You are on page 1of 8

ÔN TẬP

TRAO DUYÊN

(Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

I. GIỚI THIỆU ĐOẠN TRÍCH

– Vị trí: Sau đêm thề nguyền giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú
ở Liêu Dương. Tai nạn ập đến khi gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan. Vương Ông và
Vương Quan bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn, tài sản bị cướp hết. Kiều buộc phải bán mình
chuộc cha và em. Đêm trước ngày phải theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân
thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

– Nội dung: Đoạn trích miêu tả tình cảnh trớ trêu của Kiều khi phải trao duyên cho
em.Đồng thời làm rõ diễn biến tâm trạng đau khổ tuyệt vọng của nàng khi tình yêu tan
vỡ,mình buộc phải phụ tình với Kim Trọng.

II. PHÂN TÍCH

1. Thúy Kiều nhờ cậy, thuyết phục TV thay mình kết duyên với KT

a/Kiều thuyết phục Thúy Vân

– Lời lẽ tha thiết gửi gắm:

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

+ “Cậy” (không phải “nhờ”):

 Nhờ với tất cả sự hy vọng, tin tưởng, tha thiết gửi gắm, phó thác tuyệt đối vào
em.
 Âm nặng như dồn nén, chuyên chở, chứa chất sức nặng của một cõi lòng đang
quằn quại, khó nói của một lời gửi gắm, nương tựa, trối trăng, một lời khẩn khoản
thiết tha.

+ “Chịu” (không phải “nhận”):

 cũng là nhận lời nhưng là nhận lời trong tâm thế bị ràng buộc, khó có thể chối từ
 sự thấu hiểu những thiệt thòi, hy sinh, khó xử nếu Thúy Vân nhận lời (Thúy Vân
sẽ phải kết duyên với người mình chưa hề quen biết) => Đòi hỏi phải có sự chia
sẻ, thấu hiểu, cảm thông

– Thái độ, hành động khẩn khoản, chân thành: “lạy…thưa”

+ Phi lí: thay đổi thứ bậc, chị phải lạy em

+ Hợp lí:

 Tạo không khí thiêng liêng, trịnh trọng, hé lộ tính chất hệ trọng của sự việc sắp
nói tới
 Kiều là người chịu ơn, muốn bày tỏ lòng biết ơn trước sự hy sinh to lớn của em,
với Kiều thì Vân là ân nhân của mình vì đã hy sinh hạnh phúc cá nhân mình vị chị

=> Hiểu rõ việc mình sắp nhờ cậy em là một việc hết sức hệ trọng và tế nhị, Vân sẽ khó xử,
vì vậy Kiều mở đầu lời trao duyên bằng những lời lẽ tha thiết gửi gắm, khéo léo ràng buộc
và bằng cả một thái độ khẩn khoản, chân thành, đầy kính cần khiến Vân khó lòng từ chối.

b/ Kiều tâm sự với Thúy Vân

* Về cảnh ngộ éo le của mình:

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề


Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Tình yêu thơ mộng với chàng Kim Thực tế đắng cay

+ Điệp ngữ “Khi ngày…khi đêm” + phép đối


ngày > < đêm thể hiện sự gắn bó sâu nặng + “Giữa đường đứt gánh tương tư”: với
của 2 người người xưa, tình yêu là gánh nặng, lúc tình
cảm đang đậm sâu nhất, đắm say nhất thì
gánh đứt, không sao mang xách lại được
+ Quạt ước, chén thề: những kỉ niệm tình
+ “Sóng gió bất kì”: hình ảnh ẩn dụ cho tai
yêu hạnh phúc, những lời thề thủy chung
họa bất ngờ ập đến phá tan tất cả, gia biến
son sắt
do thế lực PK gây ra

=>    Tình cảm sâu nặng, thắm thiết, khó


=> Thực tế đắng cay,
có thể phai mờ

=> Thực tế tàn nhẫn buộc nàng phải chọn lựa giữa “tình” và “hiếu”: ý thức sâu sắc về tình
cảnh ngang trái, éo le của mình + sự chọn lựa khó khăn, nghiệt ngã

 Quyết định: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

+ “Keo loan” là loại keo bền nhất được làm từ máu chim loan => Hy vọng Thúy Vân sẽ nối
lại tình duyên với KT một cách bền chặt, dài lâu, vĩnh cữu chứ không bị đứt gánh giữa
đường như Thúy Kiều.

+ “Mối tơ thừa”: với TK thì đó là mối duyên nhưng với Thúy Vân đó là mảnh duyên do chị
trao lại, là mối duyên không trọn vẹn => ý thức sâu sắc về sự thiệt thòi của Thúy Vân.

+ “Mặc em”: quyết định phó mặc, dứt khoát, trông cậy mọi việc vào em.

=> Lời Kiều nói với Vân tưởng như chỉ kể lể đơn thuần để Vân hiểu được tình cảnh của mình
nhưng thật ra, bên trong đó là cả tấm lòng hiểu mình, hiểu người, hiểu đời và cả những đớn
đau, mất mát, chia lìa.

c/ Lời Kiều thuyết phục Thúy Vân

“Ngày xuân em hãy còn dài


Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

 “Ngày xuân”: ẩn dụ cho tuổi xuân của người con gái. Vân vẫn còn trẻ, còn hạnh
phúc, còn một tương lai đầy hứa hẹn (đồng thời ngầm so sánh với mình nay
chẳng còn gì cả mất đi tình yêu, Kiều xem như mình đã không còn tuổi xuân, hy
vọng, không còn hạnh phúc)
 “Xót tình máu mủ”:cách nói bình dân tác động đến tình cảm của TV, hãy vì tình
cảm chị em ruột thịt thiêng liêng mà thay chị gánh lấy trách nhiệm nặng nề “thay
lời nước non”
 “Thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”:thành ngữ dân gian thể hiện cái chết
để ràng buộc em (nghĩa tử là nghĩa tận). Thúy Kiều sẽ thanh thản, toại nguyện vì
dẫu chết vẫn mang tiếng thơm bởi là người có tình nghĩa. Đồng thời nàng mơ hồ
nhận ra tương lai tăm tối đang chờ đợi mình phía trước, đó là dự cảm về cái chết
đang chờ đợi.

=> Với cách nói đầy thương cảm, thống thiết, Kiều đã đưa ra những lý lẽ rất thuyết phục,
vừa có lý vừa có tình để TV nhận lời trao duyên. Lúc này, con người lý trí đã chiến thắng
những đau đớn, yêu thương đang trỗi dậy trong lòng.

2. Trao kỉ vật cho Thúy Vân và dặn dò những chuyện sau này

a/ Trao kỉ vật

– Lí trí mách bảo: quyết định trao kỉ vật

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung”

+ Chiếc vành: chiếc vòng xuyến đeo tay của những thiếu nữ, là tín vật kỉ niệm mà KT đã
tặng nàng.
+ Bức tờ mây: tờ giấy có trang trí hình mây ghi lời thề nguyền đôi lứa

=> Những kỉ vật gắn bó với tình yêu sâu đậm giữa Kim – Kiều. Kiều quyết định trao kỉ vật
là hành động thể hiện sự dứt khoát trao duyên cho em, để thuyết phục, tạo niềm tin cho em
và sự giải phóng cho mình : LÍ TRÍ

– Con tim trù trừ, do dự:

+ Nhìn thấy kỉ vật, bao kỉ niệm, tình yêu bỗng ùa về. Trao kết kỉ vật nghĩa là hoàn toàn
đoạn tuyệt với mối duyên này, kể từ giây phút đó chàng Kim sẽ vĩnh viễn không thuộc về
nàng nữa => Nhận thức đầy đủ nỗi mất mát của tình yêu tan vỡ.

+ Trong đau đớn tột cùng, Kiều cố gắng giữ lấy một chút an ủi nhỏ nhoi

 “giữ”không có nghĩa là trao hẳn, chỉ là “giữ” mà thôi


 “của chung”: Kỉ vật đó giờ là của chung 3 người, Kiều vẫn lưu luyến, níu kéo, vẫn
muốn có sự tồn tại, hiện diện của mình trong những kỉ vật đó

=> Kiều có thể trao em chữ “duyên”(nhân duyên, duyên phận, cơ duyên: sự run rủi cho số
phận hai người gặp nhau, kết đôi với nhau và lấy nhau), còn chữ “tình” thì không thể trao
đi. Trao kỉ vật nhưng không thể trao hồn kỉ vật.

<=>Lí trí đã quyết nhưng con tim vẫn trù trừ do dự. Con tim muốn níu giữ tình yêu còn lí trí
buộc phải dứt tình. Điều này khiến nàng thêm đau đớn, giằng xé tâm can.

b/ Tâm trạng sau khi trao kỉ vật

Trao duyên xong, Kiều dường như đã chết:

– Hình ảnh cõi âm hiện lên nửa thực nửa mộng: cách mặt khuất lời, dạ đài, người mệnh
bạc, người thác oan, thân bồ liễu … => tâm trạng đau đớn tột cùng khiến con người rơi vào
trạng thái nửa mê nửa tỉnh, chỉ nhìn thấy phía trước một màu tăm tối của cái chết, của đau
đớn, của oan khuất, cô đơn.

– Lời của Kiều là lời của một oan hồn mệnh bạc, âm dương cách trở, không nói được lời nào:
 Nhắc đến những kỉ niệm ngày xưa đầy xót xa “mảnh hương nguyền, phím đàn”,“lò
hương”…trong đêm thề hẹn
 Hình dung oan hồn bơ vơ, thê thảm của mình: ngọn gió vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ
 Khao khát nhận được sự đồng cảm nơi người còn sống: “Dạ đài…thác oan”: bấy
giờ, Kiều và Vân sẽ thuộc về hai thế giới cách biệt, không thấy được nhau và nghe
được nhau. Khi đó, Kiều mong em có thể rảy chén nước rửa nỗi oan khuất của
Kiều => Trong hoàn cảnh ấy, Kiều vẫn ý thức sâu sắc về nỗi oan khuất của mình
và đấu tranh đến cùng với sự bất công của xã hội phong kiến đương thời.
 Khát vọng trả món nợ nghĩa tình “Hồn còn…trúc mai” àMâu thuẫn trong Kiều: lúc
thì cho rằng trao duyên xong sẽ ngậm cười nơi chín suối, khi trở thành oan hồn
vẫn muốn đền đáp món nợ tình, lời thề năm xưa “trăm năm tạc một chữ đồng đến
xương”. Rõ ràng đây là tâm lý mâu thuẫn, phức tạp, day dứt => Tư tưởng thủy
chung son sắt dù trong hoàn cảnh ngặt nghèo.

=>Chới với trước viễn cảnh tương lai, Kiều nửa tỉnh nửa mê, nửa như đang sống, nửa như
người đã chết. Nói với em mà lời Kiều như phảng phất từ cõi bên kia đang vọng về.

3/Lời độc thoại nội tâm của Kiều

– Sau khi hoàn tất việc trao duyên, đáng lẽ Kiều phải thấy an tâm, yên lòng đằng này Kiều
lại như thấy hụt hẫng, xót xa. Tiếng nói thành tiếng than khóc, nói với em mà như nói với
chính mình, rời quên hẳn xung quanh, quên hẳn Vân trước mặt, chỉ còn lời độc thoại nội
tâm:

 Ý thức được sự đối lập giữa:

+ Quá khứ: hạnh phúc, viên mãn “muôn vàn ái ân”, ân tình không đong đếm nổi

+ Hiện tại: bi kịch tình yêu tan vỡ, tâm hồn đau đớn nát tan “trâm gãy gương tan”, “tơ
duyên ngắn ngủi”

=> Thúy Kiều nghẹn ngào đau đớn, xót xa trước thực tại, giọng thơ chua chát, cay đắng.
Quá khứ giờ đây đã trở thành niềm khát khao mãnh liệt.

=>Bi kịch càng thêm sâu sắc


 Hướng tới Kim Trọng: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”thể hiện sự day dứt, giày
vò, đồng thời thấy được tình yêu cao thượng của Thúy Kiều. (Tuy trao duyên cho
TV nhưng vẫn thấy mình chịu muôn vàn tội lỗi, cái lạy này là cái lạy tạ lỗi vô cùng
thóng thiết. Trong tình cảnh này, Kiều không thể làm gì hơn ngoài sự tạ lỗi với
chàng Kim, cái lạy trong đau đớn, xót xa, trách đời, trách mình, đồng thời kết thúc
mối tình đầu ngắn ngủi đầy tiếc nuối)
 Ý thức được tình trạng bi kịch của bản thân:

+ “Bạc như vôi”: số phận bất hạnh, cuộc đời bạc bẽo

+ “Nước chảy hoa trôi”:

=> Số phận long đong, lận đận, chịu kiếp dập vùi, trôi nổi trên dòng đời vô định, nhơ nhớp,
cuộn xiết không thể nào cứu vãn

=> Thành ngữ thể hiện cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, tượng trưng cho tuổi thanh
xuân trinh trắng và đẹp đẽ của Kiều chấm dứt từ đây.

 Bi kịch tình yêu đến đỉnh điểm, Kiều thốt lên tiếng kêu xé lòng:

+ Thán từ “ôi hỡi”, nhịp thơ 3/3 như một tiếng nấc đau thương, nghẹn ngào, tiếng kêu than
thảng thốt của người phụ nữ tuyệt vọng.

+ Lời gọi được lặp lại một cách trang trọng “Kim Lang”(cách xưng hô thể hiện quan hệ vợ
chồng) như một lời kêu cứu tuyệt vọng

+ Điệp từ “thôi” vừa thể hiện sự dằn vặt, vừa xác nhận sự phụ bạc, nhịp thơ ngân dài như
tiếng kêu than vọng mãi không có lời đáp

=> Kiều tự cho mình là người phản bội lại tình yêu, qua đó, ta nhận thấy thêm sự vị tha,
thủy chung, giàu đức hy sinh của Kiều

=> Cuộc trao duyên kết thúc trong đỉnh điểm nỗi đau, trong tiếng kêu than tuyệt vọng bởi
tình yêu tan vỡ nhưng đó cũng là lúc khát vọng tình yêu lên tiếng.

*** Đoạn trích kết lại bằng tiếng kêu xé lòng trong tột cùng đau đớn của Thúy
Kiều khi nàng ý thức sâu sắc bi kịch tình yêu tan vỡ của mình. Kiều thương mình
thì ít, thương cho chàng Kim thì nhiều. Nàng đã nhận hết mọi trách nhiệm của sự
tan vỡ tình duyên về mình. Có thể nói, trong đau khổ tột cùng Kiều vẫn sáng lên vẻ
đẹp của một nhân cách cao thượng: ân cần, chu đáo với Kim Trọng mà vẫn tự
trách, nàng quên đi bất hạnh của mình để cảm thông cho người khác. Đây là giây
phút độc thoại thật nhất, nhân bản nhất.

You might also like