cho bà Thu là đến thời điểm hiện tại
là không có căn cứ.

Trên đây là toàn bộ những luận cứ của phía bị đơn phản bác lại những nội dung trong YCKK
của Nguyên đơn. Kính mong HĐXX xem xét và chấp nhận những ý kiến của phía bị đơn
đưa ra. Trân trọng cảm ơn HĐXX đã lắng nghe ý kiến của tôi!

III/ Dự kiến phản biện với trình bày của Nguyên đơn:
1. Yêu cầu thanh toán trợ cấp thôi việc và bồi thường NLĐ do đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động trái pháp luật của bà Thu là không có cơ sở

Chính vì quyết định xử lý kỷ luật là một quyết định đúng, có giá trị pháp lý nên yêu cầu
thứ nhất của bà Thu là Buộc công ty YD bồi thường thiệt hại cho bà do hành vi sa thải trái
pháp luật là trái căn cứ. Một lần nữa, chúng tôi khẳng định rằng công ty TNHH YD không
có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho bà.

 Yêu cầu thanh toán trợ cấp thôi việc và bồi thường NLĐ do đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động trái pháp luật của bà Thu là không có cơ sở.

Vì những lý lẽ trình bày ở trên, công ty TNHH YD Việt Nam ra quyết định kỷ luật
sa thải đối với bà Trần Thị Thu là đúng pháp luật. Vì vậy công ty không phải đang
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà Thu. Qua đó, không phát sinh nghĩa
vụ thanh toán trợ cấp thôi việc cũng như các khoản bồi thường 4 tháng lương như
trong yêu cầu của bà Thu. Kính đề nghị HĐXX xem xét.

16
2. Về ngày làm việc thực tế của bà Thu để làm căn cứ tính lương cũng như là ngày
chốt sổ bảo hiểm từ ngày 9/12/2015 đến 14/8/2016.
Bà Thu nghỉ chế độ thai sản từ tháng 6/2015 đến 9/12/2015. Trong thời gian này công
ty TNHH YD đã phát hiện ra những sai phạm kế toán của bà Thu gây tổn thất tài sản cho
công ty. Đây là lý do khiến công ty không thể để bà Thu tiếp tục công việc của mình. Để
bảo vệ quyền lợi cho bà Thu, sau kỳ nghỉ thai sản của bà, công ty đã để bà phụ trách một
công việc khác, phù hợp với tình hình sức khỏe của bà hơn. Các chế độ lương, thưởng,…
vẫn giữ nguyên theo hợp đồng. Đây là một sự tạo điều kiện của công ty khi xét thấy những
sai phạm nghiêm trọng của bà Thu cũng như hoàn cảnh của bà. Không có một công ty nào
lại để cho một nhân viên gây sai phạm tổn thất đến tài sản mà vẫn có thể tiếp tục công việc
cũ của mình. Việc công ty TNHH YD Việt Nam chuyển công tác cho bà Thu đến vị trí khác
cũng là một điều dễ hiểu và không phải là gây khó khăn hay bắt ép như bên nguyên đơn có
ý kiến.
Tuy nhiên, từ ngày 09/12/2015 đên ngày 14/8/2016 thì bà Thu đi làm được 26,5 ngày.
Tức từ ngày 09/12/2015 đến ½ ngày 05/01/2016. Số ngày làm việc trên thực tế của bà Thu
đã được bảo vệ công ty xác nhận. Những ngày còn lại bà Thu tự ý nghỉ việc không có lý do
hay đơn xin phép nghỉ việc mặc dù công ty liên tục có thông báo đến bà Thu yêu cầu bà
Thu tiếp tục đi làm.
Như vậy, căn cứ điều 22, điều 26 Nghị định số 05/2015-NĐ/CP ngày 12/01/2015 hướng
dẫn Bộ luật lao động; khoản 2 Điều 98 Bộ luật lao động 2012 thì bà Thu chỉ được hưởng
lương những ngày bà Thu đi làm được bảo vệ công ty xác nhận, tức 26,5 ngày. Những ngày
bà Thu không đi làm thì không được hưởng lương vì nghỉ làm không lý do là lỗi của bà nên
công ty không có trách nhiệm thanh toán tiền lương những ngày nghỉ không lý do cho bà
Thu.
Ngoài ra, về ngày chấm dứt chốt sổ bảo hiểm được tính theo ngày chấm dứt hợp đồng
lao động. Vì thế, ngày chấm dứt lao động ở đây là ngày 14/08/2016 tính từ lúc công ty ra
quyết định sa thải. Công ty sẽ chấm dứt sổ bảo hiểm của chị Thu đến ngày 14/08/2016 chứ
không phải đến ngày diễn ra phiên tòa sơ thẩm.
3. Lý do phía nguyên đơn đưa ra cho rằng bà Thu buộc thôi việc vì Công ty YP đã
bố trí công việc không đúng chức danh và không phù hợp chuyên môn là không
có cơ sở pháp lý:

17
Phía nguyên đơn cho rằng vị trí công việc là Kế toán kho rác mà Công ty đề cập
trong QĐ số S008-14 ngày 30/12/2015 và vị trí công việc Kế toán thống kê theo QĐ S008-
15 ngày 6/1/2016 là không phù hợp với chức danh Kế toán trưởng mà bà Thu đang giữ trước
thời điểm nghỉ thai sản là thiếu cơ sở pháp lý. Bởi lẽ, căn cứ vào Hợp đồng lao động (bút
lục 13-15) và phụ lục hợp đồng lao động mới nhất (bút lục 71), chức danh nghề nghiệp của
bà Thu là “Nhân viên văn phòng”, đồng thời, cho đến thời điểm xét xử, Công ty YP không
ban hành bất kỳ một văn bản bổ nhiệm hay Quyết định bổ nhiệm nào về việc bà Thu giữ
chức vụ là Kế toán trưởng. Đồng thời, sau quá trình làm việc với BQL KTT về nguyện vọng
và năng lực của bà Thu, Công ty YP đã điều chỉnh công việc của bà Thu làm Kế toán thống
kê. Đây là vị trí công việc làm trong văn phòng, đảm bảo phù hợp với chuyên môn và kinh
nghiệm Kế toán của bà Thu.
 Cáo buộc cho rằng công ty CP bố trí công việc cho bà Thu không đúng chức danh
và không phù hợp chuyên môn là không có cơ sở pháp lý.

18

You might also like