You are on page 1of 19

Bộ giáo dục và đào tạo

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


Luật hành chính – nhà nước

Bài thảo luật số 4: Bảo vệ quyền sở hữu


Giảng viên hướng dẫn: Ngô Thị Anh Vân
Nhóm thực hiện 1, lớp HC46B2
Hoàng Anh Thái 2153801014237
Trương Lê Hồng Thái 2153801014238
Thị Ngã Thuê 2153801014250
Trần Mỹ Uyên 2153801014289
Nghuyễn Thị Thanh Vân 2153801014294
Bùi Như Ý 2153801014306
Trần Tú Yên 2153801014308
Lê Hải Yến 2153801014309
Phạm Nguyễn Hoàng Yên 2153801014310
CHỦ ĐỀ 1: Đòi động sản từ người thứ ba
Câu 1: Trâu là động sản hay bất động sản? Vì sao?

Trâu là động sản.


Căn cứ theo Điều 174 BLDS 2005. Bất động sản và động sản
1. Bất động sản là các tài sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn
liền với nhà, công trình xây dựng đó;
c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
d) Các tài sản khác do pháp luật quy định.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.

Câu 2: Trâu có là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu không? Vì


sao? Trâu không phải là tài sản đăng ký quyền sở hữu.

Căn cứ theo Điều 167 BLDS 2005:” Quyền sở hữu đối với bất động sản
được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đăng ký bất
động sản. Quyền sở hữu đối với động sản không phải đăng ký, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác”

Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc
quyền sở hữu của ông Tài?

“Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tiến Thi (BL 06, 07, 08), lời khai của
các nhân chứng là anh Phúc (BL 19), anh Chu (BL 20) anh Bảo (BL 22)
và kết quả giám định con trâu đang tranh chấp (biên bản giám định ngày
16-8-2004, biên bản xác minh của cơ quan chuyên môn về vật nuôi
ngày 17-8-2004, biên bản diễn giải biên bản kết quả giám định trâu ngày
20-8-2004), (BL 40, 41, 41a, 42).thì có đủ cơ sở xác định con trâu cái
màu đen 4 năm 9 tháng tuổi mới sấn mũi lần đầu và con nghé đực
khoản 3 tháng tuổi là thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Triệu Tiến
Tài. Ông Thơ là người chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ
pháp luật.”

Câu 4: Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu
trong hoàn cảnh có tranh chấp trên?

Theo Điều 182 BLDS năm 2005 thì “Quyền chiếm hữu là quyền nắm
giữ, quản lý tài sản”. BLDS năm 2015 không đưa ra khái niệm về quyền
chiếm hữu, nhưng nếu để có một định nghĩa về khái niệm quyền chiếm
hữu, thì có thể sử dụng nội dung của Điều 182 nói trên. Trên tinh thần
của Điều 186 BLDS 2015, có thể hiểu quyền chiếm hữu là quyền của
chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ,
chi phối tài sản của mình. Bên cạnh đó, chủ sở hữu có thể ủy quyền
hoặc chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản của mình cho người khác.

Theo đó, quyền chiếm hữu được hiểu là quyền của chủ sở hữu
hoặc người khác được thực hiện mọi hành vi để năm giữ và chi phối tài
sản theo ý chí của mình trong khuôn khổ của pháp luật.

Ông Dòn là người đang chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh đang tranh
chấp trên.

Câu 5: Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn có căn
cứ pháp luật không? Vì sao?
Việc chiếm hữu của ông Dòn trong trường hợp trên là không có căn cứ
pháp luật. Vì theo Khoản 1 Điều 165 BLDS 2015 quy định:
“1. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong
trường hợp sau đây:
a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;”
Thì trong trường hợp trên ông Tài là chủ sở hữu trân cái và nghé nên
ông Dòn không là chủ sở hữu nên không có quyền chiếm hữu tài sản.
Ông Tài cũng không uỷ quyền cho ông Dòn quản lý trâu và nghé.

Câu 6: Thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Người không thuộc trường hợp tại Khoản 1 Điều 165 BLDS 2015
“a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;
c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân
sự phù hợp với quy định của pháp luật;
d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai
là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp,
chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định
khác của pháp luật có liên quan;
đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất
lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác
của pháp luật có liên quan;
e) Trường hợp khác do pháp luật quy định.” Thì được xem là chiếm hữu
tài sản không có căn cứ pháp luật.
Điều 180 BLDS 2015 quy định “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu
mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài
sản đang chiếm hữu.” Từ những lý do trên ai không thuộc Khoản 1 Điều
165 BLDS 2015 đồng thời đưa ra căn cứ chứng minh mình có quyền đối
với tài sản đang chiếm hữu thì được xem là chiếm hữu tài sản không có
căn cứ pháp luật nhưng ngay tình.

Câu 7: Người như hoàn cảnh của ông Dòn có là người chiếm hữu
ngay tình không? Vì sao?
Theo Khoản 2 Điều 106 BLDS 2015 quy định: “Quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản là động sản không phải đăng ký, trừ trường hợp
pháp luật về đăng ký tài sản có quy định khác.” Và Điều 180 BLDS 2015
quy định: “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu
có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.” ở
đây trâu của ông Thi là động sản nên không phải đăng ký tài sản, nên
ông Dòn có căn cứ cho rằng con trâu là tài sản của ông Thi nên việc
ông Dòn đổi trâu với ông Thi hoàn toàn bình thường. Và việc này diễn ra
một cách công khai không ai phản đối, nên trong hoàn cảnh của ông
Dòn thì được xem là chiếm hữu ngay tình.

Câu 8: Thế nào là hợp đồng có đền bù và không có đền bù theo


quy định về đòi tài sản trong BLDS?

Hợp đồng đền bù là hợp đồng mà các bên tham gia có quyền và nghĩa
vụ với nhau. Tức là mỗi bên tham gia sẽ nhận được lợi ích tương ứng
với giá trị mà mình bỏ ra. Ví dụ hợp đồng cho thuê nhà, bên cho thuê
phải giao nhà cho bên thuê còn bên thuê phải giao tiền thuê cho bên
cho thuê theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng.

Hợp đồng không đền bù là hợp đồng mà các bên tham gia chỉ giữ một
vai trò nhất định như là quyền hoặc nghĩa vụ. Trong hợp đồng này sẽ có
một bên nhận được lợi ích và một bên không nhận được lợi ích gì. Ví dụ
hợp đồng thừa kế tài sản, hợp đồng tặng cho tài sản,…

Câu 9: Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù
hay không có đền bù? Vì sao?

Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù .Vì ông Thi
đổi cho ông Dòn lấy con trâu cái sổi. Qua việc trao đổi đó ta thấy mỗi
bên đều nhận được lợi ích tương ứng từ bên kia vậy nên đây là hợp
đồng có đền bù.

Câu 10: Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm
hữu ngoài ý chí của ông Tài không?

Trâu có tranh chấp bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý chí của
ông Tài.
Vì theo lời khai của ông Tài thì gia đình ông có một đàn trâu gồm 10 con
trong đó có 5 con đã xiên mũi, còn 5 con chưa xiên mũi chuyên thả rông
trên bãi ruộng mèo gần thôn Nậm Mười, xã Dần Thàng. Trong đó có 1
con trâu còn non 4 tuổi 5 tháng. Đến tháng 2-2004 đẻ được một con
nghé đực, hàng tháng ông vẫn lên xem. Chiều ngày 18-3-2004 ông Hà
Văn Thơ dắt một con trâu mẹ và một con nghé khoảng 3 tháng tuổi đi
qua nhà ông, ông nhận ra là trâu, nghé của ông và có nói với ông Thơ
nhưng ông Thơ nói là con trâu đó ông mua vào tháng 6-2002 vì thả rông
nên bị mất từ tháng 9-2003 nay mới tìm thấy. Như vậy, con trâu có tranh
chấp bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý chí của ông Tài.

Câu 11: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được
đòi trâu từ ông Dòn không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả
lời?
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao ông Tài được đòi trâu từ ông
Dòn.
Đoạn quyết định cho câu trả lời: Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tiến
Tài (BL 06 07,08), lời khai của các nhân chứng là anh Phúc (BL 19), anh
Chu (BL 20), anh Bảo (BL 22) và kết quả giám định con trâu đang tranh
chấp ( biên bản giám định ngày 16-8-2004, biên bản xác minh của cơ
quan chuyên môn về vật nuôi ngày 17-8-2004, biên bản diễn giải biên
bản kết quả giám định trâu ngày 20-8-2004), (BL 40,41,41a,42) thì có đủ
cơ sở xác định con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi mới sấn mũi lần
đầu và con nghé đực khoảng 3 tháng tuổi là thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của ông Tài. Ông Thơ là người chiếm hữu, sử dụng tài sản không
có căn cứ pháp luật.

Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân
sự Tòa án nhân dân tối cao.

Theo tôi hướng giải quyết của Tòa là đúng. Tòa đã căn cứ vào lời khai
và thông qua điều tra xác minh thu thập được đầy đủ các chứng cứ để
chứng minh ông Thơ là người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp
luật và ông Tài là chủ sở hữu có căn cứ pháp luật mà theo khoản 1 điều
166 BLDS 2015 thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản từ người
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Vậy nên ông Thơ buộc phải trả
lại tài sản cho ông Tài

Câu 13: Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật
hiện hành có quy định nào bảo vệ ông Tài không?
“1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ
người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp không trái với quy
định của pháp luật.

2. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản,
chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.” Đồng thời, theo khoản 1 điều 166 BLDS 2015 có quy
định như sau: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ
người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật.” Theo những cán cứ trên thì pháp luật hiện hành có những quy định để bảo vệ lợi ích
hợp pháp, chính đáng của ông Tài trong trường hợp ông Tài không đòi được trâu từ ông
Dòn.
Câu 14: Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã
theo hướng ông Tài được quyền yêu cầu ai trả giá trị con trâu?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Toà án đã theo hướng ông Tài được quyền
yêu cầu ông Thơ trả giá trị con trâu. Đoạn cho thấy điều đó: “Trong quá trình giải quyết vụ
án, Toà án cấp dơ thẩm đã điều tra, xác minh, thu thập đầy đủ các chứng cứ và xác định
con trâu tranh chấp giữa ông Tài và ông Thơ đã quyết định buộc ông Thơ là người chiếm
hữu tài sản không có căn cứ pháp luật phải hoàn trả lại giá trị con trâu và con nghé cho ông
Tài là có căn cứ pháp luật. Toà án cấp phúc thẩm nhận định con trâu mẹ và con nghé con là
của ông Tài là đúng nhưng lại cho rằng con trâu cái đang do ông Nguyễn Văn Dòn quản lý
nên ông Tài phải khởi kiện đòi ông Dòn và quyết định chỉ buộc ông Thơ phải trả lại trị giá
con nghé là 900.000đ, bác yêu cầu của ông Tài đòi ông Thơ phải trả lại von trâu mẹ là
không đúng pháp luật.”

Câu 15: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân
sự Tòa án nhân dân tối cao.
Theo suy nghĩ của tôi thì hướng giải quyết trên của Toà án dân sự Toà án nhân dân tối cao
là hợp lí và có căn cứ vì: theo Điều 165 BLDS 2015 quy định về chiếm hữu có căn cứ pháp
luật như sau:” a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;

b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;

c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy
định của pháp luật;

d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài
sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo
quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; đ) Người phát hiện và
giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của
Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; e) Trường hợp khác do luật quy định

2. Viêc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là chiếm hữu
không ngay tình”. Như vậy trường hợp của ông Thơ không thuộc khoản 1 của Điều 165
BLDS nên ông Thơ là người chiếm hữu không ngay tình. Cho nên hướng giải quyết của
Toà án để ông Thơ trả lại trị giá con trâu cho ông Tài là hợp lí theo khoản 1 điều 166 BLDS
2015 quy định về quyền đòi lại tài sản: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản
có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài
sản không có căn cứ pháp luật”

CHỦ ĐỀ 2: Đòi bất động sản từ người thứ ba


Câu 16: Đoạn nào của Quyết định giám đốc thẩm cho thấy quyền
sử dụng đất có tranh chấp thuộc bà X và đã được bà N chuyển
giao cho người thứ ba ngay tình?
Đọan của Quyết định giám đốc thẩm cho thấy quyền sử dụng đất có tranh chấp thuộc bà X
và đã được bà N chuyển giao cho người thứ ba ngay tình là: “ Việc chuyển nhượng và tặng
cho nêu trên đã hoàn thành trước khi có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số
410/2012/KN-DS ngày 24/9/2012 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Quyết định
giám đốc thẩm số 55/2013/DS-PT ngày 23/10/2009 nêu trên. Căn cứ quy định tại khoản 2
Điều 138 và Điều 258 Bộ luật dân sự 2005 thì các giao dịch chuyển nhượng và tặng cho đất
của ông M, bà Q, chị L, ông Đ, bà T là các giao dịch của người thứ ba ngay tình được pháp
luật bảo vệ.”

Câu 17: Theo quy định (trong BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015),
chủ sở hữu bất động sản được bảo vệ như thế nào khi tài sản của
họ được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình?

-Trong BLDS 2015, chủ sở hữu bất động sản được bảo vệ thông qua các
quy định:

+Điều 168. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động
sản từ người chiếm hữu ngay tình: “Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng
ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật này.”
+Khoản 3 Điều 133 quy định: “ Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ
người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu
theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể
có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những
chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.”
-Trong BLDS 2005:
+Điều 258. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động
sản từ người chiếm hữu ngay tình
Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản,
trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông
qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này
không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
+Khoản 2 Điều 138 : Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là
động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch
khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ
trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá
hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở
hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

Câu 18: Để bảo vệ bà X, theo Toà án nhân dân tối cao, Toà án phải
xác định trách nhiệm của bà N như thế nào đối với bà X?

Theo Toà án nhân dân tối cao: Toà án cấp phúc thẩm phải công nhận diện tích
đất cho bà L, ông Đ, bà T và buộc bà N trả bằng giá trị quyền sử dụng diện tích
914m2 đất trên cho nguyên đơn mới phù hợp, còn Toà án cấp phúc thẩm tuy
công nhận ông M được quyền sử dụng 313,6m2 đất nhưng phải buộc bà N trả
cho nguyên đơn giá trị đất 1.254.400.000 mới phù hợp.

Câu 19: Hướng của Tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên đã
được quy định trong BLDS chưa?
Hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tối cao chưa được quy định trong
BLDS 2005. Có một số điểm mới giúp bảo vệ quyền của chủ sở hữu tốt hơn khi
giao dịch dân sự với người thứ 3 không bị vô hiệu thì chủ sở hữu vẫn có quyền
khởi kiện và yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với
người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại
Câu 20: Theo anh/chị, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối
cao (trong câu hỏi trên) có thuyết phục không? Vì sao?
Theo tôi thì hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên
thuyết phục. Vì theo khoản 2 Điều 138 và Điều 258 trong BLDS 2005 thì các
giao dịch chuyển nhượng và tặng cho đất của ông M, bà Q, chị L, ông Đ và bà T
là các giao dịch của người thứ ba ngay tình được pháp luật bảo vệ nên Tòa
không thể yêu cầu những người vừa nêu trên bồi thường thiệt hại cho bà X
được. Nhưng cũng phải bảo vệ quyền lợi cho chủ sở hữu bất động sản là bà X
khi tài sản của bà được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì trong trường
hợp giao dịch với người thứ ba không vô hiệu thì bà cũng yêu cầu chủ thể có lỗi
dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi
phí hợp lý và bồi thường thiệt hại cho mình.

CHỦ ĐỀ 3: Lấn chiếm tài sản liền kề


Câu 21: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn
sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trê, bà Thi và phần lấn cụ
thể là bao nhiêu?
Trong Quyết định số 23 đoạn cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất
thuộc quyền sử dụng của ông Trê, bà Thi là:
"Ông Diệp Vũ Trê và ông Nguyễn Văn Hậu tranh chấp 185m2 đất giáp
ranh, hiện do ông Hậu đang sử dụng. Ông Hậu cho rằng diện tích đất
trên do ông nhận chuyển nhượng lại từ anh Trần Thanh Kiệt; tuy nhiên,
theo giấy biên nhận để ngày 29-3-1994 giữa ông Hậu với anh Kiệt (giấy
không có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) thì diện đất
mà ông Hậu mua từ anh Kiệt không nêu vị trí tứ cận, mốc giới cụ thể,
cũng không có xác nhận của các chủ thể đất liền. Trong khi đó, gia đình
ông Trê đã quản lý, sử dụng đất tranh chấp từ trước khi có việc sang
nhượng giữa ông Hậu và ông Kiệt và năm 1994 ông Trê được Uỷ ban
nhân dân huyện CN cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do bà Châu Kim Thi - vợ ông Trê đứng
tên); theo sơ đồ vị trí đất được thể hiện trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì thửa đất này có giới mốc rõ ràng, đối chiếu sơ đồ này với
sơ đồ tranh chấp do Tòa Án nhân dân huyện CN phối hợp với các cơ
quan chức năng đo vẽ ngày 28-3-2000 và tại công văn số 01/XN-TNMT
ngày 10-3-2006 của Phòng tài nguyên và môi trường huyện CN gửi Tòa
án nhân dân tỉnh CM vẫn khẳng định ranh giới đất đã cấp giấy chứng
nhận cho bà Thi với đất ông Hậu đang sử dụng là “ranh thẳng” thì có
căn cứ xác định ông Hậu đã lấn chiếm đất của ông Trê.”
Phần lấn cụ thể là 185m2 bao gồm 132,8m2 đất đã lấn chiếm nhưng
là đất trống, 52,2m2 đất đã xây dựng nhà, bên cạnh đó căn nhà của ông
Hậu còn có hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên mặt đất
của ông Trê và bà Thi có diện 10,71m2 Và còn có một căn nhà phụ có
diện tích 18,57m2 của ông Hậu xây dựng trên diện tích đất mà Tòa án
các cấp buộc ông Hậu trả lại cho ông Hậu, bà Thi.

Câu 22: Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa
đã lấn sang đất (không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử
dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên?
Trong Quyết định số 617 đoạn cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang
đất (không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình
ông Trụ, bà Nguyên là: “Khi sửa chữa lại nhà gia đình ông Hoà có làm 4
ô văng cửa sổ, một máng bê tông và chôn dưới đất một ống thoát nước
ngoài phía tường nhà, Toà án sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác
định gia đình ông Hòa làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông chờm
qua phần đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà nguyên nên
quyết định buộc gia đình ông Hoà phải tháo dỡ là có căn cứ”

Câu 23: BLDS có quy định nào điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng
đất và không gian thuộc quyền sử dụng của người khác không?

BLDS đã có quy định về điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất và
không gian thuộc quyền sử dụng của người khác cụ thể tại Điều 175
BLDS năm 2015 có quy định như sau:
“1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa
thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới
đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp.
Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp
ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ
tôn trọng, duy trì ranh giới chung.
2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều
thẳng đứng từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp
luật và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người
khác.
Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn
viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác
định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, cắt, tỉa
cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Cho thấy rằng BLDS năm 2015 đã đặt ra quy định điều chỉnh việc lấn
chiếm đất, lòng đất và không gian thuộc quyền sử dụng của người khác.
Câu 24: Ở nước ngoài, việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế
nào?
Ở nước Pháp việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian thuộc quyền sử
dụng của người khác Pháp luật Pháp với bộ luật Dân Napoleon được
quy định xử lý như sau:
Điều 675: “Chủ sở hữu bất động sản liền kề không trổ cửa vào tường
chung dù cách nào, kể cả có lắp kính mờ, trừ trường hợp chủ sở hữu
bất động sản liền kề bên đồng ý”
Điều 673: “Chủ sở hữu bất động sản có quyền buộc bên hàng xóm phải
cắt bỏ các cành cây mọc vươn sang đất của mình. Nếu hoa quả ở các
cành cây tự nhiên rụng xuống thì chủ sở hữu đất bị cành cây vươn sang
được hưởng. Nếu rễ cây hoặc cành nhỏ mọc vươn sang đất người khác
thì người đó có quyền cắt những rễ và cành cây nhỏ đó đến giới hạn
đường phân chia của hai bên. Quyền được cắt rễ cây và cành nhỏ hoặc
quyền được yêu cầu bên hàng xóm cắt các rễ cây, cành cây của các
cây to, cây nhỡ, cây nhỏ không thể bị thời hiệu tiêu diệt”.
Điều 681: “Chủ sở hữu bất động sản phải lắp đặt mái nhà cho nước
mưa chảy vào đất nhà đường công cộng, không để nước mưa chảy vào
đất bên hàng xóm”
Câu 25: Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao theo hướng buộc gia đình ông Hòa tháo dỡ tài
sản thuộc phần lấn sang không gian, mặt đất và lòng đất của gia
đình ông Trụ, bà Nguyên?
Đoạn của Quyết định số 617 cho thấy Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao theo hướng buộc gia đình ông Hòa tháo dỡ tài sản thuộc phần lấn
sang không gian, mặt đất và lòng đất của gia đình ông Trụ, bà Nguyên
là: “Khi sửa chữa lại nhà, gia đình ông Hòa có làm 4 ô văng cửa sổ, một
máng bê tông và chôn dưới đất một ống thoát nước nằm ngoài phía
tường nhà. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc
thẩm xác định gia đình ông Hòa làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông
chờm qua phần đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà
Nguyên nên quyết định buộc gia đình ông Hòa phải tháo dỡ là có căn
cứ.Tuy nhiên dưới lòng đất sát tường nhà ông Hòa còn ống nước do gia
đình ông Hòa chôn, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc
thẩm không buộc gia đình ông Hòa phải tháo dỡ là không đúng, không
đảm bảo quyền lợi của gia đình ông Trụ.”

Câu 26: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân
sự Tòa án nhân dân tối cao.
Hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là
hợp lý và thuyết phục. Vì:
Thứ nhất: Tại bản án sơ thẩm số 155/2008/DSST ngày 12-3-2008 của
Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh chỉ buộc bị đơn tháo dỡ
tất cả phần ô văng, đòn tay, mái nhà của nhà ông Hòa mà không giải
quyết phần đường ống của ông Hòa nằm dưới đất thuộc quyền sử dụng
của ông Trụ,bà Nguyên. Qua đó trái với khoản 2 Điều 265 Bộ luật dân
sự 2005 gây ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn.
Thứ hai: Sau khi sơ thẩm, bà Nguyên có đơn kháng cáo yêu cầu ông
Hòa tháo dỡ cả phần đường ống nước của ông Hòa đặt trên phần đất
thuộc quyền sử dụng của bà Nguyên, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm vẫn
giữ nguyên bán án sơ thẩm. Như vậy, cả hai Tòa án Sơ thẩm và Phúc
thẩm chưa giải quyết triệt để vụ án.
Từ hai nguyên do trên thì quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao là có căn cứ đồng thời việc Hội đồng giám đốc thẩm
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao hủy hai bản án sơ thẩm và phúc
thẩm là hoàn toàn hợp lý và đúng quy định của pháp luật, bảo đảm
được quyền lợi của bên nguyên đơn.

Câu 27: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không
buộc ông Tận tháo dỡ nhà đã được xây dựng trên đất lấn chiếm
(52,2 m2)?
Đoạn của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Tận tháo
dỡ nhà đã được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2 m2) là: “Áp dụng
khoản 3, Điều 38 Luật đất đai, xử: … Ông Nguyễn Văn Hậu được sử
dụng 52,2m2 đất căn nhà ông đã xây cất. Ông Hậu, ông Trê và baf Thi
có trách nhiệm liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền để
chuyển quyền sử dụng phần đất 52,2m2”.

Câu 28: Ông Trường, bà Thoa có biết và phản đối ông Tận xây
dựng nhà trên không?
Sau khi sang nhượng xong giữa ông Nguyễn Văn Hậu và anh Trần
Thanh Kiệt thì ông Hậu đã làm nhà cơ bản trên diện tích đất tranh chấp,
lúc ông xây nhà gia đình ông Trê không có ý kiến gì. Qua đó đồng nghĩa
với việc ông Trê, bà Thi có biết và không phản đối.

Câu 29: Nếu ông Trường, bà Thoa biết và phản đối ông Tận xây
dựng nhà trên thì ông Tận có phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho
ông Trường, bà Thoa không? Vì sao?
Trả lời : Căn cứ điều 256 Bộ luật dân sự 2005: “Chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử
dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối
với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của
mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
247 của Bộ luật này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm
hữu của người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Điều 257 và Điều 258
của Bộ luật này.” Hay theo điều 259 Bộ luật dân sự 2015: “ “Khi thực hiện
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải
chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền
yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó
chấm dứt hành vi vi phạm”.
Như vậy, nếu ông Trê và bà Thi biết và phản đối ông Hậu xây nhà trên thì
ông Hậu phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trê, bà Thi vì ông đã lấn
sang phần đất thuộc quyền sở hữu của ông Trê, bà Thi.
Câu 30: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án
liên quan đến phần đất ông Tận lấn chiếm và xây nhà trên.

Trả lời :Hướng giải quyết khá thỏa đáng vì nó đã đảm bảo được quyền
lợi cho cả ông Trê, bà Thi và ông Hậu. Căn cứ khoản 1 điều 267 Bộ luật
dân sự 2005, ông Hậu đã lấn chiếm đất của gia đình nhà ông Trê nên
tòa án buộc ông Hậu trả lại phần đất đã lấn chiếm là đúng nhưng nếu
buộc ông Hậu phải tháo dỡ căn nhà đã xây dựng thì gây nên tổn thất
lớn cho ông Hậu.
Chính vì vậy, hướng giải quyết của Tòa đã hợp tình hợp lý chỉ có hai
máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trê và
bà Thi có diện tích 10,71m^2 chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án
cấp phúc thẩm xem xét buộc ông Hậu phải tháo dỡ hoặc phải thanh
toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là chưa đảm bảo
quyền lợi hợp pháp cho ông Trê và bà Thi.
Câu 31: Theo Tòa án, phần đất ông Tận xây dựng không phải hoàn
trả cho ông Trường, bà Thoa được xử lý như thế nào? Đoạn nào
của Quyết định số 23 cho câu trả lời?

Trả lời: Theo Tòa án, phần đất ông Hậu xây dựng không phải hoàn trả
cho ông Trê bà Thi, giao cho ông Hậu quyền sử dụng nhưng phải thanh
toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi.
Tại quyết định số 23/2006/DS-GĐT Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông
Hậu trả 132,8m^2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất trống cho ông Trê và
bà Thi, còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng
nhà(52,2m^2) thì giao cho ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá
trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là hợp tình, hợp lý.
Câu 32: Đã có quyết định nào của Hội đồng thẩm phán theo hướng
giải quyết như Quyết định số 23 liên quan đến đất bị lấn chiếm và
xây dựng nhà không? Nêu rõ Quyết định mà anh/chị biết.

Trả lời: Đã có quyết định của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải
quyết như Quyết định số 23 liên quan đến đất bị lấn chiếm và xây dựng
nhà. Đó là Quyết định giám đốc thẩm số 02/2006/DS-GĐT ngày 21-02-
2006 về vụ án “tranh chấp về bồi thường thiệt hại”.
Phần xét thấy,căn cứ vào văn tự đoạn mãi nhà ngày 30-12-1973 giữa
ông Vui và bà Anh thì căn nhà bà Anh có chiều rộng mặt tiền là 7,4m
và căn cứ vào giấy phép xây dựng số 51/GP.SXD ngày 08-2-1996
của Sở Xây dựng tỉnh Đăk Lăk thì gia đình bà Anh được xây nhà có
chiều rộng mặt tiền là 7,4m nhưng theo biên bản đo đạc của Tòa án
nhân dân tỉnh Đăk Lăk thì thực tế bà Anh đã xây dựng chiều rộng mặt
tiền là 7,63m, sai với giấy phép xây dựng, vượt quá diện tích đất mà
gia đình bà Anh được quyền sử dụng là 23cm. Thực tế, bà Anh đã
xây kiềng móng nằm đè lên 20cm móng của nhà ông Dũng.
Về nguyên tắc, bà Anh đã lấn chiếm đất thuộc quyền sử dụng của
ông Dũng thì bà Anh phải tháo dỡ công trình để trả lại đất cho ông
Dũng. Tuy nhiên, khi gia đình bà Anh xây dựng sát tường nhà ông
Dũng, làm kiềng trên móng nhà ông Dũng, ông Dũng không phản đối
trong suốt quá trình từ khi bà Anh khởi công xây dựng (tháng 2-1996)
đến khi hoàn thành (tháng 6-1996). Do việc đã xây dựng hoàn thiện
nhà cao tầng, nếu buộc bà Anh phải dỡ bỏ và thu hẹp lại công trình
sẽ gây thiệt hại rất lớn cho gia đình bà Anh. Xét diễn biến thực tế như
trên, Hội đồng Thẩm phán nhất trí với quan điểm của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại kháng nghị là Toà án cấp phúc
thẩm không buộc bà Anh phải tháo dỡ phần tường nhà đè lên phía
trên móng nhà ông Dũng mà chỉ buộc bồi thường bằng tiền là hợp
tình, hợp lý.
(tham khảo: https://danluat.thuvienphapluat.vn/)

Câu 33: Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội
đồng thẩm phán trong Quyết định số 23 được bình luận ở đây?

- Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán trong Quyết định số 23 là
hướng giải quyết hợp lí và đảm bảo quyền lợi của các bên. Theo giấy
biên nhận đề ngày 29-3-1994 giữa ông Hậu và anh Kiệt (giấy không có
xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) thì diện tích đất mà
ông Hậu mua từ anh Kiệt không nêu vị trí cũng như tứ cận, mốc giới cụ
thể, cũng không có xác nhận của các chủ đất liền kề là chưa phù hợp
với quy định của pháp luật. Vậy nên, Tòa án phúc thẩm buộc ông Hậu
trả 132,8 m2 đất trống cho ông Trê và bà Tri, còn phần đất ông Hậu dùng
để xây dựng nhà (52,2 m2). Bên cạnh đó, còn có hai máng xối đúc bê
tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trê và bà Thi có diện
tích 10,71 m2 và một căn nhà phụ có diện tích 18,57 m2 chưa được Tòa
án các cấp xem xét, giải quyết cho nên sẽ không đảm bảo được quyền
lợi hợp pháp của ông Trê và bà Thi. Cho nên, hướng giải quyết của Hội
đồng thẩm phán ở trên là hợp lí.

Câu 34: Đối với phần chiếm không gian 10,71 m2 và căn nhà phụ
có diện tích 18,57m2 trên đất lấn chiếm, Tòa án sơ thẩm và Tòa án
phúc thẩm có buộc tháo dỡ không?
- Đối với phần chiếm không gian 10,71 m2 và căn nhà phụ có diện tích
18,57 m2 trên đất lấn chiếm, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm
không buộc tháo dỡ. Thể hiện ở đoạn “Tuy nhiên, ngoài diện tích 52,2
m2 nêu trên, căn nhà của ông Hậu còn có hai máng xối đúc bê tông
chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trê và bà Thi có diện tích
10,71 m2 chưa được Tòa án sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xem xét
buộc ông Hậu phải tháo dỡ hoặc phải thanh toán giá trị quyền sử dụng
đất cho ông Trê và bà Thi là chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của ông
Trê và bà Thi. Mặt khác, theo báo cáo của Cơ quan Thi hành án và theo
khiếu nại của ông Trê, thì ngoài căn nhà nằm trên diện tích 52,2 m2 Tòa
án cấp giao cho ông Hậu sử dụng, còn có một căn nhà phụ có diện tích
18,57 m2 của ông Hậu xây dựng trên diện tích đất mà Tòa án các cấp
buộc ông Hậu trả lại cho ông Trê, bà Thi nhưng Tòa án các cấp cũng
chưa xem xét, giải quyết, gây khó khăn cho việc thi hành án.”

Câu 35: Theo anh/chị thì nên xử lý phần lấn chiếm không gian 10,71
m2 và căn nhà phụ trên như thế nào?
Theo em thì nên xử lý phần lấn chiếm không gian và căn nhà phụ trên
như sau: Về phần lấn chiếm không gian 10,71 m 2 thì có thể thương
lượng ông Hậu tháo dỡ hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không
trên phần đất của vợ chồng ông Trê. Còn về phần căn nhà phụ 18,57 m 2
thì nếu như ông Trê muốn sử dụng thì trả chi phí tiền công trình xây
dựng cho ông Hậu. Nếu như hai bên có ý kiến gì khác thì ta nên theo ý
kiến, thỏa thuận của hai bên.

Câu 36: Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử
dụng đất và không gian ở Việt Nam hiện nay.

Câu 37: Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23
có còn phù hợp với BLDS 2015 không ? Vì sao ?

Hướng giải quyết trên của Tòa án còn phù hợp với BLDS năm 2015.

Điều 259 BLDS năm 2005, Điều 169 BLDS năm 2015 quy định: “Khi
thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chủ thể có quyền
yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi
đó hoặc có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.”
Việc yêu cầu buộc tháo dỡ là có căn cứ pháp lý. Tuy nhiên, trong BLDS
vẫn chưa có quy định rõ ràng, cụ thể về hướng giải quyết không buộc
tháo dỡ mà thanh toán phần giá trị quyền sử dụng đất cho người có
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. Do đó, theo Tòa án cấp phúc
thẩm buộc ông Hậu 132,8m2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất trống cho
ông Trê và bà Thi, còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây
dựng nhà (52,2m2) thì giao cho ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh
toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là thể hiện tính hợp
tình, sáng tạo và còn phù hợp với BLDS năm 2015.

You might also like