You are on page 1of 13

NÓI VỚI CON

(Y Phương)
I. Giới thiệu tác giả:
- Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước (1948) người dân tộc Tày quê Trùng Khánh, Cao
Bằng. Thơ Y Phương thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh
của người miền núi.
II. Đề tài, thể thơ:
1. Đề tài:
- Bài thơ viết về tình cha con, người cha tâm tình với con về tình cảm gia đình, tình yêu quê
hương.
2. Thể thơ: tự do.
3. Hoàn cảnh sáng tác:
- Nhà thơ Y Phương đã nói về hoàn cảnh sáng tác bài thơ:
“Những năm cuối bảy mươi đầu tám mươi của thế kỉ XX, đời sống tinh thần và vật chất
của nhân dân cả nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng, vô cùng khó
khăn thiếu thốn. Bởi vì đất nước ta vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ lâu dài và cực
kì gian khổ. Hiện thực xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến đời sống con người. Đại bộ phận nhân
dân ta vẫn kiên trì khắc phục và tìm mọi cách để vượt qua để duy trì đời sống. Họ vẫn tồn tại và
không ngừng sinh trưởng là không phải nhờ vào phép màu của lực lượng siêu nhiên nào mà chỉ
dựa vào sức mạnh tinh thần của truyền thống văn hóa từ ngàn đời mà ông cha để lại.
Cuối năm 1975, tôi cũng mới từ mặt trận trở về, sau tám năm đánh giặc xa nhà nay trở về
lấy vợ sinh con trong bối cảnh túng thiếu bần hàn chung của toàn xã hội. Nhìn các con cầm bát
cơm ăn không thịt cá mà lòng đau xót khôn tả. Bởi chúng tôi cũng giống như nhiều gia đình cán
bộ khác chỉ sống bằng đồng lương quá ít ỏi. Hàng hóa khan hiếm, giá cả leo thang từng ngày đến
chóng mặt. Bên cạnh cái tốt của người làm ăn lương thiện, không ít những con người bị tha hóa
biến chất. Họ buôn gian bán lận, lợi dụng kẽ hở của nhà nước móc nối làm ăn phi pháp. Ở miền
Nam, một bộ phận nhỏ công chức dưới thời nguỵ quyền Sài Gòn không chịu được đã tìm mọi
cách để vượt biên trốn ra nước ngoài.
Từ hiện thực khó khăn ấy, tôi làm bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình,
đồng thời để nhắc nhở con cái sau này.”
III. Phân tích:
Ngợi ca tình quê hương, gia đình không phải là một đề tài mới. Xét về mặt này, bài thơ
“Nói với con” của Y Phương cũng vậy. Tuy nhiên, bài thơ có một sức sống riêng. Sức sống ấy có
được là nhờ cách diễn đạt tình cảm độc đao mang đậm bản sắc của người dân tộc miền núi. Đúng
như nhận định: “Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt những màu sắc khác nhau,
phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo, một âm điệu chính là bản sắc dân
tộc rất đậm nét và độc đáo”(Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng trong nhà trường,
sđđ). Bài thơ “Nói với con” thể hiện tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui, tình quê hương tha thiết,
sâu nặng, ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi bằng
“ngôn ngữ thổ cẩm” như thế.
Có thể hình dung bố cục bài thơ gồm hai phần. Tình cảm gia đình, quê hương đầm ấm, yên
vui được tác giả thể hiện trong mười một câu thơ đầu. Tình quê hương tha thiết, sâu nặng, truyền

1
thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi được tác giả thể hiện trong mười
bảy câu thơ tiếp theo.
1. Lòng thương yêu con cái là tình cảm thiêng liêng máu thịt của đấng sinh thành:
- Trong chương trình lớp chín, từ học kì một đến giờ chúng ta đã học rất nhiều văn bản nói về tình
cảm gia đình. Ví dụ như bài thơ: Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, Con cò - nói về tình
cảm của người mẹ với người con; bài văn Mây và sóng nói về tình cảm của người con đối với mẹ,
bài Chiếc lược ngà nói về tình cảm cha con.
- Quả thật công ơn của cha mẹ dành cho con cái như trời bể, không gì sánh bằng, cha mẹ sẵn sàng
hi sinh tất cả để con có được cuộc sống tốt đẹp nhất – tình cảm đó thật ngọt ngào, nhưng cũng thật
thiêng liêng. Chính vì vậy, các nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ…đã tìm mọi cách ca ngợi tình
cảm mẫu tử, phụ tử thông qua tác phẩm của mình:
Ví dụ như bài thơ mà từ khi chưa đi học chúng ta đã biết:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Hoặc như bài ca dao mà mọi người hay truyền miệng:
Cơm cha, áo mẹ chữ thầy
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao
Hoặc bài thơ rất nổi tiếng trong đạo phật mà nhiều người treo trong nhà như lời nhắc nhở chính
mình và con cái:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công ch
Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy cha che trở đời con
Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không.
Hoặc như bài hát: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào….”
- Làm cha làm mẹ, sinh con ra, ai cũng muốn cho con cái mình khỏe mạnh, mau ăn chóng lớn,
giỏi giang, ngoan hiền, thành đạt, nối tiếp truyền thống gia đình, truyền thống quê hương đất
nước, bài thơ “Nói với con” nằm trong mạnh cảm xúc ấy. Nhưng Y Phương có cách nói của riêng
mình, mượn lời tâm tình của người cha nói với con với giọng điệu tha thiết, trìu mến và tin cậy,
ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh theo cách nói và cách nghĩ của người miền núi.
- Bài thơ được chia làm hai phần lớn, nhưng riêng phần một lại được chia làm bốn phần nhỏ:
2. 11 câu thơ đầu tiên: con lớn lên và trưởng thành trong sự thương yêu của gia đình, trong
cuộc sống lao động của người đồng mình và tình nghĩa quê hương.
a. 4 câu đầu:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”

2
- Nghĩa đen: Thông qua bốn câu thơ này chúng ta hình dung ra cảnh một gia đình có mẹ, có cha,
có con, có tiếng nói, tiếng cười, có cảnh cha mẹ đang quan tâm, yêu thương, giúp đỡ, đùm bọc
cho con của mình tập những bước đi đầu tiên. Đứa bé này đi chưa vững nhưng chắc chắn nó sẽ
không thể té ngã vì bước một bước đã có mẹ cận kề, bước hai bước đã có cha ở bên. Rõ ràng đây
là một gia đình hạnh phúc, vì ở đâu có sự yêu thương, chăm sóc cho nhau thì nhất định ở đó sẽ có
tiếng cười và niềm hạnh phúc, niềm hạnh phúc được đong đầy theo từng bước chân của con.
Chính nơi đây là chiếc nôi cho con trưởng thành, là chỗ dựa đáng tin cậy cho con.
- Nghĩa bóng: Nghĩa của bốn câu thơ này không dừng lại ở đây. Thông qua nghệ thuật ẩn dụ: chân
phải, chân trái, một bước, hai bước không chỉ là những bước chân tập đi mà còn là những bước đi,
những bước ngoặt trong cuộc đời của đứa con (bước ngoặt là thời điểm có những sự việc xảy ra
làm thay đổi cuộc đời của con người: ví dụ như bước ngoặt đầu tiên là khi ta vào mẫu giáo, rồi
đến bước ngoặt khi ta vào lớp một, vào cấp hai, vào cấp ba, vào đại học, lập gia đình…có những
bước ngoạt làm cuộc đời của chúng ta sung sướng, có những bước ngoặt làm cho đời ta lắm nỗi
lầm than) nhưng dù buồn đau hay hạnh phúc, lúc con té ngã, hay khi con thành công thì cha mẹ
luôn ở bên cạnh động viên, chia sẻ, giúp cho con vượt qua những bước ngoặt của cuộc đời. Có thể
cha mẹ không có điều kiện giúp con về mặt vật chất, nhưng luôn là chỗ dựa vững chắc về mặt tinh
thần để con làm điểm tựa. Có những lúc cha mẹ không được ở gần con nhưng trong trái tim của
cha, của mẹ hình bóng con vẫn luôn ngự trị, và con có thể yên tâm rằng dù Trái đất có sụp đổ thì
tình cảm đó cũng không bao giờ thay đổi, luôn luôn hướng về con. Y Phương nói thật nhẹ nhàng
nhưng cũng thật đúng và điều đó đã được Chế Lan Viên đã khẳng định như một chân lí trong bài
thơ Con cò: Dù ở gần con – Dù ở xa con – Lên rừng xuống bể - Cò sẽ tìm con – Cò mãi yêu con –
Con dù lớn vẫn là con của mẹ - Đi hết đời lòng mẹ vẫn yêu con. Và quả thật không một người nào
có thể phát triển hoàn thiện khi không được lớn lên trong tình yêu thương của gia đình và cha mẹ.
Không gì sung sướng bằng việc con có cả cha và mẹ. Nhà thơ Huy Cận cũng đã từng có được cảm
giác tuyệt vời theo từng bước chân con :
Được tin con tập đi
Cha mừng không ngủ được
Cha nằm đếm thầm thì
Từng tiếng chân con bước.
 Con được lớn lên trong tình yêu thương của cha và mẹ.
b. 3 câu thơ tiếp: Con không chỉ lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ và trưởng thành trong
lao động cần cù, chịu thương chịu khó của người đồng mình.
“Người đồng mình thương lắm con ơi”
- Giọng thơ thay đổi từ tự sự chuyển sang lời gọi mang ngữ điệu cảm thán, giọng thiết tha trìu
mến.
- Tại sao không gọi là người quê mình mà lại gọi là người đồng mình, vì quê mình chỉ có nghĩa
hẹp là quê Cao Bằng mà thôi, còn đồng mình, tác giả muốn mở rộng ra không chỉ là quê hương
mà còn là cả dân tộc Việt Nam. Ở đây tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật biểu cảm trực tiếp
thông qua từ “yêu lắm”, không chỉ yêu mà yêu nhiều lắm, cha yêu nhiều lắm người đồng mình. Vì
sao cha lại có tình cảm lớn lao đến vậy chúng ta sẽ tìm hiểu hai câu thơ tiếp theo.
“Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”
- Y Phương chọn hai hình ảnh tiêu biểu nhất trong cuộc sống lao động của người đồng mình:

3
+ “Đan lờ” để bắt cá, ken vách nhà để trú nắng trú mưa. Đây là những công việc vất vả.
+ Hai động từ “cài” và “ken” đậm sắc thái địa phương, là cách diễn đạt của người miền núi. Nó
vừa diễn tả động tác lao động cụ thể, cuộc sống lao động cần cù tươi vui vừa nói lên sự gắn bó,
quấn quít, yêu thương nhau của người đồng mình, một sự gắn bó giữa hiện thực và lãng mạn trong
đời sống tinh thần của người vùng cao. Chính từ lao động họ thêm hiểu và yêu nhau hơn. Đến đây
chúng ta mới hiểu ở câu thơ thứ năm trong bài thơ này nhà thơ không bộc lộ tình cảm một chiều
mà dường như đây là tình cảm bao trùm lên tất cả, có trong trái tim tất cả mọi người.
+ Những công việc lao động thường ngày nhưng qua cách liên tưởng của tác giả trở nên thơ
mộng. Lao động không chỉ để tạo ra của cải vật chất để chúng ta sinh tồn mà còn là sáng tạo nghệ
thuật ra thơ ca nhạc họa. Họ vừa lao động vừa hát, tiếng hát thể hiện sự lạc quan, yêu đời, nhưng
tiếng hát còn có một tác dụng rất lớn khác nó làm cho công việc đỡ nhọc nhằn, mọi người gắn bó
với nhau hơn để vượt qua những khó khăn trước mắt, chính vì vậy chúng ta không ít lần bắt gặp
những tiếng hát trong các tác phẩm văn thơ: ví dụ như tiếng hát của ông Ngư trong văn bản “Lục
Vân Tiên gặp nạn”, tiếng hát của những người dân chài trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”,
tiếng hát của ngưởi mẹ Tà Ôi ru con trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” và
bài thơ “Con cò”, tiếng hát của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường
Sơn khói lửa trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” – Tại sao họ lại hát? Họ hát để có thể mạnh
mẽ hơn, kiên cường hơn, để không còn sợ hãi vượt qua những khó khăn gian khổ nguy hiểm của
cuộc đời.
- Trong đoạn này người cha không hề nói với con cuộc sống lao động diễn ra như thế nào, nhưng
ta cũng có thể đoán được quả thật nó rất vất vả, có cuộc sống lao động nào mà không vất vả đâu,
đặc biệt là lao động ở miền núi. Để kiếm được miếng cơm để nuôi con khôn lớn cha mẹ, người
đồng mình đã phải đổ bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, thậm chí là
phải trả giá cả bằng tính mạng của mình để mưu sinh cho sự sống như hình ảnh con cò trong bài
ca dao xưa:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lội cổ xuống ao”
 Và con đã được chứng kiến và lớn lên trong cuộc sống lao động của người đồng mình như thế
đấy.
c. Hai câu thơ tiếp theo: Đứa con lớn lên trong tình nghĩa của quê hương:
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”
- Rừng và con đường là biểu tượng cho quê hương. Quê hương thật thơ mộng và cũng thật nghĩa
tình, “rừng cho hoa”, hoa biểu tượng cho cái đẹp làm cho tâm hồn con người đồng mình thêm
phong phú, hoa còn biểu tượng cho vật chất. “Con đường cho ta những tấm lòng” cho nghĩa tình;
quê hương cho con người tất cả những gì tốt đẹp nhất về cả vật chất và tinh thần. Không những
vậy quê hương còn định hướng cho chúng ta con đường mà chúng ta sẽ đi.
d. Hai câu tiếp: Cọi nguồn của của niềm hạnh phúc và sinh dưỡng:
“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
- Tại sao cha lại nhắc về ngày cưới? Vì ngày đó đối với cha là ngày đặc biệt nhất, ngày đó là ngày
đầu tiên đẹp nhất trên đời, ngày đó cha tạo dựng được một gia đình mới, ngày đó là tiền đề là điều
kiện để con ra đời, mà con lại là điều quí giá nhất mà cha tạo ra. Ở đây cha mẹ không yêu cầu con

4
nhớ về ngày cưới mà mượn ngày đó để nhắc con về cội nguồn sinh dưỡng, cội nguồn sinh dưỡng
của con chính là cha là mẹ. Đồng thời thể hiện tình yêu thương con vô bờ).
- Rừng, hoa và con đường đã từng che chở và nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống. Ai
nỡ quay lưng lại với quá khứ ân tình sâu nặng ấy? Chỉ có thể là kẻ vong ân bội nghĩa. Chính quê
hương cho con cuộc sống và cũng chính quê hương đã tạo cho cha mẹ cuộc sống hạnh phúc bền
lâu. Và trong cái nôi hạnh phúc ấy, con cái là hoa trái, là kết quả ngọt ngào của duyên đôi lứa.
Con chớ quên cội nguồn của hạnh phúc.
3. Phần còn lại: Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và ước muốn của người cha.
“Người đồng mình thương lắm con ơi”
- Vẫn với giọng điệu thiết tha , trìu mến, nhà thơ dùng lối biểu cảm trực tiếp “thương lắm con ơi”,
khi nào thì ta thương, khi thấy những hoàn cảnh bất hạnh, cơ cực, thế thì tại sao lại thương người
đồng mình: vì cuộc sống của người đồng mình còn cơ cực lắm, phải ở một nơi vừa cao, vừa
xa,“lên thác xuống ghềnh” (Đây là một thành ngữ để chỉ sự vất vả ấy)…đó là cuộc sống thiếu
thốn, nghèo khổ, cực nhọc. (Đường đồi núi, thung lũng ghệp ghềnh khó đi, phải chăng đó cũng là
biểu tượng của đường đời mà người đồng mình trải qua.) Đến đây chúng ta không thể nào không
nhớ đến hai câu thơ trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
- “Đất cày lên sỏi đá” chỉ vùng trung du miền núi phía bắc. Đất nước chúng ta 90% làm nghề
nông nghiệp vậy mà cuốc đất lên chẳng thấy màu, thấy mỡ mà chỉ toàn thấy sỏi đá cũng đủ biết
cuộc sống cơ cực vô cùng. Chính vì vậy mà thương, chính vì vậy mà buồn, nỗi buồn cứ đong đầy
theo ngày tháng, nỗi buồn cứ chất cao như như núi: “Cao đo nỗi buồn” – Nỗi buồn cũng thể hiện
người đồng mình là người có tình cảm sâu sắc (Phẩm chất 1). Nhưng không vì thế mà người
đồng mình chán nản, tự ti, bạc nhược mà họ biết lấy nỗi buồn (nỗi buồn chính là gian khó, thất
bại, mất mát, hi sinh, đau thương, thăng trầm trong cuộc sống) để nuôi chí lớn, để rèn luyện
phẩm chất, chí khí kiên cường, mạnh mẽ (Phẩm chất 2). Cái cao xa ấy chính là cơ hội để con
người nuôi dưỡng hoài bão, phát huy khả năng và đứng vững trên đôi chân của mình cũng như
ông bà có câu “lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Tầm vóc của họ chính là tầm vóc của núi cao,
rừng thẳm, của những Đam San, Xinh Nhã… Đúng vậy:
Người đồng mình tuy thô sơ da thịt
Không mấy ai nhỏ bé được đâu con
Người đồng mình thô sơ, mộc mạc, giản dị, thật thà, chất phác (Phẩm chất 3)nhưng
không ai nhỏ bé, ai cũng mạnh mẽ đến phi thường, chính vì họ mạnh mẽ nên họ vẫn bám trụ
không rời bỏ quê hương, chính vì mạnh mẽ và yêu quê hương nên họ không ngại vất vả, gian lao
“đục đá” – hình ảnh vừa mang nghĩa đen vừa mang nghĩa bóng. Đục đá là hình ảnh có thực,
thường thấy ở vùng miền núi. Nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ để nói sự vất vả khó nhọc nhưng dẫu có
vất vả khó nhọc vẫn không ngừng đục đá, bởi người đồng mình luôn có khát khao xây dựng quê
hương giàu đẹp chính vì khát vọng đó nên họ không sợ vất vả. Như vậy chúng ta thấy rằng người
đồng mình bằng chính đôi bàn tay và sức lực của mình không ngại lao động vất vả, cần cù mối
ngày để làm quê hương “thay da đổi thịt”. Người đồng mình không lo cực nhọc, sống gắn bó,
thủy chung với quê hương(Phẩm chất 4). Qua đoạn thơ này chúng ta không chỉ đọc được ý thức
bảo tồn nguồn cội mà còn đọc được tinh thần tự tôn, niềm tự hào của người cha thông qua lời nói.
Tự hào vì người đồng mình mạnh mẽ, khoáng đạt, bền bỉ, gắn bó với quê hương dẫu ở trong bất

5
cứ hoàn cảnh nào. Ngoài ra người cha còn muốn con ý thức một điều: Cái vẻ ngoài trông thô sơ
và rất đỗi bình thường của người đồng mình lại chứa đựng một tâm hồn, tầm vóc cao đẹp.
- Còn “quê hương thì cho phong tục”; “phong tục” của quê hương như sợi dây vô hình níu giữ
tình cảm của con người với quê cha đất tổ. Dẫu sống ở phương trời nào vẫn không thôi nhớ về quê
hương.
 Tác giả mượn lời người cha nói với con để ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người đồng
mình. Mỗi lần người cha tâm tình với con bằng lời thơ ngọt ngào, tha thiết là một lần phẩm chất
người đồng mình được hiện ra.
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn”
Ngươi cha không hề lấy quyền uy để ép buộc con mà chỉ nói rất nhẹ nhàng như một lời tâm
sự, tâm sự về ước nguyện, một ước nguyện rõ ràng dứt khoát của cha, để con tự hiểu con tự nhận
ra đường đi, suy nghĩ và cách sống của mình, và phải chăng chính vì lẽ đó mà ở đây từ “sống”
được lặp lại đến ba lần để con chú tâm ghi nhớ:
Sống trên đá không chê đá ghệp ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sống như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
+ Người cha muốn con “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh – Sống trong thung không chê
thung nghèo đói” nghĩa là phải biết sống như cha anh đã từng sống, không mặc cảm, tự ti với
hoàn cảnh gian nan của dân tộc mình, sống gắn bó, nghĩa tình với quê hương dù quê hương còn
nghèo khó bởi vì quê hương mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mỗi đời người là mảnh đất thiêng
liêng. Càng nghèo khó càng phải gắn bó, sẻ chia. “Đi xa càng muốn về, khổ đau càng muốn về”
“Quê hương nếu ai không nhớ sẽ không lớn nổi thành người” (Đỗ Trung Quân), vì đây là truyền
thống của người đồng mình. Và còn hơn thế nữa quê hương đã cho ta phong tục tập quán, cho ta
những gì tốt đẹp nhất, đã tình nghĩa với ta. Nếu con chê, nếu con muốn ruồng bỏ quê hương mình
thì con chính là kẻ vong ân bội nghĩa, uống nước không nhớ nguồn, ăn quả không nhớ kẻ trồng
cây. Nếu vậy con thật đáng chê trách, nếu vậy con sẽ không thể lớn nổi thành người.
+ Người cha còn muốn con:
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Phải có sức sống mạnh mẽ, khoáng đạt, hồn nhiên như sông, như suối, phải biết chấp nhận
“Lên thác xuống ghềnh”, không ngại vượt qua gian khổ, khó khăn bằng ý chí, niềm tin của mình.
- Từ «sống » được lặp lại ở câu thơ đến ba lần dường như có dụng ý, phải chăng người cha muốn
nhấn mạnh con người muốn tồn tại là phải biết cách sống, biết hội nhập với người đồng mình.
Thái độ dè bỉu, chê bao không phải là của người sống có nghĩa có tình, thủy chung với quê
hương. 
- “Con ơi” – một lần nữa người cha lại thốt lên với một âm điệu nhẹ nhàng, trìu mến và tha thiết:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt” (Người cha nhắc lại thêm một lần nữa để con khắc cốt ghi tâm)– “Lên
đường”, lên đường nghĩa là con sẽ không còn ở đây nữa, sẽ bay đến một vùng đất xa lạ, sẽ bắt gặp
“khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”, sẽ có rất nhiều thứ hơn quê hương mình, nhưng
con chớ tự ti, chớ chán nản, phải biết mang theo những phẩm chất của người đồng mình, phải biết

6
lấy khó khăn để tôi đúc cho ý chí của mình lớn lao, mạnh mẽ, cao thượng, tự trọng không được bé
nhỏ, tầm thường. Con hãy nhớ người đồng mình, người dân tộc mình có thể thô sơ da thịt, có thể
vóc dáng nhỏ bé nhưng tâm hồn, nhân cách, trí tuệ, ý chí bản lĩnh thì không được phép bé nhỏ.
Phải lấy quê hương làm nền tảng để sống cho bằng người. Làm như thế có nghĩa là con đang tiếp
nối truyền thống của người đồng mình, làm như thế là con đang góp phần làm rạng danh cho quê
hương. Người cha đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh của truyền thống quê hương.
3. Nghệ thuật:
- Thể thơ tự do, với số câu số chữ không theo khuôn định phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên.
- Giọng thơ tha thiết, trìu mến, nhịp điệu thơ bay bổng đặc biệt là qua các lời gọi mang ngữ điệu
cảm than “thương lắm con ơi”; “yêu lắm con ơi”; “đâu con” tạo nên lời tâm tình nhỏ nhẹ.
- Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng.
- Cách sử dụng hình ảnh cụ thể theo lối tư duy của người miền núi, cụ thể mà vẫn khái quát, mộc
mạc mà vẫn giàu chất thơ.
- Bố cục bài thơ: tứ thơ phát triển chặt chẽ hợp lí, con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ 
Tình yêu thương của quê hương  Người cha muốn con gắn bó ân tình với quê hương.
* Tổng kết:
Qua việc ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, người cha dặn con cần kế tục, phát
huy, xứng đáng truyền thống quê hương.
III. Kết bài :
- « Nói với con » là một bài thơ hay của Y Phương. Với cách dẫn dắt tự nhiên, giọng điệu thiết
tha, trìu mến, thể hiện rõ qua từng từ ngữ, hình ảnh. Bài thơ đã thể hiện được tình cha yêu con,
muốn con nên người nên chỉ dạy con biết yêu quê hương và tự hào về truyền thống của người
đồng mình.
- Hãy luôn nghĩ về tình cảm mà cha mẹ dành cho mình để sống xứng đáng hơn sự yêu thương và
bảo bọc ấy như ca dao đã từng chỉ dạy :
Nuôi con cho được vuông tròn
Mẹ thầy dầu dãi xương mòn gối ong
Con ơi giờ trọn hiếu trung
Sớm hôm chăm chỉ kẻo uổng công mẹ thầy.
(Ca dao)

Ngô Thế Vinh cho rằng: “Lời là tiếng nói của con tim, văn chương là cái làm cho lời dài thêm
vậy”. Tức thơ ca nói riêng và văn học nói chung là nơi kí thác những tâm sự, những nỗi niềm của
trái tim thi nhân. Từ ấy, mỗi khi ngâm khẽ tiếng thơ ta luôn giác ngộ được đâu đây một lời nhắn
nhủ chân thành của chính người viết dành cho ai đó, cho nhân sinh và cho cả cuộc đời. Ngược
dòng thời gian trở về với địa hạt thơ ca năm 1980, có một thi phẩm đặc sắc đã ra đời, đó là "Nói
với con" của Y Phương. Bài thơ là một khúc nhạc đan xen nhiều cung bậc, vừa mộc mạc, nhẹ
nhàng vừa hàm súc, cô đọng, vừa thủ thỉ tâm tình, vừa triết lý sâu xa. Y Phương đã gợi nhắc cho
con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi sinh linh trên cõi đời này, về vẻ đẹp phẩm chất của người
đồng mình.
Y Phương là một ngòi bút xuất sắc và tiêu biểu. Tác phẩm của ông khẳng định được vị thế
riêng trong thơ ca hiện đại bởi một “chất giọng” đặc trưng của người Tày, vừa đậm đà bản sắc
“người đồng mình", vừa rộng mở, giao hòa với vùng văn hóa rộng lớn để hợp lưu thành con sông

7
văn chương Việt Nam. Nhà thơ Y Phương vẫn miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa, cần mẫn gom
nhặt và làm sống dậy những giá trị nhân văn trong truyền thống văn hóa của dân tộc. Bài thơ “Nói
với con” được sáng tác năm 1980, in trong "Thơ Việt Nam 1945 - 1985". Thi phẩm là lời tâm sự
của ông với đứa con gái đầu lòng, cũng là lời tâm sự với chính ông. Ngòi bút Y Phương đã khơi
gợi trong lòng độc giả những xúc cảm dạt dào khi hướng về cội nguồn, về gia đình, về mảnh đất
mình sinh ra và vẻ đẹp của những con người nơi ấy.
Thi phẩm mở ra với khúc nhạc dạo đầu gợi lên hình ảnh một gia đình đầm ấm, hạnh phúc, ngọt
ngào yêu thương:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười" Xuyên suốt bốn câu thơ là những hình ảnh đối xứng "chân phải - chân
trái", một bước - hai bước", "tiếng nói - tiếng cười", "cha - mẹ". Bốn câu thơ dùng với 15 thanh
trắc, như 15 phím đàn tấu nên những âm điệu gân guốc. Ngâm khẽ tiếng thơ, bất chợt ta mường
tượng đến cảnh đứa trẻ chập chững đi những bước đầu đời, vấp ngã, òa khóc rồi lại khúc khích
đứng lên trong vòng tay chở che dìu dắt, trong ánh nhìn trìu mến của song thân. Bên phải con là
"tình cha ấm áp như vầng thái dương", bên trái con là "nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra",
con bước đi trong vòng tay chăm chút, trong niềm mừng vui đón nhận của gia đình. Mẹ cha cẩn
thận đếm từng bước đi của con “một bước”, “hai bước” với hết thảy những nâng niu, trong chờ,
dõi theo từng cử chỉ, từng bước chân bé nhỏ.Thước phim được chuyển đến cảnh đứa bé bi bo
tiếng "cha", tiếng "mẹ" ngọng nghịu trong niềm tự hào, niềm vui rạo rực và cảm xúc vỡ òa của mẹ
cha. Con như sứ giả của hạnh phúc mà Thượng Đế đã ban tặng cho gia đình mình, biết bao lo
toan, mệt nhọc của cha mẹ đều vượt qua được là nhờ vào "tiếng nói", "tiếng cười" của con. Là
một thi sĩ từng đi lính âm hưởng, trong thơ của Y Phương còn vang lên những tiếng "một - hai",
"một bước - hai bước" như chính khẩu hiệu đi đều của khúc ca hành quân. Tiếng thơ cứ thế vấn
vương, khơi gợi trong "ốc đảo" tâm hồn con thơ và bạn đọc muôn đời một điều tâm niệm của
người cha: gia đình là cội nguồn sự sống là chốn bình yên luôn yêu thương con vô điều kiện, luôn
đón chào, ôm ấp con.
Gia đình trao cho con sinh mạng, và con lớn lên, trưởng thành còn nhờ vào cuộc sống lao động,
văn hoá của người làng mình, nhờ quê hương thơ mộng và thiên nhiên sâu nặng nghĩa tình:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Với tình cảm tha thiết, chân thành, Y Phương đã nhắc đến "Người đồng mình" qua câu thơ
chan chứa âm điệu trìu mến, kết đọng trong một từ "yêu". "Yêu" ấy là gắn bó, là cảm mến và tự
hào. Các động từ "đan, cài, ken" nối tiếp nhau gợi đến quá trình lao động miệt mài, tỉ mỉ. Người
đồng mình lao động với bản chất khéo léo, với đôi bàn tay cần mẫn đan những nan tre, nan nứa để
chiếc lờ - một dụng cụ đánh bắt cá bình thường cũng mang dáng hình của “nan hoa”. Phải chăng
"nan hoa" mà tác giả nhắc đến còn phúng dụ cho sự "đom hoa kết trái", những thành quả của

8
tháng ngày hăng say làm việc. Vách nhà của người Tày không chỉ được ken bằng ván gỗ mà còn
bằng cả câu ca, tiếng hát hồn nhiên, vui tươi. Khi những tia nắng yếu ớt cuối ngày ngất lịm phía
sau lưng đồi, họ quay quần bên nhau trong một ngôi nhà rong để cùng hát ca, nhảy múa, để cuộc
sống thêm tràn ngập niềm vui. Lối liên tưởng “vách nhà ken câu hát” còn ẩn chứa một nét văn hóa
phi vật thể của người dân tộc. “Vách nhà” là chứng nhân cho tình yêu lứa đôi. Những đêm trăng
sáng lở lửng trên đỉnh đầu, người con trai ngồi ngoài vách, người con gái ở bên trong vách. Họ
cùng nhau tâm sự những vui buồn của cuộc sống, hát cho nhau nghe những bản tình ca tuổi trẻ,
hát tràn đêm đến sáng bạch. Từ những câu hát ấy, tình yêu được kết tinh, nghĩa vợ chồng son sắt
được hình thành.
Khi viết về quê hương, nếu nhà thơ Tế Hanh nhớ về dòng sông quê xanh biếc "nước gương
trong soi tóc những hàng tre" thì Y Phương thì lại viết về núi rừng và những con đường nghĩa
tình. Rừng cho hương sắc của hoa, rừng che chở, cung cấp nguồn nhựa sống dồi dào và duy trì
sinh kế cho người dân tộc. Với người dân chài:
"Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"
( Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận )
Còn với người dân Tày, những cánh rừng hoa ban trắng xòe tinh khôi hay hồng tím nhẹ nhàng
đã làm đẹp cho cuộc đời và dạy cho họ biết yêu quý thiên nhiên. Dường như tất cả những gì tinh
túy, đẹp nhất mẹ thiên nhiên đều ưu ái ban tặng cho con người. Không phụ tấm lòng thiên nhiên,
người đồng mình đã sống hòa mình gắn bó và trân quý rừng thiêng sông núi. "Con đường" cũng
mở rộng vòng tay chào đón những đứa con về với làng, với bản, đón chào "những tâm hồn" đôn
hậu, bình dị, hồn nhiên, vô tư. Nhờ nó mà con người có thể đến gần với nhau. Vì thế, con đường
là sợi chỉ đỏ kết nối tình cảm, cũng là sợi tơ duyên để nối kết những tâm hồn, trong đó có cha và
mẹ. Hình ảnh “ngày cưới” là “ngày đầu tiên”, là ngày “đẹp nhất”, đáng nhớ nhất trong đời. Ngày
cưới - ngày mà lời ca của cha mẹ trong những đêm trăng tròn đã tạo nên tình yêu trọn vẹn. Ngày
cưới - ngày khởi đầu ngày đặt nền móng cho hạnh phúc gia đình. Nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về
tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ muốn con biết chính quê hương đã tạo cho cha mẹ cuộc sống
hạnh phúc, mạnh mẽ, bền lâu. Dặn dò con về quê hương ,về “người đồng mình “, nhà thơ “chắt”
vào con ý thức nhân sinh đẹp đẽ, đó là tình yêu quê hương, bản quán.
Thi sĩ đã nâng nâng niu, ôm ấp và thổi vào hồn thơ vẻ đẹp phẩm chất của người dân Tày:
"Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn"
Mỗi lần nhắc đến "người đồng mình", trái tim Y Phương lại thổn thức cất tiếng "yêu lắm" và
"thương lắm". Thứ tình cảm ấy cứ tha thiết chân thành, ngân dài bất diệt trong xuyên suốt một bài
thơ và cả một đời thơ. Có lẽ từ "thương" mang trong mình một cung bậc cảm xúc da diết, trìu mến
hơn "yêu". “Thương” ấy còn ẩn chứa một cái gì đó nghẹn ngào, xót xa. Hình ảnh sóng đôi "nỗi
buồn - chí lớn" phúng dụ cho phẩm tính của người dân Tày. "Nỗi buồn" gợi đến đời sống tâm hồn
rộng mở của người đồng mình được dựng xây từ những nỗi niềm trầm tư. Còn "chí lớn" là ý chí
quật khởi, khát vọng sống mãnh liệt. Bằng lối tư duy hình tượng độc đáo, tác giả đã lấy thước đo
vô cùng, vô tận của không gian để thể hiện tầm kích tình cảm, chí hướng của con người. Có thể
nói, cuộc sống của người đồng mình vẫn còn đó những nỗi buồn thầm kín, những nỗi lo mưu sinh,
cơm áo gạo tiền. Song, họ sẽ vượt qua tất cả như hoa hướng dương vươn mình chiêm ngưỡng

9
cuộc đời, bởi trong họ luôn thường trực ý chí và nghị lực cùng niềm tin vào tương lai tươi sáng
của dân tộc.
Người đồng mình dù phải oằn mình trong nghèo khổ, gian nan thì tình cảm thủy chung gắn bó
với quê hương, cội nguồn vẫn mãi vẹn nguyên vẹn toàn:
"Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung
nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc" Ba chữ “dẫu làm sao” đặt ở đầu câu thơ làm nhịp thơ thoáng chốc ngập
ngừng. "Dẫu làm sao” chăng nữa, dẫu cuộc đời có “vạn biến” khó lường, "cha vẫn muốn" con giữ
được tâm thế “bất biến”, không được quên cội nguồn sinh dưỡng. Có lẽ cõi lòng người cha chứa
đầy những dự cảm, đau đáu, lo âu về cái thời kỳ mà "cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp
kiếm tìm tiền bạc". Và nối tiếp dự cảm là khao khát, là lời nhắc nhở con cũng như căn dặn chính
mình phải biết tự hào, gìn giữ và lưu truyền nếp sống ngàn đời của tổ tiên. Điệp từ “sống”, điệp
cấu trúc cùng các hình ảnh "sống trên đá, sống trong thung" gợi lên cuộc sống đầy những gam
màu lao lực, gian khổ. Thành ngữ "lên thác xuống ghềnh" tạo nhịp vận động không ổn định như
chính cuộc sống bấp bênh của những người con bản làng thắm đẫm môi hôi trên từng thửa ruộng.
Có những kiếp người "dầm chân trong đời nghèo”, triền miên trong nỗi bâng khuâng "quê tôi còn
nghèo lắm"( Tiếng hát tháng giêng) nhưng họ vẫn "không chê" đá, nghĩa là không chê mảnh đất
nghĩa nặng tình sâu. "Không chê" thung, nghĩa là không chê cuộc sống lam lũ, nghèo khổ và
"không lo", không ngại nhọc nhằn, thiếu thốn. Với sự lạc quan, nghị lực cùng tình yêu xứ sở,
đồng bào nơi đây tìm mọi cách để thích nghi và vươn lên cái khắc nghiệt, để ươm mầm hạnh phúc
và hy vọng. Một lòng dành trọn tâm tư cho quê hương, nhà thơ Y Phương vẫn giữ nguyên vẹn
những "rung động bằng trái tim suối nguồn và suy tư bằng sừng sững đá”. Phép so sánh “Sống
như sông như suối” gợi đến sức sống bền bỉ, sống giao hòa với thiên nhiên bốn bề. Người đồng
mình sống với tâm hồn tràn đầy sinh lực, rộng mở, lãng mạn và khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn
của sông núi. Tình cảm của họ tựa như dòng sông trong veo và ngọt lành đã tưới mát những tâm
hồn lạc lõng giữa muôn trùng nỗi buồn. Tiếng thác suối thì thầm vang vọng, mang theo cả bóng
dáng quê hương khắc tạc vào linh hồn người Tày, giúp họ thêm kiên định "sinh hoạt như những
người Tày ngay giữa lòng Thủ đô..."
Ở những câu thơ tiếp theo, tác giả đã ngợi ca nét đẹp tự lập từ cường và tinh thần tự tôn dân tộc
của người đồng mình:
"Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao
quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục." Tác giả đã gặt hái được thành công nhờ hình ảnh đối lập
tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong. Người miền núi bàn tay chai
sạn, da thịt thô ráp, và chính sự "thô sơ da thịt" ấy đã tạo cho người Tày một nét đẹp chất phác,
thật thà. Song, người quê mình “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Bởi trong họ, ý chí nghị lực đã
thấm nhuần máu xương, cốt cách tự tôn đã ăn sâu da thịt và niềm tin, niềm kiêu hãnh chưa bao

10
giờ vơi cạn. Giản dị, hồn hậu mà mạnh mẽ, kiên gan đã trở thành phẩm chất ngàn đời của người
miền núi. Hình ảnh "tự đục đá" gợi về một nét văn hóa gắn liền với cuộc sống của "người đồng
mình". Đó là việc họ đẽo đá kê chân cột nhà, làm nên những lối đi nghĩa tình... Sự liên hoàn của
ba thanh trắc " tự - đục - đá" tạo nên thứ âm điệu trúc trắc nhằm tái hiện nỗi nhọc nhằn của “người
đồng mình” trong việc kiến tạo quê hương trên đá. Sự liên hoàn của các thanh bằng “kê - cao -
quê - hương” lại mở ra hình ảnh một thế đứng, một tầm vóc cao vời vợi của quê hương giữa mênh
mang đất trời. Bằng chính đôi bàn tay khéo léo cùng tinh thần tự lực tự cường, họ đã xây đắp và
nâng đỡ quê hương thăng hoa trên những nấc thang phát triển. Âm điệu chuyển từ trúc trắc đến
nhẹ nhàng tựa như một thước phim về hành trình của quê hương từ thuở “khai thiên lập địa” đầy
khó nhọc, nặng nề đến khi ung dung, khoan khoái đứng vững trên những “gập ghềnh” của đá.
Chính cuộc hành trình phảng phất những giọt mồ hôi, nước mắt ấy đã làm nên truyền thống, làm
nên phong tục cho mảnh đất quê hương. Và những truyền thống tốt đẹp của bản quán là nền tảng,
là điểm tựa tinh thần vững chắc để từ đó ta được lớn lên, được trưởng thành, được "sống đàng
hoàng như một con người".
Bốn câu thơ ngắn dài đan xen ở cuối thi phẩm vừa khép lại "khúc nhạc đàn tính" - Nói với con,
vừa khơi gợi trong lòng người đọc biết bao suy tư về lời thủ thỉ thiết tha, chân tình của Y Phương
dành cho con:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.” Tiếng gọi "con ơi" được lặp đi lặp lại trong bài thơ như chan chứa niềm mong mỏi
rằng lời dạy của cha sẽ mãi bên con, cùng con vượt qua sự đời "thương hải tang điền". Ý thơ “Tuy
thô sơ da thịt” một lần nữa được xướng lên càng trở nên da diết, sâu sắc hơn. Có lẽ dụng ý của
nhà thơ là muốn mượn cái hình thức giản dị bề ngoài của thôn làng đơn sơ để gợi nhớ đến truyền
thống vĩ đại của quê hương, khắc sâu trong con những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”.
Rồi một mai này đây, con chẳng còn chập chững những bước đi đầu đời, con bắt đầu khăn gói
"lên đường", va vấp với xã hội ngoài kia. Rồi một mai này đây, cha thấy bóng lưng đứa trẻ năm
nào đang rảo bước trên con đường đời, con đường của chân trời mới, con đường dẫn đến thế giới
của "người trưởng thành". Mong rằng khi ấy, con phải thật mạnh mẽ, vững vàng, không được "ôn
nghèo kể khổ", yếu mềm buông xuôi trước những thách thức của cuộc đời. Cách nói “nghe con”
như một lời khuyên chí tình dành cho con, cũng như thế hệ trẻ được nuôi nấng trong tình thương
của buôn làng. Hãy nhớ rằng gia đình và quê hương luôn dõi mắt theo những bước chân của con
như một người cha, luôn dang rộng vòng tay ôm con vào lòng như một người mẹ, để chữa lành
những vết xước trong con, để con có thêm dũng khí, sức mạnh và niềm tin. Bởi vậy, con hãy sống
sao cho xứng đáng với truyền thống của quê hương, với cái nôi linh thiêng của mình.
Bài thơ có bố cục chặt chẽ, phong cách miền núi với ngôn ngữ “thổ cẩm” rất độc đáo. Hình ảnh
đối xứng, mộc mạc giàu liên tưởng. Thi phẩm còn là sự hòa hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy hình
tượng của người dân tộc và tư duy thơ Tượng trưng, Siêu thực hiện đại. Chất miền núi thấm sâu,
lan tỏa trên từng câu thơ song hành cùng giọng điệu thiết tha trìu mến như đã góp phần làm sáng
toả, nổi bật lên những lời thủ thỉ, tâm tình mà "Nói với con" muốn truyền tải. Nhà thơ Y Phương
đã chọn cách sáng tạo thơ rất nhạy bén, sâu sắc, tinh tế, liền mạch và tự nhiên thể hiện tình yêu
của mình đối với con, với quê hương xứ sở.

11
Chất thơ sung mãn, lối viết khoáng đạt giàu hình ảnh, giàu sắc thái dung hòa con người với tự
nhiên đã tạo cho "Nói với con" của Y Phương một sức sống bền bỉ. Sức sống ấy không chỉ ở ngôn
từ, mà nó đã bật trào ra khỏi con chữ và phập phồng trên trang giấy. Tiếng thơ là lời răn dạy của
người cha, mong rằng dẫu mai này con có đi vào biển người tấp nập, dấn thân vào nơi hào nhoáng
của đô hội, con cũng phải biết "uống nước nhớ nguồn", biết rằng mình sinh ra là nhờ cái nôi hạnh
phúc của gia đình, nhờ những truyền thống tốt đẹp của quê nhà. Cha cũng mong con phải khắc cốt
ghi xương hai tiếng "quê hương" vào tâm hồn và trái tim như Xuân Quỳnh từng viết:
"Mỗi người có một quê
Ngày dại thơ để ở
Tuổi thiếu niên để yêu
Và lớn lên để nhớ…"
"Nói với con" đã lẳng lặng trở thành một bài thơ đời. Để rồi có những phút ngã lòng, ta vịn vào
thi phẩm để thêm yêu gia đình, để biết tự hào, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của văn
hoá dân tộc ta.

12
13

You might also like