You are on page 1of 7

BẾP LỬA (BẰNG VIỆT)

Quê hương, gia đình, làng xóm là những kỷ niệm đẹp đẽ, bình dị và thân thuộc với những ai xa
quê. Với Tế Hanh, quê hương là làng chài ven biển “Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”,
với nhà thơ Đỗ Trung Quân, quê hương là chùm khế ngọt, là con diều huyết. Nhưng riêng với
Bằng Việt, quê hương của ông gợi về bằng một hình ảnh rất quen thuộc, bình dị, mộc mạc -
bếp lửa. Ra đời vào năm 1963, bài thơ “Bếp Lửa” còn là những dòng cảm xúc nói lên lòng kính
yêu với người bà thân yêu và niềm nhớ mong về bà của tác giả.

Nhà thơ Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ. Bằng Việt
tài hoa, nhạy cảm, giàu tình yêu thương và có trách nhiệm với cuộc sống, với thơ ca. Thơ ông
trong trẻo, mượt mà nhưng sâu lắng. Bắt nguồn từ cảm xúc nhớ thương da diết người bà, quê
nhà thân thương, bài thơ “Bếp Lửa” được sáng tác khi nhà thơ Bằng Việt còn là sinh viên du học
tại Liên Xô. Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm,
điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người
cháu (Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về kỷ niệm trong sáng thời ấu thơ, được sống trong sự yêu
thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối
với người bà, đối với gia đình, đối với quê hương, đất nước.

Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn bó với làng quê có con sông
xanh biếc, cây đa, bến nước, sân đình… Những dòng hồi tưởng của Bằng Việt lại bắt đầu từ hình
ảnh thân thương về bếp lửa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Trong cuộc đời, ai cũng có cho riêng mình những kỷ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong
sáng. Những kỷ niệm ấy là những gì thiêng liêng nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con
người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỷ niệm, đó chính
là kỷ niệm, những tháng năm sống bên bà trong kháng chiến trường kỳ của dân tộc, cùng bà
nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần trở thành điệp
khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định bếp lửa như một dấu ấn không bao
giờ phai mờ trong tâm trí của nhà thơ. Từ láy “chờn vờn” giúp ta hình dung ánh lửa hồng khi
mờ khi tỏ trong sớm mai, gợi về cái mờ nhòa của kí ức theo thời gian. Người cháu xa nhà không
thể nào quên được bếp lửa bình dị, thân quen. Không chỉ thấy cái “chờn vờn” của ngọn lửa mà
cháu còn cảm nhận được cái hơi ấm của màu than đỏ đang “ấp iu nồng đượm”. Từ láy “ấp iu”
vừa diễn tả chính xác công việc nhóm lửa vừa gợi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và tấm lòng chăm
chút của người nhóm bếp. Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn” trong “sương sớm” gợi lên những
mảnh kí ức về bà. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật, mang lại sự lan tỏa ấm
áp trong tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên cũng là bếp lửa của cuộc đời bà,
một cuộc đời đã trải qua đã trải qua “biết mấy nắng mưa”. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất
nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay
kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một
tình yêu thương bà vô hạn. Các câu thơ cứ nhẹ nhàng, chân thật như sương mai buổi sớm lan
tỏa vào tâm hồn người đọc một tình cảm yêu thương sâu lắng. Đó là hình ảnh một bếp lửa
nhuốm màu cổ tích chờn vờn trong sương sớm. Ngọn lửa không to cũng chẳng nhỏ xua tan đi
cái lạnh giá của vùng nông thôn buổi sáng tinh mơ. Hình ảnh đó khắc sâu trong tâm trí non nớt
của đứa cháu bé bỏng. Nó chứa đựng cả một vùng trời kí ức, một miền tuổi thơ đầy sóng gió.
Từ đó, đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người cháu về người bà - người nhóm lửa
cho mỗi buổi sớm mai. Gắn liền với đó là hình ảnh của người bà dầu dải biết mấy nắng mưa.
“Nắng mưa” ở đây không chỉ là những hiện tượng mang tính thiên nhiên thời tiết mà nó còn là
những nắng mưa đời bà. Đó là hình ảnh ẩn dụ quen thuộc gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, những
bão giông của cuộc đời hằn lên đôi vai gầy khắc khoải của bà để nuôi cháu khôn lớn. Chữ
“thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia và bao
hàm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc cùng với nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành
cho bà của mình. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ
niệm trên dòng sông tuổi thơ êm đềm mà suốt cuộc đời này người cháu không bao giờ quên
được. Từ đây bà và bếp lửa là hai hình ảnh sóng đôi, đi suốt dọc bài thơ và theo cả nỗi nhớ của
người cháu. Chỉ với ba câu thơ, ta thấy trong nỗi nhớ nhung hiện lên chân dung một người bà
bình dị mà nhân hậu biết bao.
Nhớ về những năm tháng tuổi thơ ấu sống cùng bà, Bằng Việt nhớ về những điều bình dị nhất.
Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi thủ thỉ, tâm tình. Bằng Việt như đang kể lại
cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình, một câu chuyện cổ tích đời thường từ
những điều đơn giản, từ một bếp lửa ấp yêu thương. Từ bếp lửa nhớ về người nhóm lửa, ký ức
đưa người cháu trở về những năm lên bốn tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Tuổi thơ của cháu không phải là vòm trời cổ tích cao rộng với những phép màu diệu kì của ông
Bụt, bà Tiên. Tuổi thơ của cháu thật nhọc nhằn, quen mùi khói bếp nhà nghèo và có bóng đêm
ghê rợ của nạn đói năm 45. Tác giả sử dụng thành ngữ “đói mòn đói mỏi” diễn tả cái đói triền
miên, dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người. Người bố đi đánh xe với
con ngựa gầy, tất cả trong mùi khói hun đến nghẹt thở, nao lòng cả tuổi thơ. Nghĩ mà thương
tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Cái cay nồng mà người cháu cảm
nhận được không phải là mùi khói bếp mà đó chính là dư vị tuổi thơ ám ảnh trong tâm thức
bỗng trỗi dậy mạnh mẽ. Dù cho năm tháng qua đi, những kí ức ấy sẽ để lại ít nhiều ấn tượng
trong lòng đứa cháu, trở thành vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai, để rồi khi nghĩ lại thấy
“sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người cháu hay chính là tấm lòng của người bà
làm đứa cháu không cầm được nước mắt. Những câu thơ được viết lên bằng những tình cảm
chân thực nên chan chứa nước mắt và dày đặc làn khói, giọng thơ trầm xuống thấm thía một
nỗi buồn cơ cực đến xót xa. Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống, của tình
yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa
quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi lên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong
tâm hồn thi sĩ thuở nhỏ:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
Bằng giọng thơ thủ thỉ như kể một câu chuyện cổ tích, tác giả nói về những năm tháng của cuộc
sống gian khổ, cơ cực và đứa cháu lớn lên trong sự che chở, đùm bọc, cưu mang của người bà.
Tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng của bà.
Tám năm - một quãng thời gian không dài nhưng cũng chẳng ngắn đủ cho cháu cảm nhận được
tình yêu thương của bà dành cho cháu. Một cuộc sống đầy ắp khó khăn, khổ cực nhưng đầy
tình yêu thương từ bà. Trong suốt quãng thời gian sống với bà, tu hú chính là nhân chứng
chứng kiến những kỉ niệm của bà và cháu. Tiếng chim tu hú gợi về những buổi mai, hai bà cháu
cùng nhau nhóm lửa giữa không gian mênh mông, khô quạnh. Tác giả như tách khỏi dòng hồi
tưởng, như đang trò chuyện cùng bà: “Bà còn nhớ không bà?” Bởi chỉ có hai bà cháu mới hiểu
hết ý nghĩa của âm thanh ấy. Tiếng chim tu hú phải da diết, khắc khoải lắm, nên cháu khó quên
và bồi hồi xúc động khi nhớ lại. Có lẽ khi tiếng chim tu hú từ xa vọng lại, hai bà cháu mới cảm
nhận rõ rệt nhất sự thiếu vắng trong ngôi nhà của mình. Đứa trẻ nào không khao khát tiếng nói
của cha, hơi ấm của mẹ? Người bà nào chẳng ước mong tuổi già có con cháu quây quần bên
cạnh? Vì hoàn cảnh chiến đấu, bố mẹ công tác xa không về, bà nuôi cháu trong trống vắng,
quạnh hiu. Nỗi lòng của chim tu hú “kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” đâu có khác gì với
nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi
dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết, âm vang trong tim người đọc. Những kỉ niệm trôi theo
một nhạc điệu tâm tình thủ thỉ, chậm rãi đầy nhung nhớ đã đưa ta về với tuổi thơ sống bên bà
và đầy ắp tình bà cháu của tác giả. Khi kháng chiến bùng nổ, bố và mẹ đều không có ở bên,
bằng Việt đã vẽ lên hình ảnh của bà, người bà đáng kính, đáng yêu suốt những năm dài khó
nhọc đã chăm sóc, dạy dỗ cháu nên người:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.”
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi
công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa
cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Tình thương của bà là sự bảo ban, chăm sóc,
không khác gì công ơn sinh thành và nuôi dưỡng. Câu thơ gồm hai vế tiểu đối cân xứng với nhịp
thơ êm ái, hài hòa. “bà”, “cháu” được nhắc lại nhiều lần “Cháu ở cùng bà…bà bảo…bà dạy..bà
chăm cháu học”, âm điệu quấn quýt như sự gắn bó giữa hai tâm hồn bà-cháu trong tình yêu
thương. Cháu lớn khôn trong vòng tay yêu thương, chăm sóc, che chở của bà. Bà là người đã
nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Bà không chỉ là bà mà như một người bố, người mẹ, người
bạn tri âm tri kỉ, là chỗ dựa vững chắc để cháu chia sẻ, tâm sự, để cháu tựa vào mỗi khi mệt
mỏi. Một loạt các từ ngữ “bà bảo”, "bà dạy”, “bà chăm” vừa diễn tả một cách sâu sắc tình
thương bao la, sự chăm chút của bà dành cho cháu, vừa thể hiện lòng biết ơn của cháu với bà.
Bà là chỗ dựa, bao bọc, chở che cho cháu suốt đời. Ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và
trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu
truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước
mơ cùa con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo
thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của
riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những
tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là
người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Bà còn
“Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”. Bà kể những câu chuyện đó để nhắc nhở cháu về truyền
thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Không chỉ
thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ
là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho
cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng.
Bằng Việt tôn trọng, yêu quý người bà tần tảo, luôn hiếu thảo, ngoan ngoãn biết vâng lời bà.
Tình yêu thương ấm áp, sâu lắng của bà cứ vấn vương trong tâm trí cháu cho đến tận bây giờ
khi đã xa bà. Tình yêu và kính trọng bà của tác giả được thể hiện thật chân thành và sâu sắc :
“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút,
đùm bọc, chở che dành cho cháu. Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng
dưới tiết trời giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về,
chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn, thương bà ở một mình dưới
túp lều tranh xiêu vẹo, mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng như cầu mong đứa cháu được bình
an. Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu
hú:
“Tu hú ơi!Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa.”
Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Câu hỏi tu từ
“Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” mới thấm thía, xót xa
làm sao!. Nó diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà. Những câu thơ
giống như lời đối thoại tâm tình của và bà trò chuyện trong tâm tưởng. Tất cả như lời giãi bày,
tâm sự của cháu dành cho bà. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu
hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến bài thơ như phủ sắc bàng bạc của không
gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.

Kỷ niệm về bà không chỉ là những ngày tháng dẫu gian nan nhưng êm đềm vì có bà bên cạnh,
cũng có lúc đau buồn đến tuyệt vọng:
"Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
"Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên"
Chiến tranh - một danh từ bình thường nhưng sức công phá của nó thì khốc liệt vô cùng, nó gây
ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu Bằng Việt cũng trở thành nạn nhân của
chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi, phải sống tản cư… Cuộc sống ngày
càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng
mênh mông. Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. “Bố ở chiến
khu bố còn việc bố - Mày có viết thư chớ kể này kể nọ - Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Dù cho
ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã
không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của
mình lo buồn. Bà cứng rắn, giúp cháu vượt qua khó khăn. Bà không muốn đứa cháu đang bận
việc nước phải lo việc nhà. Bà vẫn vững lòng tin vào tương lai của cuộc kháng chiến mà một
lòng bám đất bám quê, dặn cháu không được để bố lo lắng. Tấm lòng người bà thương con,
thương cháu ân cần chu đáo biết bao. Đó cũng chính là phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam
ta từ muôn thuở, luôn can đảm, bản lĩnh và cứng rắn trước nỗi đau của dân tộc, hi sinh tình
riêng đặt tình chung lên trên. Đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của tình yêu quê hương đất
nước đó ư. Ngọn lửa tàn ác của giặc có thể làm mất đi ngôi nhà của bà và cháu nhưng lại làm
hồi sinh, nảy nở trong lòng bà một niềm tin sắt đá vào cách mạng. Cháy trong ngọn lửa thực kia
còn là ngọn lửa của niềm tin, của ý chí mà bà nói riêng các bà mẹ Việt Nam anh hùng nói chung
dành cho kháng chiến. Ta đọc được ở đây sự hy sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của
người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước đánh
giặc ngoại xâm. Bà lặng lẽ hy sinh cho con cháu, cho đất nước.
Không một giọt nước mắt, bà giấu nỗi đau thương để luyện cho cháu một tình cảm cao hơn.
Hình ảnh người bà đã vượt ra khỏi tình cảm bà cháu thông thường mà vươn đến một tình cảm
rộng lớn hơn: lặng lẽ hi sinh, chia sẻ với chiến trường. Những năm chiến tranh ròng rã ấy, bà
âm thầm nhóm lửa, giữ lửa:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẳn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở câu trên, tác giả đã chuyển hóa thành ngọn lửa trong lòng bà. Như
thế, bếp lửa không chỉ được nhen bằng nhiên liệu củi, rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa
của sức sống, lòng yêu thương luôn “ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dằng”, bền
bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỷ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kỳ diệu nâng bước
cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền
cho các cháu. Cùng với hình tượng ngọn lửa, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm - rồi chiều”, các
động từ: “nhen, ủ sẵn, chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ
nữ Việt Nam giữa thời chiến tranh. Điệp ngữ ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã
làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động, tự hào. “Ngọn lửa” là sáng tạo nghệ thuật
đắt giá của tác giả, nó vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng, bất diệt của ngọn lửa,
lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. “Ngọn lửa” chính là
hiện thân cho tâm hồn, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người
nhóm lửa, giữ lửa mà bà còn là người truyền lửa cho người cháu cũng như là thế hệ mai sau. Bà
tin cháu mình sau này sẽ trưởng thành để xây dựng non sông, đất nước.
Từ hoài niệm về tuổi thơ và bà, người cháu suy ngẫm về cuộc đời, về lẽ sống của bà. Bà là người
tần tảo, giàu đức hy sinh và lòng nhân ái:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa.”
Nhà thơ đã gói ghém cả cuộc đời bà bằng một câu thơ với nghệ thuật đảo ngữ “Lận đận đời bà
biết mấy nắng mưa”. Bốn chữ “lận đận đợi bà” với cụm từ “biết mấy nắng mưa” đã gợi ra sự
dài dặc của thời gian, sự vất vả, gian truân, nhọc nhằn, khổ cực, chênh vênh của một đời người.
Bà đã kiên cường vượt qua mọi mưa nắng của cuộc đời để trở thành chỗ dựa cho con cháu.
Cuộc đời bà là một cuộc đời đầy gian truân, vất vả, nhiều lận đận, trải qua nhiều nắng mưa
tưởng như không bao giờ dứt. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ VN giàu
đức hi sinh, dù gian truân, vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương. Chiến tranh đã đi qua, những
gian khổ đã vơi bớt nhưng bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, bếp lửa bà vẫn “ấp iu nồng đượm”
như ngày nào. Điệp từ "nhóm” được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác
nhau. Nó cứ bồi đắp cao dần những nét kỳ lạ và thiêng liêng của bếp lửa. Từ "nhóm" đầu tiên :
"Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm" là động từ thể hiện một hành động làm cho lửa bén, cháy lên
ngọn lửa và một bếp lửa hoàn toàn có thật có thể cảm nhận bằng mắt thường. Bếp lửa đó để
xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt, để luộc chín nồi khoai, nồi sắn làm ấm lòng
cháu trong những ngày đông tháng giá. Và đó là một bếp lửa rất bình dị có ở mọi gian bếp của
làng quê Việt Nam. Thế nhưng từ "nhóm" trong những câu thơ sau thì lại mang ý nghĩa ẩn dụ.
“Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà mở rộng tấm lòng đoàn kết với xóm
làng, quê hương. Có nghĩa là bà đã nhóm lên, đã khơi dậy niềm yêu thương, những ký ức đẹp,
có giá trị trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn
cháu tình yêu thương ruột thịt, tình cảm sẻ chia tình đoàn kết với hàng xóm láng giềng và rộng
ra nữa là tình yêu quê hương đất nước. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà khơi dậy cả
những ký ức, kỷ niệm tuổi ấu thơ trong cháu để nhắc nhở cháu rằng, không bao giờ được quên
đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã từng trải qua,
không chỉ nhóm lên ngọn lửa ấm nồng mà cháy sáng mãi trong lòng mọi người. Người bà kỳ
diệu ấy đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục, bồi đắp cho người cháu về ước mơ, lẽ sống của “tâm
tình tuổi nhỏ”. Bếp lửa của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả nhưng bà nuôi cháu lớn khôn bằng
bếp lửa ấy. Khám phá nhiều ý nghĩa kỳ diệu, cao cả, thiêng liêng từ bếp lửa của bà, cháu nhận
ra: “Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa”. Từ nơi phương xa, cháu vẫn luôn nhớ về bà với niềm xúc
động mãnh liệt. Phép đảo ngữ, câu cảm thán với từ “ôi” đặt ở đầu câu bộc lộ sự ngạc nhiên,
ngỡ ngàng và vui sướng của cháu. Bếp lửa kỳ lạ và thiêng liêng chính là tình bà sâu nặng và diệu
kỳ. Bếp lửa ấy luôn hiện diện cùng bà, tỏa sáng vẻ đẹp của bà, bếp lửa và bà như hóa thân vào
là một, luôn rực cháy, bất tử, thiêng liêng. Cháu nhớ về bà, nhớ về bếp lửa cũng chính là nhớ về
quê hương, cội nguồn với tấm lòng yêu thương sâu nặng. Và như vậy hình ảnh bếp lửa đơn sơ
giản dị đã mang ý nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim – một ngọn lửa ẩn chứa
niềm tin và sức sống của con người.
Để rồi, trong lặng nhẹ và dịu êm, những suy nghĩ thấm thía, sâu sắc của cháu sáng lên:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”
Đứa cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao
điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ năm xưa giờ đã lớn khôn, đã được chấp cánh
bay cao, bay xa đến những chân trời cao rộng. Có “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui
trăm ngả”, tuy thế, cháu vẫn không nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê hương. Mỗi ngày, cháu đều
tự hỏi “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào
quên được vì đó chính là cội nguồn, là nơi mà tuổi thơ của cháu được nuôi dưỡng để lớn lên từ
đó. Bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi
bước đường đời. Bếp lửa đã trở thành tấm lòng, niềm tin thiêng liêng, kỳ diệu, nâng bước cháu
trên hành trình dài rộng của cuộc đời. Có nghĩa là từ một bếp lửa đơn sơ, giản dị của bà, nhiều
bếp lửa khác đã được nhen lên, sự sống cứ thế truyền đời bất diệt. Đến đây, ta có thể khẳng
định bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa, truyền lửa, truyền niềm tin, bếp lửa đã nâng cao
để trở thành một biểu tượng cho tình nghĩa gia đình, tình yêu quê hương, đất nước. Câu hỏi tu
từ và dấu chấm lửng khép lại bài thơ đã tạo ra một kết thúc mở với nỗi nhớ khôn nguôi và niềm
hoài vọng thiết tha, đau đáu.

Qua việc vận dụng âm điệu thơ trữ tình, sâu lắng, ngôn ngữ thơ bình dị, hình tượng bếp lửa
sáng tạo cùng với các điệp ngữ ẩn dụ, bài thơ đã khắc họa chân thực, xúc động hình ảnh người
bà giàu tình yêu thương, đức hy sinh và tình cảm bà cháu ấm nồng, sâu nặng, thiết tha. Đọc
xong bài thơ, chúng ta cảm nhận được hơi ấm của tình yêu thương gia đình, của cội nguồn, của
tổ quốc.

Bài thơ “Bếp lửa” đã thể hiện được tất cả tình yêu thương của bằng Việt đối với người bà kính
yêu của mình. Chính tình cảm bà cháu thiêng liêng, ấm áp đã dệt thành một bài thơ xúc động và
mang nhiều ý nghĩa. Bài thơ “Bếp lửa” sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu
sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với
những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.

You might also like