You are on page 1of 64

Đề: Phân tích bếp lửa

Bài làm

Bài 1

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường
nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không
chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cam nhận điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông.

(MỞ BÀI: +Tuổi thơ mỗi con người gắn với muôn vàn kỉ niệm bên người thân, bạn bè, bên cạnh đó là những cảm xúc, những tình cảm dành cho nhau để rồi khi mai sau lớn lên dùng tình cảm kỉ
niệm ấy tiếp tục hành trang cuộc đời. Rất nhiều tác phẩm văn học thơ, truyện ngắn được các tác giả lấy cảm hứng từ tình cảm thiêng liêng ấy, tình cảm vợ chồng, tình mẹ con, tỉnh đồng chí,
tình yêu quê hương đất nước,... Tác giả Bằng Việt đã sáng tác bài thơ Bếp Lửa với tình cảm và niềm nhung nhớ dành cho người bà của mình khi đang du học tại Liên Xô vào năm 1963. Hình ảnh
đứa cháu cùng người bà đã trải qua cuộc sống khổ cực nhưng tràn ngập tình yêu thương, chăm sóc, quan tâm, chở che trong những ngày bố mẹ đi làm xa và niềm hạnh phúc bên bếp lửa ẩm
áp tình thương.

+ Văn học ra đời giữa những buồn vui của loài người và sẽ làm bạn với con người cho đến ngày tận thế. Mỗi tác phẩm nghệ thuật chân chính giống như thứ khi giới thanh cao mà đắc lực mà
chúng ta có để thay đổi thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn. Văn chương trao truyền những tình cảm, cảm xúc tươi đẹp, trong trẻo cho tâm hồn con
người hưởng đến vẻ đẹp của chân thiện mĩ. Chính vì thế mà văn chương giống như suối nguồn lai tạo sự sống cho tâm hồn mỗi người. Những trang van câu thơ bồi đắp thêm cho ta những
tình cảm ta sẵn có và làm giàu thêm những tình cảm ta chưa có. Bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt là một bài thơ như thế. Qua bài thơ nhà thơ đã bồi đắp thêm cho ta lòng yêu quê hương, đất
nước, tình cảm bà cháu nồng hậu chân thành, thiết tha. Cũng viết về những tình cảm muôn thưở của loài người đó là tình bà cháu, tình yêu quê hương, đất nước ta đã gặp trong thơ ca dân
gian, trong những trang văn tuyệt đẹp của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông quê hương, những câu hát và cảnh xứ non sông, những câu tục ngữ về tình bà cháu thiêng liêng: “Ngó lên nạt

luộc mái nhà/Bao nhiêu nạt luộc nhớ ông bà bấy nhiêu.” Nhưng tìm đến những câu thơ của Bằng Việt không hiểu sao vẫn rung động hồn ta bởi những nỗi băn khoăn riêng, vẫn ám ảnh và đầy
dư ba về sự hi sinh của người bà tần tảo và tình cháu yêu bà. Nào, vậy chúng ta hãy cùng phân tích bài thơ để hiểu rõ hơn về vẻ đẹp của bài thơ nhé. Với bài thơ này các bạn cần nêu nội dung
và biện pháp nghệ thuật tiêu biểu Bằng Việt đã sử dụng nhé.

Mời các bạn tham khảo bài làm dưới đây.)

Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người cháu (chính là
Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà,
đối với gia đình, đối với quê hương, đất nước.

Trước hết là hình ảnh "bếp lửa" - nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân yêu, có bà
và có cả những kỉ niệm ầu ơ khi còn nhỏ. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh "bếp lửa" yêu thương:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắm mưa.

Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa" đã đi liền với các từ láy... gợi cho ta cái cảm giác ấm áp với tình cảm chứa chan. Ta cảm nhận được trong câu thơ đầu, bếp lửa với những ngọn lửa
ẩm nóng cứ “chờn vờn" sưởi ấm cả gian nhà vào lúc sớm tinh mơ mà sương sớm xuống buốt giả một mùa đông khi hai bà cháu sống bên nhau. Bếp lửa là hình ảnh đầu tiên mà cháu nhớ lại khi
hồi tưởng về quá khứ. Vì có hình bóng bà luôn gắn liền với bếp lửa “rồi sớm rồi chiều” bà nhen hay bếp lửa ấy cũng ẩm như lòng bà thương châu, ấm như tình cảm gia đình, hơi ẩm của bếp lửa
cũng chính là của bà đang sưởi tim cháu, lan tỏa cả gian nhà chỉ có hai người vốn lạnh lẽo, trống vắng, xoa dịu nỗi cô đơn, buồn tẻ của hai bà cháu hay là ấm cả mùa đông đầy “sương sớm”
ngoài kia..." Ấp iu"-gợi một bàn tay nhem nhóm lên ngọn lửa vừa đủ ẩm một cách khéo, ân cần. Chính vì vậy, mặc dù trong hai câu thơ đầu, bà không xuất hiện trực tiếp, nhưng ta thấy hình

ảnh bà đã hiện lên rất rõ. Bà đang ngồi bên bếp lửa để nhóm lên ngọn lửa "chờn vờn", "ấp iu nồng đượm" tình yêu thương vô bờ mà bà dành cho cháu. Để rồi đến câu thơ thứ hai, cháu thốt
lên theo dòng xúc cảm xót xa "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa" trong trái tim của cháu nhớ về người bà gian nan, vất vả và từng trải! Chỉ một từ "thương" thôi cũng đủ đọng lại ý thơ cho
cả đoạn. Cháu biết lắm và châu thương lắm bà ơi những nhọc nhằn, "nắng mưa", khó khăn, gian truân đời bà! Cháu hiểu lắm và cảm lắm bà ơi những hi sinh thầm lặng của cuộc đời bà! Tình
thương là vị muối mặn của tỉnh người, là chất keo của mối gắn bó. Chứ "thương" vốn xuất hiện nhiều trong thơ ca trữ tình và đặc biệt xuất hiện nhiều trong những tác phẩm nói về tình yêu
thương con người. Đối tượng của tình thương là lòng trắc ẩn và như vậy, một từ "thương" đã có thể thấy được biết bao cảm xúc đang sống dậy trong lòng cháu, một nỗi nhớ thương cồn cào,
da diết, mãnh liệt và ước ao được trở về tuổi thơ bến bà, ngồi cạnh bà dưới ấm áp bếp lửa và "nồng đượm" tình yêu thương... Hình ảnh bà "biết mấy nắng mưa" cử rõ dần, tỏ dần với sự hi
sinh âm thầm, lặng lẽ. Từ hồi ức dần dần trở về dưới những dòng thơ của tác giả, hiện ra theo bập bùng ánh lửa kỉ niệm, chảy về quá khứ...

(Cụm từ "biết mấy nắng mưa" gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của người bà. "Thương" là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia và bao
hảm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.

Như vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm nỗi nhớ da diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thân yêu. Có thể coi đây là khúc dạo đầu viết về nỗi nhớ.
Từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bài. Bài thơ sẽ là lời tâm tư, nỗi nhớ của người cháu về bếp lửa, về người bà và cả những kỉ niệm buồn vui khi còn bên cạnh bà.

Nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta luôn thường trực nghĩ tới những năm tháng hồn nhiên, tinh khôi, trong trẻo khi được sống trong sự đủ đầy cả về vật chất và tình cảm yêu thương
của cha mẹ, người thân. Nhưng với những thế hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt thì điều đó làm sao có được khi họ phải sống trong những năm tháng bom rơi đạn lạc chiến tranh, sự sống và cái
chết chỉ trong găng tấc. Vì thế, khi nhớ về thời ấu thơ, những kỉ niệm trong kí ức như một thước phim quay chậm lần lượt hiện về trong tâm trí của Bằng Việt với biết bao nhiêu là sự thiệt thòi,
gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn). Kỉ niệm đầu tiên ấy là khi lên bốn tuổi:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khỏi hun nhèm mắt cháu


Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Thành ngữ "đói mòn đòi mỗi” gợi tả cái đói kéo dài làm cho mệt mỏi, rã rời và kiệt sức. Vì thế, cái đói đã khiến cho ngựa cũng trở nên gầy rạc, hình ảnh người bố đánh xe chắc chắn cũng khô
héo, tiều tụy, xanh xao..tất cả đã khiến cho người đọc dâng lên một nỗi niềm xót xa khi nhớ tới nạn đói khủng khiếp đến rợn người năm Ất Dậu 1945 năm nào. Khi ấy, cháu ở cùng bà và đã
cùng bà nhóm lửa, khỏi bếp tỏa ra đã làm cho nhèm mắt, "nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay". Làn khói đã in đậm, in sâu trong tâm trí của người cháu hay đó chính là nỗi cơ cực, vất vả của cái
nghèo, cái đói, của chiến tranh loạn lạc trong tuổi ấu thơ của người cháu. Những câu thơ được viết lên bằng những tình cảm chân thực nên chan chứa nước mắt và dày đặc làn khói. Giọng thơ
trầm xuống thẩm thía một nỗi buồn cơ cực đến xót xa khi dòng hoài niệm tuổi thơ dâng đầy trong lòng thi sĩ khiến "sống mũi còn cay".

Tiếp đến là những dòng hoài niệm về tám năm ròng trong cuộc sống có chiến tranh sống bên bà:

Tám năm rồng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kế những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa?

Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, réo rắc cuộn xoáy vào trong lòng của người con xa xứ. Âm thanh của tú hú kêu được tái hiện trong
những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi thì từ cánh đồng xa vọng lại (Tu hú kêu trên những cảnh đồng xa) gợi lên một không gian rộng lớn, mênh mông và vắng lặng; khi thì lại rộn lên
khắc khoải, da diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm (Khi tu hủ kêu bà còn nhớ không bà/ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế); khi thì lại gióng giả, kêu hoài đến khô khan, lạnh
vắng trên những cánh đồng xa xôi, heo hút (Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa)... Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ âm của những dòng hoài niệm hồi tám tuổi, có tác dụng khắc
họa không gian sống vắng lặng, heo hút, mênh mông; lại vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn trống trải đến da diết, rợn ngợp. Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thấm đẫm tình
cảm yêu thương, đùm bọc cưu mang của người bà yêu quí. "Mẹ và cha công tác bận không về" và hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy
dỗ và chăm cháu học. Các động từ: "bà bảo, bà dạy, bà chăm" đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu. Vì thế, bà trở
thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quí của tỉnh cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyển đi xa bận công tác của
bố mẹ. Cho nên, người cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: "Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc". Chỉ một mình chữ "thương" thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình
yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.

Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người
cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn:

Năm giặc đốt làng chảy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh

"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!"

Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà
không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chẳng là phẩm chất cao quí của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến
tranh. Ta đọc ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gảnh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc giã xâm lăng, đem
lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn được cháu "đinh ninh" nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho
thấy phẩm chất đáng quí biết bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có được
thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương.

Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình, người cháu tiếp tục

suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Từ "bếp lửa" bài thơ đã gợi đến "ngọn lửa" với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên,
mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ "một ngọn lửa" vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất
diệt của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì
thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.

Từ suy ngẫm về vai trò của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao quí của người bà: tần tảo, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân ái:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.

Ôi kì lạ và tiêng liêng - bếp lửa!

Cụm từ "biết mấy nắng mưa" gợi lên cuộc đời của người bà vất vả, gian truân, lận đận nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ "nhóm"
(4 lần) bao gồm rất nhiều nghĩa, nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng
trong mỗi gia đình. Từ "ấp iu nồng đượm" gợi tả công việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chi chút của bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn
nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẻ chia chung vui và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà đầu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thường nữa
mà cao hơn nó đã thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà. Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người cháu hơi ấm của tình yêu, sự sẻ chia
với mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc
ghi nhớ tới cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc mình. Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng "Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!". Từ cảm thần "Ôi" kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể
hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu giữ cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.

Khổ cuối bài thơ là lời bộc bạch chân thành của người cháu khi đã lớn khôn, trưởng thành. Dù cho khoảng cách về không gian, thời gian có xa xôi "khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm

ngả" nhưng người cháu vẫn luôn khắc khoải trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi về bà, về bếp lửa: "Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?... Sự tương
phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa "khói lửa" của cuộc sống hiện đại với bếp lửa bình dị, đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm lên trong mỗi sớm chiều luôn
thường trực và sống mãi trong lòng của người cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm của tuổi thơ về bà - một người truyền lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin "dai dẳng" bất
diệt cho thế hệ tiếp nối. Chính vì thế nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Bài thơ khép lại bằng câu thỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài vọng xa xăm của
người cháu luôn đau đau, thiết tha nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia đình, nhớ tới quê hương, đất nước.

Bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp
được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ẩm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thẩm thía, xúc động trước nỗi
nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu.

Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trần trọng hơn tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới thấm thía hết được lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân,
thật ý nghĩa biết chừng nào:

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Bài 2
* Giới thiệu bài học: Quê hương, gia đình, làng xóm là những kỉ niệm đẹp đẽ, bình dị và thân thuộc với những ai xa quê. Đối với Tế Hanh, quê hương là làng chài ven biển “nước bao vây cách
biến nửa ngày sông”. Với Đỗ Trung Quân thì “quê hương là chùm khế ngọt – Quê hương là con diều biếc"... Nhưng riêng với Bằng Việt, quê hương của ông được gợi về bằng hình ảnh bếp lửa
mộc mạc, giản dị. Nghĩ về bếp lửa là nghĩ về bà, nghĩ về quá khứ tuổi thơ đầy khó nhọc, vất vả.

I – Tìm hiểu chung:

a. Hoàn cảnh sáng tác:

- Sáng tác năm 1963, khi nhà thơ đang là sinh viên theo học ngành Luật tại nước Nga

- In trong tập “Hương cây – bếp lửa” – tập thơ đầu tay của Bằng Việt in chung với Lưu Quang Vũ.

- Nhà thơ kể lại: “Những năm đầu theo học luật tại đây tôi nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mở mở mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm

cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dạy sớm đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dạy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai, củ sắn
cho cả nhà”.

b. Bố cục:

- Bài thơ mở ra hình ảnh bếp lửa, gợi những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà. Từ kỉ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm, thấu hiểu cuộc đời bà, về lẽ sống của bà. Cuối cùng, trong hoàn
cảnh xa cách, đứa cháu gửi nỗi nhớ mong được gặp

- Bố cục bài thơ đi theo mạch cảm xúc: hồi tưởng =hiện tại, kỉ niệm =suy ngẫm. Lựa chọn bố cục như thế là thích hợp với việc khắc hoạ kỉ niệm tuổi thơ. Bố cục đó còn cho thấy hình ảnh của bà
khắc sâu vào tâm khảm của người cháu, thành chỗ dựa tinh thần để người cháu trưởng thành.

c. Hình ảnh trong bài thơ:


Trong bài thơ có hai hình ảnh nổi bật, gắn bó mật thiết với nhau, vừa tách bạch, vừa nhòe lẫn trong nhau,tỏa sáng bên nhau. Đó là hình ảnh người bà và bếp lửa. Vì sao trong dòng hồi tưởng
và suy nghĩ của nhà thơ, hai hình ảnh ấy lại luôn gắn bó, song hành, đồng hiện. Vì bà luôn hiện diện cùng bếp lửa. Bên bếp lửa là bóng hình bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả
cuộc đời trong từng cảnh ngộ: từ những ngày khó khăn gian khổ đến lúc bình yên. Bếp lửa còn là biểu tượng giàu ý nghĩa: nó là biểu hiện cụ thể và đầy gợi cảm về sự tảo tần, chăm sóc, và yêu
thương của người bà dành cho cháu con.Bếp lửa là tỉnh bà ẩm nồng. Bếp lửa là tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với bao vất vả, cực nhọc đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm lên sự sống
niềm vui, tình yêu thương, niềm tin, và hi vọng cho cháu con, cho mọi người.

II – Đọc – hiểu văn bản:

1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

- Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm
tưởng của nhà thơ.

- "Bếp lửa chờn vờn sương sớm” là hình ảnh quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam trước đây mỗi buổi sớm mai. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh chờn vờn “sương sớm”,thật
thân thương với bao tình cảm "ấp iu nồng đượm”.

+ Từ láy“chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí

+ Từ lây “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chỉ chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể.

- Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau
sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà.

=>Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.

2. Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà:

*Bốn khổ thơ tương ứng với ba kỉ niệm của khoảng thời thơ ấu của nhà thơ sống bên bà. Đó là những kỉ niệm bên bếp lửa và bên người bà kính yêu. Đoạn thơ thấm thía bởi sự kết hợp
hài hòa giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự với trữ tình.

a. Kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn nhọc nhằn:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.

- Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Hơn hai triệu người dân Việt Nam chết đói vì chính sách cai trị dã man của giặc Nhật, giặc Pháp. Người sống thì “dật dờ như những
bóng ma”. Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời, đói đến nỗi phải ăn đất sét (trong văn Ngô Tất Tố), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao...
Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đau đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”.

- Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” cũng phần nào diễn tả được hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình tác giả trong cái khốn khó chung của những người lao

- “Đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựa gầy”- những chi tiết thơ đậm chất hiện thực đã tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác,tiêu điều cùng những con người tiều tụy, vật lộn mưu sinh. Không trải
qua cái đói quay, đói quắt thì Bằng Việt chẳng thể viết được những câu thơ chân thực đến thế!

- Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay". Cái cay vì khói bếp của cậu bé bốn
tuổi và cái cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà hòa quyện.Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ. Điều này cho thấy, mùi khói bếp của bà có sức ám
ảnh, làm lay động cả thể chất và tâm hồn cháu.

b. Nhớ về những kỉ niệm là nhớ về bếp lửa, nhớ về tình bà trong suốt tám năm bên bà:

Tám năm rồng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Tu hú kêu bà con nhớ không ba?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế T

iếng tu hú sao mà thọ thiết thể

Mẹ cùng cho công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà


Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa?

- “Tám năm ròng cháu sống cùng bà” – tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy
tình yêu thương.

- Kháng chiến bùng nổ, “Mẹ cùng cha công tác bận không về”,bà vừa là cha, lại vừa là mẹ: “bà bảo cháu nghe - Bà dạy cháu làm, bà chăm châu học". Chính bà là người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ
cháu nên người. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ,
chăm sóc cho cháu lớn lên.

-> Một loạt các từ ngữ “bà bảo”,”bà dạy”,”bà chăm” vừa diễn tả một cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút hết mình của người bà dành cho cháu, vừa thể hiện được lòng biết ơn của
cháu đối với bà. Tình yêu và kính trọng bà của tác giả được thể hiện thật chân thành, sâu sắc: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.

- Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú

trên đồng quê mỗi độ hè về:

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

-Đoạn thơ khiến ta chạnh nhớ về “tiếng chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ: tiếng chim tu hú gắn liền với hình ảnh cha già với những kỉ niệm về một thời thiếu nữ hoa niên, tiếng chim tu hú len lỏi
khắp bài thơ như một âm thanh u ấn, không buồn mà tiếc. Còn ở đây, tiếng chim tu hú bước vào thơ Bằng Việt như một chi tiết để gợi nhắc nhà thơ về những kỉ niệm ấu thơ được sống bên
bà. Tiếng chim tu hú – âm thanh quen thuộc của làng quê Việt Nam mỗi độ hè về, báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cây. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết
khiến lòng người trỗi dậy những hòa niệm, nhớ mong. Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời đề an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà? Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng
bà – Kêu chi hòa trên những cánh đồng xa” mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Nó diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà.

=> Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho
người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian
hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.

c. Đọng lại trong kỉ niệm củangười cháu là:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về làm lại

Đỡ đần bờ dựng lại túp lều tranh

Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “chảy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh. Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy là sự
cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu.Điều khiển cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan, đau khổ mà không
hề kêu ca, phản nàn. Bà mạnh mẽ, kiên cường trước hiện thực ác liệt.Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh:

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên

Vậy là bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan đề các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc
cho cả tiền tuyển, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.

d. Hình ảnh người bà và những kỷ niệm năm tháng tuổi thơ luôn gắn với hình ảnh bếp lửa:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

- Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở câu trên, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Như thế, bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ
ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương "luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng
bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu.

- Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian:“rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí,bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt

Nam giữa thời chiến. Điệp ngữ - ấn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào.

=> Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm
tin cho các thế hệ nối tiếp.

3. Suy ngẫm của người cháu về bà và hình ảnh bếp lửa:

Từ những hồi tưởng về kỉ niệm bếp lửa: tuổi thơ sống bên bà, người cháu đã suy ngẫm về bà, về hình ảnh

Lộn độn đời bò biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm


Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

- Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hoà vào làm một, nhòe lẫn, tỏa sáng bên

- Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “Mấy chục năm”, từ láy tượng hình “lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” -> diễn tả cảm nhận của nhà thơ về cuộc đời gian nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi
sinh, chịu thương,chịu khó của bà. Tình thương yêu tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà thật sâu nặng thiết tha.

- Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình.

- Điệp ngữ “nhóm” được nhắc lại bốn lẫn với những ý nghĩa phong phu, gợi nhiều liên tưởng. Từ hành động, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Bà nhóm bếp
lửa mỗi sớm mai là nhóm lên:

+ Tình yêu thương

+ Niềm vui sưởi ấm

+ Sự san sẻ tình làng nghĩa xóm.

+ Những tâm tình, ước vọng của tuổi thơ

-> Nhờ ngọn lửa mà bà “ủ”, bà “nhen”, bà "giữ", cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng. Người cháu yêu bà, nhờ
hiểu bà mà thêm hiểu, thêm yêu dân tộc mình, nhân dân mình.

- Trong tâm trí nhà thơ, bếp lửa và bà là những gì tuy thật bình dị, song ẩn giấu điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc dâng trào, tác giả đã phải thốt lên:

“Ôi kì lạ và thiêng liễng – bếp lửa!”.

Hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa sáng đẹp lung linh trong tâm hồn nhà thơ.

4. Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi, da diết.

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở:

- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?

Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ năm xưa giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay cao, bay xa đến những chân trời cao rộng
có " khói trăm tàu”,”lửa trăm nhà","niềm vui trăm ngả”. Tuy thế, cháu vẫn khôn nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê hương, nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Cháu sẽ không bao

giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. Bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững
chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời.

=> Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình
dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.

III – Tổng kết:

1. Nội dung:

“Bếp lửa” của Bằng Việt là những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu. Qua đó, bộc lộ những tình cảm sâu
nặng đối với gia đình, quê hương, đất nước.

2. Nghệ thuật:

-Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm và miêu tả, tự sự và bình luận.

-Thể thơ tám chữ kết hợp với 7 chữ,9 chữ phù hợp với việc diễn tả dòng cảm xúc và suy ngẫm về bà.

-Giọng điệu tâm tình, thiết tha, tự nhiên, chân thành.

-Sáng tạo hình ảnh bếp lửa – hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng.

Bài 3
Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lao, trắc trở. Chính trong những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần vô cùng
thiêng liêng và đáng quý. Những giá trị ấy, những kỉ niệm ấy sẽ tạo nên sức mạnh nâng đỡ bước chân ta trong suốt cuộc đời dài. Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt đã soi sáng chân lí giản đơn ấy.
Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi nguồn hồi tưởng của tác giả những năm tháng sống bên bà, cùng bà nhóm lên ngọn lửa nồng ẩm của tuổi thơ, đề người đọc biết bao thế hệ cùng rung cảm với một
bản trường ca về tình bà cháu.

Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và
đang học ngành Luật ở Liên Xô. Tác phẩm viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ "Hương cây – Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng sự kết hợp hài hòa
giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.

Trong biết bao kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in dầu đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt. Bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp ấy, mạch hồi tưởng của bài thơ bắt đầu :
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Châu thương bà biết mấy nắng mưa.

Khổ thơ chỉ vỏn vẹn ba câu mà đã hai lần lặp lại điệp từ “một bếp lửa”. "Bếp lửa" ấy là hình ảnh vô cùng gần gũi và thân quen với mỗi gia đình Việt Nam từ bao giờ. Từ láy “chờn vờn” vừa tả
ánh sáng lập lòe và từng làn khỏi vương vấn của bếp lửa mới nhen buổi sớm, vừa gợi lại hình ảnh bóng bà chập chờn trên in trên vách. Kết hợp với sự mờ ảo của “sương sớm”, những mảnh ký

ức ấy như ẩn hiện trong làn sương vương vấn mùi khói, không hề thiếu đi sự nồng ẩm. "Ấp iu” tuy là một từ ghép nhưng lại mang âm hưởng của từ láy, vừa là sự kết hợp của ấp ủ và yêu
thương, vừa gợi tả bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng đong đầy yêu thương của người nhóm lửa. Sự “nồng đượm" kia không chỉ tả bếp lửa cháy đượm mà còn ẩn chứa tình cảm trân
trọng của tác giả đối với người đã cần mẫn, chăm chút thắp lên ngọn lửa ấy. Hai hình ảnh sóng đôi đối nhau “chờn vờn sương sớm" “ấp iu nồng đượm” đã tạo nên sự hòa phối âm thanh làm
cho câu thơ vừa nhẹ nhàng như khói bếp vừa trĩu nặng về thời gian. Để rồi không cầm được cảm xúc, người cháu đã thốt lên : “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, thật giản dị mà vẫn trào
dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Từ đó, sức ẩm và ánh sáng của hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa đề mở ra một chân trời đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ về tình bà
cháu.

Theo dòng hồi tưởng ấy, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn âm đầy mùi khói :

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỗi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Nếu như tuổi thơ của những người bạn cùng trang lứa khác có những câu chuyện cổ tích về bà tiên và phép màu kì diệu thì thời thơ ấu của Bằng Việt gắn bó với bà và bếp lửa. Lời thơ giản dị
như những câu văn xuôi, như những lời thủ thỉ tâm tình dẫn dắt người đọc về miền ký ức. Đâu đó vọng về trong tiềm thức người cháu bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945 : hai triệu người
chết... thây chất đầy đồng... bản vợ đợ con... gia đình ly tán... lây lất tang thương... Cái đói đến mức chỉ một bữa ăn đã có thể giúp người ta tìm được một người vợ như từng được mô tả trong
tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. Mới lên bốn tuổi, đứa trẻ trong bài thơ đã phải chứng kiến một trong những thời kì đen tối, đói khổ nhất của nhân dân ta do sự bóc lột tàn bạo của thực dân
Pháp và phát xít Nhật. Từ “đói” được điệp lại, từ “mòn mỏi” được tách giãn ra, gợi lên một cái đói thê lương, deo dắt. Trí óc non nớt của đứa trẻ chỉ ghi nhận lại được vài hình ảnh, mà đặc biệt
là sự còm nhom, xơ xác của chú ngựa thồ - phương tiện mưu sinh chính của cả gia đình. Trong cụm từ “khô rạc ngựa gầy” gợi lại một nạn đồi mà cả động vật cũng không tìm được cái ăn, nói
chi đến con người. Thế nhưng, chỉ với từ "chỉ nhớ” thôi, nhà thơ đã phủ lên những hình ảnh tang thương kia bằng những làn khói từ bếp lửa của bà :

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay !

Cái “hun nhèm” của làn khói ấy gợi cho ta đến một bếp lửa củi mùn, rơm rạ chảy li lụt, một tuổi thơ vất vả, thiếu thốn. Nhưng cũng chính mùi khói ấy đã xua đi mùi tử khí khắp các ngõ ngách,
chính mùi khói ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Lại một lần nữa, ta nhớ đến "Vợ nhặt" của Kim Lân : "Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt".
Nhưng mùi khỏi trong thơ Bằng Việt thì có sức gợi hơn rất nhiều, bởi vì nó đượm nồng hơi ẩm từ bàn tay chăm chút của bà. Dù bao tháng năm có trôi qua thì ký ức ấy vẫn lưu lại ấn tượng sâu
đậm trong tâm hồn tác giả, để rồi câu thơ lắng xuống bởi vần bằng của tiếng “cay”. Là mùi khối làm cay mắt cháu hay chính tấm lòng người bà làm cháu không cầm được nước mắt vì nhớ
thương bà ? Bút pháp kể tả đan lồng đã đưa người đọc đến với những năm tháng đói khổ, thiếu thốn nhưng vẫn ngập tràn yêu thurong.

Và như một thước phim quay chậm, những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà ùa về:

Tám năm rồng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !

“Tám năm ròng” là một quãng thời gian không dài đối với đời người nhưng lại là cả tuổi thơ của cháu. Hình ảnh bà và bếp lửa của tình bà cháu đã gợi ra một liên tưởng, một hồi ức khác trong
tâm tri thi sĩ – tiếng chim tu hú. Theo truyền thống văn học, tiếng chim tu hú thường gợi nên sự khắc khoải, xa cách, trông mong, một âm thanh mang sắc điệu trầm buồn. Tiếng chim vang
vọng ấy rất khác với những âm thanh căng tràn sự sống trong thơ Tố Hữu : “Khi con tu hú gọi bầy / Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”. Cùng là tiếng tu hú kêu mỗi độ vào hè nhưng với
Bằng Việt, âm thanh ấy như giục lúa mau chín để người nông dân mau thoát khỏi cái đói, như khơi dậy trong bà những kỉ niệm ngày xưa ở Huế, để bắt đầu những câu chuyện êm đềm cho tuổi
thơ của cháu. Một tiếng chim đong đầy kỉ niệm đến nỗi tác giả phải thốt lên lời cảm thán rằng “sao mà tha thiết thể". Điệp từ “tu hủ” được lặp đi lặp lại nhiều lần khiến lời thơ có âm điệu thật
bồi hồi, tha thiết, khiến bản thân người đọc cũng như nghe vằng lại đâu đây tiếng tu hú từ trong tiềm thức của tác giả. Sự điệp lại ấy còn gợi lên những nỗi nhớ trùng điệp, vấn vít vào nhau –
nỗi nhớ của bà về quá khứ của mình càng khiến cho nỗi nhớ của cháu về bà thêm thăm thẳm, vời vợi. Tiếng chim tu hú đã trở thành một phần tuổi thơ, một mảnh tâm hồn cháu, là sợi chỉ đỏ
nối liền quá khứ và hiện tại. Tiếng vọng đồng chiều ấy vang lên trong khổ thơ càng như giục giã, như khắc khoải một điều gì đó tha thiết lắm, để dòng kỉ niệm trải dài hơn, rộng hơn, sâu hơn
trong không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Và trong dòng chảy ấy, hiện lên những ký ức thân thương về tình bà cháu sâu đậm :

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tám năm tuổi thơ của tác giả cũng chính là những năm đất nước chiến tranh, bố mẹ phải đi công tác xa nhà, cháu phải sống cùng bà. Bằng Việt đã khơi lại những kỉ niệm ngày ấy bằng nghệ
thuật liệt kê : "Bà bảo”, "bà dạy”, “bà chăm”,... mỗi một ký ức hiện về là thêm một lần hình ảnh bà được khắc sâu trong tâm trí châu. Trong những năm tháng ấy, bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa
là chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần, là cội nguồn yêu thương của cháu. Bà không chỉ chăm lo cho cháu từng chút một mà còn là người thầy đầu tiên dạy cho cháu bao điều về cuộc
sống, những bài học của bà trở thành hành trang cháu mang theo trong suốt quãng đời còn lại. Xuân Quỳnh từng viết về một người bà như thế trong “Tiếng gà trưa” : “Tiếng gà trưa / Mang
bao nhiêu hạnh phúc / Đêm cháu về nằm mơ / Giấc ngủ hồng sắc trứng". Với Bằng Việt cũng vậy, được ở với bà là cả một niềm hạnh phúc vô bờ. Cặp từ “bà” và “cháu” xuất hiện trong từng
phép liệt kê như gợi lên hình ảnh hai bà cháu gắn bó, quấn quít không rời, gợi lên một thế giới mà trong đó bà là tất cả. Cùng bà nhóm bếp hàng ngày, tác giả thấm thía được những gian lao,
vất vả của bà khi phải một mình chăm sóc châu, để rồi lời thơ như thủ thỉ một lời tâm tình “nghĩ thương bà khó nhọc”, và một lần nữa tiếng chim tu hú lại vọng về:

Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà


Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa ?

Câu cảm thán “Tu hú ơi !” kết hợp với câu hỏi tu từ vang lên như một lời trách cứ nhẹ nhàng. Ở giữa nước Nga xa xôi, tiếng chim tu hú vọng lại trong hồi ức của Bằng Việt khiến nỗi nhớ trào

dâng trong lòng nhà thơ cùng những câu hỏi mênh mang : khi cháu đã đi rồi thì ai sẽ “cùng bà nhóm lửa”, ai sẽ nghe bà “kể chuyện những ngày ở Huế”...Lời thơ là hỏi chim tu hú, hay là hỏi
chính mình ? Là lời than thở, trách móc hay chính là mong ước khôn nguôi muốn được trở lại bên bà ? Nhà thơ Anh Thơ cũng từng đồng điệu với những cảm xúc ấy : “Con đi dài thương nhớ /
Mười năm chưa về quê / Tu hú ơi tu hủ / Kêu chỉ hoài vườn xanh ?". Nỗi lòng của chim tu hú “kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa” đâu có khác gì với nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu
nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết, âm vang trong tim người đọc. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình thủ thỉ, chậm rãi
đầy nhung nhớ đã đưa ta về với tuổi thơ sống bên bà và đầy ắp tình bà cháu của tác giả.

Cũng chính chiếc thuyền đầy kỉ niệm ấy đã đưa người đọc từ dòng sông của tinh bà cháu đổ vào biển cả của lòng yêu nước, của đức hy sinh :

Năm giặc đốt làng chảy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về làm lại

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh :

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”

Chiến tranh đã gây ra bao đau thương, mất mát, tàn phá khắp mọi nơi trên đất nước ta, cướp đi của con người tất cả mọi thứ. Chính chiến tranh đã gây nên bi kịch của tỉnh cha con trong
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, khơi dậy những vần thơ vang tiếng căm thù của những nhà thơ cách mạng... Nhưng với Bằng Việt, cũng từ đó mà ông mới cảm nhận được vẻ đẹp
trong góc khuất của tâm hồn bà. Câu thơ với động từ “cháy” được lặp lại, từ ghép “tàn rụi” được tách ra khiến hiện thực thời chiến không chỉ lấp đầy câu thơ mà còn tràn ngập khắp không
gian ký ức. Trong từ láy “lầm lụi” hiện lên dáng hình của những con người phải chịu đau thương, mất mát, làm cả câu thơ như trĩu xuống. Và nổi bật lên là hình ảnh người bà với một sức sống
mãnh liệt và nghị lực bền bỉ. Từ láy “đinh ninh” diễn tả một điều gì đó chắc chắn từ trong tâm khảm, một lời nói nhẹ nhàng mà vẫn mạnh mẽ, trái ngược hẳn với quang cảnh "lầm lụi” xung
quanh. Dẫu túp lều tranh đã bị đốt rụi, nơi nương thân của hai bà cháu không con, bà vẫn đứng vững, chống chọi với tất cả nghịch cảnh để dắt cháu vượt qua khó khăn. Chính từ sự “vững
lòng” ấy mà người đọc cảm nhận được góc khuất trong tâm hồn bà, nơi ấn giấu lòng yêu nước và tấm lòng hy sinh của người phụ nữ ấy. Lời bà dặn cháu thật nôm na nhưng vô cùng chân thực
và cảm động – hậu phương có gian khổ, thiếu thốn, nhớ nhung, mất mát,... cách mấy vẫn phải giấu đi, nén lại trong lòng cho tiền tuyến được an lòng. Bà không chỉ thương con thương cháu mà
còn vô cùng ân cần, chu đáo, hiểu được tâm trạng của người con đang đi chiến đấu. Tác giả - và cũng là đứa cháu – đã thật tinh tế và nhạy cảm khi thể hiện được hạt ngọc ấn kin trong tâm hồn
người bà. Bà không còn là của riêng Bằng Việt nữa mà đã hòa cùng vào biết bao người phụ nữ Việt Nam khác, những con người cần mẫn, giàu đức hy sinh, là chỗ dựa tinh thần lớn lao cho tiền
tuyến, góp một phần vô cùng quan trọng vào chiến thắng chung của nhân dân. Mạnh mẽ là vậy nhưng trong hình ảnh bà vẫn có cái hồn giản dị, tự nhiên vốn có. Trong suốt cả bài thơ, chỉ có ở
ba câu thơ cuối khổ bốn người đọc mới được tiếp xúc trực tiếp với bà. Với cách nói bình dị, mộc mạc (“kể này, kể nọ”, “cử bảo"...), bà hiện lên thật gần gũi, thân thương, khiến ta có cảm giác
như được nghe tiếng nói của chính bà mình vậy. Ngay cả cái cách bà gọi châu là “mày” cũng thể hiện một sự thương yêu, trìu mến vô bờ, một cách gọi vô cùng dân dã. Những câu thơkhông

cầu kì, gọt giữa hay có nghệ thuật đặc biệt gì cả, chỉ giản dị đến chân thành như lời nói của bà. Nhưng từ đó, tấm lòng người bà ấy hiện lên mênh mông như biển cả, lặng sóng thôi nhưng bất
ngát tình thương con thương cháu và sâu thẳm với một nghị lực vô cùng bền vững.

Vì sao mà tấm lòng người bà chứa đựng được biết bao điều như vậy ? Vì trong tấm lòng đó luôn âm ỉ một ngọn lửa :

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

“Rồi sớm rồi chiều” ẩn chứa cả một dòng thời gian âm ỉ, dai dẳng mang theo cả cuộc đời bà, mang theo bao tâm tình của đứa cháu phương xa. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tác giả đã nâng lên
thành “ngọn lửa” mang ý nghĩa khái quát, tượng trưng. “Bếp lửa” với những ấm áp, giản dị của tỉnh cảm gia đình, của tình bà cháu đã bùng lên thành “ngọn lửa” của niềm tin và sức sống cho
các thế hệ mai sau. Hình ảnh ấy được lặp lại hai lần trong điệp từ “một ngọn lửa” càng khẳng định đó chính là cội nguồn của bao yêu thương, của những tần tảo hy sinh nơi bà. Trong hình ảnh
“lòng bà luôn ủ sẵn”, người đọc cảm nhận được một ngọn lửa không bao giờ tắt qua năm tháng, một ngọn lửa bất diệt từ trong chính trái tim bà. Nếu ai từng đọc “Đaghextan của tôi” của nhà
văn Raxun Gamdatốp hẳn còn nhớ người mẹ dân tộc Avar cả cuộc đời chỉ làm có ba việc đều đặn, cẩn trọng mà thật thiêng liêng : đi lấy nước, đưa nôi và nhóm lửa. Với Bằng Việt, ngọn lửa của
bà cũng là một hình tượng như vậy. Lời thơ thủ thỉ, dịu êm mà sao tiếng lòng của thi sĩ như có sức mạnh thần kì làm người đọc thấy trong tim mình như có lửa bùng lên. Từ láy “dai dẳng” như
càng tiếp thêm cho sự bền bỉ, lan tỏa của hình ảnh ấy. Đến nỗi tới bây giờ “ngọn lửa chứa niềm tin ấy" vẫn còn chảy trong cháu, mang theo bao cảm xúc không thể nói hết được mà phải dùng
đến một dấu chấm lửng, để lại bao suy ngẫm trong lòng độc giả. Bà không để lại cho con cháu những giá trị vật chất thông thường mà là một điều quý giá hơn gấp bội : ngọn lửa của sự sống.
Khái quát lên, bà là hiện thân cho vẻ đẹp thiêng liêng của người giữ lửa, truyền lửa.

Từ ngọn lửa ấm nóng ấy, nhà thơ mở ra những suy ngẫm về cuộc đời bà :

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Chất biểu cảm trữ tình vẫn còn nhưng đã dòng suy tưởng đã nhuốm màu nghị luận. “Lận đận” - từ lấy gợi hình với hai thanh trắc đã diễn tả cả cuộc đời vất vả của bà, kết hợp với “biết mấy
nắng mưa” - ấn dụ để chỉ những thăng trầm của cuộc sống càng làm đậm thêm sự hy sinh cần mẫn của bà. Trải qua tất cả những khó khăn, thách thức ấy, hình ảnh bà vẫn chưa bao giờ tách rời
với bếp lửa. “Mấy chục năm rồi”, lời thơ kể mà như đếm, gợi lên cả một tuổi thanh xuân, cả một đời người thức khuya dậy sớm gắn liền với khói bếp cay nồng. Ấy vậy mà trong “thói quen dậy
sớm” ta cảm nhận được sự tần tảo, đức hy sinh vẫn nguyên vẹn như thuở nào. "Nhóm”, “nhóm”, “nhóm”, “nhóm” – điệp ngữ ấy ngân lên, lan tỏa và khơi dậy biết bao yêu thương, biết bao
rung cảm và xúc động trong lòng người đọc. Mỗi hình ảnh liệt kê trong mỗi câu thơ là cả một dòng suy ngẫm gợi lên trong cả tác giả lẫn độc giả. “Bếp lửa ấp iu nồng đượm" ở khổ một nay
được lặp lại làm mạch cảm xúc được nối liền, ngân vang như một lời khẳng định về sự cần mẫn, khéo léo của bà. Chính tầm lòng nồng ẩm đó đã “nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi”
nuôi cháu trong những lúc thiếuthốn. Để từ đó, bà nhắc cháu rằng không bao giờ được quên những năm tháng nghĩa tình chia nhau từng củ khoai, củ sắn cho đỡ đói lòng. Những năm tháng
mà hai bà cháu sống trong sự đùm bọc, san sẻ cùng xóm làng với “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”. Câu thơ như một lời răn dạy cháu hãy luôn sống chan hòa và biết nghĩ đến mọi người, đừng ích
kỉ cho riêng mình. Chính những bài học thầm lặng và gắn liền với cuộc sống ấy đã rọi vào tâm hồn người cháu và thắp sáng những ước mơ, khát vọng. Phải vậy mà tác giả đã thốt lên rằng
"Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ" ? Bà không chỉ thấu hiểu cháu mà còn là tấm gương cho cháu noi theo. Ký ức tuổi thơ tuy không rõ ràng nhưng vẫn ghi dấu từng hình ảnh cụ thể "khoai
sắn”, “xôi gạo” và tượng trưng “yêu thương”, “tâm tình" đan xen, quấn quít vào nhau giữa cuộc sống đời thường và giá trị tinh thần. Bà thì nhóm lửa còn Bằng Việt thì nhóm lên biết bao hoài
niệm, khơi dậy bao đợt sóng yêu thương trong lòng người đọc. Hình ảnh người bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin và sức sống cho người
cháu. Người bà ấy giản dị nhưng lại có một sức mạnh kì diệu. Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà – người phụ nữ Việt Nam, để rồi từ đó thốt
lên trong bao nhung nhớ và trân trọng :

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa !

Câu thơ với từ cảm thán “ôi” như chất chứa, dồn nén biết bao điều. Trong đó là sức mạnh "kì lạ” đã nhóm dậy cả một chân trời kỉ niệm, cả một tuổi thơ, cả một tâm hồn. Trong đó là sự
“thiêng liêng" nhà thơ đã trân trọng gìn giữ trong tim nơi đất khách quê người. Ngay cả dấu gạch ngang cũng là một dấu lặng đầy nghệ thuật, là sự im lặng rất lạ, rất riêng giữa các từ, chứa
đựng bao cảm xúc không thể diễn tả hết. Hãy lắng nghe sự im lặng đó để cảm nhận một lần nữa sự “kì lạ và thiêng liêng” kia, để thấu được tiếng lòng thi sĩ dội lại trong đó. Dấu gạch ấy như
khoảng lặng trong bản nhạc để làm nền cho hai tiếng “bếp lửa” ngân lên diễn tả bao tâm tình, bao sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với bà. Đến đây, ta mới thực sự cảm nhận được toàn bộ vẻ
đẹp của hình ảnh “bếp lửa”. Hình ảnh ấy cùng chất trữ tình kết hợp với bình luận đã trở thành cái nền hoàn hảo để mở ra dòng suy ngẫm của cả tác giả lẫn độc giả về cuộc đời tần tảo và nghĩa
tình của bà.

Để giờ đây, khi đang ở cách xa bà hàng nghìn dặm, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về người bàyêu thương :

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở :

- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?...

Ở nước Nga xa xôi lạnh giá, bếp ga, bếp điện đã thay thế bếp củi nhem nhuốc khỏi, nhưng hình ảnh người bà và bếp lửa sớm mai vẫn đọng lại mãi trong tâm trí cháu. Bút pháp liệt kê và phép
lặp cấutrúc “có...trăm... đã vẽ nên một chân trời bao la rộng lớn với biết bao điều vui tươi, mới mẻ. Thế nhưng cuộc sống hiện đại ấy vẫn không thể làm cháu nguôi đi nỗi nhớ đau đầu, thường
trực về bà, một nỗi nhớ tới mức “chẳng lúc nào quên nhắc nhở". Hồ Cầm Sa từng thốt lên những câu thơ đồng cảm với Bằng Việt : “Cuộc đời tuy chất vật / Nhưng tâm hồn thảnh thơi / Bởi
bóng bà luôn tỏa / Che đời cháu, bà ơi !”. Người bà nói riêng hay người phụ nữ trong gia đình nói riêng luôn gắn với những gì gần gũi, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ ấm được duy
trì, là nơi bình yên cuối cùng để ta trở về sau những thăng trầm của cuộc đời. Trong dáng hình bình khiêm nhường quá đỗi ấy ấn giấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, để họ trở thành hiện
thân của gia đình, quê hương, đất nước. Nay ở nơi đất khách quê người, những câu thơ như hát ra từ ngọn lửa ấm nóng năm xưa củabà càng gợi nhắc để người đọc thấm thía điều đó. Niềm

kính yêu và trân trọng đối với bà đã trở thành sự gắn bó với gia đình, tình yêu và nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như lòng biết ơn của

Bằng Việt đối với cội nguồn che chở nơi ấy. Để mỗi ngày, mỗi giờ lòng ông đều vang lên một câu hỏi :" Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?". "Bếp lửa" đã thực sự trở thành kỉ niệm ẩm lòng,
thành niềm tin thiêng liêng kì diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.

Nguyễn Đức Quyền đã từng nhận xét rằng : “Thơ của cái thuở ban đầu thường là nồng, nồng đến vụng dại. Ấy thế mà “Bếp lửa” của Bằng Việt lại đạm, đạm của thơ trẻ tạo ra một nét duyên dễ
thương lạ." Bài thơ là một trong những tác phẩm đầu tay của nhà thơ, khó có thể tránh khỏi thiếu sót. Nhưng với giọng thơ tâm tình, trầm lắng giàu chất suy tưởng, hình ảnh bếp lửa xuyên
suốt bài thơ như một sợi chỉ đỏ nối liền dòng hồi tưởng, bài thơ đã làm say lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Nếu như hình tượng con có trong bài thơ cùng tên của Chế Lan Viên đã đi từ những câu
hát ru vào cuộc đời người con với : “Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ / Trước hiên nhà / Và trong hơi mắt câu văn” thì Bằng Việt đã kế thừa ngọn lửa của yêu thương, của niềm tin nơi bà,
những vần thơ của ông như một “ngọn lửa thần" mà Decgiavin từng nhắc tới.

Với “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn
đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương. Hãy trân trọng những kí ức
trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý bầu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày
nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim...

Ssfdf

BẾP LỬA (BẰNG VIỆT)

Quê hương, gia đình, làng xóm là những kỷ niệm đẹp đẽ, bình dị và thân thuộc với những ai xa quê. Với Tế Hanh, quê hương là làng chài ven biển “Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”, với
nhà thơ Đỗ Trung Quân, quê hương là chùm khế ngọt, là con diều huyết. Nhưng riêng vớiBằng Việt, quê hương của ông gợi về bằng một hình ảnh rất quen thuộc, bình dị, mộc mạc - bếp lửa.
Ra đời vào năm 1963, bài thơ "Bếp Lửa” còn là những dòng cảm xúc nói lên lòng kính yêu với người bà thân yêu và niềm nhớ mong về bà của tác giả.

Nhà thơ Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ. Bằng Việt tài hoa, nhạy cảm, giàu tình yêu thương và có trách nhiệm với cuộc sống, với thơ ca. Thơ ông
trong trẻo, mượt mà nhưng sâu lắng. Bắt nguồn từ cảm xúc nhớ thương da diết người bà, quê nhà thần thương, bài thơ “Bếp Lửa” được sáng tác khi nhà thơ Bằng Việt còn là sinh viên du học
tại Liên Xô. Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm, điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người cháu
(Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về kỷ niệm trong sáng thời ấu thơ, được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà,
đối với gia đình, đối với quê hương, đất nước.

Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn bó với làng quê có con sông xanh biếc, cây đa, bến nước, sân đình... Những dòng hồi tưởng của Bằng Việt lại bắt đầu từ hình
ảnh thân thương về bếp lửa:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Trong cuộc đời, ai cũng có cho riêng mình những kỷ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỷ niệm ấy là những gì thiêng liêng nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con
người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỷ niệm, đó chính là kỷ niệm, những tháng năm sống bên bà trong kháng chiến trường kỳ của dân tộc, cùng bà
nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định bếp lửa như một dấu ấn không bao giờ
phai mờ trong tâm trí của nhà thơ. Từ láy “chờn vờn” giúp ta hình dung ảnh lửa hồng khi mờ khi tỏ trong sớm mai, gọi về cái mờ nhòa của kí ức theo thời gian. Người cháu xa nhà không thể
nào quên được bếp lửa bình dị, thân quen. Không chỉ thấy cái “chờn vờn” của ngọn lửa mà cháu còn cảm nhận được cái hơi ấm của màu than đỏ đang “ấp iu nồng đượm”. Từ láy "ấp iu” vừa
diễn tả chính xác công việc nhóm lửa vừa gợi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và tấm lòng chăm chút của người nhóm bếp. Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn” trong “sương sớm” gợi lên những mảnh kí
ức về bà. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật, mang lại sự lan tỏa ấm áp trong tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên cũng là bếp lửa của cuộc đời bà, một cuộc đời
đã trải qua đã trải qua “biết mấy nắng mưa”. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo
léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Các câu thơ cứ nhẹ nhàng, chân thật như sương mai buổi sớm lan tỏa vào tâm hồn người

đọc một tình cảm yêu thương sâu lắng. Đó là hình ảnh một bếp lửa nhuốm màu cổ tích chờn vờn trong sương sớm. Ngọn lửa không to cũng chẳng nhỏ xua tan đi cái lạnh giá của vùng nông
thôn buổi sáng tinh mơ. Hình ảnh đó khắc sâu trong tâm trí non nớt của đứa cháu bé bỏng. Nó chứa đựng cả một vùng trời kí ức, một miền tuổi thơ đầy sóng gió. Từ đó, đánh thức dòng hồi
tưởng nhớ thương của người cháu về người bà - người nhóm lửa cho mỗi buổi sớm mai. Gắn liền với đó là hình ảnh của người bà dầu dải biết mấy nắng mưa. “Nắng mưa” ở đây không chỉ là
những hiện tượng mang tính thiên nhiên thời tiết mà nó còn là những nắng mưa đời bà. Đó là hình ảnh ẩn dụ quen thuộc gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, những bão giông của cuộc đời hằn lên
đôi vai gầy khắc khoải của bà để nuôi cháu khôn lớn. Chữ “thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia và bao hàm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu
sắc cùng với nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình. Tinh cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như con thuyền nhỏ chở đầy ắp những ki niệm trên dòng sông tuổi thơ êm đềm mà
suốt cuộc đời này người cháu không bao giờ quên được. Từ đây bà và bếp lửa là hai hình ảnh sóng đôi, đi suốt dọc bài thơ và theo cả nỗi nhớ của người cháu. Chỉ với ba câu thơ, ta thấy trong
nỗi nhớ nhung hiện lên chân dung một người bà bình dị mà nhân hậu biết bao.

Nhớ về những năm tháng tuổi thơ ấu sống cùng bà, Bằng Việt nhớ về những điều bình dị nhất. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi thủ thỉ, tâm tình. Bằng Việt như đang kể lại
cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình, một câu chuyện cổ tích đời thường từ những điều đơn giản, từ một bếp lửa ấp yêu thương. Từ bếp lửa nhớ về người nhóm lửa, ký ức
đưa người cháu trở về những năm lên bốn tuổi:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khỏi

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,

Chỉ nhớ khỏi hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Tuổi thơ của cháu không phải là vòm trời cổ tích cao rộng với những phép màu diệu kì của ông Bụt, bà Tiên. Tuổi thơ của cháu thật nhọc nhằn, quen mùi khói bếp nhà nghèo và có bóng đêm
ghê rợ của nạn đói năm 45. Tác giả sử dụng thành ngữ “đói mòn đói mỏi” diễn tả cái đói triền miền, dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người. Người bố đi đánh xe với con
ngựa gầy, tất cả trong mùi khỏi hun đến nghẹt thở, nao lòng cả tuổi thơ. Nghĩ mà thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Cái cay nồng mà người cháu cảm nhận
được không phải là mùi khói bếp mà đó chính là dư vị tuổi thơ ám ảnh trong tâm thức bỗng trỗi dậy mạnh mẽ. Dù cho năm tháng qua đi, những kí ức ấy sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng
đứa cháu, trở thành vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai, để rồi khi nghĩ lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khỏi làm cay mắt người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu
không cầm được nước mắt. Những câu thơ được viết lên bằng những tình cảm chân thực nên chan chứa nước mắt và dày đặc làn khói, giọng thơ trầm xuống thấm thía một nỗi buồn cơ cực
đến xót xa. Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống, của tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp

lửa của tình bà cháu đó đã gợi lên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm hồn thi sĩ thuở nhỏ:

“Tám năm rồng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

Bằng giọng thơ thủ thỉ như kể một câu chuyện cổ tích, tác giả nói về những năm tháng của cuộc sống gian khổ, cơ cực và đứa cháu lớn lên trong sự che chở, đùm bọc, cưu mang của người bà.
Tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm - một quãng thời gian không dài nhưng cũng chẳng ngắn đủ cho cháu cảm nhận được
tình yêu thương của bà dành cho cháu. Một cuộc sống đầy ắp khó khăn, khổ cực nhưng đầy tình yêu thương từ bà. Trong suốt quãng thời gian sống với bà, tu hú chính là nhân chứng chứng
kiến những kỉ niệm của bà và cháu. Tiếng chim tu hú gợi về những buổi mai, hai bà cháu cùng nhau nhóm lửa giữa không gian mênh mông, khô quạnh. Tác giả như tách khỏi dòng hồi tưởng,
như đang trò chuyện cùng bà: “Bà còn nhớ không bà?” Bởi chỉ có hai bà cháu mới hiểu hết ý nghĩa của âm thanh ấy. Tiếng chim tu hú phải da diết, khắc khoải lắm, nên cháu khó quên và bồi hồi
xúc động khi nhớ lại. Có lẽ khi tiếng chim tu hú từ xa vọng lại, hai bà cháu mới cảm nhận rõ rệt nhất sự thiếu vắng trong ngôi nhà của mình. Đứa trẻ nào không khao khát tiếng nói của cha, hơi
ấm của mẹ? Người bà nào chẳng ước mong tuổi già có con cháu quây quần bên cạnh? Vì hoàn cảnh chiến đấu, bố mẹ công tác xa không về, bà nuôi cháu trong trống vắng, quạnh hiu. Nỗi lòng
của chim tu hú “kêu chi hoài trên những cảnh đồng xa” đâu có khác gì với nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ
mong da diết, âm vang trong tim người đọc. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình thủ thỉ, chậm rãi đầy nhung nhớ đã đưa ta về với tuổi thơ sống bên bà và đầy ắp tình bà cháu của
tác giả. Khi kháng chiến bùng nổ, bố và mẹ đều không có ở bên, bằng Việt đã vẽ lên hình ảnh của bà, người bà đáng kính, đáng yêu suốt những năm dài khó nhọc đã chăm sóc, dạy dỗ cháu nên
người:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.”

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu
như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Tình thương của bà là sự bảo ban, chăm sóc, không khác gì công ơn sinh thành và nuôi dưỡng. Câu thơ gồm hai vế tiểu đối cân xứng với nhịp thơ êm
ái, hài hòa. "bà”, “cháu” được nhắc lại nhiều lần “Cháu ở cùng bà...bà bảo...bà dạy. bà chăm cháu học”, âm điệu quấn quýt như sự gắn bó giữa hai tâm hồn bà-cháu trong tình yêu thương.
Cháu lớn khôn trong vòng tay yêu thương, chăm sóc, che chở của bà. Bà là người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Bà không chỉ là bà mà như một người bố, người mẹ, người bạn tri âm
tri kỉ, là chỗ dựa vững chắc để cháu chia sẻ, tâm sự, để cháu tựa vào mỗi khi mệt mỏi. Một loạt các từ ngữ "bà bảo", "bà dạy”, “bà chăm” vừa diễn tả một cách sâu sắc tinh thương bao la, sự
chăm chút của bà dành cho cháu, vừa thể hiện lòng biết ơn của cháu với bà. Bà là chỗ dựa, bao bọc, chở che cho cháu suốt đời. Ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp

chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim đề nâng ước mơ của con vào một
khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cái lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình
bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của
cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Bà còn “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế". Bà kể những câu chuyện đó để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về
những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Không chỉthế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽlà hành trang mang
theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng.Bằng Việt tôn trọng,
yêu quý người bà tần tảo, luôn hiếu thảo, ngoan ngoãn biết vâng lời bà.

Tình yêu thương ấm áp, sâu lắng của bà cứ vấn vương trong tâm trí cháu cho đến tận bây giờ khi đã xa bà. Tình yêu và kính trọng bà của tác giả được thể hiện thật chân thành và sâu sắc :
“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc". Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc, chở che dành cho cháu. Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng
dưới tiết trời giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn, thương bà ở một minh dưới túp
lều tranh xiêu vẹo, mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng như cầu mong đứa cháu được bình an. Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khế trách con chim tu hú:

“Tu hú ơi!Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa.”

Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” mới thấm thía, xót xa làm
sao!. Nó diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà. Những câu thơ giống như lời đối thoại tâm tình của và bà trò chuyện trong tầm tưởng. Tất cả như lời giãi bày, tâm sự
của cháu dành cho bà. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến bài thơ như phủ sắc bàng bạc của không gian hoài
niệm, của tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.

Kỷ niệm về bà không chỉ là những ngày tháng dẫu gian nan nhưng êm đềm vì có bà bên cạnh, cũng có lúc đau buồn đến tuyệt vọng:

"Năm giặc đốt làng chảy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:

"Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên"

Chiến tranh - một danh từ bình thường nhưng sức công phá của nó thì khốc liệt vô cùng, nó gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu Bằng Việt cũng trở thành nạn nhân của
chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi, phải sống tản cư... Cuộc sống ngày càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà

càngmênh mông. Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. “Bố ở chiến khu bố còn việc bố - Mày có viết thư chở kề này kể nọ - Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Dù
cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của
minh lo buồn. Bà cứng rắn, giúp cháu vượt qua khó khăn. Bà không muốn đứa cháu đang bận việc nước phải lo việc nhà. Bà vẫn vững lòng tin vào tương lai của cuộc kháng chiến mà một lòng
bám đất bám quê, dặn cháu không được để bố lo lắng. Tấm lòng người bà thương con, thương cháu ân cần chu đáo biết bao. Đó cũng chính là phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam ta từ
muôn thuở, luôn can đảm, bản lĩnh và cứng rắn trước nỗi đau của dân tộc, hi sinh tinh riêng đặt tình chung lên trên. Đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của tình yêu quê hương đất nước đó ư.
Ngọn lửa tàn ác của giặc có thể làm mất đi ngôi nhà của bà và cháu nhưng lại làm hồi sinh, nảy nở trong lòng bà một niềm tin sắt đá vào cách mạng. Cháy trong ngọn lửa thực kia còn là ngọn
lửa của niềm tin, của ý chí mà bà nói riêng các bà mẹ Việt Nam anh hùng nói chung dành cho kháng chiến. Ta đọc được ở đây sự hy sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người
mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước đánh giặc ngoại xâm. Bà lặng lẽ hy sinh cho con cháu, cho đất nước.

Không một giọt nước mắt, bà giấu nỗi đau thương để luyện cho cháu một tình cảm cao hơn. Hình ảnh người bà đã vượt ra khỏi tình cảm bà cháu thông thường mà vươn đến một tình cảm
rộng lớn hơn: lặng lẽ hi sinh, chia sẻ với chiến trường. Những năm chiến tranh ròng rã ấy, bà âm thầm nhóm lửa, giữ lửa:

“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”

Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở câu trên, tác giả đã chuyển hóa thành ngọn lửa trong lòng bà. Như thế, bếp lửa không chỉ được nhen bằng nhiên liệu củi, rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa
của sức sống, lòng yêu thương luôn “ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỷ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kỳ diệu nâng bước
cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho các cháu. Cùng với hình tượng ngọn lửa, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm - rồi chiều”, các
động từ: “nhen, ủ sẵn, chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến tranh. Điệp ngữ ẩn dụ một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm
cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động, tự hào. “Ngọn lửa” là sáng tạo nghệ thuật đắt giá của tác giả, nó vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng, bất diệt của ngọn lửa, lại vừa
có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. “Ngọn lửa” chính là hiện thân cho tâm hồn, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ

lửa mà bà còn là người truyền lửa cho người cháu cũng như là thế hệ mai sau. Bà tin cháu mình sau này sẽ trưởng thành để xây dựng non sông, đất nước.

Từ hoài niệm về tuổi thơ và bà, người cháu suy ngẫm về cuộc đời, về lẽ sống của bà. Bà là người tần tảo, giàu đức hy sinh và lòng nhân ái:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa.”

Nhà thơ đã gói ghém cả cuộc đời bà bằng một câu thơ với nghệ thuật đảo ngữ “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”. Bốn chữ “lận đận đợi bà” với cụm từ “biết mấy nắng mưa” đã gợi ra sự dài
dặc của thời gian, sự vất vả, gian truân, nhọc nhằn, khổ cực, chênh vênh của một đời người. Bà đã kiên cường vượt qua mọi mưa nắng của cuộc đời để trở thành chỗ dựa cho con cháu. Cuộc
đời bà là một cuộc đời đầy gian truân, vất vả, nhiều lận đận, trải qua nhiều nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ VN giàu đức hi
sinh, dù gian truân, vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương. Chiến tranh đã đi qua, những gian khổ đã vơi bớt nhưng bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, bếp lửa bà vẫn “ấp iu nồng đượm” như ngày
nào. Điệp từ "nhóm" được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác nhau. Nó cứ bồi đắp cao dần những nét kỳ lạ và thiêng liêng của bếp lửa. Từ "nhóm" đầu tiên : "Nhóm bếp
lửa ấp iu nồng đượm" là động từ thể hiện một hành động làm cho lửa bén, chảy lên ngọn lửa và một bếp lửa hoàn toàn có thật có thể cảm nhận bằng mắt thường. Bếp lửa đó đề xua tan đi cái
giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt, để luộc chín nồi khoai, nồi sẵn làm ấm lòng cháu trong những ngày đồng tháng giả. Và đó là một bếp lửa rất bình dị có ở mọi gian bếp của làng quê Việt
Nam. Thế nhưng từ "nhóm" trong những câu thơ sau thì lại mang ý nghĩa ẩn dụ. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà mở rộng tấm lòng đoàn kết với xóm làng, quê
hương. Có nghĩa là bà đã nhóm lên, đã khơi dậy niềm yêu thương, những ký ức đẹp, có giá trị trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn châu tình
yêu thương ruột thịt, tình cảm sẻ chia tỉnh đoàn kết với hàng xóm láng giềng và rộng ra nữa là tình yêu quê hương đất nước. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà khơi dậy cả những ký ức, kỷ
niệm tuổi ấu thơ trong cháu để nhắc nhở cháu rằng, không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã từng trải qua, không chỉ nhóm lên
ngọn lửa ấm nồng mà cháy sáng mãi trong lòng mọi người. Người bà kỳ diệu ấy đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục, bồi đắp cho người cháu về ước mơ, lẽ sống của "tâm tình tuổi nhỏ”. Bếp lửa
của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả nhưng bà nuôi cháu lớn khôn bằng bếp lửa ấy. Khám phá nhiều ý nghĩa kỳ diệu, cao cả, thiêng liêng từ bếp lửa của bà, cháu nhận ra: "Ôi kì lạ và thiêng liêng
- bếp lửa”. Từ nơi phương xa, cháu vẫn luôn nhớ về bà với niềm xúc động mãnh liệt. Phép đảo ngữ, câu cảm thán với từ “ôi” đặt ở đầu câu bộc lộ sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng và vui sướng của
cháu. Bếp lửa kỳ lạ và thiêng liêng chính là tình bà sâu nặng và diệu kỳ. Bếp lửa ấy luôn hiện diện cùng bà, tỏa sáng vẻ đẹp của bà, bếp lửa và bà như hóa thân vào là một, luôn rực cháy, bất tử,
thiêng liêng. Cháu nhớ về bà, nhớ về bếp lửa cũng chính là nhớ về quê hương, cội nguồn với tấm lòng yêu thương sâu nặng. Và như vậy hình ảnh bếp lửa đơn sơ giản dị đã mang ý nghĩa khái

quát trở thành ngọn lửa trong trái tim – một ngọn lửa ẩn chứa niềm tin và sức sống của con người.

Để rồi, trong lặng nhẹ và dịu êm, những suy nghĩ thấm thía, sâu sắc của cháu sáng lên:

"Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...

Đứa cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ năm xưa giờ đã lớn khôn, đã được chấp cánh bay
cao, bay xa đến những chân trời cao rộng. Có “khỏi trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”, tuy thế, cháu vẫn không nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê hương. Mỗi ngày, cháu đều tự hỏi
“Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là cội nguồn, là nơi mà tuổi thơ của cháu được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. Bà và
quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời. Bếp lửa đã trở thành tấm lòng, niềm tin thiêng liêng, kỳ diệu, nâng bước châu trên hành
trình dài rộng của cuộc đời. Có nghĩa là từ một bếp lửa đơn sơ, giản dị của bà, nhiều bếp lửa khác đã được nhen lên, sự sống cứ thể truyền đời bất diệt. Đến đây, ta có thể khẳng định bà không
chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa, truyền lửa, truyền niềm tin, bếp lửa đã nâng cao để trở thành một biểu tượng cho tình nghĩa gia đình, tình yêu quê hương, đất nước. Câu hỏi tu từ và dấu chấm
lửng khép lại bài thơ đã tạo ra một kết thúc mở với nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài vọng thiết tha, đau đầu.

Qua việc vận dụng âm điệu thơ trữ tình, sâu lắng, ngôn ngữ thơ bình dị, hình tượng bếp lửa sáng tạo cùng với các điệp ngữ ẩn dụ, bài thơ đã khắc họa chân thực, xúc động hình ảnh người bà
giàu tình yêu thương, đức hy sinh và tình cảm bà cháu ấm nồng, sâu nặng, thiết tha. Đọc xong bài thơ, chúng ta cảm nhận được hơi ấm của tình yêu thương gia đình, của cội nguồn, của tổ
quốc.

Bài thơ "Bếp lửa" đã thể hiện được tất cả tình yêu thương của bằng Việt đối với người bà kính yêu của mình. Chính tình cảm bà cháu thiêng liêng, ấm áp đã dệt thành một bài thơ xúc động và
mang nhiều ý nghĩa. Bài thơ “Bếp lửa” sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những
người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.

Dff

Bếp lửa
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường
nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kị niệm, đó chính là những tháng năm sống bên ba, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thường.
Không chỉ thể, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai ba cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ "Bếp lửa" của ông.

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thờ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ "Bếp lửa" được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô.Bài thơ đã gọi lại những kỉ
niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tĩnh cấm và những kỉ niệm và
bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

Một bếp lửa chờn vờn sương .......

Cháu thương bà biết máy nắng mưa.

Hình ảnh "chờn vờn" gợi lẫn những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được tháp lên, nó hát ánh sáng lên mọi vật và toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ
ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua " biết máy nâng mưa. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nữa vòng trái đất nhưng dường như Bằng
Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn.
Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ấp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó,
sức ám và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả toàn bài thơ

. Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả
như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cỗ tích của những bạn cùng lửa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của
Bằng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đối khổ, người bà đã gần bờ bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc
nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng không để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi một từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói

:"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khỏi....

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!"

Chính "mỗi khối đã xua đi cái mùi từ khi trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khỏi ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để
lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại thấy "sống mũi còn cay. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm
được nước mắt?
" Tám năm rằng cháu cùng bà nhóm bếp.

.. Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế

"Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa
của tình bà cháu đó đã gọi nên một liễn tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuỗ nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau
thoát khỏi cái đồi, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: "Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đây". Từ "tu hú" được điệp lại ba lần làm cho âm
điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng "tu hú" lúc mơ bà, lúc văng vàng từ những cánh đồng xã
lăng lắng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.

Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy
lại càng sâu đậm

: Mẹ cùng cha bận công tác không về.

...cháu ở cùng bà bà bảo cháu ngh*(..)

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tán cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu
như thể lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Cùng ba, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu
truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim đề nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thêm nhất để con cài lên ngực áo thì
đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ống. Trong những tháng năm
sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà
còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã
thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bấy giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người
cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế.... Thì sĩ bỏng tự hỏi lòng mình: "Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?". Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu
sắc của đứa cháu nơi xứ người. Chi trong một khổ thơ mà hai từ "bà", "cháu đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gọi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đối, gắn bó, quấn quýt không rời.

Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân
của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi...

"Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bền trở về làm lại

Đỡ đàn bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:

" Bố ở ... bình yên!"

Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của ba càng bền vững, tắm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi
sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẫn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dầm nói ra vì sợ làm đứa cháu bé
bỏng của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lời dặn của bà: "Mày
có viết thư chớ kẻ này kẻ nọ / Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Lời dẫn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thôn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén
vào trong lỗng đẻ yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi
sinh, thương con quy cháu.

Kết thúc khổ thọ, Bảng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn lửa, một ngọn lửa:

Một ngọn lửa ....dai dẳng".

Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tỉnh yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa âm nồng như tĩnh bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi
sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.

Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thơ muốn gói tới bạn đọc, qua đó cũng là những bài học sâu sắc từ công việc nhóm lửa tưởng chừng đơn giản:

" Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm"

Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa " ấp iu, "nồng đượm" đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu

. "Nhóm niềm yếu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên
đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống với nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng cụ sắn, củ mì. "Nhóm nồi xôi gạo mới
sẽ chung vui" "Nói xôi gạo mới sẽ chung vui của bà hay là lời rằng dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh. phải gần bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ

. "Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ".

Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì
diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tính tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khốn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim,
ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong "Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh:

Tiếng gà trưa/

Mang bao nhiêu hạnh phúc

Đêm cháu về nằm mo

Giấc ngủ hồng sắc trứng


Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm
lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trở thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu. Giờ đây, khi

đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:

"Giờ cháu đã đi xa

. Có ngọn khỏi trăm tàu

Có lựa trăm nhà, niềm vui trăm ngã

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?"

Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm của hai bà cháu đã sươi ám lòng tác giả trong cái mua đông lạnh giá của nước Nga. Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ
đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhờ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn
cội, là nơi mà tuổi thơ cua đưa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.

Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lai tưởng tượng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính sóng đôi này hiện lên thật sống động, rõ
ràng như thề nét khắc, nét chạm vậy... (Văn Gia). Bài thơ Bếp lửa sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao
đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta .

Bếp lửa

Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lao, trắc trở. Chính trong những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần vô cùng
thiêng liêng và đáng quý. Những giá trị ấy, những kỉ niệm ấy sẽ tạo nên sức mạnh nàng đã bước chân ta trong suốt cuộc đời dài. Bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã soi sáng chân lí giản đơn ấy.
Hình ảnh "bếp lửa đã khơi nguồn hồi tưởng của tác giả những năm tháng sống bên bà, cùng bà nhóm lên ngọn lửa nóng ẩm của tuổi thơ, đẻ người đọc biết bao thế hệ cùng rung cảm với một
bản trường cả về tình ba cháu.

Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ " Bếp lửa" được ông sáng tác năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và
đang học ngành Luật ở Liên Xô. Tác phẩm viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ "Hương cây – Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng sự kết hợp hài hòa
giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gọi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.

Trong biết bao kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in dầu đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt. Bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp ấy, mạch hồi tưởng của bài thơ bắt đầu : Một bếp lửa ...nắng
mưa.

Khổ thơ chỉ vỏn vẹn ba câu mà đã hai lần lập lại điệp từ "một bếp lửa". "Bếp lửa" ấy là hình ảnh vô cùng gần gũi và thân quen với mỗi gia đình Việt Nam từ bao giờ. Từ láy " chờn vờn" vừa tả
ánh sáng lập lòe và từng làn khói vương vấn của bếp lửa mới nhen buổi sớm, vừa gợi lại hình ảnh bóng bà chập chọn trên in trên vách. Kết hợp với sự mở ảo của sương sớm, những mảnh ký
ức ấy như ẩn hiện trong làn sương vương vấn mùi khối, không hề thiếu đi sự nồng ấm. "Áp iữ tuy là một từ ghép nhưng lại mang âm hưởng của từ láy, vừa là sự kết hợp của ấp ủ và yêu
thương. vừa gọi tả bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng đong đầy yêu thương của người nhóm lửa. Sự nóng dướm kia không chỉ là bếp lửa cháy đượm mà còn ẩn chứa tình cảm trân trọng
của tác giả đối với người đã cần mẫn, chăm chút thấp lên ngọn lửa ấy. Hai hình ảnh sóng đôi đối nhau. "chôn vốn sương sớm – "áp iu nồng đượm đã tạo nên sự hòa phối âm thanh làm cho cậu
thơ vừa nhẹ nhàng như khói bếp vừa trĩu nặng về thời gian. Để rồi không cầm được cảm xúc, người cháu đã thốt lên : " Cháu thương bà biết máy nắng mưa", thật giản dị mà vẫn trào dâng một
tình yêu thương bà vô hạn. Từ đó, sức ám và ánh sáng của hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa đề mở ra một chân trời đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu.

Theo dòng hồi tưởng ấy, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn ám đầy mùi khói :

Lên bốn tuổi ....ngừa gây

Nếu như tuổi thơ của những người bạn cùng trang lứa khác có những câu chuyện cổ tích về bà tiên và phép màu kì diệu thì thời thơ ấu của Bằng Việt gần bó với bà và bếp lửa. Lời thơ giản dị
như những câu văn xuôi, như những lời thủ thỉ tâm tình dẫn dắt người đọc về miền ký ức. Đầu đó vọng về trong tiềm thức người cháu bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945 : hai triệu người
chết... thầy chất đầy đồng... bản vợ đợ con... gia đỉnh lỵ tán... Tây lát tang thương... Cái đỗi đến mức chi một bữa ăn đã có thể giúp người ta tìm được một người vợ như từng được mô tả trong
tác phẩm "Vợ nhặt của Kim Lan. Mới lên bốn tuổi, đứa trẻ trong bài thơ đã phải chứng kiến một trong những thời kì đen tối, đói khổ nhất của nhân dân ta do sự bóc lột tàn bạo của thực dân
Pháp và phát xít Nhật. Từ "đổi được điệp lại, từ " món mỗi được tách giãn ra, gợi lên một cái đối thê lương, deo dắt. Trị óc non nớt của đứa trẻ chỉ ghi nhận lại được vài hình ảnh, mà đặc biệt
là sự còm nhom, xơ xác của chú ngựa thỏ - phương tiện mưu sinh chính của cả gia đình. Trong cụm từ "khô rạc ngựa gây gọi lại một nạn đói mà cả động vật cũng không tìm được cái ăn, nói chi
đến con người. Thế nhưng, chỉ với từ " chỉ nhớ thôi, nhà thơ đã phủ lên những hình ảnh tang thương kia bằng những làn khói từ bếp lửa của bà : Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến
giờ sống mũi còn cay !

Cái "hun nhèm” của làn khói ấy gợi cho ta đến một bếp lửa củi mùn, rom ra chảy là lụt, một tuổi thơ vất vả, thiếu thốn. Nhưng cũng chính mùi khỏi ấy đã xua đi mùi tử khí khắp các ngõ ngách,
chính mùi khói ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Lại một lần nữa, ta nhớ đến "Vợ nhặt của Kim Lân : "Mùi đốt đồng rằm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt".
Nhưng mùi khỏi trong thơ Bằng Việt thì có sức gọi hơn rất nhiều, bởi vì nó đượm nồng hơi ẩm từ bàn tay chăm chút của bà. Dù bao tháng năm có trôi qua thì ký ức ấy vẫn lưu lại ấn tượng sâu
đậm trong tâm hồn tác giả, đề rồi cẫu thơ lắng xuống bởi văn bằng của tiếng "cay. Là mùi khỏi làm cay mắt cháu hay chính tắm lòng người bà làm châu không cầm được nước mắt vì nhớ
thương bà ? Bút pháp kẻ tả đạn lồng đã đưa người đọc đến với những năm tháng đói khổ, thiếu thần nhưng vẫn ngập tràn yêu thương.

Và như một thước phim quay chậm, những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà ùa về :Tâm năm ròng ..... tha thiết thế !

"Tám năm rừng" là một quãng thời gian không dài đối với đời người nhưng lại là cả tuổi thơ của cháu. Hình ảnh bà và bếp lửa của tình bà cháu đã gợi ra một liên tưởng, một hồi ức khác trong
tầm tri thi sĩ – tiếng chim tu hủ. Theo truyền thống văn học, tiếng chim tu hú thường gọi nên sự khác khoái, xa cách, trông mong, một âm thanh mang sắc điệu trầm buồn. Tiếng chim vang
vọng ấy rất khác với những âm thanh căng tràn sự sống trong thơ Tố Hữu : "Khi con tu hú gọi bầy / Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dân". Cũng là tiếng tu hú kêu mỗi độ vào hè nhưng với
Bằng Việt âm thanh ấy như giục lúa mau chín đề người nông dân mau thoát khỏi cái đói, như khơi dậy trong bà những kỉ niệm ngày xưa ở Huế, để bắt đầu những câu chuyện êm đềm cho tuổi
thơ của cháu. Một tiếng chim đong đầy kỉ niệm đến nỗi tác giả phải thốt lên lời cảm thán rằng " sao mà tha thiết thế". Điệp từ "tu hú được lặp đi lặp lại nhiều lần khiến lời thơ có âm điều thật
bởi hồi, tha thiết, khiến bản thân người đọc cũng như nghe vắng lại đầu đầy tiếng tu hú từ trong tiềm thức của tác giả. Sự điệp lại ấy còn gọi lên những nỗi nhớ trùng điệp, vẫn vít vào nhau –
nỗi nhớ của bà về quá khứ của mình càng khiến cho nỗi nhớ của cháu về bà thêm thăm thẳm, vời vợi. Tiếng chim tu hú đã trở thành một phần tuổi thơ, một mảnh tâm hồn cháu, là sợi chỉ đỗ
nối liền quá khứ và hiện tại. Tiếng vọng đồng chiều ấy vang lên trong khổ thơ càng như giục giã, như khắc khoái một điều gì đó tha thiết lắm, để dòng kỉ niệm trải dài hơn, rộng hơn, sau hơn
trong không gian xa thấm của nỗi nhớ thương. Và trong dòng chảy ấy, hiện lên những ký ức thân thường về tình bà cháu sâu đậm : Mẹ cùng cha ....bà khó nhọc,

Tám năm tuổi thơ của tác giả cũng chính là những năm đất nước chiến tranh, bố mẹ phải đi công tác xa nhà, cháu phải sống cùng bà. Bằng Việt đã khơi lại những kỉ niệm ngày ấy bằng nghệ
thuật liệt kê : "Bà bảo", "bà dạy", "bà chăm.... mỗi một ký ức hiện về là thêm một lần hình ảnh bà được khắc sâu trong tâm trí cháu. Trong những năm tháng ấy, bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là
chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần, là cội nguồn yêu thương của cháu. Bà không chỉ chăm lo cho cháu từng chút một mà còn là người thầy đầu tiên dạy cho cháu bao điều về cuộc
sống, những bài học của bà trở thành hành trang cháu mang theo trong suốt quãng đời còn lại. Xuân Quỳnh từng viết về một người bà như thế trong "Tiếng gà trưa" : " Tiếng gà trưa / Mang
bao nhiêu hạnh phúc / Đễm cháu về nằm mơ / Giác ngủ hồng sắc trắng". Với Bằng Việt cũng vậy. được ở với bà là cả một niềm hạnh phúc vô bờ. Cặp từ "bà và "cháu xuất hiện trong từng phép
liệt kê như gợi lên hình ảnh hai bà cháu gần bó, quấn quít không rời, gợi lên một thế giới mà trong đó bà là tắt cả. Cùng bà nhóm bếp hàng ngày, tác giả thấm thía được những gian lao, vắt và

của bà khi phải một mình chăm sóc cháu, để rồi lời thơ như thủ thì một lời tâm tình “ nghĩ thường bà khó nhọc”, và một lần nữa tiếng chim tu hú lại vọng về : Tu hú ơi ! .... cánh đồng xa ?

Câu cảm thán " Tu hú ơi ! kết hợp với câu hỏi tu từ vang lên như một lời trách cứ nhẹ nhàng. Ở giữa nước Nga xa xôi, tiếng chim tu hú vọng lại trong hồi ức của Bằng Việt khiến nỗi nhớ trào
dâng trong lòng nhà thơ cùng những câu hỏi mình mang : khi cháu đã đi rồi thì ai sẽ "cùng bà nhóm lửa", ai sẽ nghe bà "kể chuyện những ngày ở Huế ...Lời thơ là hỏi chim tu hú, hay là hỏi
chính mình ? Là lời than thở, trách móc hay chính là mong ước khôn nguôi muốn được trở lại bên bà ? Nhà thơ Anh Thơ cũng từng đồng điệu với những cảm xúc ấy :" Con đi dài thương nhớ /
Mười năm chưa về quê. Tu hú ơi tu hủ / Kêu chỉ hoài vườn xanh ?". Nỗi lòng của chim tu hú "kêu chi hoài trên những cánh đồng xã đâu có khác gì với nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu
nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết, âm vang trong tim người đọc. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình thủ thi, chậm rãi
đầy nhung nhớ đã đưa ta về với tuổi thơ sống bên bà và đầy áp tĩnh bà cháu của tác giả.

Cũng chính chiếc thuyền dày kỉ niệm ấy đã đưa người đọc từ dòng sông của tình bà cháu đồ vào biển cả của lòng yêu nước, của đức hy sinh : Năm giặc đốt làng chảy tấn cháy rụi.....Cứ báo nhà
vẫn được bình yên !"

Chiến tranh đã gây ra báo đau thương, mát mát, tàn phá khắp mọi nơi trên đất nước ta, cướp đi của con người tất cả mọi thứ. Chính chiến tranh đã gây nên bi kịch của tình cha con trong
"Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, khơi dậy những vần thơ vang tiếng căm thù của những nhà thơ cách mạng... Nhưng với Bằng Việt, cũng từ đó mà ông mới cảm nhận được vẻ đẹp
trong góc khuất của tâm hồn ba. Câu thơ với động từ "cháy được lập lại, từ ghép "tàn rụi được tách ra khiến hiện thực thời chiến không chỉ lập đầy câu thơ mà còn tràn ngập khắp không gian
ký ức. Trong từ láy "lầm lụi hiện lên dáng hình của những con người phải chịu đau thương, mất mát, làm cả câu thơ như trĩu xuống. Và nổi bật lên là hình ảnh người bà với một sức sống mãnh
liệt và nghị lực bền bỉ. Từ lấy " đinh ninh" diễn tả một điều gì đó chắc chắn từ trong tâm khám, một lời nói nhẹ những mà vẫn mạnh mẽ, trái ngược hàn với quang cảnh "làm lụi xung quanh.
Dẫu túp lều tranh đã bị đốt rụi, nơi nướng thân của hai bà cháu không con, bà vẫn đứng vững, chống chọi với tất cả nghịch cảnh để dật châu vượt qua khó khăn. Chính từ sự "vững lòng ấy mà
người đọc cảm nhận được góc khuất trong tâm hồn bà, nơi ẩn giấu lòng yêu nước và tắm lòng hy sinh của người phụ nữ ấy. Lời bà dặn cháu thật nồm na nhưng vô cùng chân thực và cảm động
– hậu phương có gian khổ, thiếu thốn, nhớ nhung, mắt mất,... cách máy vẫn phải giấu đi, nén lại trong lòng cho tiền tuyến được an lòng. Bà không chỉ thương con thương cháu mà còn vô cùng
ăn cần, chu đáo, hiểu được tâm trạng của người còn đang đi chiến đấu. Tác giả - và cũng là đứa cháu – đã thật tinh tế và nhạy cảm khi thể hiện được hạt ngọc ẩn kín trong tâm hồn người bà.
Bà không còn là của riêng Bằng Việt nữa mà đã hòa cùng vào biết bao người phụ nữ Việt Nam khác, những con người cần mẫn, giàu đức hy sinh, là chỗ dựa tinh thần lớn lao cho tiền tuyến,
góp một phần vô cùng quan trọng vào chiến thắng chung của nhân dân. Mạnh mẽ là vậy nhưng trong hình ảnh bà vẫn có cái hồn giản dị, tự nhiên vốn có. Trong suốt cả bài thơ, chỉ có ở ba câu
thơ cuối khổ bốn người đọc mới được tiếp xúc trực tiếp với bà. Với cách nói bình dị, mộc mạc ("kể này. kể nợ". "cử bảo"...), bà hiện lên thật gần gũi, thân thương, khiến ta có cảm giác như
được nghe tiếng nói của chính bà mình vậy. Ngay cả cái cách bà gọi cháu là mày cũng thể hiện một sự thương yếu, trìu mến vô bờ, một cách gọi vô cũng dân dã. Những câu thơ không cầu kì.
gọt giữa hay có nghệ thuật đặc biệt gì cả, chỉ giản dị đến chân thành như lời nói của bà. Nhưng từ đó, tầm lòng người ba ấy hiện lên mệnh mông như biển cả, lặng sóng thôi nhưng bất ngất tĩnh
thương con thương cháu và sâu thẳm với một nghị lực vô cùng bền vững. Vì sao mà tắm lòng người bà chứa đựng được biết bao điều như vậy ? Vì trong tâm lòng đó luôn âm ĩ một ngọn lửa :
Rồi sớm rồi ... dai dẳng... "Rồi sớm rồi chiều ăn chứa cả một dòng thời gian âm ỉ, dai dẳng mang theo cả cuộc đời bà, mang theo bao tâm tình của đứa cháu phương xa. Từ hình ảnh bếp lửa cụ
thể, tác giả đã năng lên thành " ngọn lửa mang ý nghĩa khái quát, tượng trưng. "Bếp lửa" với những ấm áp, giản dị của tình cảm gia đình, của tình bà cháu đã bùng lên thành "ngọn lửa của
niềm tin và sức sống cho các thế hệ mai sau. Hình ảnh ấy được lặp lại hai lần trong điệp từ "một ngọn lửa" càng khẳng định đó chính là cội nguồn của bao yêu thương, của những tần tảo hy
sinh nơi bà. Trong hình ảnh "lòng ba luôn ủ sẵn", người đọc cảm nhận được một ngọn lửa không bao giờ tắt qua năm tháng, một ngọn lửa bất diệt từ trong chính trái tim bà. Nếu ai từng đọc
"Đaghextan của tôi của nhà văn Raxun Gamdatốp hàn còn nhớ người mẹ dẫn tộc Avar cả cuộc đời chi làm có ba việc đều đặn, cần trọng mà thật thiễng liêng : đi lấy nước, đưa nội và nhóm lửa.
Với Bằng Việt, ngọn lửa của bà cũng là một hình tượng như vậy. Lời thơ thủ thỉ, dịu êm mà sao tiếng lòng của thi sĩ như có sức mạnh thần kì làm người đọc thấy trong tim mình như có lửa bùng
lên. Từ lây " dai dẳng như càng tiếp thêm cho sự bến bị, lan tỏa của hình ảnh ấy. Đến nỗi tới bây giờ ngọn lửa chứa niềm tin ấy vẫn còn cháy trong cháu, mang theo bao cảm xúc không thể nói
hết được mà phải dùng đến một dấu chấm lửng, để lại bao suy ngầm trong lỗng độc giả. Bá không để lại cho con cháu những giá trị vật chất thông thường mà là một điều quý giá hơn gấp bội :
ngọn lửa của sự sống. Khái quát lên, bà là hiện thần cho vẻ đẹp thiêng liêng của người giữ lửa, truyền lửa.

Từ ngọn lửa âm nóng ấy, nhà thơ mở ra những suy ngẫm về cuộc đời bà Lận đận đời bà ....tâm tình tuổi nhỏ

Chát biểu cảm trữ tình vẫn còn nhưng đã dòng suy tưởng đã nhuộm màu nghị luận. "Lận đận" - từ láy gợi hình với hai thanh trắc đã diễn tả cá cuộc đời vất vả của bà, kết hợp với "biết máy
nâng mua - ăn du để chỉ những thang trầm của cuộc sống càng làm đậm thêm sự hy sinh cần mẫn của bà. Trải qua tất cả những khó khăn, thách thức ấy, hình ảnh bà vẫn chưa bao giờ tách rời
với bếp lửa. " Máy chục năm rồi, lời thơ kẻ mà như đếm, gọi lên cả một tuổi thanh xuân, cả một đời người thức khuya dậy sớm gắn liền với khói bếp cay nồng. Ấy vậy mà trong "thói quen dậy
sớm ta cảm nhận được sự tần tảo, đức hy sinh vẫn nguyên vẹn như thuốc nào. "Nhóm", "nhóm", "nhóm, nhóm – điệp ngữ ấy ngân lên, lan tỏa và khơi dậy biết bao yêu thương, biết bao rung
cảm và xúc động trong lòng người đọc. Mỗi hình ảnh liệt kê trong mỗi câu thơ là cả một dòng suy ngắm gợi lên trong cả tác giả lẫn độc giả. " Bếp lửa ấp iu nóng đượm" ở khổ một nay được lặp
lại làm mạch cảm xúc được nối liền, ngân vang như một lời khẳng định và sự cần mẫn, khéo léo của bà. Chính tấm lòng nồng ấm đó đã "nhóm niềm yêu thương, khoai sản ngọt bùi nuỗi cháu
trong những lúc thiếu thốn. Để từ đó, bà nhắc cháu rằng không bao giờ được quên những năm tháng nghĩa tình chia nhau từng củ khoai, có sẵn cho đỡ đòi lồng. Những năm tháng mà hai bà
cháu sống trong sự đùm bọc, san sẻ cùng xóm làng với nỗi xôi gạo mới sẽ chung vui. Câu thơ như một lời răn dạy cháu hãy luôn sống chan hòa và biết nghĩ đến mọi người, đừng ích kỉ cho riêng
mình. Chính những bài học thầm lặng và gắn liền với cuộc sống ấy đã rọi vào tâm hồn người cháu và thắp sáng những ước mơ, khát vọng. Phải vậy mà tác giả đã thốt lên rằng " Nhóm dậy cả
những tâm tình tuổi nhỏ" ? Bà không chỉ thấu hiểu cháu mà còn là tấm gương cho cháu noi theo. Ký ức tuổi thơ tuy không rõ ràng nhưng vẫn ghi dấu từng hình ảnh cụ thể khoai sản", "xói gạo
và tượng trưng "yêu thương. "tâm tình đan xen, quấn quít vào nhau giữa cuộc sống đời thường và giá trị tinh thần. Bà thì nhóm lửa còn Bằng Việt thì nhóm lên biết bao hoài niệm, khơi dậy
bao đợt sóng yêu thương trong lòng người đọc. Hình ảnh người bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin và sức sống cho người cháu. Người bà ấy
giản dị nhưng lại có một sức mạnh kì diệu. Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà – người phụ nữ Việt Nam, để rồi từ đó thốt lên trong bao
nhung nhớ và trân trọng : Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa !

Câu thơ với từ cảm thán “đi như chất chữa, dồn nén biết bão điều. Trong đó là sức mạnh kì lạ đã nhóm dậy cả một chân trời kỉ niệm, cả một tuổi thơ, cả một tâm hồn. Trong đó là sự "thiêng
liêng" nhà thơ đã trận trọng gìn giữ trong tim nơi đất khách quê người. Ngay cả dấu gạch ngang cũng là một dấu lặng đầy nghệ thuật, là sự im lặng rất lạ, rất riêng giữa các từ, chứa đựng bao
cảm xúc không thể diễn tả hết. Hãy lắng nghe sự im lặng đó đề cảm nhận một lần nữa sự "ki lạ và thiêng liêng" kia, để thấu được tiếng lòng thi sĩ dội lại trong đó. Dấu gạch ấy như khoảng lặng
trong bản nhạc để làm nền cho hai tiếng "bếp lửa" ngân lên diễn tả bao tâm tình, bao sự kính trong và ngưỡng mộ đối với bà. Đến đây, ta mới thực sự cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của hình
ảnh "bếp lửa". Hình ảnh ấy cùng chất trữ tình kết hợp với bình luận đã trở thành cái nền hoàn hảo để mở ra dòng suy ngẫm của cả tác giả lẫn độc giả về cuộc đời tần tảo và nghĩa tình của bà.
Để giờ đây, khi đang ở cách xa bà hàng nghìn dặm, Bàng Việt vẫn luôn hướng lòng mình và người bà yêu thương :Giờ cháu đã đi xa. ... bắp lên chưa ?...

Ở nước Nga xa xôi lạnh gia, bếp ga, bếp điện đã thay thế bếp cũi nhem nhuốc khỏi, nhưng hình ảnh người bà và bếp lửa sớm mai vẫn đọng lại mãi trong tầm trí cháu. Bút pháp liệt kê và phép
lặp cấu trúc "có...trăm... đã vẽ nên một chân trời bao la rộng lớn với biết bao điều vui tươi, mới mẻ. Thế nhưng cuộc sống hiện đại ấy vẫn không thể làm cháu nguồi đi nỗi nhớ đau đầu, thường

trực về bã, một nỗi nhớ tới mức " chẳng lúc nào quên nhắc nhớ. Hồ Cầm Sa từng thốt lên những câu thơ đồng cảm với Bằng Việt : " Cuộc đời tuy chất vật / Nhưng tâm hồn thảnh thơi / Bởi
bóng bà luôn tỏa / Che đời cháu, bà ơi !". Người bà nói riêng hay người phụ nữ trong gia đình nói riêng luôn gắn với những gì gần gũi, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ ám được duy
trì, là nơi bình yên cuối cùng để ta trở về sau những thăng trầm của cuộc đời. Trong dáng hình bình khiếm nhường quá đỗi ấy ăn giàu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, để họ trở thành hiện
thân của gia đình, quê hương, đất nước. Nay ở nơi đất khách quê người, những cầu thơ như hát ra từ ngọn lửa ấm nóng năm xưa của bà càng gợi nhắc đề người đọc thám thía điều đó. Niềm
kinh yêu và trân trọng đối với ba đã trở thành sự gắn bó với gia đình, tình yêu và nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như lòng biết ơn của Bằng Việt đối với cội nguồn che chở nơi ấy. Để mỗi
ngày, mỗi giờ lòng ông đều vang lên một câu hỏi :” Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?". "Đắp lửa đã thực sự trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng kì diệu theo nhà thơ suốt
cả cuộc đời.

Nguyễn Đức Quyền đã từng nhận xét rằng : "Thơ của cái thuở ban đầu thường là nắng, nóng đến vụng dại. Ấy thế mà "Bếp lửa" của Bằng Việt lại đạm, đạm của thơ trẻ tạo ra một nét duyên dễ
thương lạ." Bài thơ là một trong những tác phẩm đầu tay của nhà thơ, khó có thể tránh khỏi thiếu sót. Nhưng với giọng thơ tâm tình, trầm lắng giàu chất suy tưởng, hình ảnh bếp lửa xuyên
suốt bài thơ như một sợi chỉ đỏ nối liền dòng hồi tưởng, bài thơ đã làm say lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Nếu như hình tượng con có trong bài thơ cùng tên của Chế Lan Viên đã đi từ những cầu
hát ru vào cuộc đời người con với : "Cánh có trắng lại bay hoài không nghỉ / Trước hiên nhà / Và trong hơi mát câu văn” thì Bằng Việt đã kế thừa ngọn lửa của yêu thương, của niềm tin nơi bà,
những vần thơ của ông như một "ngọn lửa thần" mà Decgiavin từng nhắc tới.
Với "Bếp lửa", Bảng Việt đã chắt lọc từ cuộc đổi những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yếu để dệt nên hình tượng " bếp lửa, thể hiện lòng kinh yếu trận trọng và biết ơn
đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sầu thảm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thượng. Hãy trân trọng những kí ức
trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chồn bình yên đề ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trinh dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày
nào đó dừng lại giữa dòng đời bắt tận, ta mỉm cười vì luôn có một " bếp lửa soi sáng trong tim

..Tình cảm gia đình là một nguồn cảm hứng bất tận đối với các thi sĩ, đã có rất nhiều tác phẩm làm xúc động lòng người khi viết về đề tài thiêng liêng này. Bài thơ "Bếp lửa" của tác giả Bông
Việt cũng viết về đề tài này, thắp sáng tình cảm gia đình bằng hơi ẩm thấm đượm tình bà cháu nồng nàn. Bằng những vầng thơ theo dòng hồi tưởng, gợi nhớ về tuổi thơ của đứa cháu xa nhà,
bài thơ "Bếp lửa" đã ca ngợi đức hi sinh, sự tần tảo và tình thương bao la của bà, đồng thời thể hiện sự kính yêu và lòng biết tha thiết của cháu đối với bà.

Ra đời vào năm 1963, bài thơ "Bếp lửa" đã tái hiện chấn thật một khoảng kí ức tuổi thơ của người cháu bên bà của mình. Tuổi thơ của người cháu gắn liền với hình ảnh người bà thần thương
và bếp lửa ấp iu nồng đượm khiến người cháu mỗi khi nhớ về lại có những cảm xúc vô cùng yếu thương xen lẫn cảm phục người bà của mình. Bài thơ không chỉ nói lên tỉnh cảm của người cháu
giành cho bà mình mà còn khẳng định rằng bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa khơi gợi cho người cháu nhớ về bà mình: Một bếp lửa ...nắng mưa

Hình ảnh "bếp lửa" trong màn sương sớm đã được khắc họa giản dị nhưng rõ nét và sống động qua ba câu thơ. "Bếp lửa" có lúc sáng mãnh liệt, có lúc yếu, không định hình đã trở thành một
đồ dùng, một hình ảnh gần gũi và quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của người dẫn Việt Nam. Đó không chỉ là nơi để đun nấu mà còn là nơi sum họp, ghi dấu những niềm vui, nỗi buồn của
mọi gia đình. Điệp ngữ "một bếp lửa” cùng với các từ láy "chờn vờn", "ấp iu" đã gợi nên sự ấm áp, đầy tình thương yêu như tấm lòng bà. Từ "ấp iu" gợi lên sự khéo léo của bàn tay bà khi bà
nhóm bếp lửa, tấm lòng yêu thương, chi chút của bá đến con cháu. Trong hồi tưởng của cháu, hình ảnh người bà luôn hiện diện cùng bếp lửa qua bao năm tháng. Hình ảnh của bà hiện lên một
cách nhẹ nhàng nhưng vô cùng đẹp đẽ trong trái tim người cháu, bà vẫn luôn nhóm bếp lửa mỗi sáng mỗi chiều suốt cả cuộc đời. Hình ảnh "bếp lửa" là biểu hiện cụ thể và sinh động về sự tần
tảo, chăm sóc và yêu thương của người bà đối với con cháu trong mọi hoàn cảnh khó khăn, gian khổ. Trước sự hy sinh của bà, người cháu luôn "thương bà biết mấy nâng mưa". Từ đó làm bật
lên tình cảm sâu nặng của người cháu một cách thật tự nhiên, không thể tả xiết vì những "nắng mưa", khó nhọc vất vả của cuộc đời bà. Từ "thương" diễn đạt rất chân thật mà giản dị không
chút hoa mỹ tấm lòng yêu mến bà của cháu.

Tử tình yêu thương và nỗi nhớ da diết, người cháu nhớ về kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà:Lên bốn tuổi ....ngựa gầy

Những vần thơ nhẹ nhàng như lời kể lại những năm tháng thơ ấu đầy gian khổ của cháu với bóng đêm của nạn đói năm 1945. Khi nhớ về những ngày thơ ấu gian khổ bên bà, người cháu nhớ
về năm đói kém mà cháu sống trong sự cưu mang, tình yêu thương sâu đậm của bà khi bố phải đi "đánh xe", để cháu lại quê nhà cho bà chăm bẵm. Các cụm từ "đói mòn đối mùi" đã diễn tả
chân thật những cực khổ của hai bà cháu trong thời kỉ đó. Hình ảnh "bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” đã cho thấy cái đáng sợ của giặc đói, tỉnh cảnh cực khổ của nhân dân ta dưới thời kì đó: Kí
ức tuổi thơ và tình cảm đậm sâu của bà trong cháu vẫn cứ vẹn nguyên: Chỉ nhớ khói ...mũi còn cay

Người cháu vẫn như cảm nhận được mùi khói chất chứa đầy nỗi vất và cực nhọc của hai bà cháu vẫn còn cay nồng nơi sống mũi, mùi khói "hun nhằm” cả kí ức tuổi thơ, chân thực và mang đầy
nghĩa tình sâu nặng. Nơi sống mũi của người cháu cay nồng, lan tỏa trong tâm hồn người cháu không chỉ vì khói cay của rơm rạ, củi.. bị ướt sương mà còn là khỏi bom đạn, là khó khăn thiếu
thốn trong chiến tranh và tĩnh yêu thường con cháu da diết của bà. "Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay" đã thể hiện rất chân thực và xúc động niềm thổn thức của người cháu khi nhớ về những
năm tháng tuổi nhỏ bên người bà kính yêu. Với những chi tiết và ngôn từ giản dị, chân thực, đoạn thơ đã thấm đượm bao tình cảm sâu nặng của người cháu với bà của mình.

Trong màn sương khói mờ mịt của thời thơ ấu, ty tiếp tục đâm mình trg nhg hồi tưởng về tuổi thơ ở cạnh bà Tám năm ròng ...tha thiết thế Đoạn thơ như đang kể về một câu chuyện cổ tích
nhưng lại làm hiện rõ những năm tháng khó nhọc đứa cháu lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của người bà. "Tám năm ròng” kháng chiến đầy vất vả gian lao nhưng đối với tác giả đó là
một khoảng thời gian thật đẹp, thật sâu sắc, vui buồn cùng bà bên bếp lửa của người cháu. Từ bếp lửa nhỏ bé thân thương, tuổi cháu trải dài trên "những cánh đồng xa” với tiếng chim tu hú
vang vọng, gợi lại trong tâm hòn người cháu bao kỉ niệm khó quên về người bà, về bếp lửa. Từ đó gợi lên khoảng thời gian cháu đã bắt đầu tự lập, nhóm lên ngọn lửa tình cảm thắm nồng dành
cho trong tim cháu. Tiếng chim tu hú lúc vang vọng lúc mơ hồ, lúc lại gần gũi, xót xa như giục giã, như khắc khoải gợi về miền thương nhớ, gợi về quê hương nơi có người bà giàu tình yêu
thương với con cháu. Từ đó cho thấy tình cảnh vắng vẻ, cô quạnh và nỗi mong nhớ cha mẹ người cháu của cả hai bà cháu. Nhà thơ đang kể, bất chợt quay sang tâm sự "bà còn nhớ không bà?”
để nhớ về những câu chuyện bà hay kế, nhớ những việc làm tận tụy đầy yêu thương của bà dành cho cháu. Âm thanh đồng quê gần gũi và bình đị của tiếng tu hú "tha thiết" như lời nói từ tấm
lòng của cháu, tiếng quen thuộc đọng lại qua những lần bà "kể chuyện những ngày ở Huế". Băng nét thơ sáng tạo, người cháu đã thể hiện tình cảm của mình dành cho bà khi tâm sự chân
thành với với những tiếng chim tu hú bình dị trên những cánh đồng xa. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỷ niệm có chiều sâu khiến cho nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên
thăm thăm và vời vợi.

Trg kí ức của mình, tg chẳng thể nào quên đc dù bn mùa tu hú đi qua thì bả vẫn luôn tảo tần, chăm sóc cháu:Mẹ cùng cha .... bả khó nhọc, Những lời thơ bình dị đã thể hiện chân thật sự tận
tình chăm sóc cháu của bà khi "mẹ cùnng cha công tác bận không về". Tình thương của bà đối với cháu to lớn như biển trời bao la, bà đảm nhận vai trò của một người cha, một người mẹ và
một người thầy. Bà chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến cả việc học hành. Bà dạy cho cháu những bài học làm người, chăm chút cho cháu dẫu ba phải vất vả lo toan bao điều. Từ"bà"
được lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc "bà cháu" sóng đối gợi lên tình cảm gắn bó, ấm áp của tỉnh bà cháu. Hình ảnh "nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc" mang đầy màu sắc trẻ thơ vô
cùng đẹp đẽ, giản dị mà hàm súc. Hình ảnh ấy cho thấy cháu đã hiểu được những khó khăn của bà và yêu bà mình, ngày ngày giúp bà "nhóm bếp lửa" đồ dẫn phần nào công việc của bà.

Tâm hồn cháu lúc này chỉ còn ngập tràn niềm yêu thương với bà, cháu trách những chú chim tu hú: Tu hú ơi! ....đồng xa?

Bằng lời thơ tha thiết và trầm buồn, cháu như đang trách cứ những chú tu hú bay ngoài đồng xa không đến ở cùng bà để bà đỡ cô quạnh, buồn tủi hay tác giả dạng trách chính bản thân mình
vô tâm. Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm thương yêu, xót xa của tác giả trước nỗi cô đơn và sự vất vả của bà.

Kỉ niệm cũ như những thước phim quay chậm về bà cháu trong chiến tranh:Năm giặc ...lều tranh

Chiến tranh, một danh từ bình thưởng những sức lột tả của nỗ thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân
của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi... Trong hoàn cảnh ấy, người bà hiện lên thật đẹp với tấm lòng hy sinh cao cả. Từ "lầm lụi" thể hiện hình ảnh người bà cũng như
bao người hàng xóm lặng lẽ sớm hôm muốn chia sẻ gánh vác cùng con cháu những vất vả lo toan. Gian khổ là thế nhưng có được sự giúp đỡ của hàng xóm, tình cảm của những người cùng
cảnh ngộ, hai bà cháu đã dựng lại được "túp lều tranh”.

Ba vẫn chịu thương chịu khi cặm cụi vì không muốn con mình lo lắng:Vẫn vững ...bình yên!”

Chiến tranh gian khổ nhưng bà luôn "vững lòng", chinh phẩm chất cao đẹp ấy đã làm cho luôn tự hào khi cháu nhớ về bà.Lời dặn của bà chân thật và cảm động, chan chứa bao ý nghĩa từ tấm
lòng bà vàng vàng bên tai cháu. Qua đó không chỉ thể hiện tình cảm yêu thươg con cháu của bà mà còn đề cao phẩm chất cao quý, đức hi sinh nhẫn nại của những người phụ nữ Việt Nam để
yến lòng người nơi chiến tuyến. Trong ý thơ còn hàm chứa cả lòng khâm phục và kính trọng mà cháu dành cho bà, như tình cảm hướng về tổ quốc, về những người thân yêu.

Từ bếp lửa thân thương, cháu nghĩ đến ngọn lửa thập sáng của người bà kính yêu:Rồi sớm ...niềm tin dài dằng

Ba câu thơ như một nốt nhãn, một điệp khúc khó quên trong bản tình ca về ba cháu đầy thiêng liêng và cao quý. Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ có sức truyền cảm mạnh mẽ. Giữa
những mất mát đau thương bà vẫn ngày ngày nhóm bếp lửa, chất chứa bao nét đẹp ý nghĩa, sự tinh tế, bình dị đơn sơ và tình yêu thương của cháu với bà. "Rồi sớm rồi chiếu" bà vẫn nhen lên
ngọn lửa như nhen nhóm lên trong lòng người cháu một tình cảm rộng lớn, ấp ủ bằng tình thương bao la dạt dào suốt cuộc đời bà luôn dành cho cháu. "Bếp lửa" của tình yêu gia đình, quê
hương giờ đây đã trở thành một "ngọn lửa" mang đậm giá trị biểu tượng, bếp lửa ấy được bà nhem lên từ ngọn lửa trong lòng ba. Ngọn lửa ấy là ngọn lửa của tỉnh yên thương, ngọn lửa của
niềm tin vào kháng chiến, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng cho con đường cháu đi. Qua đó hình ảnh người bà hiện lên tuy mộc mạc nhưng rất rực rõ, bà luôn cần
củ chất chịu, giàu nghị lực và đức hi sinh cao cả như bao người phụ nữ Việt Nam trong cuộc kháng chiến. Đi qua những hồi ức, tác giả chợt suy ngẫm về cuộc đời bà với triết lí sâu xa Lận đận
đời ....dậy sớm
Với cảm xúc "biết mấy nắng mưa" được lặp lại từ khổ 1 như một điểm nhấn nói về rất nhiều "lận đận", nhiều "nắng mưa” của cuộc đời bà. Thế nhưng bà vẫn luôn âm thầm chịu đựng, cần mẫn
và chu đáo chăm lo cho con cháu của mình. Dù đã "mấy chục năm" đi qua gian khổ nhọc nhân nhưng bà vẫn giữ "thói quen dậy sớm", bà vẫn gian nan, vất và tưởng như không bao giờ dứt.
Cháu vẫn thương mãi thói quen của bà, thương bà nhóm bếp lửa yêu thương suốt cả cuộc đời cháu. Bà đã nhóm lửa bằng cả lòng đồn hậu để những vần thơ của cháu thấm đẫm tình cảm sâu
nặng và lòng biết ơn sâu sắc.

Chiến tranh đã đi qua, nhưng bà ngày ngày vẫn nhóm bếp:Nhóm bếp lửa .....bếp lửa!

Điệp từ nhóm được nhắc lại bốn lần mang bốn nghĩa khác nhau, vang lên theo từng cung bậc tình cảm lớn dẫn, tỏa sáng dần nét "kỳ lạ", thiêng liêng và I là tình nghĩa of bà. Đó như là một lời
khẳng định bà chính là người nhóm lên trg lòng cháu ngọn lửa bằng đức hi sinh cao cả, thể hiện niềm xúc động thiết tha, kết lại trong miền kí ức của người cháu. Bà "nhóm tình ngọt bùi" dạy
cho cháu tình yêu xóm làng, yêu mảnh đất quê hương nghèo khổ, bà "nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui” dạy cho cháu biết yêu thương, san sẻ với mọi người. Cuối cùng, người bà kỳ diệu ấy
"nhóm dậy", thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu về tấm hồn và cách sống, bà còn là người truyền lửa và giữ cho ngọn lửa ấm lòng cháy sáng trả lòng mọi người. Người bà kì điệu như vậy ấy, rất
giản dị nhg có một sức mạnh kì diệu tử trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trg "Tiếng gà trưa "of Xuân Quỳnh:” Tiếng gà trưa/Mang bao nhiêu hạnh phúc/Đêm cháu về nằm mơ/Giấc
ngủ hỗng sắc trứng." Âm điệu thơ này dạt dào như sống, lan tỏa như lửa ấm như đó chính là cảm xúc đang dâng trào, đang tọa ẩm trong trái tim nhà thơ.Mỗi câu, mỗi chữ cử hồng lên, nồng
ấm biết bao tình cảm nhớ thương về bà. Câu thơ "Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa" bộc lộ rõ nhất thái độ kính trọng và cảm xúc đang dâng trào ào ạt trong tâm hồn người cháu. Câu thơ chỉ có 8
chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả đối với bếp lửa gắn liền hình ảnh người bà, với cách ngắt nhịp là một dấu lặng đầy nghệ thuật chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ
không thể diễn tả hết bằng ngốn từ.Chính tấm lòng của bà đã khiến cho cháu có thể quên đi dù cháu đã trưởng thành: Giờ cháu ....lên chưa..

Đoạn thơ đã đúc kết thật đẫm thảm lòng thương nhớ, kính yêu và biết ơn bà sâu sắc. Bao năm dài đằng đẳng, đứa cháu giờ đã khôn lớn sống trong một khung cảnh mới, một cuộc đối mới đẩy
đủ và ấm no nhưng chẳng thể nào nguôi nhớ về bà. Đặc biệt câu hỏi tu từ "sớm mai này ba đã nhóm bếp lên chưa?" đã người cháu chẳng thể quên được bếp lửa thần thường. Câu hỏi khép lại
bài thơ đã để lại sức ám ảnh day dứt như nhắc nhờ người cháu phải nhớ về bà, phải nhớ về bếp lửa quê hương.

Bằng những lời thơ trong sáng, bình dị và giàu chất trữ tình, ấm điệu thơ trữ tình sâu lắng và hình tượng "bếp lửa" mang đầy ý nghĩa và những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc, bài thơ mang triết lí sâu
xa, thầm kín. Những gì là thân thiết của tuổi thơ mỗi người có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà là biểu hiện cụ thể của
tình yêu thương, sự gần bó với gia đình, quê hương và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước.

Qua những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ Bếp lửa đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trấn
trọng và biết ơn của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước. Kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự, bình luận và sự sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bếp lửa
gắn liền với người bà "Bếp lửa" là một ài học đạo lí thao thiết. Bài thơ nhắc nhở ta về lối sống thủy chung ân nghĩa, có lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội
nguồn dân tộc.

Fg

Bếp lửa - Bằng Việt

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường
nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bả nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không
chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tinh cảm sâu đậm của hai bả cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông.

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kĩ niệm
đầy xúc động về người bà và tỉnh bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bả, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà
được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

Một bếp lửa chởn vởn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bả biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chọn như khỏi bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và tỏa sáng tâm hồn đứa cháu thơ
ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt
vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bả vô hạn. Tinh
cảm bà cháu thiêng liêng ấy cử như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm
và ánh sáng của tỉnh bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ.

Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bả. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thị, tâm tỉnh, tác giả như
đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ minh. Nếu như trong câu chuyện cổ tích của những bạn cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt
có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bả đã gắn bỏ bên tác giả, chính bả là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng
được bả chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu không thiếu bữa ăn nào, bả đi một từng củ khoai, đảo từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khỏi

Năm ấy là năm đói mỏn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khỏi, hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Chính mùi khỏi đã xua đi cái mùi từ khi trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại
ít nhiều ấn tượng trong lỏng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy sống mũi còn cay. Là mủi khỏi làm cay mắt người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước
mắt?

Tám năm rỏng cháu cùng bà nhóm bếp

Tu hủ kêu trên những cách đồng xa

Khi tu hủ kêu bà còn nhớ không bà

Bả hay kể chuyện những ngày ở Huế


Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và tình yêu bà chảy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của
tỉnh bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm tri thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát
khỏi cái đói, và dưởng như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy! Từ “tu hủ” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu
câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng tu hủ lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cảnh đồng xa lâng
lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.

Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm rỏng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tỉnh cảm bà cháu ấy
lại càng sâu dâm:

Mẹ cùng cha bận công tác không về

Cháu ở cùng bả, bả bảo cháu nghe (...)

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời lảng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu
như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Ngày nào cháu cũng cùng bả nhóm bếp. Và trong cải khỏi bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bả như một bả tiên hiện ra trong câu truyện cổ
huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cảnh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cảnh hoa tươi thắm nhất để con cải lên ngực áo thi đối với
Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cảnh hoa của riêng ông. Cho nên, tỉnh bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống
bên cạnh bả, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tinh đầu tiên. Không chỉ thế, bả còn
dạy cháu những bải học quý giả về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tỉnh cảm mà bà dành cho cháu đã thật
sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ cảng thương bả hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ cùng bà nhóm

lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế... Thi sĩ bỗng tự hỏi lỏng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?" Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa
cháu nơi xứ người. Chị trong một khổ thơ mà hai từ bà, cháu đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.

Chiến tranh, một danh tử binh thưởng nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân
của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt chảy rụi...

Năm giặc đốt lãng cháy tản cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi

Đỡ đần bả dụng lại túp lều tranh

h Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh: Bố ở chiến khu bố còn việc bố Mảy viết thư chớ kể nảy kể ng

Cử bảo nhà vẫn được bình yên!

Cuộc sống cảng khó khăn, cảnh ngộ cảng ngặt nghèo, nghị lực của bả cảng bền vững, tấm lòng của bả cảng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần củ, nhẫn nại và giàu đức hi
sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thể nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé
bỏng của minh lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn. Bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lời dặn của bà: “Mày
có viết thư chở kể này kể nọ / Cử bảo nhà vẫn được bình yên!”. Lời dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tỉnh. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén
vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho giàu đức hi sinh, thương con quỷ cháu.

Hình ảnh người bà không chỉ

những người phụ nữ Việt Nam

Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn lửa, một ngọn lửa: Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.

Hình ảnh ngọn lửa tỏa sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi
sáng con đường cho đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bả, bả sẽ luôn ở cạnh cháu.

Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thơ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cùng là những bài học sâu sắc từ công việc nhóm lửa tưởng chừng đơn giản:

Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm

Một lần nữa, hinh ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tỉnh cảm sâu sắc của hai bà cháu.

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi. Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tỉnh yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi

những năm tháng nghĩa tinh, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống với nhau, những năm tháng mà hai bà cháu minh củng chia nhau từng cũ sẵn, cũ mì. Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ
chung vui. Nổi xôi gạo mới sẽ chung vui của bả hay là lời răn dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bỏ với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ. Nhóm dậy
cả những tâm tỉnh tuổi nhỏ.

Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì
diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bả kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu tử trái tim,
ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh:

Tiếng gà trưa

Mang bao nhiêu hạnh phúc

Đêm cháu về nằm mơ

Giấc ngủ hồng sắc trứng.

Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tỉnh cảm đang trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm
lỏng bà. Người bà đã lả, đang là vả sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trở thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu. Giờ đây, khi
đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bảo
Giờ cháu đã đi xa.

Cỏ ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bả nhóm bếp lên chưa?

Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm giữa hai bà cháu đã sưởi ấm lỏng tác giả trong cái mùa đông lạnh giá của nước Nga. Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ
đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn
cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.

Đọc xong bải thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính sóng đôi này hiện lên thật sống động, rõ
rảng như thể nét khắc, nét chạm vậy... (Văn Giá). Bài thơ Bếp lửa sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao
đẹp đối với gia đình, với những người đã tỏ mảu lên tuổi thơ trong sáng của ta.

Sfèg

PHÂN TÍCH BÀI THƠ "BẾP LỬA" CỦA BẢNG VIỆT U

Bài lán

Có những thi nhân lang thang trên triền đê của ký ức. Trong số ấy có một thi sĩ vì quá đỗi nhớ người yêu, trong con điên loạn bất giác kêu lên

"Anh đã đi qua bao bão lốc từng con Cây rụng là trong chiều thanh thân nhất Anh qua cả màu không gian ngày ngắt Một tiếng thầm trong tháng mới lao xao... Em đã đến rồi đi như một giấc
chiêm bao

Và cũng chính thì nhân ấy trong hành trình mở lỗi tới xứ sở cái đẹp của thơ ca, ta bắt gặp anh dừng chân bên vệ đường nhặt nhạnh những mẫu là khó nhóm nhen mảnh hồi ức về thời thơ ấu
thuở hoa mới dom nụ. "Bếp lửa" - trạm dừng chân kỳ ức của Bằng Việt, bếp lửa giản dị mà thiêng liêng, chân quê và thân thương. Bếp lửa vẫn chạy hoài qua năm tháng có lẽ bởi ngọn lửa rạo
rực tĩnh bà cháu của thi nhân thiêng liêng đến khó tả, thiêng liêng đến nằm ngoài quy luật băng hoại của thời gian.

Bằng Việt là nhà thơ cùng lửa với các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ như Nguyễn Duy. Nguyễn Khoa Điểm, Hữu Thỉnh..."Vào những năm đầu của thập kỷ 60, Bằng Việt xuất
hiện giữa làng thơ Việt Nam như một ảnh đèn nê ông kỳ ảo, tỏa sáng trí tuệ, sự mát mẻ của tuổi xuân và cái dịu dàng của hồn thơ anh"(Phạm Hải). Bảng Việt xếp chữ nên thơ như nỗi trải lòng
mềm mại, chính vì vậy mà giáo sư Lê Đinh Kỵ nhận thấy trong anh "cái tâm hồn nhiều suy nghĩ và rung động tinh tế", còn Hồng Thọ cảm được "sự suy nghĩ có tính có nghĩa được bộc lộ nhất
quán trong thơ anh". Cũng như bao người con đem theo trái tim tràn đầy thương nhớ khi xa nhà, Bằng Việt đem theo tình yêu bà và quê hương da diết tới miền đất Liên Xô xa xôi. Bài thơ Bếp
Lửa ra đời trong nỗi yêu nhớ dâng trào trong lòng tác giả và được đưa vào tập "Hương Cây - Bếp Lửa - tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bài thơ như con thác chảy từ quá khứ tới
hiện tại theo một vòng tuần hoàn mạch cảm xúc. Đó là những năm tháng nhạc nhân, đối khổ nhưng lại rất vui khi bên bà, đó cũng là quá trình trưởng thành của châu dọc theo năm tháng, là
nơi những rung động tinh tế chim này nó trong hơi ẩm nồng nàn của bếp lửa, trong vòng tay bao bọc và thương yêu và vẫn của bà trước "biết máy nẵng mưa.

Như một quy luật nghiệt ngã của văn chương của sáng tạo nghệ thuật, bất kỳ ai khi viết về tuổi thơ cũng thường không tránh khỏi bị lan man, không nổi bật tâm điểm bởi bao bọc những tháng
năm qua mãi ấy là những cảm xúc da diết, những nỗi nhớ tiếc khôn người. Bằng Việt cũng viết về kỉ niệm ấu thơ nhưng thi sĩ đã chọn lựa cho mình một chi tiết độc đáo, tuy binh dị nhưng độc
giả phải tính tẻ mới nhận ra: "Bếp lửa". Nhớ về tuổi thơ, nghĩ về bếp lửa, sóng lòng thi nhân lại đạt xúc cảm của mình tới hình ảnh người bà thương yêu - một hình ảnh xuyên suốt bài thơ lúc
nào cũng chập chờn lay động.

"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Châu thương bà biết mấy nắng mưa...

Tiếng “một bếp lửa" dường như đã trở thành một điệp khúc, thân thuộc trong mỗi căn bếp của gia đình Việt Nam. "Bếp lửa chờn vờn", "Tiếp lửa ấp iu, bếp lửa ấy như cháy hoài, cháy mãi bằng
bản tay nhen nhóm đầy chỉ chút, khéo léo của bà mỗi sớm tỉnh ma. Cái "chân văn", bập bùng của ngọn lửa trong căn bếp dường như không chỉ rạo rực vách tưởng mỗi sớm mai hôm nào mà
giờ đây còn là cái "chập chờn" trong lòng của người con xa xứ, "chờn vờn" của kí ức ùa về trong mênh mang nỗi nhớ, tình cảm trực trào ra một cách tự nhiên:

"Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

“Nắng mưa" là hình ảnh ẩn dụ khéo léo cho cuộc đời khổ cực, lao đao của bà. Có lẽ lúc này, người châu đã nhận thức được đôi vai gây bà đã gánh gồng bao sương gió, tấm lưng cũng vì đã đội
bao mưa nắng, chính vì thế mà thương bà nhiều hơn. Hai thanh bằng "thương bà" đi liền với nhau kéo theo tình cảm dài xao xuyên, chữ "thương" như nốt luyện đưa cảm xúc lan tỏa, thấm
đượm vị sương gió đời bà đã trái để từ đó, nỗi thương bà ngày một dâng trào, bù đắp bao giờ cho đủ cay cực bà phải chịu đựng. Nốt lặng "ba chăm" cuối khổ thơ như muốn lắng đọng từng
giọt cảm xúc người châu bắt ra, cũng là coi mở cho thứ tinh cảm của cháu ngân nga, quán quýt mãi bên người bà thương yêu.

Thước phim thời gian tua ngược chầm

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khỏi Năm ấy là năm đói mòn đôi môi Bồ đi đánh xê khô rạc ngựa gây

chậm lại vào thời cháu lên bắn.

Thuở ấu thơ của cậu bé quê mùa chen chúc hương khỏi bếp. Dường như mũi hương ấy cứ lan tỏa theo năm tháng, đến nỗi đã trở thành quen thuộc với đứa trẻ mới được sống bốn năm đầu
đời. Ấy là một tuổi thơ chấp và những khó khăn, gian khổ, một tuổi thơ lê lết trong trận cản khủng hoảng của nạn đói năm 1945. Thành ngữ "Bài mòn đòi mỗi nhấn mạnh cái đói kéo dài, kiệt
quệ. Hình ảnh người bỏ gầy guộc đi đánh xe trên con ngựa gây khô rạc, vắt kiệt sức lao động, vật kiệt sức sống để chất chịu từng hạt cơm, bắt chào. Ngàn ấy thôi đã đủ để ta mường tượng về
nạn đối 1945, và hiện thực còn tàn tạ hơn thế. Giọng thơ tác giả như trĩu xuống khi phải gọi lại về quá khứ kinh hoàng ấy, một quá khứ tàn khốc và bị thương của cả dân tộc. Thế nhưng trước
cuộc khủng hoảng còn ám ảnh dài dài, phép nhiệm màu nào đó đã xuất hiện bao bọc lấy tuổi thơ của cậu bé mới lên tư. Khiến nhà thơ.
"Chỉ nhớ khỏi hun nhóm mắt cháu.

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn ca...

Những năm tháng ấu thơ bên bà khỏi hun nhiệm mất là những tháng năm đôi khổ đeo bám đằng đẳng. Nạn đòi kinh hoàng Ất Dậu(1945) quét qua chẳng để lại cho người dân ta điều gì ngoài
khung cảnh hoang tấn và thủy người là đi vì dài la liệt. Cái "khỏi hun nhóm mất có lẽ là cách mà bà đã bảo vệ tuổi thơ đẹp đẽ của châu trước khung cảnh hiện thực tàn khốc. Đây cũng là cách
mà người ta dùng để xua đi thứ mũi kinh tâm từ thủy người trong "Vợ nhặt"(Kim Lân): "mũi đốt đồng nằm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt". Mũi khỏi không thơm,
không phải thứ hương người ta thêm muốn được thưởng thức nhưng mũi khỏi ấy đã quên chặt và bám lấy tâm hồn đứa trẻ bốn tuổi, xua tan mùi từ khi, hiện thực đối khổ. Hương khỏi "nhóm
mất quyền lấy tuổi thơ cháu và đeo đẳng cho tới tận bây giờ khi nhớ về ngày xưa cũ. Năm ấy khỏi bếp lừa bà đốt "hun nhóm mắt châu”, năm nay lục lại ký ức về năm ấy, cảm giác sống mũi cay
thuở xưa vẫn còn đó và những xúc động mãnh liệt thôi thúc tuyến lệ của cháu trực trào khi lật lại từng trang kí ức cơ cực trong đầu, nao lòng.

Thước phim thời gian trôi xuôi theo dòng đời đến năm lên 8 tuổi của cậu bé:

“Tám năm rộng, cháu cũng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu, bà cần nhớ không bá?. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế. Tiếng tu hú sao mà tha thiết thiết Mẹ cùng cha công tác bận không về, Cháu ở
cùng bà, bà bảo cháu nghe, Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học"

Hình ảnh bếp lửa vẫn vương khói vẫn chẳng thể nào dứt ra khỏi hỏi ức của cháu. Tiếng chim tu hú như một điệp khúc vực dậy mùa lúa chín "trên những cánh đồng xa, như tiếng chuông báo

thức của tự nhiên đánh thức cháu dậy sớm nhen lửa cũng bà và cũng là tiếng báo hiệu cho sự khởi nguồn của những câu chuyện về những ngày bà còn ở Huế - có hương của tác giả. Tu hủ kêu
vang vọng những thanh âm da diệt, khắc khoải để lại những nhớ và mong. Tiếng loài chim hè ấy mới hay họ, thiết tha làm sao, một lần nữa gọi mùa hè vàng ươm trong mường tượng của
người tù Cách mạng:

"Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dẫn

Vuon ram day tieng vengan

Bắp dây vàng hát đầy sân nắng đảo Trời xanh càng rộng càng cao

Đài con diều sáo lộn nhắc tùng không”

(Tô Hữu)

Còn Bằng Việt chỉ thất lên câu: "Tiếng tu hú sau mà tha thiết thêm. Trong thanh âm vang vọng của tiếng chim có xen lẫn mùa lúa vàng, có lời bà kể chuyện, khiến nó cứ ngăn nga, ngân nga mãi
tít chân trời... Bà không chỉ sưởi ám tuổi thơ cháu mà còn bảo ban châu nhiều điều, gánh hết trách nhiệm làm cha, làm thầy lam me:

“Mẹ cũng cha công tác bận không vớ Cháu ở cùng bà bỏ bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học"

Gia cảnh nhà thơ bây giờ cũng như bao gia đình khác, bố mẹ đều phải đi làm xa để kiếm từng đồng tiền đồi lấy hạt gạo chống đỡ nạn đói. Sự sắp đặt các từ "bà cháu gần nhau, quấn quýt nhau
như một vòng luận quản, ý đồ của nhà thơ muốn con mắt và cách cảm của nhận của người đọc thật tinh tế, nếu không tinh tế sẽ không nhận ra gia cảnh lay lật chỉ có hai bà cháu sống nương
tựa vào nhau. Bà không chỉ đảm dương vai trò làm cha, làm mẹ, làm thầy mà còn là chỗ dựa tinh thần vững chãi cho đứa cháu thơ nhỏ. Nghĩ ngơi đến đây, cảm xúc dẫn nên mỗi chức ủa ra

“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa?”

Việc chưa làm thì chưa biết, thứ rồi mới thấy gian nan. Phải nhóm lên bếp lửa mới hiểu thấu nhạc công nhen nhóm chỉ chút, tỉ mĩ của bà. Nhà thơ lúc ấy mới xót xa thốt nên câu hỏi

“Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xan

Là lời khiển trách tu hú hay lời tự vẫn bản thân? Câu cảm thán: "Tu hú vỡ dứt khoát như đang gọi tu hủ hay gọi chính trỗi dậy của lương tâm minh? Tại sao không về bên bà mà lại ở đất Liên Xô
xa xối, ngăn nga từng câu khắc khoải? Nỗi nhớ da diết, nhớ thương bà sớm hôm đã khiến trách bản thân tác giả. Dòng hồi tưởng đang từ chôm thực tại lại tại ngược về quá khứ, về những năm
kiên cường chiến đấu với quân thủ:

“Năm giặc đốt lăng chảy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về làm lại

Đã dần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng, bà dặn châu đính ninh:

Bộ ở chiến khu, bỏ còn việc bổ,

Máy có viết thư cho kẻ này kẻ nọ. Cứ bảo nhà vẫn được binh yêu l

Chiến tranh bom Mỹ đến rồi đi như một thảm họa, một tận diệt của hai thế cực, con người - thiên nhiên. Không sao kể xiết tội ác của những tên linh Mỹ đã gây ra cho dân tộc. Năm ấy, nhà thơ

chứng kiến cảnh chúng đốt nhân ngôi làng yêu dấu của mình, đốt "chảy tàn cháy rụi", cháy một cách khủng khiếp, hung bạo mà dường như chính ngọn lửa ấy cũng quân quại, đau đón khó tả
khi phải nuốt trọn làng quê mình. Sau cơn ác mộng hỏa hoạn đến như cơm bữa, người dân bắt đầu làm lại trở về với đối bàn tay trắng. Nhà cửa bị đốt nhẫn, của cải hóa tàn tro. Đã dần bà gian
khổ dựng lại túp lều tranh tạm bọ, khổ ấy mà bà vẫn nhẫn nại chịu đựng, chẳng chịu san sẽ cho ai mà "dân châu đính ninh”:

"Bố ở chiến khu bố còn việc bổ

Máy có viết thư kẻ này kẻ nọ.

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên".


Lời dặn dò của bà giản dị, năm na nhưng chắc chân "Chắc" bởi có lẽ bà đủ dũng cảm, đạn dày để đối mặt với sự mòn khổ của cuộc đời. Đảo ngữ: "Vẫn vững lòng bà dặn...", vững lòng trước rồi
mới dặn dò cháu sau, bà bao giờ cũng kiên cường gằng minh lên như vậy. Lời dặn bà nhân nhũ đơn sơ nhưng chứa chan tình yêu cháu, thương con. Bà giấu đức hi sinh, là hiện thân cho những
phẩm chất chung của người phụ nữ Việt Nam: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".

Bếp lửa của bà thiêng liêng, kỳ ảo cứ chảy hoài theo năm tháng.

"Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bỏ nhen Một ngọn lửa làng bả luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chửa niềm tin dai dẳng...

Thiêng liêng bởi chất liệu bà nhóm lên bếp lửa sưởi ấm tuổi thơ châu không chỉ bằng củi, than mà còn là vật liệu hiếm, khai thác từ sâu trong tim. Đó là tình thương và niềm tin con cháu của bà
đó là ý chí, nghị lực vững chắc làm chỗ dựa cho cháu, là đức hi sinh cao quý. Hình ảnh "Bếp lửa" chắc chuyển hóa sang "ngọn lửa", từ vật cụ thể chuyển thành hình ảnh trừu tượng. "Ngọn lửa"
này không chảy leo lét như ảnh nền, cũng không sáng phừng phừng như đống lửa. Đó là sức chảy bên bị qua năm tháng ù sẵn trong bà. Đây không chỉ là ánh sáng, hơi ẩm mà sâu trong cái
nhiệt năng nóng bỏng ấy là cả niềm lạc quan bắt diệt bà luôn âm thầm nhen nhóm, là niềm tin bền vững vào một tương lai không xa của cuộc kháng chiến, của sức sống trường kỳ mãnh liệt. Bà
nhen lên bếp lửa bằng tinh thương nên ngọn lửa được thắp lên là ngọn lửa yêu thương năng âm. Bà dùng chính trái tim mình phả hơi ẩm cho tuổi thơ cháu, xoa dịu đi phần nào cơ cực, thiệt
thời, thiếu thốn. "Một ngọn lửa" điệp lại mạnh mẽ như chính niềm tin và sức sống của bà. Đó cũng là cái kỳ ảo của bếp lửa, chảy hoài chảy mãi, cháy lên tình thương mỗi ngày một to lớn nuôi
dưỡng cháu nên người.

Dòng sông ký ức chảy băng qua cuộc chiến không Mỹ gian khổ, giờ đây lại trầm ngâm suy tư về cuộc đờibac

"Lận đận đòi bà biết mấy nắng mưa.

Máy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm"

Lại một lần nữa, cụm từ "biết máy nâng mưa gánh hát nhạc nhân, lo toan đời bà trải lên trang giấy cháu. Đảo ngữ: "Lận đận đời bà..." Lạc lại cuộc đời đầy sóng sóng gió, bập bênh.

"Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ.

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm"

Thấp thoảng sau con chữ, bóng lưng bà tần tảo sớm chiều, bà dậy sớm để nhóm lửa, nhóm cho ngọn lửa cháy trường kĩ, nhóm lên như một điệp khúc trong gian bếp quê tham lãnh mũi khỏi
rom và mũi xôi giao

"Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sân ngọt bùi,

Nhóm niềm xôi giao mới, sẻ chung vui Nhóm đây cả những tâm tính tuổi nhỏ... Ối kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa

Điệp từ "nhóm" lập đi lập lại như một công việc khởi đầu ngày mới để sưởi ấm và nấu ăn cho gia đình. Cũng là nhóm lên tinh yêu thương (nhóm niềm yêu thương khoai sẵn ngọt bùi"), nhóm
lên tính đoàn kết “mới sẽ chung vui; khơi dậy trong châu những ước mơ (nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhờ"). Giờ đây, cháu mới ngỡ ngàng nhận ra ý nghĩa của việc nhóm lửa. Đảo ngữ
cảm thân như một lời thốt lên, một sự bất ngờ về công việc bấy lâu nay thân thuộc. Chẳng ngờ đâu lại diệu kỳ đến thẻ, "Ối kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa.

Bánh xe kỳ ức lần về thực tại, thước phim tua ngược dẫn rời xa quá khứ. Những lời tự tình ở cuối bài thơ đã gieo vào lòng người xa xứ một nỗi buồn, nỗi nhớ khôn nguôi về quê hương và bóng
dáng những người yêu thương, cứu mang ta thuở ấu thơ, dìu dắt ta đi qua bao thăng trầm của cuộc đời. “Trăm tàu, trầm nhà", "Trăm ngã dẫn được điệp lên trang giấy giống như lời khẳng
định cho sự lớn khôn trưởng thành, cho niềm tin yêu của ngọn lửa bên bị bà nhen nhóm ngày ấy. Thế nhưng, dù đã đủ lông đủ cánh để tung bay đi muôn phương, cháu vẫn chẳng thẻ nào
quên bà và bếp lửa, chẳng bao giờ quên nhắc nhở.

"Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?"

Bép và bà luôn đi liền,song hành với nhau. Nhắc tới bếp là nghĩ về bà mà nói tới bà là liên tưởng tới bếp. Câu hỏi tu từ của nhà thơ chẳng phải để hỏi bà mà là đợi câu trả lời từ chính lòng
mình, nhắc nhở mình luôn dành một góc đặc biệt trong tim đẻ bà nhen bếp lửa, cho ngọn lửa ấy cháy hoài, cháy mãi, cháy lên. tình yêu quê hương, gia đình, đất nước trong cháu nhắc nhớ
cháu phải khác ghi trong tầm đạo lý uống nước nhớ nguồn". Dẫu mai này cảnh có con có một là ở miền đất đẹp xinh nào đi chăng nữa, quê hương cô chỉ có một mà thôi

Dòng hồi tưởng của bài thơ đầu trải qua những cột mốc tháng năm "đòi mòn đôi môi", "mưa bom đạn gao”, vẫn lung lĩnh, huyền diệu và lay động trái tim người đọc như vụn trắng dát vàng
đóa hồng bạch nở rung rinh như những nàng công chúa. Sức chảy bên bị của ngọn lửa bà nhìn qua bao tháng năm giống như tình thương vô hạn và niềm tin bắt tận bà đặt trong chiến dịch và
tương lai châu sáng chối. Hình ảnh bà gần bỏ bên bếp lửa không chỉ là hình ảnh chủ đạo xuyên suốt cả bài thơ mà còn là biểu tượng thân yêu, chạy dọc đường đời, an ủi châu những phút ngã
lòng hãy đứng dậy, nhắc nhớ châu không được quay lưng lại với quê hương, đất nước mình.

Thi nhân cuối cùng gối lại mảnh kí ức và giữ chặt như một bảo vật bên minh. Anh lại tiếp tục hành trình lang thang trên triển để ký ức và dẫn lối cho bạn đọc tới xứ sở cái đẹp trên thi đàn. Tôi
dõi theo anh, biết anh đã khắc sâu trong tim lời bà dặn, miệng còn lầm bầm:

"Mười năm

Châu dần lớn nên người

Rất nhiều điều phải đi đến tận cùng.

Chỉ có lòng bá thương

Đi bao giờ hết được?

*BEP LUA
Văn học ra đời giữa những buồn vui của loài người và sẽ làm bạn với con người cho đến ngày tận thế. Mỗi tác phẩm nghệ thuật chân chính giống như thứ khi giới thành cao mà đắc lực mà
chúng ta có để thay đồi thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho làng người trong sạch và phong phú hơn Văn chương trao truyền những tình cảm, cảm xúc tươi đẹp, trong trẻo cho tâm hồn con
người hưởng đến vẻ đẹp của chân thiện mỹ. Chính vì thế mà văn chương giống như suối nguồn lai tạo sự sống cho tâm hồn mỗi người. Những trang văn câu thơ bồi đắp thêm cho ta những
tình cảm ta sẵn có và làm giàu thêm những tinh cảm ta chưa có. Bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt là một bài thơ như thẻ. Cũng viết về những tinh cảm muốn thuở của loài người đó là tình bà
cháu, tình yêu quê hương, đất nước ta đã gặp trong thơ ca dân gian, trong những trang văn tuyệt đẹp của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông quê hương, những câu hát và cảnh xứ non
sông, những câu tục ngữ về tinh bà cháu thiêng liêng: “Ngó lên nuộc lạt mái nhà Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu." Nhưng tìm đến những câu thơ của Bằng Việt không hiểu sao vẫn
rung động hồn ta bởi những nỗi băn khoăn riêng, vẫn ám ảnh và đầy dư ba về sự hi sinh của người bà tần tảo và tính cháu yêu bà.

Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông toát lên vẻ đẹp trong sáng mượt mà "như những
bức tranh lụa; rất đâm thăm và sâu sắc khi viết về những kĩ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình và "Bếp lửa cũng không là bài thơ ngoại lệ. Tác phẩm được sáng tác năm 1963, khi
tác giả đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, là tập thơ đầu tay của Bằng Việt, sau được đưa vào tuyển tập "Hương cây – Bếp lửa cùng với Lưu Quang Vũ.

Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Điều đó được gọi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người châu (chính là
Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà,
đối với gia đình, đối với quê hương, đất nước..

Trước hết là hình ảnh “bếp lửa – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhỏ, hồi tưởng về người bà kinh yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân yêu, có bà
và có cả những kỉ niệm ầu ơ khi còn nhỏ. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh "bếp lửa yêu thương. “Một bếp lửa chọn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"

Hình ảnh bếp lửa "chôn vốn sương sớm" giàu tinh chất tả thực, gọi lên hình ảnh một bếp lửa ẩn hiện tập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai. Những đóm than hồng đỏ rực năng
đượm sự ấp ủ được nhóm lên bởi bàn tay dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tắm lòng chỉ chủ của người bà. Đồng thời, cái bếp lửa ấy cũng chôn vốn trong tâm trí, trong nỗi nhớ âm ảnh của nhà
thơ, ấp ui, trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi

buói sóm mai:

"Cháu thương bà biết mấy nắng mưa."

Cụm từ "biết mấy nắng mưa" gọi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của người bà. Thương là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tinh yêu thương, sự sẻ chia và bao hàm
cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguời của người châu dành cho bà của mình

Như vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tính cảm nỗi nhớ da diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thân yêu. Có thể coi đây là khúc dạo đầu viết về nỗi nhớ.
Từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bài. Bài thơ sẽ là lời tâm tư, nỗi nhớ của người cháu về bếp lửa, vẻ người bởi và cả những kỉ niệm buồn vui khi còn bên cạnh bà.

Nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta luôn thường trực nghĩ tới những năm tháng hồn nhiên, tinh khối, trong trẻo khi được sống trong sự đủ đầy cả về vật chất và tình cảm yêu thương
của cha mẹ, người thân. Nhưng với những thế hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt thì điều đó làm sao có được khi họ phải sống trong những năm tháng bom rơi đạn lạc chiến tranh, sự sống và cái
chết chỉ trong găng tắc. Vì thế, khi nhớ về thời âu thơ, những kỉ niệm trong kí ức như một thước phim quay chậm lần lượt hiện về trung tâm trí của Bằng Việt với biết bao nhiêu là sự thiệt thời,

gian khổ, thiếu thốn, nhạc nhân. Kĩ niệm đầu tiên ấy là khi lên bốn tuổi:

Yên bốn tuổi cháu đã quen mùi khỏi Năm ấy là năm đói mòn đôi môi. Bồ đi đánh xe, khô rạc ngựa gây Chỉ nhớ khỏi hun nhóm mắt cháu Nghĩ lại đèn giờ sống mũi còn cay!".

Thành ngữ "đôi môn đối mỗi gọi tả cái đối kéo dài làm cho mệt mỏi, rã rời và kiệt sức. Vì thế, cái đội đã khiến cho ngựa cũng trở nên gầy rạc, hình ảnh người bố đánh xe chắc chắn cũng khô
héo, tiều tụy, xanh xao...tất cả đã khiến cho người đọc đăng lên một nỗi niềm xót xa khi nhớ tới nạn đói khủng khiếp đến rợn người năm Ất Dậu 1945 năm nào. Khi ấy, cháu ở cùng bà và đã
cùng bà nhóm lửa, khỏi bếp tỏa ra đã làm cho nhóm mất, nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay". Lần khỏi đã in đậm, in sâu trong tâm trí của người châu hay đó chính là nỗi cơ cực, vất vả của cái
nghèo, cái đói, của chiến tranh loạn lạc trong tuổi ấu thơ của người châu. Những câu thơ được viết lên bằng những tình cảm chân thực nên chọn chữa nước mắt. và dày đặc lần khối. Giọng thơ
trầm xuống thăm thía một nỗi buồn cơ cực đến xót xa khi dòng hoài niệm tuổi thơ đăng đầy trong lòng thi sĩ khiến "sống mũi còn cay".

Tiếp đến là những dòng hoài niệm về tám năm rằng trong cuộc sống có chiến tranh sống bên bảo

“Tám năm rồng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu bà còn nhỏ không bà Bà hay kẻ những ngày ở Hun Tiếng tu hú sao mà theo thiết thế Mẹ cùng cha công tác bận không về Châu ở cùng bà, bà
bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, Tu hủ oi chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa?”

Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, réo rắc cuộn xoáy vào trong lòng của người con xa xứ. Âm thanh của tủ hú kêu được tái hiện trong
những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi thi từ cảnh đồng xa vọng lại (Tu hú kêu trên những cánh đồng xa) gọi lên một không gian rộng lớn, mênh mông và vâng lắng; khi thì lại rộn lên
khắc khoải, da diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm (Khi tu hủ kêu bà còn nhớ không bài Bà hay kẻ chuyện những ngày ở Huế); khi thì lại giống giả, kêu hoài đến khô khan, lạnh
vắng trên những cánh đồng xa xôi, heo hút (Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa)... Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ âm của những dòng hoài niệm hồi tâm tuổi, có tác dụng khác
họa không gian sống vắng lặng, heo hút, mênh mông; lại vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn trống trãi đến da diết, ron ngọp. Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thăm đẫm tinh cảm
yêu thương, đùm bọc cứu mạng của người bà yêu quý. “Mẹ và cha công tác bận không về" và hai bà châu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ
và chăm cháu học. Các động từ: "bà bảo, bà dạy bà chăm" đã diễn tả một cách sâu sắc và thăm thia tình yêu thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu. Vì thế , bà trở thành
ngọn nguồn ấm áp, vỏ về, nuôi nắng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quí của tinh cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến đi xa bận công tác của bố
mẹ. Cho nên, người châu luôn ghi lòng tạc đạ đức công on trời bẻ ấy của bà "Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc". Chỉ một minh chữ thương thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu
thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người châu dành cho bà của mình.

Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mặt vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người châu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người
cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn

“Năm giặc đốt láng chảy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về làm lại Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh "Bộ ở chiến khu, bỏ còn việc bổ, Máy có viết thư cho kẻ này, kẻ nọ. Cứ bảo nhà vẫn
được bình yên!"
Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm làng, bà vẫn âm thảm chịu dụng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà
không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chẳng là phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong
chiến tranh. Tu dọc ở đây sự hy sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con châu, cũng đất nước để đánh đuổi giặc giã xâm lăng,
đem lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dân đỗ của người bà vẫn được châu "đinh ninh" nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng
cho thấy phẩm chất đáng quý biết bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có
được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương

Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cũng bên bà của mình, người châu tiếp tục suy ngắm, chiêm nghiệm về cuộc đời của tả qua hình ảnh bếp lửa

"Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bỏ nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Từ bếp lửa bài thơ đã gọi đến "ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên,
mà cao hơn đã được tác giả năng lên thành biểu tượng cho tinh yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ “một ngọn lửa vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bắt diệt
của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hỗn cho ý chí, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế,
bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người châu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ nối Бер

Từ suy ngẫm về vai trò của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao qui của người bà: tần tảo, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân đức

Lận đận đòi bỏ biết máy nâng mưa

Máy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xối gạo mới sẽ chung vui

Nhóm đây cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ối kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!"

Cụm từ "biết mấy nắng mưa gọi lên cuộc đời của người bà vất vả, gian truân, lận đận nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ nhám" (4
lần) bao gồm rất nhiều nghĩa, nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ẩm nóng, tỏa sáng
trong mỗi gia đình. Từ tập iu nồng đượm" gọi tả công việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chỉ chút của bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn

nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẻ chia chung vui và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà đầu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thường nữa
trà cao hơn nó đã thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà. Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người châu hơi ấm của tình yêu, sự sẻ chia với
mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gọi dậy cá những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu đẻ châu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc ghi
nhớ tới cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc mình. Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng "Ôi ki lạ và thiêng liễng - bếp lửa!". Từ cảm thán “Ối kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện
sự ngạc nhiên ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu giữ cuộc đời binh dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực chảy, bắt từ thiêng liêng.

Khổ cuối bài thơ là lời bộc bạch chân thành của người cháu khi đã lớn khôn, trưởng thành. Dù cho khoảng cách về không gian, thời gian có xa xôi "khỏi trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm
ngả nhưng người châu vẫn luôn khắc khoải trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi về bà, về bếp lửa: "Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhỏ – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?.... Sự tương phản
giữa quá khứ và hiện tại, giữa "khối lửa" của cuộc sống hiện đại với bếp lửa binh dị, đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bắt diệt của ngọn lửa mà bà nhóm lên trong mỗi sớm chiều luôn
thường trực và sống mãi trong lòng của người cháu Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm của tuổi thơ về bà – một người truyền lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin "dai dẳng" bất diệt
cho thế hệ tiếp nối. Chính vì thế nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài vọng xa xăm của người
cháu luôn đau đầu, thiết tha nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia đình, nhớ tới quê hương, đất nước.

Bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đảo qua giọng điệu tâm tính, thiết tha, nhịp điệu thơ lĩnh hoạt; kết hợp với lỗi trung điệp
được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, đăng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thăm thía, xúc động trước nỗi
nhớ nhung da diết về những kĩ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tính của nhà thơ đối với người bà kính yêu. Qua đó, chúng ta cũng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trần trọng hơn tình
cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới thăm thía hết được lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân, thật ý nghĩa biết chừng nào. "Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người...

Sgg

Bài :

BÉP LỬA – BẰNG VIỆT

I. MỞ BÀI

Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông làm thơ từ đầu những năm 1960 với giọng điệu trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ
niệm và mơ ước tuổi trẻ nên gần gũi với bạn đọc trẻ. Bài thơ Bếp Lửa sáng tác năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và đang học ngành luật ở Liên Xô. Tác phẩm viết theo thể thơ tự do và được đưa
vào tập Hương Cây - Bếp Lửa, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với từ sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn
liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.

II. THÂN BÀI

1. Ba câu thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn dòng hồi tưởng, cảm xúc

Trong biết bao kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in dấu ấn đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt. Bắt đầu từ hình ảnh, ấm áp ấy, mạch hồi tưởng của bài thơ bắt đầu:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Châu thương bả mấy nắng mưa.

Người bình dân xưa, khi xa quê, họ nhớ về những món ăn dân dã, quen thuộc “nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”, còn Bằng Việt lại nhớ về cái bếp lửa của rơm bình dị. Khổ thơ chỉ vỏn
vẹn 3 câu mà đã hai lần lặp lại điệp ngữ “một bếp lửa”. “Bếp lửa” ấy là hình ảnh vô cùng gần gũi và giờ thân quen với mỗi gia đình Việt Nam từ bao giờ. Sự lấy lại ba lần ấy nhấn mạnh dòng
cảm xúc đang dâng trào cùng với kí ức, hồi tưởng. “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm” là hình ảnh rất thực và rất đẹp, một vẻ đẹp đầy chất thơ ở trong đời thưởng, lung lĩnh trong nỗi nhớ,
trong màn sương hồi tưởng của người cháu đi xa. Từ láy “chờn vờn” vừa tả ánh sáng lập lòe và từng làn khói vương vấn của bếp lửa mới nhen vào buổi sớm; vừa gợi lại hình bóng bà chập
chờn in trên vách. Kết hợp với sự mờ ảo của sương sớm, mảnh kí ức ấy như ẩn hiện trong làn sương vương vấn mùi khói, không hề thiếu đi sự nồng ấm. “ Áp in” tuy là một từ ghép nhưng lại
mang âm hưởng của từ láy, vừa là sự kết hợp của ấp ủ và yêu thương, vừa gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo, chi chút và và tấm lỏng đồng đầy yêu thương của người nhóm lửa. Sự nồng đượm
kia không chỉ tả bếp lửa cháy đượm mà còn ẩn chứa tình cảm trân trọng của tác giả đối với người đã cần mẫn, chăm chút thắp lên ngọn lửa ấy. Hai hình ảnh sóng đôi đối nhau “chờn vờn
sương sớm”, “ ấp iu nồng đượm” đã tạo nên sự hòa phối âm thanh làm cho câu thơ vừa nhẹ nhàng như khói bếp, vừa trĩu nặng về thời gian. Để rồi không cầm được cảm xúc, người cháu đã
thốt lên: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, thật giản dị mà vẫn trào dâng một tình yêu thương bả vô hạn. Từ đó, sức ấm và ánh sáng của hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở
thành điểm tựa để mở ra một chân trời đầy ắp kỷ niệm ấu thơ về tình bà cháu.

2. Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa.

a. Kỉ niệm năm lên bốn tuổi

Theo dòng hồi tưởng ấy, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn, ám đầy mùi khói:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói.

Năm ấy là năm đói mỏn đói mỏi.

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.

Lời thơ giản dị như những câu văn xuôi, như những lời thủ thỉ tâm tỉnh dẫn dắt người đọc về miền ký ức tuổi thơ. Dâu đó vọng về trong tiềm thức người cháu bóng đen ghê rợn của nạn đói
năm 1945. Mới lên 4 tuổi, đứa trẻ trong bài thơ đã phải chứng kiến một trong những thời kỳ đen tối, đói khổ nhất của nhân dân ta do sự bóc lột tản bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Từ
“đói” được điệp lại, từ “mòn mỏi” được tách giãn ra, gợi lên một cái đói thê lương, deo dắt. Trí óc non nớt của một đứa trẻ chỉ kịp ghi nhận lại được vài hình ảnh, mà đặc biệt là sự còm nhom,
xơ xác của chú ngựa thồ - phương tiện mưu sinh chính của cả gia đình. Cụm từ khô rạc ngựa gầy” gợi lại một nạn đói mà cả động vật cũng không tìm được cái ăn, nói gì đến con người. Trong
cụm từ “khô rạc ngựa gầy” có sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, các từ ngữ liên tiếp “khô, rạc, gầy” nhằm nhấn mạnh sự sống như tàn lụi dần trong cái đói dai dẳng, triền miên. Thế nhưng, chỉ với
từ “chỉ nhớ” thôi, nhà thơ đã phủ lên những hình ảnh tang thương kia làn khói từ bếp lửa của bà:

Chỉ nhớ khỏi hun nhèm mắt cháu.

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.

Cái “hun nhèm” của làn khói ấy khi gửi cho ta đến một bếp lửa củi mùn, rơm rạ cháy li lụt, một tuổi thơ vất vả, thiếu thốn. Nhưng cũng chính mùi khói ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa
trẻ. Đó không chỉ là do nỗi ám ảnh bởi mùi khỏi năm xưa mà còn là những cay đẳng của những năm đói khổ, là tấm lòng yêu thương bà khiến cháu không thể cầm được ns mắt

b. Kỉ niệm tám năm ở cùng bà nước mắt.

Như một thước phim quay chậm, những kỉ những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà ùa về:

Tám năm rồng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bả

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

“Tám năm ròng” là một quãng thời gian không dài đối với đời người nhưng lại là cả tuổi thơ của cháu. Hình ảnh người bà và bếp lửa của tình bà cháu đã gợi ra một liên tưởng, một hồi ức khác
trong tâm trí thị sĩ - tiếng chim tu hú. Trong truyền thống văn học, tiếng chim tu hú thường gợi nên sự khắc khoải, xa cách, trông mong, một âm thanh mang sắc điệu trầm buồn. Tiếng chim
vang vọng ấy rất khác với những âm thanh căng tràn sự sống trong thơ Tố Hữu:

“Khi con tu hú gọi bầy.

Lúa chiêm đường chín trái cây ngọt dần".

Cũng là tiếng tu hú kêu vào mỗi độ vào hè nhưng với Bằng Việt, âm thanh ấy như giục lúa mau chín để người nông dân mau thoát khỏi cái đói, để bắt đầu những câu chuyện em đềm cho tuổi
thơ của cháu. Một tiếng chim đong đầy kỷ niệm đến nỗi tác gia phải thốt lên lời cảm thán rằng “sao mà tha thiết thế”. Diệp ngữ “tu hư” được lặp lại nhiều lần khiến cho lời thơ có âm điệu bồi
hồi, tha thiết. Sự điệp lại ấy còn gợi lên những nỗi nhớ trùng điệp, vẫn vít vào nhau càng khiến cho nỗi nhớ của cháu về bà thêm thăm thẳm, vời vợi. Tiếng chim tu hú đã trở thành một phần
tuổi thơ, một mảnh tâm hồn cháu, là sợi chỉ đỏ nối liền quá khứ và hiện tại. Tiếng vọng đồng chiều ấy vang lên trong khổ thơ càng như giục giã, như khắc khoải một điều gì đó tha thiết lắm, để

dòng kỷ niệm trải dài hơn, rộng hơn, sâu hơn trong không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Nhà thơ đã từng tâm sự: “Tôi chẳng còn nhớ gì ngoài tiếng còi tàu và tiếng chim tu hú kêu khắc
khoải. Rồi lại cũng tiếng chim tu hú ấy kêu suốt những mùa vải chín dọc những triền sông và bờ đê của cả vùng quê tôi”. Bởi thế, tiếng chim tu hú như giục giả, như khắc khoải một điều gì da
diết lắm, khiến lòng người đọc trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong:

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Âm thanh quen thuộc ấy đã theo tác gia từ thời thơ ấu đến lúc trưởng thành ở nơi xứ người. Nó thể hiện nỗi nhớ thương, lo lắng của cháu đối với bà khi cháu không ở bên cạnh bà:

Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa

Và trong dòng chảy ấy, hiện lên những ký ức thân thương về tỉnh bà cháu sâu đậm:

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Tám năm tuổi thơ của tác giả cũng chính là những năm đất nước chiến tranh, bố mẹ phải đi công tác xa nhà, cháu phải sống cùng bà. Bà đã khơi là những kỷ niệm ấy bằng nghệ thuật liệt kê: bà
bảo, bà dạy, bà chăm,... mỗi một ký ức hiện về về là thêm một lần hình ảnh bà và được khắc sâu trong tâm trí cháu. Trong những năm tháng ấy, bả vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là chỗ dựa vững
chắc cả về vật chất lẫn tinh thần, là cội nguồn yêu thương của cháu. Bà không chỉ chăm lo cho cháu từng chút một mà còn là người thầy đầu tiên dạy cho cháu bao điều về cuộc sống, những bài
học của bà trở thành hành trang mang theo trong suốt quãng đời còn lại. Xuân Quỳnh từng viết về một người bà như thế trong “Tiếng gà trưa”:

Tiếng gà trưa

Mang bao nhiêu hạnh phúc

Đêm cháu về nằm mơ.

Giấc ngủ hồng sắc trúng”

Với Bằng Việt cũng vậy, khi được ở với bà là cả một niềm hạnh phúc vô bờ. Cặp từ “bà và cháu” xuất hiện trong từng phép liệt kê như gợi lên hình ảnh hai bà cháu gắn bó quấn quýt không rời,
gợi lên một thế giới mà trong đó bà là tất cả.

Cùng bà nhóm bếp lửa hàng ngày, tác giả thấm thía được những gian lao, vất vả của bà và khi phải một mình chăm sóc cháu, để rồi lời thơ như thủ thỉ một lời tâm tỉnh “Nghĩ thương bả khó
nhọc” và một lần nữa tiếng chim tu hú lại vọng về:

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa?

Cậu cảm thán “Tu hú ơi!" kết hợp với câu hỏi tu từ vang lên như một lời trách cứ nhẹ nhàng. Ở nước Nga xa xôi, tiếng chim tu hú vọng lại trong hồi ức của Bằng Việt khiến nỗi nhớ trào dâng
cùng những câu hỏi mênh mang: khi cháu đã đi rồi vậy thì ai sẽ cùng bà nhóm lửa, ai sẽ nghe bà kể chuyện những ngày ở Huế... Lời thơ là lời hỏi chim tu hú, hay là hỏi chính mình? Là lời than
thở, trách móc hay chính là mong ước khôn nguội muốn được trở lại bên bà. Nhà thơ Anh Thơ cũng cũng từng đồng điệu với những cảm xúc ấy:

“Con đi dài thương nhớ

Mười năm chưa về quê

Tu hú oi tu hú!

Kêu chỉ hoài vườn xanh" (Tiếng chim tu hú)

Tiếng chim tu hú ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết. Những kỷ niệm êm trôi theo một nhạc điệu tâm tình thủ thỉ, chậm rãi đầy nhung nhớ đã đưa ta về với tuổi
thơ sống bên bà và đầy ắp tỉnh bà cháu của tác giả.

Cũng chính chiếc thuyền đầy kỷ niệm ấy ấy đã đưa người đọc từ dòng sông của tình bà cháu đổ vào biển cả của lòng yêu nước, của đức hy sinh:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Dỡ đần bà dự lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày có viết thư chở kể nảy, kể ng Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Chiến tranh đã gây ra bao đau thương, mất mất, tàn phá khắp mọi nơi trên đất nước ta, cướp đi của con người tất cả mọi thứ. Nhưng với Bằng Việt, cũng từ đó đó mà ông mới cảm nhận được
vẻ đẹp trong góc khuất của tâm hồn bà. Câu thơ với động từ “chảy” được lặp lại, từ ghép “tàn”, “rụi” được tách ra khiến hiện thực thời chiến không chỉ lấp đầy câu thơ mà còn tràn ngập khắp
không gian ký ức. Trong từ láy “lầm lụi" hiện lên dáng hình hình của những con người khi phải chịu đau thương, mất, làm cả câu thơ như trĩu xuống. Và nổi bật lên tên là hình ảnh người bà với
một sức sống mãnh liệt và nghị lực bền bỉ. Từ láy “đinh ninh” diễn tả một điều gì đó chắc chắn từ trong tâm khảm, một lời nói nhẹ nhàng mà vẫn mạnh mẽ, trái ngược lại hẳn với quang cảnh
“lẫm lụi” xung quanh. Dẫu túp lều tranh đã bị đốt rụi, bà vẫn đứng vững, chống chọi với tất cả nghịch cảnh để dắt cháu vượt qua khó khăn. chính sự vững lòng ấy mà người đọc cảm nhận được
góc khuất trong tâm hồn bả, nơi ẩn giấu lòng yêu nước và tấm lòng hy sinh của người phụ nữ ấy. Lời dặn cháu thật nôm na nhưng vô cùng chân thực và cảm động- hậu phương có gian khổ,
khổ thiếu thốn, nhớ nhung... cách mấy cũng phải giấu đi, nén lại trong lòng cho tiền tuyến được an lòng, bà không chỉ thương con thượng cháu mà còn vô cùng ân cần, chu đáo. hiểu được tâm
trạng của người con đang đi chiến đấu. Tác giả- và cũng là đứa cháu đã thật tinh tế và nhạy cảm khi thể hiện được hạt ngọc ẩn kín ảnh trong tâm hồn người bà. Bà không còn là của riêng Bằng
Việt nữa mà đã hóa cùng vào biết bao người phụ nữ Việt Nam khác, những con người cần mẫn, giàu đức hi sinh, là chỗ dựa tinh thần lớn lao cho tiền tuyến, góp một phần vô cùng quan trọng
vào chiến thắng chung của nhân dân. Mạnh mẽ là vậy nhưng trong hình ảnh người bà vẫn có cái hồn giản dị, tự nhiên vốn có. Trong suốt cả bài thơ, chỉ có ở ba câu cuối khổ bốn người đọc mới
tiếp xúc trực tiếp với bà. Với cách nói bình dị, mộc mạc (kể này, kể nọ, bảo,...), bà hiện lên thật gần gũi, thân thương, khiến ta có cảm giác như được nghe tiếng nói của chính bà minh vậy. Ngay
cả cái cách mà gọi cháu “ mày” cũng thể hiện một sự yêu thương, trìu mến vô bờ, một cách gọi vô cùng dân dã. Những câu thơ không cầu kỳ, gọt giũa hay có nghệ thuật đặc biệt gì cả, chỉ giản
dị đến chân thành như lời nói của bà. Nhưng từ đó, tấm lòng người bà ấy hiện lên mệnh mông như biển, lặng sóng thôi nhưng bát ngát tình thương con thương cháu và sâu thăm với một nghị
lực vô cùng bền vững.

3. Khổ thu 5, 6: Suy ngẫm về bà và cuộc đời bà

Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu suy ngẫm về cuộc đời bà:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

..

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

“Rồi sớm rồi chiều” ẩn chứa cả một dòng thời gian âm ỉ, dai dẳng mang theo suốt cả cuộc đời bà, mang theo bao tâm tỉnh của đứa cháu phương xa. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tác giả đã nâng
lên thành hình ảnh ngọn lửa mang ý nghĩa khái quát, tượng trưng. Bếp lửa với những ấm áp, giản dị của tình cảm gia đình, của tình bà cháu đã bùng lên thành ngọn lửa của niềm tin và sức
sống cho các thế hệ mai sau. hình ảnh ấy khi được lặp lại hai lần trong điệp ngữ “một ngọn lửa” càng khẳng định đó chính là cội nguồn của bao yêu thương, của những tần tảo hy sinh nơi bà.
Nói “bếp lửa” là nói đến một vật hữu hình, cụ thể, hiện hữu trong mỗi gia đình từ bao đời, đặc biệt nó gắn bó với hai bà cháu. Từ đó tác giả nhận ra một điều vô cùng sâu xa: Bếp lửa được bà
nhóm lên không phải chỉ bằng nhiên liệu ở bên ngoài, mà còn chính là được nhen nhóm lên từ ngọn lửa trong lòng bà – ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương, niềm tin. Như thế, hình ảnh
người bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong mỗi gia đình mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
Trong hình ảnh “lòng bà luôn ủ sẵn”, người đọc cảm nhận được một ngọn lửa không bao giờ tắt qua năm tháng, một ngọn lửa bất diệt tử trong chính trái tim bà. Từ láy “ dai dẳng” như cảng
tiếp thêm cho sự bền bị, lan tỏa của hình ảnh ấy. Đến nỗi tới bây giờ, “ngọn lửa chứa niềm tin ấy” vẫn còn chảy trong cháu, mang theo bao cảm xúc không thể nói hết được mà phải dùng đến
một dấu chấm lửng, để lại bao suy ngẫm trong lòng độc giả. Bà không để lại cho con cháu những giá trị vật chất thông thường mà là một điều quý giá hơn gấp bội: ngọn lửa của sự sống. khái
quát lên, bà là hiện thân cho vẻ đẹp thiêng liêng của người giữ lửa, truyền lửa.

Từ ngọn lửa ấm nóng lẽ đời, tỉnh người ấy, nhà thơ mở ra ra những suy ngẫm về cuộc đời bà:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rỗi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Chất biểu cảm trữ tình vẫn còn nhưng đã thành dòng suy tưởng và nhuốm màu tâm trạng. “ Lận đận” là từ láy gợi hình với hai thanh trắc đã diễn tả cả cuộc đời vất vả của bà, kết hợp với “biết
mấy nắng mưa” - ẩn dụ để chỉ những thăng trầm của cuộc sống cảng làm đậm thêm sự hi sinh của bà. Trải qua tất cả những khó khăn, thử thách ấy, hình ảnh bà bà vẫn chưa bao giờ tách rời
với bếp lửa. “Mấy chục năm rồi”, lời thơ kể mà như đếm, gợi lên cả một tuổi thanh xuân, cả một đời người thức khuya dậy sớm gắn liền với khỏi bếp cay nồng. Ấy vậy mà trong “thói quen dậy
sớm”, ta cảm nhận được sự tần tảo, đức hi sinh vẫn nguyên vẹn như ngày nào. Trước hết, bà nhóm lửa là nhóm lên tình yêu thương để sưởi ấm tỉnh bà cháu, nhóm tình yêu thương “ngọt bùi”
bà giành cho cháu. Bà nhóm bếp luộc nồi khoai sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng, đem đến cho cháu cái ngọt bùi của tình yêu thương vô hạn. Bà còn “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”, đem đến
cho cháu tỉnh làng nghĩa xóm yêu thương, đoàn kết, gắn bó. Diều kì diệu hơn nữa là bàn tay bà như bàn tay bà tiền nhóm ngọn lửa cần mẫn tháng năm là nhóm dậy tất cả sự sống và “nhóm
dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ". Bà khơi dậy trong lòng cháu một biển trời yêu thương, thắp lên trong lòng cháu biết bao kỉ niệm. “Nhóm, nhóm, nhóm, nhóm" - điệp ngữ ấy ngân lên, lan tỏa
và khơi dậy biết bao yêu thương, rung cảm trong lòng người đọc.

“Bếp lửa ấp iu nồng đượm” ở khổ 1 một nay được lặp lại bài làm mạch cảm xúc được nối liền, ngân vang như một lời khẳng định về sự khéo léo, cần mẫn của bà. Dể từ đó, bà nhắc cháu rằng
bằng không bao giờ được quên những năm tháng nghĩa tình chia nhau từng củ khoai, củ sắn ăn cho đỡ đói lòng. Câu thơ như một lời răn dạy cháu hãy luôn sống chan hòa và biết nghĩ đến mọi

người,đừng ích kỷ cho riêng mình. Chính những bài học thầm lặng ảnh và gắn liền với cuộc sống ấy đã rọi vào tâm hồn người cháu và thắp sáng những ước mơ, khát vọng. Ký ức tuổi thơ tuy
không rõ ràng nhưng vẫn ghi dấu từng hình ảnh cụ thể để khoai sắn, ăn xôi và tượng trưng yêu thương, tâm tình đan xen, quấn quýt vào nhau giữa cuộc sống đời thưởng và giá trị tinh thần. Bà
thì nhóm lửa còn Bằng Việt thì nhóm lên biết bao hoài niệm, khơi dậy bao đợt sóng yêu thương trong lòng người đọc.

Hình ảnh người bà không chỉ là là người nhóm lửa, giữ lửa, mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin và sức sống cho người cháu. Người bà ấy giản dị nhưng lại có sức mạnh kỳ diệu. Suốt
dọc bài thơ, 10 lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là 10 lần tác giả nhắc tới bà - người phụ nữ Việt Nam, để rồi từ đó thốt lên trong bao nhung nhớ và trân trọng:

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!

Câu thơ với từ cảm thán “ôi” chất chứa, dồn nên biết bao điều. Trong đó là sức mạnh kỷ lạ đã nhóm dài cả một chân trời kỷ niệm, cả một tuổi thơ, cả một tâm hồn. trong đó là sự thiêng liêng
nhà thơ đã trận trọng gìn giữ ở trong tim nơi đất khách quê người. Ngay cả dấu gạch ngang cũng là một dấu nặng đầy nghệ thuật, là sự im lặng rất lạ, rất riêng giữa các từ, chứa đựng bao cảm
xúc không thể diễn tả hết. dấu gạch ấy như khoảng lặng trong bản nhạc để làm nền cho hại tiếng bếp lửa ngân lên diễn tả bao tâm tình, bao sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với bà. Đến đây, ta
mới thực sự cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của hình ảnh bếp lửa. Hình ảnh ấy cùng chất trữ tình kết hợp với bình luận đã trở thành cái nền hoàn hảo để mở ra dòng suy ngẫm của cả tác giả
lẫn độc giả về cuộc đời tần tảo và nghĩa tình của bà.

4. Khổ thơ cuối

Để giờ đây, khi đang ở cách xa bà hàng nghìn dặm, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về người bạn yêu thương:

Giờ cháu đã đi xa có ngọn khói trăm tàu

- Sáng mai này bà nhóm bếp lửa lên chưa?

Ở nước Nga xa xôi lạnh giá, bếp ga, bếp điện đã thay thế cho bếp củi nhem nhuốc khói những hình ảnh người bà và bếp lửa sớm mai vẫn đọng mãi trong tâm trí cháu. Bút pháp liệt kê và phép
lặp cấu trúc có .... trăm... đã vẽ nên một chân trời bao la với bao điều vui tươi, mới mẻ. Thế nhưng cuộc sống hiện đại ấy vẫn không thể làm cháu nguôi đi nỗi nhớ đau đau, thường trực về bả,
và một nỗi nhớ tới mức “chẳng lúc nào quên nhắc nhở". Ta hãy lắng mình để nói lên những câu thơ đồng cảm với Bằng Việt:

Cuộc đời tuy chật vật

Nhưng tâm hồn thảnh thơi

Bởi bóng bà luôn tỏa

Che đời cháu, bà ơi! (Nghĩ về bà - Nguyễn Thành Huân)


Trong dáng hình khiêm nhường quá đỗi ấy ẩn giấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, để họ trở thành hiện thân của gia đình, quê hương, đất nước. Nay ở nơi đất khách quê người, những câu
thơ như hát ra từ ngọn lửa ấm nóng năm xưa của bà càng gợi nhắc để người đọc thấm thía điều đó. Niềm kính yêu và trân trọng đối với bà đã trở thành sự gắn bó với gia đình, tình yêu và nỗi
nhớ quê hương, đất nước cũng như lòng biết ơn của Bằng Việt đối với cội nguồn che chở nơi ấy. Để mỗi ngày, ngày mỗi giờ lòng ông đều vang lên một câu hỏi: Sớm mai này bà nhóm bếp lên
chưa? Bếp lửa đã thực sự trở thành kỷ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng kỳ diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.

III. KẾT BÀI

Nguyễn Đức Quyền đã từng nhận xét rằng: “Thơ của cái thuở ban đầu thường là nồng, nồng đến vụng dại. Ấy thế mà bếp lửa của Bằng Việt lại đạm, đạm của thơ trẻ tạo ra một nét duyên dễ
thương lạ”. Bài thơ là một trong những tác phẩm đầu tay của nhà thơ, với dòng tâm tỉnh, trầm lắng giàu chất suy tưởng, hình ảnh bếp lửa xuyên suốt bài thơ như một sợi chỉ đỏ nối liền dòng
hồi tưởng, bài thơ đã làm say lòng bạn đọc nhiều thế hệ. nếu như hình tượng con cỏ trong bài thơ cùng tên của Chế Lan Viên đã đi từ những câu hát ru vào cuộc đời người con với: “Cánh cò
trắng lại bay hoài không nghỉ/ trước hiện nhà/ Và trông hơi mát câu văn” thì Bằng Việt đã kế thừa ngọn lửa của yêu thương, của niềm tin nơi bà, những vần thơ của ông như “một ngọn lửa
thần” mà Déc - gia - vin từng nhắc tới. Với “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà để đan dệt nên hình tượng Bếp lửa, thể hiện lòng
kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.

ẻgr

Quê hương, gia đình đối với mỗi người chắc ai cũng có một hình ảnh động sâu trong tâm tưởng nhất là những lúc cách xa. Với Tế Hanh là con sông Trà Bồng – Quảng Ngãi cuồn cuộn chảy, với
Xuân Quỳnh đó là tiếng gà trưa thao thiết gọi, với Nguyễn Duy là Dò Lèn của xứ Thanh ăm ắp kỷ niệm... thì với Bằng Việt là bếp lửa quê nhà - một bếp lửa chờn vờn, ấp iu để trở thành hoài
niệm, thành hành trang vững chắc trên hành trình dài rộng của cuộc đời.

Bài thơ ra đời năm 1963, khi nhà thơ đang là sinh viên theo học ngành luật tại thủ đô Kiep của Ucraina - một nước thuộc Liên Xô cũ. Bằng Việt kể lại: “Những năm đầu theo học luật tại đây tôi
nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mở mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dậy sớm
đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai củ sắn cho cả nhà". Và để rồi cả một kí ức tuổi thơ, một đoạn đời
của con người và cả những biến cố lớn lao của dân tộc đã lần lượt xuất hiện: “Năm bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy".

Những dòng thơ 8 chữ miên man, phù hợp với dòng hoài niệm. Nhà thơ đã đan cài yếu tố tự sự với miêu tả và biểu cảm để tái hiện một quá khứ xa xăm “lên bốn tuổi”. Đó là cái thuở thơ bé
vụng dại, tưởng chừng kí ức sẽ lúc nhớ, lúc quên. Ấy thế mà, có những hình ảnh gần như đã bị khảm vào tâm thức. Kỉ niệm đầu tiên ấy gắn với biến cố lớn lao của dân tộc, năm 1945, năm đất
nước chìm trong nạn đói và vô vàn những khó khăn, thách thức. Hồi ức về tuổi thơ khi mới 4 tuổi đẩy gian khổ đã ăn sâu và trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm trí của tác giả qua mùi khói và
qua tỉnh cảnh nạn đói năm Ất Dậu.

Mùi khói là mùi khói bếp quen thuộc từ bếp của bà: Cay, khét vì củi ướt, sương nhiều. Mùi khói còn là mùi khói của bom đạn, của chiến tranh, là niềm đau, nỗi cơ cực, là những khó khăn, thiếu
thốn của cuộc đời của hai bà cháu nói riêng và những người dân Việt Nam nói chung trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, gian lao. Nỗi khổ ấy đã được cụ thể hóa, hình tượng
hóa bằng chi tiết: “Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”. Hình ảnh tiêu biểu ấy đã gợi cho ta thấy một quả khứ tang thương đầy thảm cảnh của dân tộc gắn liền với số phận của người dân mất

nước trong đó có tác giả. Cũng chính vì thế mà đến tận bây giờ “sống mũi còn cay”. Cháu đã khóc vì thương bà, thương cả dân tộc một thời tăm tối.

Dòng chảy của thời gian dài dằng dặc hiện về cả “tám năm ròng” hay “năm giặc đốt làng" mở ra kỷ niệm gắn liền với cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Như hàng vạn đứa trẻ được sinh
ra và lớn lên trong chiến tranh, “mẹ cùng cha công tác bận không về”, cháu đã ở cùng bà, bà là chỗ dựa vững lòng cả tuổi thơ cháu.

“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học".

Tuổi thơ gian khổ nhưng tuổi thơ ấy đã kết dệt nên một mảnh gương thần xanh trong kí ức trong trẻo của cháu bởi cháu luôn có bà. Bà thay cha thay mẹ bảo ban, dạy dỗ cháu, để cháu lớn
khôn trước tuổi, sống có nghĩa, có tình, biết nhóm bếp, biết thương bà. Khi nhớ về kỉ niệm, dòng hồi tưởng còn gắn với âm thanh của tiếng chim tu hú: Tiếng tu hú kêu là âm thanh thảng thốt
khắc khoải có khi mơ hồ văng vẵng “kêu trên những cánh đồng xa”, có khi lại rộn về gần gũi và tha thiết “sao mà tha thiết thế”, có lúc lại gióng giả kêu hoài “kêu chỉ hoài trên những cảnh đồng
xa”.

Những cung bậc khác nhau của tiếng chim tu hú cùng với điệp ngữ “tu hú” gợi không gian mênh mông, bao la, buồn vắng trên những cánh đồng xa xác xơ rơm rạ gợi về tình cảnh đơn côi, vắng
vẻ của hai bà cháu và cả một làng quê hoang tàn. Diều đó đã khiến cho tâm trạng người cháu mỗi lúc da diết hơn. Ở đoạn thơ này, Bằng Việt cũng đã sử dụng câu hỏi tu từ đưa dòng suy nghĩ
dường như trở về hiện tại. Nó còn là nỗi nhớ mong, thương bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người, đồng thời cũng là một nỗi day dứt vì bản thân chưa báo đáp được ơn nuôi dưỡng. Dễ rồi từ
đó trỗi dậy trong lòng người niềm khắc khoải về ngày đoàn tụ đang ở xa thật xa. Mạch tự sự vẫn trôi dọc theo bài thơ để rồi từ đó người cháu suy ngẫm về bà và bếp lửa quê hương:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.”

“Rồi sớm rồi chiều”, một dòng thời gian bất tận trôi đi và bà lại làm một công việc muôn thuở: Nhóm bếp. Có những công việc tưởng chừng đơn giản, đơn điệu kéo dài vĩnh viễn một đời người
nhưng chứa đựng trong đó một ý nghĩa lớn lao, vĩnh hằng về sự sống. Công việc nhóm bếp của bà cũng như vậy. Nếu từ đầu bài thơ, hình tượng bếp lửa xuất hiện xuyên suốt thì giờ đây “ngọn

lửa” lại lặp lại trong suy tư của người cháu. Dây là sự chuyển đổi hình tượng tự nhiên mà thật giàu ý nghĩa.

Bếp lửa cụ thể, hữu hình, ngọn lửa vô hình, trừu tượng, giàu sức gợi. Ngọn lửa bà nhen đâu chỉ bằng rơm rạ cũi cảnh mà còn bằng cả tấm lòng của bà.

Ngọn lửa tình bà, ngọn lửa của lòng yêu thương ấp ủ, mênh mông mà bà dành cho cháu, cho mọi người. Đó là ngọn lửa của niềm tin bền chặt, tròn trịa không bao giờ vơi khuyết về cách mạng,
về kháng chiến, về vận mệnh của dân tộc. Và có một niềm tin nữa thiết tha hơn. Bà tin vào tương lai của cháu. Có những nguồn sức mạnh trong mỗi chúng ta đã bắt đầu từ những niềm tin bền
chặt như thế. Từ đây, một tiếng reo vui, một lời cảm thán đầy xúc động cất lên từ đáy lòng cháu: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Câu thơ cảm thán với cấu trúc đảo tính từ lên trên thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngảng như một sự khám phá ra điều kì diệu giữa cuộc đời bình dị. Bếp lửa vốn chỉ là một hình ảnh bé nhỏ, thân
thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam. Thế nhưng, trong bài thơ này bếp lửa trở thành hình ảnh thơ xuyên suốt và trở nên kì lạ, thiêng liêng. Bếp lửa kì lạ và thiêng liêng bởi bếp lửa hiện diện như
bà kính yêu. Bà và bếp lửa không rời xa. Bà nhóm bếp và bên bếp lửa luôn là hình bóng của bà. Những nồng đượm ấp iu của bếp lửa chính là cái nồng đượm của tỉnh bà. Bếp lửa trở thành nơi
lưu giữ những kí ức, kỉ niệm của tuổi thơ. Bếp lửa khơi dậy bao khát khao, hoài bão trong cháu mà những gì là kí ức, là kỉ niệm mãi mãi là hành trang quý giá nâng bước ta trên hành trình dài
rộng của cuộc đời.

Khổ thơ cuối là lời tự bạch của người cháu đi xa khi đã trưởng thành:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả...”

Người cháu đã trưởng thành, lớn khôn, có được nhiều niềm vui, nhiều thành công từ cuộc sống nhưng vẫn luôn tự nhắc nhở bản thân với câu hỏi tu từ như một lời tự vấn, độc thoại: Dể có
được người cháu của ngày hôm nay là nhờ ánh sáng và hơi ấm từ bếp lửa của bà, của quê hương, nhờ những lận đận đời bà, nhờ tấm lòng ấm áp, tận tụy hi sinh, tình nghĩa và công lao nuôi
dưỡng của người bà. Làm nên thành công và ý nghĩa của bài thơ còn là sự xuất hiện của các con số: Một, bốn, tám, mấy chục và cuối cùng là một trăm. Quả thực từ cái một bếp lửa nhỏ bé thôi
nhưng đã có sự thăng hoa, viên mãn, trưởng thành trong cái trăm.

Có lẽ vì vậy mà Bếp lửa trở thành hình ảnh khởi nguồn cho những tình yêu thương và nỗi nhớ. Cũng để rồi từ đó triết lí thầm kín mà sâu sắc được gửi qua khổ thơ: Những gì là thân thiết của

tuổi thơ đều có sức tỏa sáng và nâng đỡ tâm hồn con người trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời; phải biết sống chung thủy, nhân nghĩa, không được lãng quên quá khứ, lãng quên gia
đình, quê hương. Tình yêu quê hương xuất phát từ những thứ tình cảm nhỏ bé, thân thuộc nhất của mỗi con người, đó là tình yêu thương và lòng biết ơn bà.

Thi phẩm ra đời cách đây hơn nửa thế kỷ. Thế nhưng, Bếp lửa của Bằng Việt vẫn tồn tại đẹp đẽ, vẹn nguyên. Phải chăng, nó đã chạm đến tất cả tiếng lòng mỗi chúng ta bởi tình yêu, sự biết ơn,
sự gắn kết với gia đình, quê hương và đất nước luôn tỏa sáng, luôn soi chiếu mỗi bước đi và đích đến của con người.

Efe

Nguyễn Ngọc Minh Tâm

DÈ BÀI: Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt biểu hiện một triết lý thầm kín: Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người, đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của
cuộc đời”

Em hãy phân tích bài thơ để làm rõ nhận định trên

BÀI LÀM

Tình cảm văn học là thứ quan trọng đối với mỗi con người. Nó như dòng nước ngọt ngào chảy dọc trong ống nhựa tắm mát tâm hồn ta, tưới nước cho cái hạt giống tinh thần bên trong ta này
nở. Thiếu đi cái ngọt ngào của tình cảm văn học, ta sẽ chỉ như cái ống nước rỗng ruột, khô cứng, tâm hồn ta sẽ chẳng khác gì hoang mạc cằn khô nứt nẻ. Trong nền văn học viết Việt Nam, có
những tác giả đã khẳng định vị trí của mình bằng sáng tác đồ sộ mang giá trị nhân văn lớn như đại thi hào Nguyễn Du với “Truyện Kiều" hoặc bằng cách phản ánh những sự kiện trong đại của
đất nước như tác gia Tố Hữu, Nguyễn Tuân. Số khác thì đánh dấu bằng tuyên ngôn nghệ thuật như Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam... Nhưng cũng có các tác giả đã để lại ấn tượng muôn đời trong
lòng người đọc chỉ bằng những điều giản dị nhất, chân thật và mộc mạc như những dòng hồi tưởng của Bằng Việt. “Bếp lửa” của Bằng Việt là biểu hiện một triết lý thầm kín: “Những gì là thân
thiết nhất của tuổi thơ mỗi người, đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời”.

Bếp lửa mà Bằng Việt muốn gửi gắm qua những dòng hồi tưởng khi còn là một cậu nhóc là những điều thân thiết nhất của tuổi thơ đều có sức tỏa sáng và nâng đỡ tâm hồn con người trên
hành trình dài rộng của cuộc đời. Sức tỏa sáng là ánh sáng của cái đẹp của những điều thiêng liêng cao đẹp. Ánh sáng cứ soi rọi, cứ mãi lung linh trong tâm hồn con người Nó là ánh sáng bất
diệt nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời, bồi đắp thêm tâm hồn con người. Là điểm tựa, là sức mạnh tinh thần. Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ: Nó có thể là những
kỷ vật những kỷ niệm êm đềm. Ở đây là tình bà cháu thiêng liêng và bà là người thân người dạy bảo nuôi nắng cháu từ ngày ấu thơ cho đến khi trưởng thành. Cháu trải qua tuổi thơ trong
những thắng năm đói mòn đói mỏi rồi thời niên thiểu Giai đoạn đất nước cổ chiến tranh. Cha mẹ tham gia kháng chiến cháu sống trong tình yêu thương cứ mang về chở che của bà, cháu được
Bà chở che truyền cho anh niềm tin nghị lực vượt qua hoàn cảnh. Bà và bếp lửa trở thành điểm tựa khi cháu trưởng thành được chắp cánh bay cao đi xa đến với những cuộc sống đủ đầy. Niềm
vui rộng mở nhưng cháu vẫn không quên được hình ảnh của bà và bếp lửa. Những gì của tuổi trẻ đã cho cháu hiểu về bà về dân tộc gian lao mà nghĩa tình. Thật đáng tiếc cho những ai không
biết trận trọng những kỉ niệm của tuổi thơ.

Bằng Việt viết bài thơ Bếp lửa khi du học ở nước ngoài, xa quê hương, xa tổ quốc. Cảng ở xa người ta càng mong nhớ và trân trọng những tháng ngày vất vả và khổ đau đã đi qua để có ngày
hạnh phúc. Nhà thơ nhớ về tuổi thơ, nhớ lại kỉ niệm và thêm trân quý bởi nó như viên ngọc sáng có sức mạnh thanh lọc và nâng đỡ tâm hồn.

Trong bài thơ Bếp lửa, những gì thân thiết của tuổi thơ người cháu là bà, là bếp lửa, là những hình ảnh của quê hương. Những hình ảnh đó đã in đậm trong cháu từ thuở ấu thơ. Đó là hình ảnh
“một bếp lửa chờn vờn sương sớm” với khói bếp “hun nhèm mắt cháu”, "nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Bếp lửa do bàn tay bà nhóm lên, lung linh tỏa sáng dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào
với sự ấm nồng, thân thiết đã là chỗ dựa cho cháu, nhen lên trong cháu những tâm tình, những niềm tin, là nơi chắp cánh ước mơ cho cháu. Hình ảnh một bếp lửa luôn tỏa sáng trong tâm
hồn, trong ký ức của cháu. Bếp lửa luôn tỏa sáng, luôn lung linh trong tâm hồn cháu, ngay cả khi cháu trưởng thành, sống và học tập ở đất nước bạn xa xôi. Bởi vì trong tâm hồn cháu, ảnh sáng
bếp lửa là ánh sáng tượng trưng cho tình yêu thương của bà, tượng trưng cho niềm tin, nghị lực của bà, cho sức sống bền bị, mãnh liệt của bà trước những thách thức cuộc sống.

Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh“bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm
tưởng của nhà thơ. Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thường đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức. Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu
thương: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến
tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà. Đó là người bà tảo tần, đã trải qua “biết mấy nắng mưa”. Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, từng ngày
nhóm lên ngọn lửa ấm. Bà với tình yêu thương, đức hy sinh, niềm tin yêu cuộc sống.

Những kỉ niệm còn tươi nguyên trong trí nhớ. Từng khoảnh khắc thời gian được tái hiện rõ ràng. Đó là những năm đầu kháng chiến

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khỏi

Năm ấy là năm đói mòn đôi môi

, Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy.

Đó là những năm ở cùng bà: Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa, bố mẹ đi kháng chiến cứu nước, cháu ở cùng bà, tuy đơn chiếc nhưng vẫn ấm áp tình thương:
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế. Tiếng tu hú sao mà tha thiết thể Mẹ cùng cha công tác bận không về, Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe, Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học, Nhóm bếp
lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Rồi năm giặc tràn về làng. Chúng hủy diệt tất cả nhưng không thể nào hủy diệt được niềm tin trong lòng bà. Dẫu mọi thứ có bị "cháy tàn cháy rụi” thì bà "vẫn vững lòng”, “dặn cháu đinh ninh”
không kể chuyện nhà khi viết thư cho bố. Bà chấp nhận cam chịu khổ đau, vượt qua nghịch cảnh để người nơi mặt trận an lòng mà chiến đấu cứu nước. Lời bà dặn nghe sao mà mạnh mẽ kiên

cường đến thế. Hình ảnh ấy mãi mãi in sâu vào tâm trí, trở thành nguồn sức mạnh chiến đấu của người cháu sau này.

Khi cháu lớn lên, học tập và công tác nơi xa, bà và bếp vẫn là điểm tựa, là nguồn động viên là nơi nâng đỡ. Trong lòng cháu vẫn không thôi nhắc nhở mình rằng: “sớm mai này, bà nhóm bếp lên
chưa... ngọn lửa ấy đã thức dậy chưa để sưởi ấm tâm hồn người cháu nơi xa tối quốc.

Bà với tình yêu thương, đức hy sinh, niềm tin yêu cuộc sống. Bếp lửa với sự ấm nồng, thân thiết đã là chỗ dựa cho cháu, nhen lên trong cháu những tâm tình, những niềm tin, là nơi chắp cánh
ước mơ cho cháu

Tuổi thơ người cháu gắn bó với bà, với bếp lửa. Mùi khói bếp cay sẽ cứ lặp đi lặp lại mỗi ngày, trở thành một phần không thể quên của kí ức. Cứ nhớ đến quê hương, nhớ đến tuổi thơ là người
cháu nhớ đến mùi khói bếp ấy. Khói bếp quê hương gọi nhớ đến cuộc sống bình dị, lam lũ và tần khốc của những năm chiến tranh. Cái cay vì khói bếp của người cháu lúc bé thơ và cái cay bởi
xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà hòa quyện vào nhau. Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ. Điều này cho thấy, mùi khói bếp của bà có sức ám ảnh, làm
lay động cả thể chất và tâm hồn cháu.

Bà gồng gánh cả cuộc đời. Một loạt các từ ngữ “bà bảo”,” bà dạy”,”bà chăm” vừa diễn tả một cách sâu sắc tình thưởng bao la, sự chăm chút hết mình của người bà dành cho cháu, vừa thể
hiện được lòng biết ơn của cháu đối với bà. Tình yêu và kính trọng bà của tác giả được thể hiện thật chân thành, sâu sắc: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa
tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà. Bếp lửa cháy lên mỗi sớm từ đôi tay tần tạo của người bà rồi lại tắt. Nắng mưa, kẻ thù tàn bạo
dập tác ngọn lửa nhưng ngọn lửa ấy tắt đi rồi lại chảy lên. Chính người bà đã gìn giữ và nhen nhóm ngọn lửa bất diệt ấy. Cứ thế, ảnh lửa cứ bập bằng tỏa sáng:

Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Sức sống của bếp lửa khiến cho người cháu ngạc nhiên, không thể nào lí giải được: “Ối kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa!". Nó kì lạ là bởi dù hoàn cảnh có khắc nghiệt đến thế nào, ngọn lửa ấy vẫn
ăn i chảy lên. Nó thiêng liêng là bởi nó mang lại sự sống, xua tan đêm tối và gắn chặt với tình bà ấm ấp mãi mãi không bao giờ quên. Đó cũng là tấm lòng tri ân, tôn quý của tác giả đối với bà.
Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, ngọn lửa của sự sống, niềm tin
cho các thế hệ nối tiếp.

Người bà bằng tất cả nghị lực của mình dưỡng nuôi và che chở cháu. Có thể thấy, bếp lửa và tình bà làm nên kí ức tuổi thơ của người cháu, mãi mãi không bao giờ mờ phai. Khi cháu lớn lên,
học tập và công tác nơi xa, bà và bếp vẫn là điểm tựa, là nguồn động viên là nơi nâng đỡ:

Giờ cháu đã đi xa

. Có ngọn khỏi trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?.....

Bếp lửa và người bà là cả miền kí ức tươi xanh, là quê hương còn động lại trong tâm hồn người cháu, tỏa sáng, nâng đỡ người cháu trên hành trình dải rộng của cuộc đời. Suy rộng ra, điều tạo
ra sức tỏa sáng, sự nâng đỡ người cháu trong bài thơ còn là quê hương, đất nước. Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, chầu trò chuyện với bà trong tâm tưởng. Và tất cả đều là sự bộc
bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện
cổ tích.

Những hình ảnh, kỉ niệm thân thiết nhất của tuổi thơ người cháu đã có sức tỏa sáng, nâng đỡ cháu, là chỗ dựa, là nguồn cổ vũ động viên cháu trên hành trình dài rộng của cuộc đời cháu. Bài
thơ còn ca ngợi vẻ đẹp của người bà, người phụ nữ Việt Nam, gợi lòng biết ơn, tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước.

Theo quy luật điển hình hóa của văn học, qua một giọt sương để thấy cả bầu trời. Nghệ sĩ lớn là người có khả năng chưng cất cả đại dương vào trong một giọt nước, cả vũ trụ vào một giọt
sương. Tầm cỡ nhà văn là viết về những cải không đầu, vặt vãnh nhưng khơi gợi được những vấn đề lớn, liên quan đến số phận con người, nhân loại. Quá khứ là nơi gìn giữ sự sống đã trải qua
của mỗi chúng ta. Nó tuy vô hình nhưng luôn hiện hữ trong tâm hồn mỗi người. Hãy trân trọng và giữ gìn nó như giữ gìn sự sống trong hiện tại và khát vọng ở tương lai. Không có quá khử, sự
tồn tại của con người cũng trở nên vô nghĩa, bếp lửa là một sự hồi nhớ mang đầy tính nhân văn cao cả về tình yêu gia đình và quê hương đất nước.

Nhận xét:

Bài làm tốt!

Chú ý về một số lỗi dùng từ và lặp từ Kết bài nên khẳng định lại nhận định Thêm phần mở rộng

Àè

Cấu trúc gồm 2 phần:


Phần 1 đọc hiểu + viết nlxh
Câu 1 : Xoay quanh kiến thức cơ bản về văn học

Bếp lửa

1. Tác giả

- Nguyễn Bằng Việt (1941) – quê Hà Tây, lớn lên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ

Hoàn cảnh sáng tác, thể loại thể thơ, xuất xứ,...

- HCST: Sáng tác năm 1963, khi tác giả dạng là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài, dược dưa vào tập Hương cây – Bếp lửa năm 1968

- Thể thơ: 8 chữ kết hợp 7 chữ, 9 chữ

Mạch cảm xúc

- Bài thơ là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về người bà

- Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vật vả và tình yêu thương trìu
mến dành cho dứa cháu. Từ những quá khứ, kỷ niệm, dứa cháu nay đã trưởng thành, suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc dời bả, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu muốn
gửi niềm mong nhớ về với bả. Mạch cảm xúc bài thơ di từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm.

Ý nghĩa nhan đề, tình huống truyện

"Bếp lửa" là hình ảnh độc đáo, sáng tạo, xuất hiện nhiều lần trong bài thơ. Nó vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng:

- Nghĩa thực: Là hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong mỗi gia đình Việt Nam

- Nghĩa biểu tượng:

• Biểu tượng cho sự chăm sóc, yêu thương, tần tảo của người bà dành cho châu trong những năm tháng đói nghèo, chiến tranh.
 Biểu tượng cho bà, gia đình, đất nước (cội nguồn) đang nâng bước hành trình của người châu được tiến xa hơn.

Câu 2

Phát hiện, phân tích, cảm thụ 1 biện pháp tu từ

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thường bà biết mấy nắng mưa!

- Điệp ngữ “Một bếp lửa" trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ.

- Từ láy “chờn vờn" rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến hình ảnh bập bùng ẩn hiện trong buổi sớm mai hoà cùng làn sương sớm.

- “Ap iu" gợi bàn tay khéo léo, tấm lòng chỉ chút của người nhóm lửa lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể.

- “nắng mưa” gợi tả sự đằng đẳng của thời gian, vừa thể hiện sự tảo tần, vất vả triền miền của cuộc đời bà.

=> Diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời làm lũ của người bà.

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

- Mùi khói cay nhèm của bếp rơm, bếp rạ ấy đã đi vào kí ức của Bằng Việt từ những ngày thơ bé. Đó cũng là một tuổi thơ cơ cực gắn liền với một giai đoạn đau thương, khủng khiếp nhất của
đất nước bởi bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945

- Trong làn khói sương của kỉ niệm, nhà thơ nhớ lại những kí ức bi thương nhất của cái “đói mòn đói mỏi”, của dáng hình người cha “khô rạc ngựa gầy" trong lao động vất vả. Tất cả gợi những
tháng ngày đói quay đói quắt ở làng quê Việt Nam. Khi nhớ về những tháng ngày gian khổ ấy, người cháu không khỏi xúc động. Cảm xúc hiện tại, kỉ niệm năm xưa hoà lẫn “Nghĩ lại đến giờ sống
mũi còn cay".

- Thành ngữ "đói mòn đói mỏi" càng gợi cho ta nhận thấy cái đói kéo dài, khiến con người ta mệt mỏi -> càng tạo ra được sự ám ảnh, một quá khứ tang thương.

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

--

---..Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa?


- Điệp từ: bà - cháu tạo nên hình ảnh quấn quýt, gần gũi và đầy yêu thương của bà cháu.

Tám năm sống cùng bà là tám năm cháu nhận được sự yêu thương, dạy bảo, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng bà – bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học... Cảm cái công ơn
ấy, người cháu lại càng thương bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc". Bà và bếp lửa của bà là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc bà dành cho cháu.

- Điệp từ "tu hú" thể hiện những cung bậc cảm xúc khác nhau của âm thanh, vừa có sự gần gũi nhưng vẫn thể hiện khoảng không mênh mông. Gợi nhớ về kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên
đồng quê mỗi độ hè về. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong.

- Câu hỏi tu từ "Tu hú ơi! Chẳng..." thể hiện tâm trạng của người cháu, nó khiến cho không gian kỉ niệm như có chiều sâu và nỗi nhớ thương bà của cháu càng trở nên thăm thẳm, vời vợi.

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về làm lại

Đỡ đần bà dụng lại túp lều tranh."

Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh. Trên cái nền của sự tàn phá, huỷ diệt ấy là sự
cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hại bà cháu. Vẻ đẹp của tình người toả sáng trong những năm chiến tranh khói lửa. Điều khiển cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã
chống chọi để trải qua những gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ, kiên cường trong hoàn cảnh khỏi lửa chiến tranh. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng
vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh:

“Mày có viết thư chứ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên".

Vậy là bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm kháng chiến. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn lễ hậu phương vững
chắc cho cả tiền tuyến. Bà thật là giàu lòng yêu thương. Chan chứa trong từng lời thơ, ta cảm nhận được lòng biết ơn, niềm tự hào của người cháu đã trưởng thành khi nghĩ về người bà thân
yêu.

Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

- “Bếp lửa” được bà nhen lên thành “ngọn lửa" mang nhiều ý nghĩa tượng trưng. Đó là ngọn lửa được nhóm lên từ lòng bà – ngọn lửa của sức sống, tình yêu thương, niềm tin. Bà không chỉ là

người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa. Hình ảnh người bà, hình ảnh bếp lửa toả sáng lung linh trong kí ức tuổi thơ và có ý nghĩa nâng bước người cháu trên suốt hành trình dài
rộng của cuộc đời.

- Điệp ngữ "một ngọn lửa" với kết cấu song hành đã làm giọng thơ ngân vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động, tự hào.

→ Ngọn lửa giờ không chỉ là hình ảnh bếp lửa cháy rực mà nó còn liên tưởng sâu xa hơn nữa về tấm lòng của bà, đó là ngọn lửa luôn ủ sẵn, ngọn lửa là ý chí và niềm tin của bà đã có từ lâu.

- Cụm từ chỉ thời gian “Sớm – chiều” + Phó từ “lại”, “luôn”

> Gợi sự cần mẫn, bền bi nhóm lửa của bà

- “Nhen”, “ủ sẵn”, “chưa"

-> Khẳng định ý chỉ, bản lĩnh sống của bà – một người phụ nữ VN trong thời chiến

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

, Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở.

- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...

- Tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ năm xưa đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay xa đến những chân trời cao rộng có “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả... nhưng với cháu, bếp
lửa của bà luôn hiện diện. Cháu không nguôi nhớ về ba, về bếp lửa và nỗi nhớ ấy luôn thường trực, nâng bước người cháu trên suốt chặng đường dài.

- Câu hỏi tu từ: "Sớm mai này, bà nhóm...?" giúp gợi nỗi nhớ khắc khoải, thường trực về bà, ) đó chính là nỗi nhớ quê hương nhớ cội nguồn-> đó là tình cảm yêu thương da diết, yêu thương
dành cho bà

> Từ những suy ngắm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình
dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn tử lòng yêu quý ông bà, từ những gì gần gũi, và bình dị nhất.

Nội dung và nghệ thuật

Phẩm chất thứ nhất qua lời dặn cháu của bà:

Phân tích vẻ đẹp + phẩm chất của bà

+ Vững vàng, bình tĩnh: Cả bà và cháu đều dạng cùng nhau chống chọi, dương dầu với gian lao, khó khăn ( nhà bị giặc dốt cháy tản cháy rụi) không một lời ca thán hay phản nản – thể hiện sự

vững vàng trong ý chí của hai bà cháu

+ Sử dụng những từ ngữ “vẫn vững lòng”, “dinh ninh”, tác giả đã càng củng cố thêm sự mạnh mẽ trước quyết tâm vượt qua khó khăn mất mát của hai bà cháu
+ Hình ảnh người bả đơn độc dã một mình gồng gánh lo toan biết bao điều cho dứa cháu nhỏ: bà bảo châu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. dễ con ở tiền tuyến yên tâm công tác đã
thể hiện rằng bả là diễm tựa, là chốn hậu phương vững chắc chan chứa nghị lực vươn lên của bà nói chung và người dân VN nói riêng

-> Bà xứng đáng được tôn vinh là một người mẹ anh hùng bất khuất, trung hậu, dâm đang.

Bà là người bà dáng kính; là cha, là mẹ vô vàn yêu thương; người thầy đáng trọng; người bạn lớn dáng quý. Bà là người mẹ giàu tình yêu thương, giàu dức hy sinh. Cả cuộc dời quên mình,
không quản vất vả, gian lao, nhọc nhãn để dược lo lắng, bảo bọc cho con, cho cháu.

– Bả là người đã nhóm lên trong lỏng cháu ngọn lửa của tỉnh yêu thương, niềm thủy chung; ngọn lửa của dức hy sinh, lòng tự hảo; ngọn lửa của lòng biết ơn, không quên cội nguồn; ngọn lửa
của niềm ước mơ, xây dựng hoài bão tốt dẹp.

– Bả lại là người giữ những ngọn lửa ấy ấm nồng mãi mãi và truyền cho cháu tất cả những ý nghĩa tốt đẹp của ngọn lửa kia để cháu trưởng thành và có ích cho dời. Đặc biệt trong đoạn thơ cuối
hình ảnh người bà hiện lên lung linh trong nỗi nhớ da diết của cháu, dầy yêu thương và trìu mến

Tiếp đến là phẩm chất thứ hai qua cảm nhận của người cháu:

-Từ ngử gợi tả “lận dận”, “biết mấy nắng mưa” diễn tả cuộc dời khổ cực trăm bể, dồng thời làm sáng lên dức tính hy sinh, sự tần tảo, cần củ, chịu thương chịu khó của người bả.

-Từ “nhóm” chuyển sang một tầng nghĩa mới, người bà muốn nhen nhóm lên trong trái tim cháu “niềm yêu thương”, niềm vui sống; thắp sáng lên trong tâm hồn cháu sự chia ngọt sẻ bùi của
cuộc sống gia dinh, muốn khơi dậy trong lòng cháu “những tâm tỉnh tuổi nhỏ”, những ước mơ hồn nhiên, khát vọng về tương lai.

– Bà là người đã kết nối quá khứ với hiện tại và tương lai. Bếp lửa được bà nhen nhóm lên không chỉ bằng rơm rạ mà còn bằng ngọn lửa từ trong chính trái tim bả - ngọn lửa của lỏng yêu

thương và niềm tin bất diệt.

– Tử “nhóm” được lặp đi lặp lại nhiều lần, có tác dụng làm cho âm diệu đoạn thơ tha thiết hơn, càng làm nổi bật sự chăm sóc dạy dỗ chu đáo và tấm lòng yêu thương của bà đối với cháu.

Đgrg

Bếp lửa

I. Tìm hiểu chung


1. Tác giả

- Sự nghiệp: Bằng Việt làm Bếp lửa thơ từ năm 13 tuổi và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ

- Phong cách: hồn thơ tinh tế, dạt dào cảm xúc, lãng mạn, bay bổng

2. Tác phẩm

a, Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành luật ở nước ngoài.

- Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũb, Xuất xứ: In trong tập “Hương cây - Bếp lửa” (1968)

b, Thể loại: Kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ, 8 chữ

c, Bố cục:

- Khổ đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà.

- 4 khổ tiếp: những kỷ niệm ấu thơ, hình ảnh bà và bếp lửa.

- Khổ 6: những suy nghĩ của tác giả về bà và hình ảnh cuộc đời bà.

- Khổ cuối: nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa.

d, Mạch cảm xúc:

Bài thơ là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về người bà.

Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vật vả và tình yêu thương trìu
mến dành cho đứa cháu. Từ những kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm
mong nhớ về với bà. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm.

e, Ý nghĩa nhan đề:

“Bếp lửa” là một hình ảnh độc đáo, sáng tạo, xuất hiện nhiều lần trong bài thơ, nó vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng:

- Trước hết, đây là một bếp lửa thực, quen thuộc, gần gũi trong mỗi gia đình của người Việt. Đồng thời, nó là hình ảnh gắn với kỉ niệm ấu thơ về một người bà cụ thể, có thật của tác giả.

- Bếp lửa là biểu tượng giàu ý nghĩa :

+ Bếp lửa gợi lên sự tần tảo, chăm sóc, yêu thương của người bà dành cho người cháu trong những năm tháng đói nghèo, chiến tranh để trưởng thành và khôn lớn.

+ Bếp lửa gợi lên bao vất vả, cực nhọc của đời bà. Song bà nhóm bếp lửa cũng chính là nhóm lên sự sống, niềm vui, niềm tin và hi vọng cho cháu vào một tương lai phía trước.
+ Bếp lửa còn là biểu tượng của gia đình, quê hương, đất nước, cội nguồn... đã nâng bước người cháu trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.

g, Phương thức biểu đạt: Biểu cảm+ Tự sự+ Miêu tả+ Nghị luận

f, Chủ đề:

Qua hình ảnh bếp lửa- ngọn lửa, tác giả thể hiện long thương nhớ và biết ơn bà của đứa cháu đi xa, đồng thời nói lên tình yêu thiết tha đối với gia đình, quê hương, đất nước.

* Khái quát: Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi tác giả là sinh viên du học ở Liên Xô và bắt đầu đến với thơ. Bài thơ in trong tập “ Hương cây- Bếp lửa" (1968), là tập thơ
đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

Qua dòng hồi tưởng và suy ngầm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm xúc động tình bà cháu, thể hiện tình cảm kính yêu và biết ơn vô hạn của cháu đối với bà, cũng
là đối với quê hương đất nước.

II. Tìm hiểu chi tiết

1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn dòng cảm xúc

- 3 câu thơ đầu của bài thơ gợi ra một hình ảnh bình dị, quen thuộc, đó là hình ảnh “bếp lửa” - một hình ảnh khơi nguồn cảm xúc:

+ 3 câu thơ đầu 2 lần điệp ngữ: “Một bếp lửa” vang lên như 1 tiếng điệp khúc vang lên của nỗi nhớ tha thiết, cháy bỏng, một hình ảnh ám ảnh tuổi thơ.

+ Hình ảnh “bếp lửa” được thể hiện qua từ ngữ hết sức gợi cảm: “Chờn vờn” và “ấp iu”

• “Chờn vờn”: gợi ra hình ảnh ngọn lửa bập bùng trong màn sương sớm
• “Áp iu”: là 1 từ tượng hình gợi chỉ chút, khéo léo, kiên nhẫn của bà khi nhóm lura

+ Hình ảnh “nắng mưa” là một hình ảnh ẩn dụ chi cuộc đời của bà đầy vất vả, gian lao và khó nhọc.

+ Nhớ về hình ảnh bếp lửa, người cháu phương xa lại nhớ về bà, bao nhiêu niềm thương nỗi, bao nhiêu cảm xúc dồn nén đọng lại trong 1 từ “thương”. Cháu thương cuộc đời vất vả, khổ nhọc
của bà.

− >3 câu thơ nửa đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà.

2. Những kỉ niệm tuổi thơ bên bà

a, Kỉ niệm lên 4 tuổi

- Kỉ niệm đầu tiên hiện trong kí ức của người cháu là về những năm tháng tuổi thơ nhọc nhằn, cơ cực của 1 thời ấu thơ. Nó trở thành 1 nỗi ám ảnh không nguôi ngoai trong tâm trí người cháu

- Không chỉ có khỏi bếp hằn in trong tâm trí mà đó là những năm tháng “đói mỏn, đói mỏi”. Thành ngữ ấy được tách ra từ từ láy “mòn mỏi” khiến cái đói càng trở nên dại dẳng. Câu thơ khiến
chúng ta liên tưởng đến thời điểm lịch sử (cuối 1914 - đầu 1945) khiến hơn 2 TRIỆU đồng bào bị chết đói - những năm tháng đau thương, đói khổ của dân tộc.

-Những kỉ niệm ấy vẫn còn nguyên vẹn in sâu trong tâm trí của nhà thơ: Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

-Cái “cay” đó là cái cay trong cảm nhận ngày xưa khi cháu nhóm bếp cùng bà hay cũng chính là cái “cay” của dòng cảm xúc nghẹn ngào khi nhớ về kỉ niệm tuổi thơ. Kỉ niệm ấy có sức ám ảnh
ghê gớm . Cho dù năm tháng trôi qua nhưng kí ức ấy trở thành một vết thương không nguôi ngoại.

b, Kỉ niệm 8 năm cùng bà nhóm lửa

- Khổ thơ tiếp theo là lời tự bạch của người cháu về kỉ niệm 8 năm dòng cùng bà nhóm lửa. 8 năm ấy là quãng thời gian kéo dài suốt hành trình của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong hoàn
cảnh ấy, bố mẹ đi công tác xa nhà, chỉ có 2 bà cháu sống cùng với nhau ở nơi miền quê.

- Nhớ vì kỉ niệm tuổi thơ, dòng hồi tưởng của người cháu gắn liền với âm thanh của tu hú. Doạn thơ có 11 cấu mà âm thanh ấy vang vọng đến 4 lần. Âm thanh ấy còn gợi ra khung cảnh làng
quê, đồng thời cũng gợi lên cảnh côi cút, vắng về của bà cháu. Âm thanh ấy như khắc khoải điều gì, da diết lắm khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ về tiếng tu hú đã trở thành điệp
khúc trở đi trở lại” trong bài thơ.

-Nhớ về âm thanh tu hú, người cháu lại nhớ về người bà kính yêu:

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học

Bà giữ vai trò quan trọng là cha, là mẹ, là thầy. Tuổi thơ cháu vốn lớn lên trong tình yêu, chăm sóc, che chở, dạy dỗ của bà. Bà là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu.

-Cảm ơn về công lao của bà, người cháu lại cảng thương bà:

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Người cháu được sống trong sự yêu thương chăm sóc của bà cảng chạnh lòng thương con tu hú bé nhỏ, thiệt thòi. Càng thương con tu hú bao nhiêu cháu lại càng biết ơn bà bấy nhiêu.

c, Kỉ niệm năm giặc đốt làng

Kỉ niệm “năm giặc đốt làng cháy tàn cháy lụi” gợi ra một khung cảnh làng quê tiêu điều, xơ xác sau trận cháy.
- Hình ảnh người bà hiện lên ngày càng rõ nét, cụ thể với nhiều phẩm chất đáng quý. Trong những năm tháng chiến tranh cú liệt nhưng bà vẫn bình tĩnh, vững lòng, đinh ninh. Bà là chỗ dựa
tinh thần vững chắc cho cháu. Nhà bị Tây đốt, nhưng bà căn dặn cháu:

Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên?

Lời bà dặn cháu vi phạm phương châm về chất nhưng ta thấy bà hiện lên là 1 người giàu đức hi sinh thương con yêu nước. Bà không muốn con lo lắng việc gia đình để tập trung vào công việc
kháng chiến, bà là hình ảnh của bà mẹ Việt Nam anh hùng, một người hậu phương vững chắc.

3. Suy nghĩ của cháu về bà và bếp lửa

a, Khổ 5

-Từ những kỉ niệm tuổi thơ về tỉnh bà cháu, người cháu đã suy ngẫm về cuộc đời bà. Hình ảnh của bà luôn gắn liền với bếp lửa:

+ Hình ảnh “bếp lửa” được thay thế = “ngọn lửa”. Cụ thể hơn mang ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng cho ánh sáng, hơi ấm và sức sống. Đó là ngọn lửa của tình yêu, ngọn lửa của lòng bà ấm áp, ngọn
lửa trong sáng mãnh liệt. Ngọn lửa ấy lỏng bà luôn ủ sẵn, một ngọn lửa truyền đời bất diệt. Diệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh tình yêu ấm áp bà dành cho cháu.

→ Như vậy, bà không chỉ là người nhóm lửa, thắp lửa mà bả còn là người truyền lửa. Lửa ấy là lửa của niềm tin, lửa của sự sống, lửa mà bà truyền đến cái thế hệ mai sau.

b, Khổ 6

Từ những suy ngẫm về bà, người cháu tiếp tục suy ngẫm về công việc và cuộc đời của bà:

+ Thành ngữ “biết mấy nắng mưa” lại một lần nữa trở lại kết hợp với đảo ngữ “lận đận” nhấn mạnh hơn về cuộc đời đầy gian truân, vất vả những lận đận cơ cực của bà.

+ Suốt mấy chục năm, bà luôn giữ thói quen dậy sớm để làm 1 công việc thầm lặng - nhóm bếp lửa. Bà hiện lên với những đức tính đáng quý: tần tảo, chịu thương, chịu khó nhẫn nại.

+ Bả nhóm bếp là những điều tốt đẹp. Diệp từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần , được dựng với 2 lớp nghĩa:

• “nhóm bếp lửa” và “nhóm bếp xôi gạo” được dùng với nghĩa gốc chỉ hoạt động riêng hoặc bật lửa châm vào giấy, củi... cho lửa cháy lên nấu ăn và sưởi ấm.
• “nhóm niềm yêu thương” “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” đọ dùng với nghĩa ẩn dụ cơ nghĩa là bà đã nhóm lên khơi dậy tình yêu, sự chia sẻ và đánh thức tâm hồn tuổi
thơ cháu.

+ Từ những suy ngẫm về bả và bếp lửa, người cháu không kìm được xúc động. Câu thơ cảm thán “Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa” với cấu trúc đảo ngữ thể hiện được sự ngạc nhiên, ngỡ
ngàng như khám phá được điều kì diệu giữa cuộc đời bình dị.

4. Nỗi nhớ bà trong xa cách

- Khổ thơ cuối là lời tự bạch của người cháu đã đi xa khi trưởng thành người bà kính yêu của mình:

Giờ cháu đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Giữa câu thơ có dấu chấm như một khoảng lặng bao la và đó chính là khoảng cách của không gian giữa cháu và bà.

+ Biện pháp liệt kê, điệp từ “có” “trăm” nhằm diễn tả cuộc sống tiện nghi, đầy đủ, hiện đại của người cháu ở khung trời xa lạ

+ Mặc dù người cháu năm xưa giờ đã lớn khôn trưởng thành, được chắp cánh bay xa tới những khung trời rộng lớn, niềm vui rộng mở nhưng cháu vẫn không nguỗi quên bếp lửa. Bài thơ kết
thúc bằng một câu hỏi tu từ:

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa

Câu hỏi ấy gợi cho người đọc cảm nhận như cổ một nỗi nhớ khắc khoải, thưởng trực, khôn nguôi luôn nhớ về bà. Nhớ về bả cũng chính là nhớ về quê hương, đất nước, cội nguồn. Đó là
truyền thống đạo li tốt đẹp của người Việt Nam: “Uống nước nhớ nguồn”.

BÉP LỬA (BĂNG VIỆT )

Đề: Cảm nhận bải thơ Bếp lửa.

MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa.

-Bằng Việt thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành thời chống Mỹ. Tác giả bắt đầu làm thơ từ đầu năm 1960. Thơ Bằng Việt dạt dào cảm xúc và sâu lắng suy tư; từ ngữ, hình ảnh giản dị, giàu
ý nghĩa. Bải thơ “Bếp lửa”được Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi tác giả còn rất trẻ, là sinh viên đang học tập tại nước ngoài. Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bải
thơ Bếp lửa gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bả và tỉnh bà cháu. Qua đó, tác giả thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của cháu với bà, cũng là tỉnh cảm của một người con xa
quê với gia đình, quê hương,đất nước.

THÂN BÀI

1. Khái quát hoàn cảnh sáng tác - xuất xứ - bố cục bài thơ.
- Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ: Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi tác giả còn là sinh viên đang theo học ngành luật tại nước ngoài. Khoảng cách xa xôi về không gian đã thổi bùng
lên ngọn lửa của nỗi nhớ quê hương, nhớ về người bà gắn với hình ảnh bếp lửa hồng; nỗi nhớ ấy cử bập bùng cháy và lan tỏa hơi ấm trong tâm hồn thi sĩ. Bải thơ “Bếp lửa”đã thăng hoa từ
nguồn cảm xúc đó. Tác phẩm sau đưa in trong tập thơ Hương cây – Bếp lửa – tập thơ đầu tay của Bằng Việt in chung với Lưu Quang Vũ.

- Khái quát mạch cảm xúc bài thơ: Bài thơ có bố cục bốn phần xoay quanh cảm xúc là nỗi nhớ của cháu đối với bà. Khổ thơ đầu xuất hiện hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm hứng về bả. Bốn
khổ thơ tiếp là dòng hồi tưởng của tác giả về tuổi thơ bên bả và bếp lửa. Khổ thơ 6 là suy ngẫm về bả và cuộc đời bà và khổ cuối thể hiện những cảm nghĩ về bà khi ở xa Tổ quốc của tác giả.
Mạch cảm xúc vận động theo trục thời gian tử quá khứ đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Bài thơ là lời người cháu ở nơi xa nhớ về bà cùng bao kỉ niệm và những nhớ thương yêu kính,
biết ơn.

2. Cảm nhận bài thơ:

2.1/ Khổ 1:

Trong khổ thơ đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa ấm áp thân thương đã khơi nguồn cho dòng hồi tưởng của người cháu về kỉ niệm ấu thơ bên người bả yêu dấu.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Châu thương bà biết mấy nắng mưa”

- Điệp ngữ “Một bếp lửa” khắc sâu hình ảnh bếp lửa như một ám ảnh tuổi thơ. Đó là một dấu ấn sâu đậm không bao giờ phai mở trong ki ức.

- Bếp lửa vừa là hình ảnh thực, vừa mang nghĩa ẩn dụ cho tỉnh bà ấm nóng bởi bếp lửa do tay bà chăm chút, bếp lửa gắn với những khó khăn gian khổ của đời bà.

- Hai từ láy giàu sức gợi hình và gợi cảm:

+Từ láy “chôn vòn” gợi tả chính xác hình ảnh ngọn lửa vươn lên, tỏa sáng trong bếp, khi ẩn khi hiện, lúc to lúc nhỏ trong màn sương sớm và cũng là hình ảnh chờn vờn, âm ảnh trong tâm trí
người cháu

. +Từ “ấp iu” tả sự ấp ủ của than hồng nồng đượm trong bếp lửa và gọi ra bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và tấm lỏng chỉ chút của người bà khi nhóm lửa. Đồng thời, ý thơ cũng gợi cả tấm lòng
người châu ấp ủ, nâng niu, trân trọng, giữ gìn bếp lửa tinh bả trong tâm hồn minh

- Nghĩ đến bếp lửa, người cháu nghĩ đến bà. Từ “nắng - mưa” được sử dụng mang nghĩa ẩn dụ để chỉ cuộc đời bà đầy vất vả, gian lao. Vì vậy cháu rất thương bà.. Chữ “thương” trong câu thơ
thứ ba, cảm xúc mới thực sự vỡ òa, tạo một bước ngoặt đột ngột mà hợp lý, chuyển mạch thơ từ miêu tả sang biểu cảm, từ hình ảnh bếp lửa sang hình ảnh người bà; tử sự vật khách quan đến
cảm xúc chủ quan. Điều đó thật tinh tế bởi đằng sau dáng lửa là nhẫn nại dáng bả, người cháu thương bà mà nhớ lửa, hình ảnh bả gắn với bếp lửa, gắn với “biết mấy nắng mưa” âm thầm thức
khuya dậy sớm, lo toan chăm sóc cho con cháu. Người cháu nhớ về tuổi thơ đầy cay đắng nhưng vẫn thấy ấm áp vì có bà ở bên.

=> Như vậy, ngay từ đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa đã được tạo dựng và gắn liền với hình ảnh người bà giàu tinh yêu thương, đức hy sinh, tinh kiên trì, nhẫn nại. Hai hình ảnh song hành, đan
quyện, bập bùng sáng trong cõi nhớ, khơi gợi niềm thi hứng đảo dạt của thi nhân .

2.2. Khổ 2-3-4-5: Hồi tưởng về những năm tháng ấu thơ bên bà và bếp lửa.

a. Những kỉ niệm thời trước Cách mạng tháng Tám:

Ở khổ thơ thứ hai, Bằng Việt hồi tưởng về những năm tháng ấu thơ bên bà và bếp lửa. Ki niệm đầu tiên hiện về trong kí ức người cháu là kỉ niệm về một tuổi thơ cơ cực, nhọc nhằn:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khỏi

Năm ấy là năm đói mỏn đổi mới

Bổ đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhở khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

* Ấn tượng về khói bếp:

- Mới lên bốn tuổi, cháu đã gắn với bếp lửa nên đã quen mùi khỏi. Án tượng sâu đậm nhất hiện về trong tâm hồn người cháu đỏ là ấn tượng về khỏi bếp – làn khói bay lên từ bếp lửa nhà
nghèo với “mùi khỏi” và “khói hun nhèm mắt cháu”....

- Cảm giác về khói bếp được diễn tả bằng chữ “cay” thật sâu sắc: nó vừa là cái cay của khứu giác, khỏi bếp làm cay cay nơi sống mũi ngày thơ ấu. Đồng thời nó còn gợi cái cay của niềm xúc
động nghẹn ngào, của dòng nước mắt tủi buồn muốn ứa ra khi nhớ lại những năm tháng cơ hản của tuổi ấu thơ, của gia đình, đất nước. Giọng thơ trầm lắng, trĩu nặng xót xa khiến chúng ta
đọc lên không khỏi thắt lòng.

* Ấn tượng về nạn đói:

- Tuổi thơ của châu với bà còn có bóng đen ghê rợn của nạn đói. Thành ngữ “đói mỏn đổi mỏi” ám ảnh chúng ta về cảnh đói kém kéo dài khiến con người mỏi mệt, kiệt sức.

- Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” vừa có tinh chất miêu tả, gợi về một cảnh tượng xót xa thương cảm; vừa khái quát được hiện thực những năm trước Cách mạng, người dân sống
trong cảnh nô lệ lầm than, thân người khốn khổ thương tâm như thân trâu ngựa.

=> Bằng Việt đã tái hiện một quả khứ đau thương với những năm tháng tuổi thơ cơ cực trong thân phận của những người dân mất nước. Đoạn thơ có yếu tố tự sự, miêu tả kết hợp với biểu
cảm làm cho kỉ niệm tuổi thơ hiện lên rất chân thực, gợi xúc động lòng người.

b. Những kỉ niệm thời kháng chiến chống Pháp


* Những khó khăn trong cuộc sống hai bà cháu phải trải qua:

- Khổ thơ tiếp theo là những kí ức tuổi thơ của cháu, gắn liền với những khó khăn mà hai bà cháu phải trải qua thời kháng chiến chống Pháp. Tám năm liền cháu sống với bà, cùng bà nhóm lửa.
Bố mẹ đi tham gia kháng chiến không về, hai bả cháu nương tựa vào nhau nơi miền quê nghèo khó, phải trải qua biết bao gian nan cơ cực.

Tám năm rộng châu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cảnh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế"

- Tiếng tu hú vang lên bốn lần trong mười một dòng thơ; đây là âm thanh quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về, giờ cứ vang vọng, cuộn xoáy trong lỏng người cháu, đánh thức bao kí ức
tuổi thơ.

- Tiếng tu hú lúc giục giã khắc khoải “trên những cảnh đồng xa", khi lại gần gũi thân thương “sao mà tha thiết thế"; lúc giống giả dồn dập “kêu chỉ hoài...”. Tu hú là loài chim không tự làm tổ,
thường sống lẻ loi, tiếng kêu nghe buồn thương, da diết. Và âm thanh tu hú đã gợi lên cảnh sống cô đơn, quạnh quẽ của hai bà cháu với biết bao chờ mong khắc khoải về ngày kháng chiến
thành công, gia đình sum họp.

- Phép điệp “tiếng tu hú” và câu hỏi tu từ”

“Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cảnh đồng xa”

gợi lên một không gian bao la, mênh mông, buồn vắng; tử đó càng làm nổi bật cảnh ngộ cô đơn vắng vẻ của hai bà cháu. Đưa tiếng tu hú, âm thanh rất đồng nội vào thơ, điều ấy đủ chứng tỏ
Bằng Việt là một hồn thơ đa cảm và gắn bỏ sâu nặng với gia đình, với quê hương, với đất nước.

Mở rộng: Tiếng tu hú đã từng vang lên da diết như tiếng gọi của cuộc sống tự do trong bài thơ của Tổ huu

Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi

Ngột làm sao chết uất thôi

Con chim tu hú ngoài trời cử kêu.

Nhưng ở đây, âm thanh tu hú không gợi về khao khát tự do mà khắc khoải một nỗi niềm thương nhớ của nhà thơ hướng về người bà trong hồi ức ấu thơ.

*Kỉ niệm thương đau về năm giặc đốt làng:

Trong những tháng năm đau thương ấy, có một sự kiện người cháu không thể nào quên, ấy là năm giặc tản phá, đốt làng:

“Năm giặc đất làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

- Những câu thơ tái hiện cảnh giặc tàn phá nặng nề, kẻ thù đã đốt làng “cháy tàn cháy rụi”. Cụm từ này gợi lên hiện thực khốc liệt của những năm tháng chiến tranh; mọi tài sản của người dân
và cả làng quê bị chảy hết trong tro bụi.

- Giặc đến, người dân phải đi sơ tán. Giặc rút, họ lại trở về làng. Lời thơ không tô vẽ cường điệu mà hết sức tự nhiên chân thực nhưng chính cái mộc mạc chân thực ấy lại xúc động lòng người.
Từ láy “lầm lụi” gợi hình ảnh những người dân trở về lặng lẽ, ngậm ngủi, đau xót, không nói nên lời. Ngôi nhà của hai bà cháu cũng bị chảy. Hàng xóm đỡ đần dựng lại túp lều tranh. Tinh làng
nghĩa xóm ấm áp, họ cứu mang giúp đỡ lẫn nhau.

* Hình ảnh người bà:

- Trong tận cùng đau thương, cháu vẫn luôn nhận được tình yêu vô bờ bến của bà. Bà nuôi nấng chăm sóc châu ân cần chu đáo. Bà bảo ban cháu nhiều điều hay lẽ phải.:

“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học".

-Những từ ngữ: bà bảo; bà dạy; bà chăm, bà kể chuyện....diễn tả sâu sắc, thấm thía tẩm lòng đôn hậu, tình yêu thương, sự chăm chút của bà với cháu. Bà là điểm tựa cho cháu cả về vật chất
lẫn tinh thần. Vì vậy, khi nghĩ tới bà, cháu luôn “nghĩ thương bả khó nhọc".

- Trong khó khăn. bà vẫn đảm đang tần tảo, nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu. Bà là người phụ nữ giàu ý chỉ nghị lực và đức hy sinh. Bà luôn chịu đựng mọi khó khăn, vững lòng nhắc nhở cháu:

“Vẫn vững lòng bà dặn châu đinh ninh

Bổ ở chiến khu bổ còn việc bổ

Mày viết thư chở kể này kể nọ

Cử bảo ở nhà vẫn được bình yên "

-Lời dặn dò của bả làm sáng lên phẩm chất cao đẹp ở người phụ nữ kháng chiến: đó là lòng yêu nước thiết tha. Đây là lời nói dối tốt lành vì nó làm yên lòng người tiền tuyến. Bà âm thầm lặng
lẽ vượt qua mọi gian khó, không kêu ca phản nản. Bà muốn con cái ở chiến khu yên tâm chiến đấu. Bà là hậu phương vững chắc góp phần cho tiền tuyến thắng lợi.
* Suy ngẫm về ngọn lửa lòng bà; ngọn lửa của tình yêu thương và niềm tin

Trong khổ thứ 5 của bài thơ, người cháu tiếp tục suy ngẫm về ngọn lửa lòng bà; ngọn lửa của tỉnh yêu thương, đức hy sinh và niềm tin hy vọng :

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chửa niềm tin dai dẳng”

Hình ảnh “ngọn lửa” ẩn chứa nhiều ý nghĩa:

+ Nghĩa thực: Đó là ngọn lửa có thật để duy trì sự sống. Mỗi sớm mỗi chiều bà luôn nhóm lên trong căn bếp nghèo một ngọn lửa ấm áp, cháy sáng.

+ Nghĩa ẩn dụ: Ngọn lửa là một ẩn dụ đặc sắc để chỉ tình yêu thương bà dành cho cháu ; tỉnh cảm ấy dạt dào ấm áp như ngọn lửa không bao giờ lụi tắt. Ngọn lửa lòng bà còn “chứa niềm tin dai
dẳng” - tức niềm tin tưởng của bà cháy lên, sáng mãi như ngọn lửa. Bà luôn truyền cho cháu niềm tin để hai bà cháu củng vượt qua gian khó, bà chính là người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa.

- Cụm từ “một ngọn lửa" được điệp lại hai lần để nhấn mạnh ngọn lửa ấm áp của lỏng bà đã thắp lên trong tâm hồn châu ý chí, nghị lực, niềm tin và tỉnh yêu cuộc sống.

- Hình ảnh bếp lửa ở phần đầu bài thơ được chuyển hóa thành ngọn lửa trong đoạn thơ này. Nếu “bếp lửa” được cảm nhận trong thực tế thì ngọn lửa ẩn dụ cho ánh sáng, hơi ấm, sự sống, tình
cảm con người. Bếp lửa là hình xác bên ngoài, ngọn lửa là linh hồn bên trong. Nếu bếp lửa là hình ảnh cụ thể gợi cuộc sống âm thầm của bà và cháu trong nếp nhà nghèo thì ngọn lửa là hình
ảnh khái quát sâu xa hơm; gợi tình yêu thương nồng ẩm, ý chí vững vàng, niềm tin bất diệt ở người bà. Ngọn lửa lòng bà đã tỏa sáng câu thơ, ngọn lửa ấy đã tạo ra sự tương phản với ngọn lửa
hung tản thiêu hủy làng mạc xóm thôn của quân thù.

- Khái quát hơn, ngọn lửa còn là ý chí, là nghị lực, là niềm tin của cả một dân tộc trong thời kỳ lịch sử vô cùng khó khăn, niềm tin về một ngày mai hoà bình, tươi sáng, về một tương lai tốt đẹp
hơn đang đợi chờ phía trước. Hình ảnh của bà trong tâm hồn nhà thơ không chỉ là người thắp lửa giữ lửa mà còn là người truyền lửa. Lửa ấy là lửa niềm tin, lửa sức sống truyền đến các thế hệ
mai sau.

2.3. Khổ 6 : Suy ngẫm về bà và cuộc đời bà:

+3 câu đầu: Đoạn thơ mở ra với những suy ngẫm sâu sắc của cháu về bà và cuộc đời bà – một cuộc đời chất chồng vất vả nhưng chan chứa tình yêu thương, đức hy sinh:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”

- Từ láy “lận đận” được đảo lên đầu câu kết hợp với nghệ thuật ẩn dụ “nắng mưa” nhấn mạnh cuộc đời bà với biết bao vất vả, gian lao. Những năm tháng kháng chiến khó khăn bà thường dậy
sớm nhóm bếp; khi hòa bình lập lại, cuộc sống bớt gian khổ; việc dậy sớm vẫn trở thành thói quen của bà. Lúc nào cũng thế; bả luôn chịu thương chịu khó, đảm đang tần tảo, hết lòng chăm lo
cho người thân. Người cháu đã thấy hiểu những lận đận mà bả phải trải qua trong cuộc đời vất vả của minh, vì thế, càng thêm trân trọng và biết ơn tỉnh yêu thương giản dị, chân thành mà
đậm đà, sâu sắc của bà.

-Câu thơ gợi ra một khoảng thời gian đủ dài “Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ", để tác giả chiêm nghiệm, đúc kết và nhận ra: bếp lửa gắn liền với hình ảnh của bà. Bếp lửa trở thành biểu
tượng trọn vẹn cho tỉnh cảm của bà – một người phụ nữ Việt Nam truyền thống giàu lòng yêu thương và đức hi sinh.

*4 câu tiếp: Và mỗi khi bà dậy sớm, bả lại nhóm lửa.

- Điệp từ “nhóm” được lặp lại bốn lần trong đoạn thơ tiếp theo mang nhiều ý nghĩa khác nhau; tử cụ thể đến trừu tượng; từ vật chất đến tinh thần; nhằm nhấn mạnh tình yêu thương giản dị
mà sâu sắc của bà đối với cháu và những người xung quanh:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

+ Từ “nhóm” trong câu thơ thứ nhất và thứ ba mang nghĩa thực, chỉ hành động làm bản và chảy lên thành ngọn lửa trong bếp. Từ láy “ ấp iu” một lần nữa xuất hiện trong bài thơ không chỉ nói
tới cái nồng đượm của than hồng được ấp ủ trong căn bếp nghèo mà còn gợi ra bản tay khéo léo kiên nhẫn, tấm lòng chỉ chút yêu thương của người bà tảo tần một nắng hai sương.

+Từ “nhóm” trong những câu thơ còn lại mang nghĩa chuyển:

Bà nhóm lửa cũng chính là khơi dậy những yêu thương nồng ấm, thắp sáng những điều thiêng liêng, đẹp đẽ trong tâm hồn cháu. Bà đã đánh thức những kỉ niệm tuổi thơ “nhóm dậy cả những
tâm tình tuổi nhỏ"; khơi dậy trong tâm hồn cháu những tình cảm đẹp; thắp lên trong cháu ngọn lửa của niềm tin và bao mơ ước khát vọng tuổi thơ.

=> Tóm lại, hình ảnh bếp lửa đơn sơ giản dị đã mang ý nghĩa khái quát, trở thành ngọn lửa trong tim; ngọn lửa ẩn chứa sức sống, tình yêu, niềm tin của con người . Bếp lửa đã gắn kết quả khử
với hiện tại, bếp lửa sưởi ấm một đời con người; bếp lửa nâng niu tình cảm gia đình và cả tỉnh làng nghĩa xóm chân thành mộc mạc.

* 1 câu cuối: Tình cảm yêu thương, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà tiếp tục được thể hiện qua lời thơ đầy xúc động. Bếp lửa gắn với bao khó khăn gian khổ của đời bà, vì vậy,
nó trở nên “ki lạ và thiêng liêng”.

“Ôi! Kì lạ và thiêng liêng bếp lửa”

- Kì lạ: bởi bếp lửa ấy có tác dụng lớn lao cao cả; bếp lửa luôn chảy lên trong mọi hoàn cảnh, không gì có thể dập tắt được.

-Thiêng liêng: vi bếp lửa ấp ủ và sáng mãi tinh bà cháu; bếp lửa chứa đựng cả linh hồn dân tộc gian lao mà ấm áp nghĩa tình. Bếp lửa trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin kì diệu nâng
bước người cháu trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.

- Thân từ “ôi” trong câu cảm thân kết hợp với cấu trúc đảo đã nhấn mạnh nỗi xúc động mãnh liệt, dâng trào khi tác giả bất ngờ phát hiện ra một điều giản dị mà sâu sắc: Bếp lửa ấm nóng tỉnh
bà, bếp lửa cũng chính là gia đình, là cội nguồn, là quê hương đất nước. Từ ngọn lửa của bà, cháu hiểu được vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc; vất vả gian lao mà ấm áp nghĩa tỉnh.
2.4. Khổ 7: Nỗi nhớ và lời tâm niệm của người cháu khi trưởng thành

Khổ thơ cuối là lời tâm sự của người cháu khi đã trưởng thành, lúc ở xa Tổ quốc. Cháu vẫn không nguôi nhớ về bả và bếp lửa:

“Giờ châu .... lên chưa”

Nghệ thuật đối lập đã giúp Bằng Việt diễn tả thật xúc động tình cảm của cháu đối với bà: + Cụm từ “Giờ cháu đã đi xa” chỉ khoảng thời gian và không gian xa cách. Nghệ thuật liệt kê làm nổi bật
một thực tế: ở nơi xa ấy, cháu có cuộc sống tiện nghi, hiện đại, sung túc với bao niềm vui mới “có ngọn khỏi trăm tàu”, “có lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”... Tưởng như cháu sẽ lãng quên
ánh lửa từ căn bếp nghèo, lãng quên hơi ấm từ ngọn lửa tình bà chốn quê hương.

+Chữ “nhưng” đặt giữa đoạn thơ tạo ra một tương phản giàu ý nghĩa: Dù có đi xa, cháu vẫn nhớ người bà tần tảo, yêu thương. Cháu vẫn không bao giờ quên ngọn lửa của một thời thơ ấu gian
khổ mà ấm áp nghĩa tỉnh. Ngọn lửa lòng bà trở thành kỉ niệm, thành niềm tin, nâng bước cháu trong suốt hành trình dải rộng của cuộc đời.

- Câu hỏi tu từ khép lại bải thơ: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” cho ta thấy niềm thương nỗi nhớ vô bờ của người cháu đối với bà và tỉnh cảm quê hương, nguồn cội sâu sắc . Cháu vẫn
luôn nhớ về bếp lửa và nhớ ghi tinh cảm gia đình, tình yêu đất nước. Tấm lòng ấm áp của bà là sức mạnh của cội nguồn, là đạo li thủy chung cao đẹp của người Việt Nam mà cháu được nuôi
dưỡng từ thuở nho.

- Kết mở: Câu hỏi tạo nên một kết mở cho thi phẩm. Dấu ba chấm khiến ta có cảm giác hình như vẫn còn đâu đây nỗi nhớ khắc khoải, da diết hướng về bà vẫn còn dư âm vang vọng tỉnh quê,
tỉnh nước... Ý thơ còn hé mở một triết lí sâu xa: “Những gì là thân thiết của tuổi thơ mỗi người đều có sức nâng đỡ, tỏa sáng trong suốt hành trình dài của cuộc đời. Nó giúp cho mọi người gắn
bỏ với gia đình, quê hương, đất nước.” Tình cảm sâu đậm của cháu với bà có nguồn mạch tử đạo li ân nghĩa Việt Nam từ bao đời nay; đó là lòng thành kính biết ơn yêu thương đối với gia đình,
tổ tiên, với quê hương nguồn cội, với đất nước. Điều đó khiến cho bài thơ Bằng Việt vượt khỏi ranh giới tình cảm riêng tư đến với trái tim độc giả mọi thời.

3. Nhận xét đánh giá:

- Về nghệ thuật: Đoạn thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các phương thức biểu đạt: biểu cảm, miêu tả và tự sự. Tác giả còn đan xen với lời bình luận, suy ngẫm đầy tính triết lí. Ngôn ngữ
thơ giản dị, giàu cảm xúc, hình ảnh gần gũi chân thật, giọng điệu thơ sâu lắng, mộc mạc, chân thành, tha thiết có sức lay động và truyền cảm mạnh mẽ tới người đọc.

- Về nội dung: Đoạn thơ đã thể hiện thật sâu sắc, ấn tượng về tinh cảm bà cháu, vốn là một tỉnh cảm thiêng liêng, đẹp đẽ, bền lâu trong đời sống của dân tộc Việt Nam.

- Đoạn thơ hài hòa vẻ đẹp nội dung và vẻ đẹp nghệ thuật, làm nên sự hấp dẫn cho tác phẩm và khẳng định tài thơ Bằng Việt.

Sfđg

BÉP LỬA – Bằng Việt

* Giới thiệu bài học: Quê hương, gia đình, làng xóm là những kỉ niệm đẹp đẽ, bình dị và thân thuộc với những ai xa quê. Đối với Tế Hanh, quê hương là làng chài ven biển “nước bao vây cách
biển nữa ngày sông”. Với Đỗ Trung Quân thì “quê hương là chùm khế ngọt – Quê hương là con diều biếc"...Nhưng riêng với Bằng Việt, quê hương của ông được gợi về bằng hình ảnh bếp lửa
mộc mạc, giản dị. Nghĩ về bếp lửa là nghĩ về bà, nghĩ về quá khứ tuổi thơ đầy khó nhọc, vất vả.

I – Tìm hiểu chung:

1. Tác giả:

- Bằng Việt, tên khai sinh Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941.

- Quê: Thạch Thất, Hà Tây (Hà Nội)

- Làm thơ từ đầu những năm 60 của TK XX và thuộc lớp nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.

- Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào khai thác những kĩ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gọi những ước mơ

- Tác phẩm tiêu biểu: Hương cây bếp lửa (thơ in chung với Lưu Quang Vũ), Những gương mặt,những khoảng trời (1973), Cát sáng(1983)...

- Hai đề tài chính: cuộc chiến đấu của nhân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ và vẻ đẹp của con người trong cuộc sống đời thường.

- Phong cách sáng tác: Thơ Bằng Việt mang giọng điệu thủ thì tâm tỉnh; ngôn từ điểm đạm, cẩu tử mạch lạc và hệ thống thi ảnh đặc sắc.

2. Tác phẩm:

a. Hoàn cảnh sáng tác:

- Sáng tác năm 1963, khi nhà thơ đang là sinh viên theo học ngành Luật tại nước Nga

- In trong tập “Hương cây – bếp lửa” — tập thơ đầu tay của Bằng Việt in chung với Lưu Quang Vũ

. - Nhà thơ kể lại: “Những năm đầu theo học luật tại đây tôi nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mở mở mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm
cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dạy sớm đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dạy sớm nấu nổi xôi, luộc củ khoai, củ sắn
cho cả nhà

”. b. Bócục:

- Bài thơ mở ra hình ảnh bếp lửa, gợi những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà. Từ kĩ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm, thấu hiểu cuộc đời bả, về lẽ sống của bà. Cuối cùng, trong hoàn
cảnh xa cách, đứa cháu gửi nỗi nhớ mong được gặp bả.

- Bố cục bài thơ đi theo mạch cảm xúc: hồi tưởng=hiện tại, kĩ niệm=suy ngẫm. Lựa chọn bố cục như thế là thích hợp với việc khắc hoạ kỉ niệm tuổi thơ. Bố cục đó còn cho thấy hình ảnh của bà
khắc sâu vào tâm khảm của người cháu, thành chỗ dựa tinh thần để người cháu trưởng thành.
- Bố cục chia 4 phần:

+ Khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bả.

+ Ba khổ thơ tiếp: ( Tiếp... đến... niềm tin dai dẳng): Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bả

. + Khổ tiếp: ( Tiếp... đến..."bếp lửa!"): Suy ngẫm của người cháu về bả, về hình ảnh bếp lửa.

+ Khổ cuối: Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi, da diết.

c. Hình ảnh trong bài thơ:

Trong bài thơ có hai hình ảnh nổi bật, gắn bỏ mật thiết với nhau, vừa tách bạch, vừa nhòe lẫn trong nhau,tỏa sáng bên nhau. Đó là hình ảnh người bà và bếp lửa. Vì sao trong dòng hồi tưởng
và suy nghĩ của nhà thơ, hai hình ảnh ấy lại luôn gắn bó, song hành, đồng hiện? . Vì bà luôn hiện diện cùng bếp lửa. Bên bếp lửa là bóng hình bả. Bả nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt
cả cuộc đời trong từng cảnh ngộ: từ những ngày khó khăn gian khổ đến lúc bình yên. Bếp lửa còn là biểu tượng giàu ý nghĩa: nó là biểu hiện cụ thể và đầy gợi cảm về sự tảo tần, chăm sóc, và
yêu thương của người bà dành cho cháu con.Bếp lửa là tỉnh bà ẩm nồng. Bếp lửa là tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với bao vất vả, cực nhọc đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm lên sự
sống niềm vui, tỉnh yêu thương, niềm tin, và hi vọng cho cháu con, cho mọi người.

3. Ý nghĩa nhan đề

“Bếp lửa” là một hình ảnh độc đáo, sáng tạo, xuất hiện nhiều lần trong bài thơ, nó vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng:

Ý nghĩa thực: là một bếp lửa thật, quen thuộc, gần gũi trong mỗi gia đình của người Việt. Đồng thời nó là hình ảnh gắn với kỷ niệm ấu thơ về một người bà cụ thể, có thật của tác giả

. Ý nghĩa biểu tượng:

+ Gọi sự tần tảo, chăm sóc yêu thương của người bà dành cho cháu trong những năm tháng đổi nghèo, chiến tranh để trưởng thành và khôn lớn.

+ Bếp lửa gợi lên bao vất vả cực nhọc của đời bà. Song bà nhóm bếp lửa cũng là nhóm lên sự sống, niềm vui, niềm tin và hi vọng cho cháu vào một tương lai phía trước.

+ Bếp lửa còn là biểu tượng của gia đình, quê hương,đất nước cội nguồn... đã nâng bước người cháu trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.

→ Bếp lửa là tên gọi của một bài thơ cảm độngvề tình bà cháu giản dị, thiêng lieeng, đồng thời thể hiện tình cảm gia đình, quê hương, đất nước sâu sắc....

II – Đọc – hiểu văn bản:

1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Châu thương bà biết mấy nắng mưa.

- Dòng hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa; để rồi tử hình ảnh bếp lửa ấy, dòng kỷ niệm về bà thức dậy và được tái hiện.

- Ba tiếng “một bếp lửa" được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm
tưởng của nhà thơ.

- “Bếp lửa chờn vờn sương sớm" là hình ảnh tả thực quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam trước đây mỗi buổi sớm mai. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh chờn vờn “sương
sớm”,thật thân thương với bao tỉnh cảm “ấp iu nồng đượm”.

+ Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chỉ chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể. Từ bếp lửa điệp lại 2 lần gợi bóng dáng của người bà,
người mẹ tảo tần, thức khuya dậy sớm chăm sóc cho chồng cho con. Đồng thời còn diễn tả dòng cảm xúc ùa về tử kí ức.

+ Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn tỏa sáng của ngọn lửa trong sương sớm. Bếp lửa ấy chờn vờn trong lý ức về những năm tháng tuổi
thơ được sống bên bà của nhà thơ.

- Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Tình thương trản đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau
sự giãn dị ấy là cả một tấm lỏng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà.

=>Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà

. Hình ảnh bếp lửa đã khơi dậy trong lòng người cháu bao cảm xúc để những dòng hồi tưởng ký ức từ đó ùa về khiến người cháu không khỏi xúc động.

2. Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà:

*Bốn khổ thơ tương ứng với ba kỉ niệm của khoảng thời thơ ấu của nhà thơ sống bên bà. Đó là những kỉ niệm bên bếp lửa và bên người bả kinh yêu. Đoạn thơ thấm thía bởi sự kết hợp
hải hòa giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự với trữ tỉnh.

a. Kĩ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn nhọc nhằn:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khỏi

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy


Chỉ nhớ khỏi hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.

- Tử láy: “Đói mòn đói mỏi” miêu tả một hiện thực đau thương trong lịch sử: nạn đói 1945. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Hơn hai triệu người dân Việt Nam chết đói
vì chính sách cai trị dã man của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Người sống thì “dật dờ như những bóng ma”. Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời, đói đến nỗi phải ăn
đất sét (trong văn Ngô Tất Tố), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao... Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đau đớn: “Cả dân tộc đói
nghèo trong rom rạ”. Câu thơ trĩu xuống, khiển lowngf người như nao nao, nghẹn ngào khi nghĩ về ký ức tuổi thơ ấy

. - Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” cũng phần nào diễn tả được hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình tác giả trong cải khốn khổ chung của những người lao động.

- Hình ảnh “ đói mòn đói mỏi” và “khô rạc ngựa gầy”- những chi tiết thơ đậm chất hiện thực đã tải hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác,tiêu điều cùng những con người tiều tụy, vật lộn mưu sinh.
Không trải qua cái đói quay, đổi quắt thì Bằng Việt chẳng thể viết được những câu thơ chân thực đến thế!

- Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cái cay vi khỏi bếp của cậu bé bốn
tuổi và cái cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà hòa quyện.Quả khử và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ. Điều này cho thấy, mùi khói bếp của bà có sức ám
ảnh, làm lay động cả thể chất và tâm hồn cháu.

- Những hình ảnh, những kỷ niệm bên bả, bên bếp lửa đã cho thấy một tuổi thơ gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn và đầy ám ảnh của tác giả để rồi khi đã đi xa ông không khỏi xúc động mỗi khi
nghĩ về bà.

b. Nhớ về những kỉ niệm là nhớ về bếp lửa, nhớ về tình bà trong suốt tám năm bên bà:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cảnh đồng xa

Tu hú kêu bà con nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thể

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngh

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa?

- Đó là những năm tháng cháu sống trong sự cưu mang dạy dỗ của bả:

“Tám năm ròng cháu sống cùng bà”

-tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn tử tấm lỏng của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bả vất vả, khó khăn nhưng đầy tình yêu thương. Bếp lửa hiện diện
như tỉnh bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự cưu mang đùm bọc của bà....đó là những năm tháng hồn nhiên trong sáng và vô tư.

- Kháng chiến bùng nổ, “Mẹ cùng cha công tác bận không về”,bà vừa là cha, lại vừa là mẹ: “bà bảo cháu nghe - Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Chính bà là người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ
cháu nên người. Bả hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ,
chăm sóc cho cháu lớn lên.

→ Một loạt các từ ngữ “bà bảo”,”bà dạy”,”bà chăm” vừa diễn tả một cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút hết mình của người bả dành cho cháu, vừa thể hiện được lòng biết ơn của
cháu đối với bà. Tinh yêu và kính trọng bả của tác giả được thể hiện thật chân thành, sâu sắc: “ Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.

- Bả vả bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bà vừa là bà vừa là sự kết hợp cao quý của tình cha, nghĩa mẹ, ơn thầy. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tỉnh
bả lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về:

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế.

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa?

-Đoạn thơ khiến ta chạnh nhớ về “tiếng chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ: tiếng chim tu hú gắn liền với hình ảnh cha già với những kỉ niệm về một thời thiếu nữ hoa niên, tiếng chim tu hú len lỏi
khắp bài thơ như một âm thanh u ẩn, không buồn mà tiếc. Còn ở đây, tiếng chim tu hú bước vào thơ Bằng Việt như một chi tiết để gợi nhắc nhà thơ về những kỉ niệm ấu thơ được sống bên
bả.

- Tiếng chim tu hú — âm thanh quen thuộc của làng quê Việt Nam mỗi độ hè về, bảo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cây. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết
khiến lòng người trỗi dậy những hòa niệm, nhớ mong. Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà? Tiếng tu hú gọi nhớ gợi thương. Câu hỏi
tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hòa trên những cánh đồng xa” mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Nó diễn tả nỗi lỏng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bả.

=> Những câu thơ như lời đối thoại tâm tỉnh, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho
người bả kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bảng bạc của không gian
hoài niệm, của tỉnh bả cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.

c. Đọng lại trong kỉ niệm của người cháu là: Những kỷ niệm thời bom đạn chiến tranh Từ trong khói lửa của chiến tranh tàn khốc, người bà cảng sáng lên những phẩm chất cao đẹp:
Năm giặc đốt làng chảy tàn chảy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “chảy tản chảy rụi” gợi sự tàn phá hủy diệt của chiến tranh. Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với
hai bà cháu.Điều khiển cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua nhữngnăm tháng gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phản nản. Bà mạnh mẽ, kiên
cường trước hiện thực ác liệt. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh:

Mày có viết thư chớ kể này kể ng

Cử bảo nhà vẫn được bình yên

Vậy là bả đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc
cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tỉnh yêu quê hương, Tổ quốc. Bà đã góp phần làm ngời sáng vẻ đẹp tâm
hồn của người phụ nữ VN vốn giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

d. Hình ảnh người bà và những kỷ niệm năm tháng tuổi thơ luôn gắn với hình ảnh bếp lửa: Trong bài thơ, hơn 10 lần tác giả nhắc đến bếp lửa và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh người bả,
với vẻ đẹp tần tảo nhẫn nại và đầy yêu thương. Và tác giả đã dành một khổ thơ nói về những suy ngẫm về bếp lửa:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

- Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở câu trên, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Như thể, bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu của rơm mà còn được nhen lên từ
ngọn lửa của sức sống, lỏng yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bị và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ẩm lỏng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng
bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu.

- Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian:“rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “u sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí,bản lĩnh sống của bả, cũng là của người phụ nữ Việt
Nam giữa thời chiến. Điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hảo.

=> Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bả không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm
tin cho các thế hệ nối tiếp.

Thông qua những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa, tác giả đã khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nạn, đầy yêu thương của bả hiện lên lấp lánh như một thứ ánh sáng kỳ diệu.

3. Suy ngẫm của người cháu về bả và hình ảnh bếp lửa:

Từ những hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà, người cháu đã suy ngẫm về bả, về hình ảnh bếp lửa. Hình ảnh bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Bà là người nhóm lửa, cũng là
người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và tỏa sáng để rồi mỗi khi nhớ lại người cháu vô cùng cảm phục và biết onw bà

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẽ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

- Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hoả vào làm một, nhòe lẫn, tòa sáng bên nhau.

- Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “Mấy chục năm”, từ láy tượng hình “lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” . diễn tả cảm nhận của nhà thơ về cuộc đời gian nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi
sinh, chịu thương,chịu khó của bả. Tình thương yêu tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà thật sâu nặng thiết tha.- Suốt cuộc đời, bả luôn
chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ẩm nóng, tỏa sáng trong gia đình.

- Điệp ngữ “nhỏm” được nhắc lại bốn lần với những ý nghĩa phong phú, gợi nhiều liên tưởng. Tử hành động, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Bả nhóm bếp
lửa mỗi sớm mai là nhóm lên:

+ Tình yêu thương

+ Niềm vui sưởi ấm

+Sự san sẻ tinh làng nghĩa xóm.

+Những tâm tình, ước vọng của tuổi thơ

→ Nhờ ngọn lửa mà bà “i”, bà “nhen”, bà “giữ”, cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm lảng. Người cháu yêu bà, nhờ
hiểu bả mà thêm hiểu, thêm yêu dân tộc minh, nhân dân minh.

- Trong tâm trí nhà thơ, bếp lửa và bà là những gì tuy thật bình dị, song ẩn giấu điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc dâng trào, tác giả đã phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Hình
ảnh bả và hình ảnh bếp lửa sáng đẹp lung linh trong tâm hồn nhà thơ.
4. Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi, da diết.

Giờ cháu đã đi xa, cỏ ngọn khỏi trăm tàu,

Cỏ lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở:

- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ năm xưa giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay cao, bay xa đến những chân trời cao rộng
có “ khỏi trăm tàu”,”"lửa trăm nhà","niềm vui trăm ngả”. Tuy thế, cháu vẫn khôn nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê hương, nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bả cháu có nhau. Cháu sẽ không
bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu được nuôi dưỡng để lớn lên tử đó. Bả và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần
vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời.

=> Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trinh
dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, tử những gì gần gũi và bình dị nhất.

III – Tổng kết:

1. Nội dung:

- “Bếp lửa” của Bằng Việt là những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu.

- Bài thơ khẳng định và ngợi ca tỉnh cảm bà cháu bình dị, gần gũi mà thiêng liêng. Qua đó, bộc lộ những tỉnh cảm sâu nặng đối với gia đình, quê hương, đất nước.

2. Nghệ thuật:

-Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm và miêu tả, tự sự và bình luận.

-Thể thơ tám chữ kết hợp với 7 chữ,9 chữ phủ hợp với việc diễn tả dòng cảm xúc và suy ngẫm về bảo -Giọng điệu tâm tỉnh, thiết tha, tự nhiên, chân thành.

-Sáng tạo hình ảnh bếp lửa – hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng

BÀI TẬP

ĐÈ 1: CẢM NHẬN CỦA EM VẺ ĐOẠN THƠ TỪ:

MỘT BÉP LỬA CHỜN VỜN SƯƠNG SỚM .....CỬ BẢO Ở NHÀ VĂN ĐƯỢC BÌNH YÊN!

ĐÈ 2: CẢM NHẬN CỦA EM VẺ ĐOẠN THƠ TỪ :

Lưu ý:

RỒI SỚM RỒI CHIỀU LẠI BÉP LỬA BÀ NHEN

...SỚM MAI NÀY BÀ NHÓM BÉP LÊN CHƯA

- Học thuộc - hiểu nội dung bài học - gắn với mỗi đoạn thơ - có thể tham khảo bài văn mẫu để học cách diễn đạt-> viết bài hoàn chỉnh

- Tụ viết mở bài; Tự viết kết bài( học thuộc)

- Thân bài: của từng đề có mấy luận điểm - phải nhớ

Sfgrgs

Quê hương, gia đình, làng xóm là những kỉ niệm đẹp đẽ, bình dị và thân thuộc với những ai xa quê. Đốivới nhà thơ Tế Hanh, quê hương là làng chài ven biển "nước bao vây cách biển nửa ngày
sông”; với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì "Quê hương là chùm khế ngọt", "là con diều biếc"... Nhưng riêng với Bằng Việt, quê hương của ông gọi về bằng một hình ảnh rất quen thuộc, bình dị, mộc
mạc – BẾP LỬA. Ra đời năm 1963, bài thơ “Bếp lửa” còn là những dòng cảm xúc nói lên lòng kính yêu với bà và niềm nhớ mong về bà của tác giả.

Khổ thơ đầu chỉ vỏn vẹn ba cầu nhưng đã khắc sâu hình ảnh "bắp lửa" trong kí ức của tác giả. Từ bao đời nay, bếp lửa đã trở thành một vật dụng quá đỗi quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày
của người dân làng quê Việt Nam. Đó là nơi đun nấu những bữa cơm ngon lành và ắm cũng cho cả gia đình sau một ngày làm việc, là nơi sum họp, ghi dấu những niềm vui, nỗi buồn, là không
khí sinh hoạt gia đình đầm ắm, yên vui. Trong mỗi gia đình, không thể không có một bếp lửa.

Có lẽ vì những điều ấy nên đang sống ở xứ người lạnh lẽo, tác giả chạnh lòng nhớ về bếp lửa của quê nhà:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bắp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".

Ba tiếng “một bếp lửa" được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng. khẳng định hình ảnh “bếp lửa" như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm
tưởng của nhà thơ.
Từ láy “chờn vờn" có sức gợi tả rất lớn. Nó vẽ nên một ngọn lửa không định hình, lúc to, lúc nhỏ nhưng vẫn cháy cao, tỏa sáng một cách mãnh liệt. Hình ảnh ấy vừa giúp ta hình dung làn sương
sớm lành lạnh đang nhẹ vờn quanh bếp lửa bập bùng, lại vừa rất thích hợp để gợi lên cái mờ nhòa của kí ức theo thời gian, của những gì đã qua, đã rời xa nhưng vẫn còn có sức ám ảnh day
dứt....

Từ láy “ắp iu" cũng là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ. Đó không phải là một từ láy đơn thuần là sự kết hợp và biến thể của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu". Một bếp lửa ủ than hồng nồng đượm
nhờ có bàn tay kiến nhẫn, khéo léo và tắm lòng chăm chút của người nhóm bắp.

Từ hình ảnh "bắp lửa", ta liên tưởng đến hình ảnh người nhóm bắp: người mẹ, người chị và đặc biệt trong bài thơ này là người bà – người phụ nữ cả một đời vắt và lo toan cho cháu, chăm lo,
vun vén cho cuộc sống của cháu trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn và gian khổ.

Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh nổi bật và gắn bó mật thiết với nhau, nhỏe lẫn trong nhau đó là "bà và “bếp lửa". Trong hồi tưởng của người cháu, hình ảnh bà luôn hiện diện cùng bắp lửa.
Qua bao năm tháng, nắng mưa, bà vẫn nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời, trong mọi cảnh ngộ. Bếp lửa là biểu hiện cụ thể, đầy gợi cảm về sự tần tảo, sự chăm sóc, yêu
thương của bà dành cho cháu và những người thân. Bắp lửa là tình bà ắm nóng. Bắp lửa ban ngày bà chăm chút.

Bếp lửa còn gắn với những khó khăn gian khổ của đời bà. Bắp lửa ấy cứ ám ảnh day dứt trong tâm trí, trong nỗi nhớ mà nhà thơ luôn trân trọng, gìn giữ. Chính vì điều đó, khi nghĩ đến bắp lửa,
hình ảnh người bà nhân hậu lại hiện lên rất rõ trong tâm trí của nhà thơ.

Vào đề chỉ với ba câu thơ nhưng lại có đến hai lần điệp ngữ “một bếp lửa". Phải! Chỉ một bắp lửa nhỏ bé ấy cũng đủ soi sáng cả quãng đường cháu đi, đủ để gợi về cả một quá khứ, một tình
yêu thương mảnh liệt. Hình ảnh ấy được lặp đi như tỏ, như khắc đậm thêm tình yêu thương của cháu đối với bà. Người cháu, dù đã cố kìm nén, cũng không thể nào giấu được nỗi lòng của

mình:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".

Chữ "thương" diễn đạt rất chân thật, giản dị, không một chút hoa mĩ như chính tắm lòng của đứa cháu đối với bà. Chính cách nói gây xúc động đối với người nghe. Ta nghe như tiếng thơ đang
thổn thức.

.. Rất tự nhiên, hình ảnh bắp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa". Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau
sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vắt vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà. Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi
tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.

Và chính tinh thương nhớ da diết đã đánh thức tác giả sống lại với bao kỉ niệm thời thơ bên cạnh bà:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỗi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!"

Dường như tuổi thơ đầy gian khổ đã ăn sâu và trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm trí của tác giả. Nhớ về những tháng ngày thơ ấu bản bà, tác giả như cảm nhận được mùi khói vẫn còn đang
hăng nồng bên sống mũi. Cái mùi khói bắp ấy, mùi khói quen thuộc mà cháu đã được chịu đựng từ khi cháu lên bỗn, mùi khỏi đã từng hun nhèm đôi mắt của cháu ngày xưa, mùi khói cay, khét
vì củi ướt, vì sương nhiều và giá lạnh.

Mùi khói ấy đầu chỉ do ngọn lửa bập bùng từ bắp của bà, mà đó còn là mùi khói của bom đạn, của chiến tranh, là niềm đau, nỗi cơ cực, là những khó khăn, thiếu thốn của cuộc đời của hai bà
cháu nói riêng và những người dân Việt Nam nói chung trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, gian lao.

Tuổi thơ ấy thật gian khổ, nhọc nhằn và vất vả. Tuổi thơ ấy có cái bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Cụm từ “đói mòn đói mỏi" đã diễn tả xúc động về cái khổ của con người, của cuộc
sống trong thời kì đó. Ta chợt nhớ đến lời thơ của Tổ Hữu miêu tả tình cảnh nhân dân ta ngày ấy:

“Con đói là ôm lưng mẹ khóc

Mẹ đợ con đầu thóc cầm hai

Kiếp người cơm vãi cơm rơi

Biết đầu nẻo đất phương trời mà đi".

Nỗi khổ ấy đã được cụ thể hóa, hình tượng hóa bằng những chi tiết gợi tả: "Bố đi đánh xe, khổ rạc ngựa gầy". Bút pháp kể, tả đan lồng vào nhau gây xúc động lòng người. Câu thơ vừa miêu tả
cái biểu hiện đáng sợ của "giặc đói", vừa là nguyên nhân khiến đứa cháu phải sống với bà. Cái đói, cái nghèo lan tràn khắp thôn xóm khiến người bố phải lên thành thị đánh xe cùng với con
người gầy rạc đi vì không đủ ăn, bỏ lại đứa con thơ cho người đàn bà yêu thương, chăm sóc.

Cảm nhận về nỗi vất vả, đói khổ của tuổi thơ ấu, kỉ niệm như vẫn còn nguyên, tác giả không thể nào quên: “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!". Cái cay, cái xót của cuộc sống đói khổ, cơ cực

thắm đến lồng xương, ống máu để đến bây giờ, hơn mười năm sau nghĩ lại, cái cảm giác “cay ấy vẫn còn nguyên vẹn nơi cánh mũi. Cái cay nơi sống mũi cứ lan tỏa, triền miền trong tâm hồn
người cháu. Dường như đó là một nỗi niềm mang vị chua xót, nghẹn ngào lẫn yêu thương.

Lời thơ giản dị, đậm chất văn xuôi. Người đọc như đang lạc vào một câu chuyện cổ tích về tuổi thơ của người cháu. Ở đây, bà là một bà tiên, luôn gắn bó, chăm sóc, che chở về cả tinh thần lẫn
vật chất cho cháu. Tình yêu thương của bà, tắm lòng nhân hậu của bà như xua tan đi bao đau thương, bao khổ cực chiến tranh. Khổ thơ đã trở thành một trong những khổ thơ gây xúc động
lòng người trong cả bài thơ.

Và như một thước phim quay chậm, những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà ùa về:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Tu hú kêu bà con nhớ không bà?


Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa?

“Tám năm rằng cháu sống cùng bà" – tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tắm lòng của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vắt vả, khó khăn nhưng đầy
tình yêu thương. Kháng chiến bùng nổ, Mẹ cùng cha công tác bận không về", bà vừa là cha, lại vừa là mẹ: “bà bảo cháu nghe - Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học". Chính bà là người đã nuôi
dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mắt mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn
bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên. Một loạt các từ ngữ "bà bảo", "bà dạy", "bà chăm" vừa diễn tả một cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút hết mình của người bà dành
cho cháu, vừa thể hiện được lòng biết ơn của cháu đối với bà. Tình yêu và kính trọng bà của tác giả được thể hiện thật chân thành, sâu sắc: “Nhóm bắp lửa nghĩ thương bà khó nhọc". Bà và
bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bắp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gọi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hủ trên
đồng quê mỗi độ hè về:

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa?

Đoạn thơ khiến ta chạnh nhớ về “tiếng chim tu hú" của nữ sĩ Anh Thơ: tiếng chim tu hú gắn liền với hình ảnh cha già với những kỉ niệm về một thời thiếu nữ hoa niên, tiếng chim tu hú len lỏi

khắp bài thơ như một âm thanh u ẩn, không buồn mà tiếc. Còn ở đây, tiếng chim tu hú bước vào thơ Bằng Việt như một chi tiết để gợi nhắc nhà thơ về những kỉ niệm ấu thơ được sống bên
bà. Tiếng chim tu hú – âm thanh quen thuộc của làng quê Việt Nam mỗi độ hè về, báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cây. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết
khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà? Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở
cùng bà – Kêu chi hòa trên những cánh đồng xa" mới thắm thía làm sao, xót xa làm sao! Nó diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà. Những câu thơ như lời đối thoại
tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tuhú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà,
hình ảnh của bắp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như
trong chuyện cổ tích.

Những năm tháng thơ mộng và bình yên ấy mau chóng đi qua, đọng lại trong nhà thơ là miền kí ức đau thương của quê hương, làng xóm:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về làm lại

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh"

Hết đói khát lại đến giặc dã. Kẻ thù hung bạo luôn có ở xung quanh và sẵn sàng tấn công vào cuộc sống bất cứ lúc nào. Quân giặc đến, tất cả bị hủy hoại, bị đốt phá hòng dập tắt sự sống con
người; hỏng phá tan ước vọng hòa bình và muốn khuất phục con người bằng sức mạnh của đạn bom. Nhưng không, họ đã không chết, họ đã không đầu hàng, họ vẫn mạnh mẽ vươn lên "dựng
lại túp lều tranh" làm lại từ đầu từ đống tro tàn đổ nát. Họ vẫn tin tưởng vào cách mạng, tin tưởng vào cuộc chiến, tin tưởng vào tư thế tất thắng của dân tộc. Càng bị áp bức, họ càng vững
vàng hơn

“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bổ,

Mày có viết thư chứ kể này kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!".

Chi tiết thơ đậm chất hiện thực. Hiện thực cuộc sống được phản ánh khốc liệt trong câu thơ có vẻ nhẹ nhàng càng tô đậm thêm đức tính hi sinh của bà. Thành ngữ “cháy tàn cháy rụi" đem đến
cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh.

Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu. Điều khiển cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua
những năm tháng gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ, kiên cường trước hiện thực ác liệt. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người
phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh:

“Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!"

Không biết điều gì đang xảy ra nhưng chắc chắn người cháu nhận ra một điều đó là bà đang cố nén lại đau thương, tỏ ra bình tĩnh và sáng suốt ngay trong hoàn cảnh điều đứng nhất. Bà đinh

ninh dặn dò, lời dặn dò chắc nịch như nén lại niềm căm phẫn trước tội ác của kẻ thù tàn bạo, quyết tâm làm tốt trách nhiệm của người hậu phương luôn hướng về tiền tuyến.

Người bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc
cho cả tiền tuyển, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.

Hình ảnh của bà gọi nhớ đến người mẹ thành đồng bằng con đánh giặc năm nào:

“Mẹ là nước chứa chan,

Trôi giùm con phiền muộn

Cho đời mãi trong lành


Mẹ chim dưới gian nạn".

(Huyền thoại mẹ – Trịnh Công Sơn)

Hình ảnh người bà gắn chặt với hình ảnh bếp lửa trong kí ức tuổi thơ của người cháu. Người cháu đã ghi nhớ rất rõ theo từng giai đoạn lịch sử. Đó là năm 4 tuổi, nạn khói khủng khiếp xảy ra,
cháu đã cùng bà vượt qua giai đoạn khó khăn ấy. Năm 12 tuổi, 8 năm ròng cùng bà nhóm lên bếp lửa. Bố mẹ đi kháng chiến, người bà đã thay thế, chăm nom và dạy bảo.

Càng lớn lên, cháu càng thương bà, bởi đã hiểu được những khó khăn vất vả của bà. Năm giặc về đất làng, tất cả bị hủy diệt. Dù thế bà vẫn giữ im lặng, không làm ảnh hưởng đến chiến đấu, bà
chấp nhận hi sinh tất cả những gì mình có, để cùng dân tộc chống lại kẻ thù. Bắp lửa vẫn cháy xuyên suốt qua những năm tháng cam go, khốc liệt ấy. Hình ảnh bếp lửa dường như biến thành
ngọn lửa của tình yêu và ngọn lửa hận thù.

Trong tắm lòng của bà luôn âm ĩ một ngọn lửa:

Rồi sớm rồi chiều lại bắp lửa bà nhan

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở câu trên, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Như thế, bắp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn
lửa của sức sống, lòng yêu thương “luôn ủ sẵn" trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng", bền bỉ và bắt diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu năng bước
cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Cùng với hình tượng “ngọn lửa", các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều", các
động từ “nhen", “ù sẵn", "chùa" đã khẳng định ý chí,bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến. Điệp ngữ – ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm
cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hảo. Từ hình ảnh bắp lửa cụ thể, bài thơ đã gọi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà
còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Hình ảnh người bà hiện lên thật mộc mạc mà rực rỡ, một người bà cần cù, bền bỉ, chắt chiu, giàu nghị lực và có
tầm lòng hi sinh cao cả. Đó là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam, người mẹ Việt Nam trong các cuộc chiến tranh khốc liệt, vừa anh hùng, trung hậu, dũng cảm, vừa rất mực đảm đang. Ba

cầu thơ như một nốt nhắn, một điệp khúc khó quên trong bản tình ca: tình bà thiêng liêng caoquý.

Từ ngọn lửa ấm nóng ấy, nhà thơ mở ra suy ngẫm về cuộc đời bà, về bắp lửa:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bắp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sẵn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Cảm xúc “biết mấy nắng mưa" được lặp lại giống ở khổ một, đầu bài thơ: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa". Có phải đó là lời nhắn mạnh, sự tỏ đậm những nỗi cơ cực của cuộc đời ba?
Cuộc đời người bà gói gọn trong hai chữ “lận đận". Bao nhiêu khó khăn, vất vả, gian nan, “biết mấy nắng mưa", bà âm thầm chịu đựng để được lo lắng, chăm sóc cho con cháu.

Đã mấy chục năm rồi, chiến tranh vẫn đi qua, gian khổ nhọc nhằn vẫn chưa vơi bớt, bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm". Cuộc đời bà cứ gian nan, vắt và như vậy tưởng chừng như không bao giờ
dứt. Tình thương yêu tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà thật sâu nặng thiết tha. Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật
chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người thức khuya dậy sớm, chịu nhiều vắt và nhất trong nhà nhưng bà cũng chính là người nhóm lên trong gia đình ngọn lửa của tình yêu thương:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ".

Từ "nhóm" được lặp đi lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả. Khi nhóm lên “lửa
ấp iu nồng đượm", bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Nhóm tình quê “khoai sẵn ngọt bùi", bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yếu mảnh đất quê nghèo. “Nhóm
nồi xối gạo mới mẻ chung vui",bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh.

Bên cạnh đó, bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quân đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Không chỉ nhóm lên ngọn lửa
đó ấm nồng và cháy sáng mãi trong lòng mọi người. Người bà kì diệu ấy đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục, bồi đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn tâm hồn, và ước mơ, lẽ sống của “tâm tình
tuổi nhỏ".

Bếp lửa của bà khó khăn, nhọc nhằn, vắt vả. Bà nuôi cháu khôn lớn bằng bếp lửa ấy. Vậy mà giờ đây, cháu đã du học tận trời Nga xa xôi, xa bà, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc đời của cháu
như một cầu chuyện cổ tích. Và ở đấy, bà là bà tiền hiền hậu, luôn năng đỡ từng bước đi của cháu. Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc sống nghèo khổ, bà ươm mầm ước mơ

cho cháu đi du học phương xa. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng.

Đứa cháu không thể trưởng thành, hay dù trưởng thành về thể xác nhưng tâm hồn cũng chẳng thể lớn khôn nếu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa, bằng chính tắm lòng của người bà rất
đỗi yêu thương.Người bà có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, đã nhóm dậy trong tâm hồn đứa cháu biết bao tình cảm cao đẹp, chắp cánh cho ước mơ bay cao, bay xa để mai này cháu khôn
lớn thành người. Nhờ ngọn lửa mà bà nữ", bà "nhen", bà "giữ", cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng. Người
cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu, thêm yêu dân tộc mình, nhân dân mình. Trong tâm trí nhà thơ, bắp lửa và bà là những gì tuy thật bình dị, song ẩn chứa điều cao quý thiêng liêng.

1 điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ắm hay đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bắp lửa!". Câu thơ chỉ có tám chữ mà có
sức khái quát cảsuy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người xây đắp nên tuổi thơ cho cháu. Bà và
bếp lửa đã trở thành một mảnhtâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tác giả dù cho lúc này, hai bà cháu đang chia xa.
Dù giờ đây, tuy không được ở gần bên bà, ở gần quê hương nhưng tâm hồn của người cháu vẫn luônhướng về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi có người bà lặng lẽ, cô đơn:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

– Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?...

Bao năm dài đằng đẵng trôi qua. Đứa cháu năm xưa nay đã khôn lớn, được bà và tình yêu thương của bà chắp cánh bay tới những phương trời xa, rộng lớn; bay tới những cuộc sống đầy đủ,
với nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc khắp nơi, khắp chắn. Vậy mà cháu vẫn không nguôi nhớ bà, không quản ngọn lửa của bà. Câu hỏi tu từ như một lời tự vẫn, lời độc thoại: “- Sớm mai này bà
nhóm bắp lên chưa?...

Khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt trong tâm trí người đọc. Người cháu đang tự nhắc nhở bản thân mình luôn phải nhớ về “Bắp lửa" của quê hương, nhớ về bà, chỗ
dựa tinh thần vững chắc cho chúng cháu phương xa. "Bếp lửa" vừa thực tế, vừa có ý nghĩa biểu tượng cho sự yêu thương. niềm tin, nguồn cội gia đình và quê hương, sức sống bền bỉ của con
người.

Bài thơ khép lại bằng một đầu cầu đặc biệt, dấu chấm lửng. Dầu cầu như gợi mở về một bài học đạo lý tha thiết: sống chung thủy, nhân nghĩa; phải có lòng biết ơn, có cách đối xử ăn tinh với
gia đình, với láng giềng, với quê hương, với nguồn cội. Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thần thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức
tỏa sáng, năng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.

Từ tình cảm bà cháu, bài thơ nâng dần thành tình cảm yêu làng quê, yêu Tổ quốc. Và hình tượng “bắp lửa" tượng trưng cho những kỷ niệm ắm lòng đã trở thành niềm tin thiêng liêng, kỳ diệu,

in sâu vào tâm hồn tác giả; là hành trang để người cháu bước vào đời, nâng cánh ước mơ cho cháu ở những phương trời xã...

Qua việc vận dụng âm điệu thơ trữ tình, sâu lắng; ngôn ngữ thơ bình dị, hình tượng bắp lửa sáng tạo cùng với các điệp ngữ, ẩn dụ đặc sắc, bài thơ đã khắc họa chân thực, xúc động hình ảnh
người bà giàu tình yêu thương, đức hi sinh; tinh bà cháu ắm nồng, sâu nặng thiết tha...

Với “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bắp lửa", thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn
đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật binh dị và thân thương. Hãy trấn trọng những kí ức
trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trinh dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày
nào đó dùng lại giữa dòng đời bắt tận, ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa" soi sáng trong tim...

adfgr

dfggsfgbscgf

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường
nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kĩ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không
chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cam nhận điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông.

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang di du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm
đầy xúc động về người bà và tỉnh bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà
được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khỏi bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và tỏa sáng tâm hồn đứa cháu thơ
ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt
vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình
cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm
và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ.

Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như
đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cổ tích của những bạn cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt
có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bỏ bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng
được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu không thiếu bữa ăn nào, bà đi một từng củ khoai, đào từng cũ sẵn để cháu ăn cho khỏi đói:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đổi môi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khỏi, hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!


Chính mùi khói đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại
ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy sống mũi còn cay. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm
được nước mắt?

Tám năm rồng cháu cùng bà nhóm bếp

Tu hú kêu trên những cách đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bả hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế

Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của
tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dẫn mau thoát
khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy! Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu
câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng tu hú lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lãng
lãng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.

Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy

lại càng sâu đậm:

Mẹ cùng cha bận công tác không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe (...)

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu

như thể lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khỏi bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ

huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cảnh hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với
Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cảnh hoa của riêng ông. Cho nên, tỉnh bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống
bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thể, bà còn
dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật
sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ cùng bà nhóm
lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế... Thi sĩ bỗng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?” Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa
cháu nơi xứ người. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ bà, cháu đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.

Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân
của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi...

Năm giặc đốt làng chảy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi Đỡ đầu bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh: Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày viết thư chớ kể này kể ng

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!

Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tẩm lỏng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi
sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé
bỏng của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn. Bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lời dặn của bà: “Mày
có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!". Lời dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén

vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của

riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh,

thương con quý cháu.

Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã năng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn lửa, một ngọn lửa: Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.

Hình ảnh ngọn lửa tỏa sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi
sáng con đường cho đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.

Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thơ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cùng là những bài học sâu sắc từ công việc nhóm lửa tưởng chừng đơn giản:
Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm

Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi. Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi
những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống với nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng cũ sẵn, cũ mì. Nhóm nồi xôi gạo mới sẽ
chung vui. Nồi xôi gạo mới sẽ chung vui của bà hay là lời răn dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích

ki.
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.

Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì
diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim,
ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh:

Tiếng gà trưa

Mang bao nhiêu hạnh phúc Đêm cháu về nằm mơ

Giấc ngủ hồng sắc trứng.

sur 5

Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm đang trảo lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm
lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trở thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu. Giờ đây, khi
đang ở xa bà nữa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bài

Giờ cháu đã đi xa.

Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngà

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm

giữa hai bà cháu đã sưởi ẩm lòng tác giả trong cái mùa đông lạnh giá của nước Nga. Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp,
nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ
đó.

Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. hình ảnh có tính sóng đôi này hiện lên thật sống động, rõ
ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy... ( Văn Giả). Bài thơ Bếp lửa sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao
đẹp đổi với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.

Sgd

BẾP LỬA

Tônxtôi từng khẳng định: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu...”. Đúng vậy! Qua tác phẩm nghệ thuật, người nghệ sĩ gởi gắm những tâm tư tình cảm, khát vọng và ước mơ. Như
nhà thơ Bằng Việt đã cất lên tiếng nói tận đáy con tim mình qua tác phẩm "Bếp lửa". Bằng Việt là đứa con của vùng đất Hà Nội, thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ,
thơ ông thường khai thác những kỉ niệm kí ức thời thơ ấu và ước mơ tuổi trẻ. Bài thơ "Bếp lửa" ra đời năm 1963, khi tác giả đang học Đại học ngành luật ở Nga. Bài thơ là niềm thương nỗi nhớ
của Bằng Việt gửi trọn cho người bà tần tảo, vất vả mà giàu tình yêu thương của mình.

Bài thơ tác giả mở đầu bằng những hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc, hồi tưởng về bà

"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Điệp ngữ "Một bếp lửa” được điệp lại hai lần, nhấn mạnh bếp lửa là một dấu ấn không thể phai mờ trong tâm trí của cháu, đây là hình ảnh gần gũi thân thuộc ở làng quê Việt Nam. Từ lấy
"chờn vờn” gợi lên ngọn lửa không định hình khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng bập bùng rất mạnh mẽ hiện lên trong kí ức. Tác giả đã vẽ ra không gian lắng quễ thật yên ả, bình yên. Từ
"ấp iu” gợi đôi bàn tay khéo léo, là tấm lòng của người nhóm bếp, cho ta cảm nhận trong bếp lửa đồng đầy tình cảm yêu thương mà bà dành cho cháu. Hình ảnh bà hiện về với bao tĩnh thương
nỗi nhớ. Nghệ thuật ẩn dụ "biết mấy nắng mưa” diễn tả cuộc sống vất vả, nhọc nhằn của bà, không chỉ nuôi con mà còn thay con nuôi cháu.

Cháu hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà, mà trước tiên là về hình ảnh người bà đã cưu mang cháu vượt qua bỗng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945:

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chi nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra, hai mươi triệu đồng bào miền Bắc phải đối mặt với cái đói. Thành ngữ "đói mòn đói mỏi” gợi ra cái đói năm tháng ấy gậm nhấm con người từng chút
một đến đau đớn quằn quại, cái chết có mặt ở khắp nơi. Hình ảnh người cha đương sức trẻ phải "khô rạc ngựa gầy” mà không đủ ăn càng nhấn mạnh thêm sự thảm thương của nạn đói lúc bấy
giờ. Cái đói, cái chết rình mò nhưng người bà già cả, ốm yếu vẫn dành tất cả tình yêu thương mang đến cho cháu những bữa ăn nhọc nhắn. Ấn tượng nhất với cháu chính là mùi khói bếp của
bà, hiện tại và quá khứ đồng hiện trên những dòng thơ, mùi khói bếp có sức ám ảnh, lay động cả tâm hồn lẫn thể chất của cháu, để rồi dâng trào cảm xúc "sống mũi còn cay”. Bên cạnh đó,
người cháu còn nhớ về bếp lửa và tình cảm của người bà tần tảo, đảm đang, tháo vát trong suốt tám năm:

"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cũng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Suốt tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, nuôi dưỡng của bà. Tiếng chim tu hú từ ngoài đồng vọng về gợi nỗi buồn man mác, gợi đến hình ảnh những con người lặn lội trên
đồng, mà đặc biệt là người bà. Các động từ "bảo”, "dạy”, "chăm” nhấn mạnh bà đảm đương mọi việc, dành tình thương cho cháu, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà
còn là người thầy đầu tiên của cháu, dạy cho cháu những chữ cái, phép tính đầu tiên, đồng thời thể hiện tấm lòng biết ơn của cháu đối với bà. Bà còn kể "những ngày ở Huế" để gợi lên trong
lòng cháu tình yêu quê hương đất nước, những cuộc đấu tranh gian khổ của dân tộc. Tiếng chim tu hú được điệp lại hai lần để nhấn mạnh vẻ đẹp của tỉnh bà, vẻ đẹp tần tảo của người phụ nữ
Việt Nam bao đời nay. Những năm tháng chiến tranh cơ cực cũng nằm trong nỗi nhớ của cháu:

"Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về làm lại

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh

"Bố ở chiến khu, bố còn việc bổ

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.”

Nói đến chiến tranh là nói đến đau thương mất mác. Hình ảnh "cháy tàn chảy rụi” cho thấy nhà cửa tan hoang, mọi vật trở thành phế tích, hoang tàn, sự sống đã bị triệt tiêu, nơi nương thân
của hai bà cháu cũng chẳng còn. Trong gian khổ, tỉnh làng nghĩa xóm được nêu cao, xóm làng giúp đỡ bà dựng lại mái tranh nghèo tạm bợ. Dù khó khăn, bà vẫn âm thầm đón nhận, nhắc nhở
cháu "bảo nhà vẫn được bình yên”. Đẹp biết bao hình ảnh người bà giàu đức hi sinh, bà không trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng bà là chỗ dựa, là niềm tin cho con cháu. Hình ảnh bà trong kỉ
niệm tuổi thơ vẫn luôn gắn liền với bếp lửa

: "Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”

Đoạn thơ đặc biệt gồm ba dòng, cớ sự chuyển biến từ bếp lửa thành ngọn lửa. Điệp ngữ "Một ngọn lửa” có ý nghĩa ẩn dụ thể hiện tình thương vô bờ của bà. tình thương luôn "ủ sẵn” là mãi
mãi vẹn nguyên đong đầy, nồng ẩm. Tình yêu thương của bà lan tỏa trở thành niềm tin cho cháu khi xa nhà. Lòng yêu thương của bà là hành trang quý giá mà cháu mang theo ở mỗi chặng
đường. Đoạn thơ đã khẳng định vẻ đẹp của bà. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa, truyền niềm tin, sự sống cho thế hệ nối tiếp.

Nhớ về những kỉ niệm về bà, để rồi Bằng Việt dâng lên suy ngẫm về cuộc đời của bà:

"Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xối gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liễng – bếp lửa!”

Thời gian trôi qua, có khi lạnh lùng cuốn bay tất cả, nhưng vẫn luôn còn đó hình ảnh người bà "lận đận” dãi nắng dầm mưa. Hình ảnh "nắng mưa” được điệp lại với khổ thơ đầu tiên để khẳng
định cả một cuộc đời truân chuyên của bà. Thái quen dậy sớm của bà ngày nào, đến giờ vẫn không thay đổi được. Điệp ngữ "nhóm” nhấn mạnh bà là người đã nhóm lên, khơi nguồn trong
cháu tình yêu thương, sự sẻ chia tỉnh làng nghĩa xóm, những tâm tình và ước mơ tuổi nhỏ. Thán từ "ỗi” thể hiện cảm xúc của tác giả đối với bếp lửa thân thương. Bếp lửa "kì lạ và thiêng liêng”
trong cảm nhận của tác giả. Nó là kì lạ vì không bao giờ bị dập tắt, nó bùng cháy xuyên không gian và thời gian, nó thiêng liêng vì đây chính là bếp lửa của tình yêu thương, của lòng bà, sáng
đẹp trong tâm hồn cháu.

Bài thơ kết thúc với tình cảm, nỗi nhớ về bà và hình ảnh bếp lửa:

"Giờ cháu đã đi xa.

Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...”

Nghệ thuật liệt kê kết hợp với điệp ngữ "trăm”: "khói trăm tàu”, "lửa trăm nhà”, "vui trăm ngả" mở ra một thế giới rộng lớn với nhiều điều mới mẻ, cuộc sống tiện nghi, cuốn hút đôi khi làm
con người say mê, nhưng hình ảnh gốc bếp quê nhà cũng với người bà tần tảo không bao giờ phai nhòa trong kí ức. Kết cấu đầu cuối tương ứng nhấn mạnh hình ảnh người bà – bếp lửa, tình
yêu của bà và vẻ đẹp của bếp lửa sẽ mãi trường tồn. Bếp lửa mang vẻ đẹp văn hóa của làng quê Việt Nam, ở Liên Xô xa xôi, tác giả vẫn luôn nhớ về bếp lửa, tình yêu quê hương, đất nước,
được thể hiện một cách ý nhị.

Bài thơ "Bếp lửa" được viết theo thể thơ tự do tám chữ, kết hợp giữa biểu cảm, miêu tả, tự sự và nghị luận, giọng thơ nhẹ nhàng, khơi gợi mọi kỉ niệm. Hình ảnh thơ cụ thể, giản dị gợi nhiều

liên tưởng. Tác giả đã sáng tạo thành công hình ảnh bếp lửa gắn liền với người bà. Đặc biệt là sự kết hợp nhiều biện pháp tu từ như: ẩn dụ, liệt kê, điệp ngữ,...

Bài thơ "Bếp lửa” là bài thơ tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Bằng Việt. Bằng hình ảnh tả thực cùng những cảm xúc thật của tác giả, bài thơ ngay từ khi ra đời cho đến nay vẫn luôn có
một vị trí riêng của nó. Bài thơ đã thể hiện những kỉ niệm xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà, quê hương,
đất nước. Đọc và cảm nhận tình yêu thương chan chứa trong bài thơ "Bếp lửa", người đọc thấy yêu hơn, trân trọng hơn những ngọn lửa tỏa trong căn nhà mình cùng những người thân yêu ta
có được trên đời.

Àfgdhdgfv

Àẻgrs

Bếp lửa mẫu 2


Quê hương trong tâm tưởng của mỗi con người bao giờ cũng giản dị, bình yên, nên thơ, nhất là khi quê hương thân thuộc được đặt trong miền ký ức tuổi nhỏ cùng với những người bà. Xuân
Quỳnh đã từng nghe tiếng gà trên đường hành quân dễ rỗi nhớ da diết đến người bà. Nguyễn Duy kể về tuổi thơ nghịch ngợm của mình trong những ngày ngây dại dễ rồi cùng lớn lên. Đến với
Bằng Việt, nhà thơ đã dành một tỉnh cảm nồng ấm, âm i cho bà như chính sự ẩm nồng của bếp lửa mả người bà đã nhóm lên suốt khoảng thời gian thơ ấu. Bài thơ Bếp Lửa chính là nỗi lòng
của dứa cháu xa nhà vẫn luôn dau dấu nhớ đến kỷ niệm cùng bả, luôn trân trọng miền ký ức tươi dẹp đã qua dể từ đó bộc lộ được tình cảm sâu nặng với quê hương, đất nước.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Sáng mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Bài thơ Bếp lửa được viết năm 1963 khi nhà thơ còn là sinh viên học ngành luật.Tác phẩm in trong tập thơ “Hương cây – Bếp lửa”, tập thơ dầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng lối thơ
tự do, chan chứa cảm xúc, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là diễm tựa khơi nguồn cho các tầng ý nghĩa của bài thơ.Mặc dù cùng là nhà thơ trưởng
thành trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ nhưng thơ của Bằng Việt không cay nong thuốc súng, cũng không ầm ầm tiếng mưa bom, thơ Bằng Việt mang “âm hưởng thính phòng”, phảng
phất tâm hồn của một cậu học trò tải hoa, theo nghiệp bút nghiễn và dể tâm hồn mình lộng gió thời đại mới. Vì thế mà dù bài thơ ra đời trong hoàn cảnh cuộc chiến cam gọ, dôi lần nhắc về
chiến tranh nhưng Bằng Việt lại hướng người dọc đến những dung dị của dời thưởng thông qua hình ảnh bếp lửa và người bà thân thương.

Bếp lửa là hình ảnh quen thuộc của mỗi nhà, gắn liền với những bữa cơm gia dình dầm ấm, gợi một buổi sinh hoạt văn nghệ giữa đêm khuya, ghi dấu chén trà thơm mỗi sớm tinh mơ toả ra từ
hiện trước. Không chỉ dừng lại ở vai trò dun nấu, sưởi ấm hoặc soi sáng, bếp lửa, ngọn lửa còn mang nhiều ý nghĩa văn chương mà mỗi tác giả lại chọn cho mình một khía cạnh dễ bộc lộ cảm
xúc. Với Bằng Việt, bếp lửa chính là một phần ký ức tuổi thơ gắn với hình ảnh người bà mỗi ngày nhóm lửa nấu nồi khoai, nổi cháo. Bếp lửa còn là sự quan tâm, thương yêu, chăm sóc của bà

dành cho cháu và niềm mong mỏi, hi vọng của cháu vào cuộc dời này. Bếp lửa thôi thúc cháu lên dường lập nghiệp và cũng là động lực dễ cháu nghĩ về cội nguồn, nhớ về quê hương, thêm yêu
đất nước.

Bếp lửa xuất hiện xuyên suốt trong bài thơ và trở thành hình ảnh trung tâm, biểu tượng cho tình bà cháu, ngay những câu thơ đầu tiên hình ảnh ấy đã song hành với phép điệp ngữ dễ nhấn
mạnh dược vai trò chủ đạo của bếp lửa trong bài thơ.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

“Một bếp lửa” mà nhà thơ dạng nhắc đến dược xác định rõ ấy là bếp lửa của bà, bếp lửa đã từng gắn với hình bóng bà kính yêu. Bếp lửa ấy xuất hiện trong tiềm thức của cháu và trở di trở lại
bằng những cung bậc tỉnh cam dong dầy. Từ láy “chờn vờn”vừa diễn tả được trạng thái của khói bếp lúc nào cũng vô hình, chập chờn, như không như có nhưng quanh quần không rời. Cũng chỉ
“chờn vờn” mới có thể diễn tả được nỗi nhớ của cháu về bả và bếp lửa. Với người cháu, những ký ức bếp lửa tỏa khói lam hồng cùng với bà lưng công trong sương sớm dấu chỉ là mảng kĩ niệm
khó quên mà còn là một phần của tiềm thức, âm thầm mà dai dẳng ghi vào lòng cháu khoảng thời gian tuổi nhỏ cùng bà. Ký ức ấy vốn khổ nắm bắt như làn khói tỏa, như bóng bà in trên vách
lá nhưng chưa một phút nào cháu quên lãng đôi bàn tay “ấp iu, nồng dượm” của bà.

Chỉ bằng một từ ghép mang âm hưởng của từ láy “ấm iu”, nhà thơ đã gợi cho chúng ta về đôi bàn tay gầy guộc của bà bên bếp lửa. Bà ấp ủ từng ngọn lửa, chăm chút từng cây củi dễ nhóm bếp
mỗi ngày. Sự “nồng dượm” không chỉ là ngọn lửa cháy bừng, tỏa sáng mà còn là tình yêu thương của bà dành cho cháu lúc nào cũng ấm áp, dong dầy. Đoạn thơ không quá nhiều hình ảnh
nhưng lại ấn tượng khi nhà thơ sử dụng phép sóng đôi “chờn vờn sương sớm” và “ấp iu nỗng dượm” vừa tạo sự hoa phối âm thanh khiến cho câu thơ nhịp nhàng, bay bổng tựa khói mơ hồ
nhưng cũng bền chặt theo thời gian. Nghĩ về bếp lửa, cháu lại nhớ đến bà, Và mỗi lúc bóng dáng thân thuộc xuất hiện trong lòng cháu, cháu không thể nào giấu di cảm xúc dâng trào của mình
dể rồi cháu thốt lên “cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. “Nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc dời vất vả của bà, cho những tháng ngày ngược xuôi, cơ cực. Quãng thời gian ấy cử như dải

vô hạn.

Cháu theo làn khói, lần tìm lại những tháng ngày mưa nắng mà cháu dã cùng bả, theo dòng hồi tưởng cháu trở về năm bốn tuổi khi mà ký ức của cháu bắt đầu ghi tạc nỗi lam lũ của đời bà.

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khỏi hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”.

Một đứa trẻ lên bốn hầu như không thể nhớ được những gì diễn ra trong dời mình trừ khi đó là mảng ký ức đặc biệt ấn tượng, có sức bám riết và lay động. Với cháu, bếp lửa và mùi khỏi dâu
chỉ mới xuất hiện năm cháu lên bốn mà dó còn là nỗi ám ảnh day dứt suốt những năm tháng tuổi thơ. Cháu quên làm sao được khi mùi khói bếp trở thành diều thân quen như cánh cỏ trong lời
ru của mẹ, như vạt nắng dậu giữa đồng xa, nó thấm vào máu xương, vào trí nhớ non nớt của cháu. Cái năm ấy, năm mà “có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe
dễ rùng mình”. Bằng Việt sử dụng cách chiết tự kết hợp với diệp tử “dội” để diễn tả được sự khủng khiếp của nạn đói năm 1945. “Đói mỏn dõi mỏi”, cải dói dai dẳng không phải lần đầu tiên
người nông dân phải gánh chịu, Mấy thế kỷ sống trong sưu cao, thuế nặng, dẫu có quanh năm vất vả làm lụng thì nghẻo dói vẫn bám riết quanh năm. Tuy nhiên khoảng thời gian ấy đến cả lúa
còn không được trồng do chính sách khắc nghiệt, bạo tản của kẻ thống trị dẫy người nông dẫn vào bước đường cùng. Vẫn còn nhớ trong Tuyên Ngôn Độc Lập, Bác Hồ đã từng nhắc đến tội ác
này “tử Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào bị chết đói”. Cái chết đói trở thành nỗi ám ảnh trong văn chương một thời, Kim Lân đã từng thổn thức khi viết về những con người chạy
nạn dắt díu, bồng bế nhau di tử xứ mà vẫn “chết như ngả rạ”. Bằng Việt tái hiện lại thời kỳ dau thương ấy bằng hình ảnh “bố di danh xe khô rạc ngựa gầy”. Cải dõi không chừa một ai, len lõi từ
nông thôn đến thành thị. Cả con ngựa ăn cỏ, rơm cũng dói dải mà khô rạc dừng nói chỉ là con người.

Nhà thơ không dùng nhiều hình ảnh hay cách diễn tả dài dòng, chỉ cần qua vải chi tiết nhỏ cũng đủ gợi cảnh tang thương, làng mạc bỏ hoang, thôn xóm tiêu điều, con người phải vật lộn với
cuộc mưu sinh trong chật vật. “Khói hun nhèm” như minh chứng cho tuổi thơ vất vả, thiếu thốn trăm bề, chỉ một bếp củi mùn, khói bay mù mịt, bay vào cả tâm hồn, quyện lại thành nỗi nhớ

dai dẳng, khôn nguôi. Nghĩ đến làm sao màkhông khỏi dòng cảm xúc “nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Phải chăng khói bếp dã xộc vào mắt cháu, mũi cháu dể cháu thấy sống mũi cay xẻ hay
chính vì cháu xúc động mỗi lần nhớ đến. Thương cho bả tảo tần, thương bổ cơ cực, thương cho những kiếp dời lay lắt chịu chung phận số hãm hữu. Chỉ một câu thơ mà có cả sự hiện diện của
quá khứ và hiện tại để thấy rằng với cháu quá khứ không chỉ dễ lãng quên mà là để giữ gìn, nó cũng là một phần của hiện tại, một phần của cuộc sống.

Khói bếp dẫn cháu miên man về lại khoảng thời gian nhóm lửa cùng bà, như một quyển sách đầy hình ảnh từng trang lật ngược, cứ lần lượt hiệnra trước mắt.

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hủ kêu, bả còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Tuổi thơ của mỗi con người dâu được mấy năm, vậy mà cháu ở cùng bà “tám năm ròng”, thời gian ấy dù dài dối với một dứa trẻ và cũng vừa dù dễ gọi là cả tuổi thơ. Tám năm cháu cùng bà
mỗi sáng sớm dậy nhóm lửa, chở dợi những bếp than hồng dễ nướng củ khoai, củ sắn. Cũng khoảng thời gian ấy, cháu xem mùi khói là mùi vị thân thương. Nhưng ký ức của cháu dâu chỉ riêng
mùi khói mà còn có cả âm thanh của tiếng chim tu hú. Hình ảnh tiếng chim tu hú, tu hú kêu gợi ra một miền liên tưởng sâu xa. Âm thanh quen thuộc của loài chim này dâu chỉ lần đầu xuất hiện
trong văn học. Tu hú đã từng gọi mùa hè trên xứ Huế dễ Tố Hữu nghe nao nức hương vị của cuộc sống quê mình

“Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm dạng chín trái cây ngọt dần”

Tu hú di vào văn chương như một hình ảnh báo hiệu vụ mùa dạng về. Đâu chỉ thế, tiếng kêu của loài chim đơn độc này cứ khắc khoải, cứ ám ảnh về một nỗi niềm chưa trọn vẹn, một sự trông
đợi dường như vô vọng. Bằng Việt nghe tiếng chim nhớ đến câu chuyện bả từng kể, nhớ đến những cánh đồng rộng mênh mông mà chỉ mỗi bà dội mưa, dội nắng bắt từng cái tôm, con tép về
cho cháu bữa cơm nó.

“Bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan

Bà di gánh chẻ xanh Ba Trại

Quán cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”.

(Đò Lèn – Nguyễn Duy)

Có lẽ thế mà tiếng tu hú với cháu là âm thanh tha thiết như chan chứa một nỗi niềm. Cả khổ thơ diệp ngữ “tu hú” xuất hiện bốn lần khiến cho âm diệu thêm da diết, dồn dập giống như tiếng tu
hú hoang hoải trên đồng và cũng như nỗi nhớ trùng diệp nối tiếp nhau. Đọc khổ thơ, ta như nghe văng vắng cả thanh âm quấn quýt, bịn rịn, dan cải vào nhau để chẳng thể nào tan ra mà dọng
lại thành tỉnh thương thăm thẳm, nỗi mong chờ với vợi. Có thể nói cùng với hình tượng bếp lửa, tiếng chim tu hú trong bài thơ cũng là nhịp cầu tiềm thức nối liền giữa hiện tại và quá khứ vẫn
sẽ tiếp tục ở tương lai. Tiếng gọi đồng vọng như xa như gần, nới rộng khung trời ký ức và nhân nỗi nhớ thương cảng rộng mở. Như một con sông chở dầy nỗi nhớ, dù trôi xuôi hay ngược dòng
cũng thấm ướt tình bà cháu. “Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bả chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”

Những năm tháng chiến tranh ập đến trên quê hương, vì trách nhiệm với đất nước mà biết bao thế hệ đã dã lên dường nhập ngũ “khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Cháu xa cha mẹ, chỉ
thui thui cùng bà. Bếp lửa cũng từ dấy mà trở thành người bạn tâm tình, nhân chứng sống còn cho mối quan hệ khăng khít của bà và cháu. Mỗi một phép liệt kê “bà bảo, bà dạy, bà chăm” như
khắc sâu hơn hình ảnh bà trong tâm trí châu. Cả tuổi thơ cháu chỉ biết mỗi bà, gắn bó với bà như hình bóng cũng bởi vì bà dành hết sự quan tâm, yêu thương cho cháu. Bà thương cháu bằng
tình cảm trìu mến của người bà, lo lắng, chị bảo cháu cả phần người cha, bảo bọc, chăm sóc cháu luôn phần mẹ. Tuổi cháu còn quá nhỏ, cần được dạy bảo từng chút một, bà dảm dương cả vai
trò của một người thầy cần mẫn. Bà là diễm tựa, là niềm tin, là cội nguồn của tỉnh thương vô tận. Nhớ bả, cháu nhớ những lời dạy bảo, đó là bài học đầu tiên trong gói hành trang dể cháu
bước vào cuộc sống. Đoạn thơ giàu cảm xúc với hai từ “bà”, “cháu” cử di thành từng cặp, quấn quýt không rời như bước chân của dứa trẻ năm nào theo sau bả ra chợ, lên chùa, vào bếp. Dù ở

dâu, cháu vẫn chỉ có bà, bà là tất cả thế giới tuổi thơ, bà như thánh thần tiên phật bước ra từ cổ tích.

“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực Giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần” (Đò lèn – Nguyễn Duy)

Nghĩ đến bả, cháu vừa yêu kính vừa biết ơn “thương bà khó nhọc” vì hơn ai hết, cháu hiểu được những nỗi khó nhọc không sao kể xiết khi bà phải một mình lo liệu hết mọi thứ trong nhà, chu
toàn trong ngoài lại còn hai vai gầy gánh vác trách nhiệm nuôi dưỡng dứa cháu nên người. Thêm một lần nữa, tiếng chim tu hú trở về trên cánh đồng xa như chính lời tự nhắc của cháu.

“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa?”

Hoà trong thanh âm tha thiết của tu hú, cháu nghe dâu dây như tiếng lòng mình vượt chặng dường dải dễ trở về bên bà trong tâm tưởng. Dù chỉ là tâm tưởng thôi cũng khiến cháu phần nào
xoa dịu được nỗi day dứt bao ngày xa bà. Câu cảm thán ” tu hu ơi!” kết hợp với câu hỏi tu từ “kêu chi hoài trên những cảnh đồng xa?” như từng dợt sóng cuộn trào vọng về từ nơi xa thẳm của
ký ức. Ở nơi dấy, có bà dạng một mình nhóm bếp. Bà sớm hôm vào trông ra ngóng cháu. Cháu không thể trở về thăm bả lúc nảy, cháu có khác gì con chim tu hú vô tâm kia, không thể làm gì
khác được ngoài cất tiếng kêu xót dạ. Nhà thơ hỏi tu hú hay là hỏi chính mình, trách tu hú cũng như trách bản thân đã không thể ở lại cùng bà san sẻ, dỡ dần bà mỗi lúc nắng mưa. Tu hú thì
mãi trên cánh đồng xa, còn cháu cũng ở nơi xa xôi đất khách.

Cũng giọng kể mộc mạc, ngôn ngữ giản dị nhưng chính lời tâm tỉnh, thủ thi của dứa cháu xa quê dã dần vẽ thêm những nét bút để bức chân dung về người bà giàu dức hi sinh hiện lên.

“Năm giặc dốt làng chảy tản cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ dần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu dinh ninh

: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cử bảo nhà vẫn được bình yên!”

Không nhằm khắc họa chiến tranh nhưng đoạn thơ lại giàu sức gợi tả đã tái hiện lại hiện thực của những năm tháng dau thương mà oanh liệt. Sự tàn phá của chiến tranh đã viết nên bao nhiêu
câu chuyện. Mãi sau này chúng ta cũng không thể nào quên hình ảnh cái làng Chợ Dầu chảy rụi, nỗi dau của người dẫn buộc phải xa quê. Cũng không thể xóa di hình ảnh chiếc lược ngà trong
tay người cha trước lúc hi sinh. Kể sao cho xiết bao nhiêu mất mát, vợ mất chồng, con sớm lia cha, xóm làng dói nghèo, nhân dân lao dao theo từng tiếng súng. Bất chấp mọi sự rào cản, dây
thép gai dâm nát trời chiều, thực dân, đế quốc có dùng xiềng xích cũng không khoả dược lòng yêu nhà thương nước của nhân dân, không gian giữ được lòng người hướng đến tự do. Để tách
dân ra khỏi quân, dể tỏ rõ sức mạnh quân sự, chúng bắn phá, đốt làng, bắt người. Tuy vậy, nhân dân vẫn kiên cường dứng lên, vẫn cùng nhau vượt qua tháng ngày gian khổ ấy. Câu thơ với sự
lặp lại của động từ “cháy” xen vào từ ghép “tàn lụi” đã nhấn mạnh nỗi mất mát của nhân dân và tội ác của chiến tranh. Cũng từ đó nhà thơ muốn ca ngợi những con người đầy nghị lực, sức
sống, bước ra từ trong khói lửa.

“Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ dần bả dựng lại túp lều tranh”

Từ láy “lầm lụi”gợi tả dáng dấp những kiếp dời lam lũ. Họ bước ra từ trong khói lửa của chiến tranh, từ trong những dau thương, mất mát. Từng nét mặt, từng ảnh mắt hẳn lên dòng lịch sử
một giai đoạn bị thương mà chẳng ai có thể nhẹ nhàng khi nhắc đến.Trong gian khổ, tinh thần tương thẫn tương ái lên ngôi. Chính sức mạnh đoàn kết xuất phát từ những con người khao khát
sống mãnh liệt đã thúc đẩy cuộc chiến tranh vệ quốc đến ngày thắng lợi. Những kiếp người ấy, những nỗi dau ấy gọi tên bà. Bà trong ký ức của cháu không chỉ là một người bả tảo tần mà còn
là một người phụ nữ kiên cường, dầy bản lĩnh. Dù cho một thân một mình gồng gánh, tuổi thì giả, cháu còn thơ dại nhưng dứng trước biển cố bà vẫn bình tâm dễ mà dặn cháu “cử bảo nhà vẫn
được bình yên”. Từ láy “dinh ninh” đã bộc lộ được nỗi lòng của người bà người mẹ hậu phương. Bà sẵn lòng ở lại, gom hết vất vả, cơ cực của dời thưởng dể con cháu có thể yên tâm mà lo
trọng trách đối với đất nước. Bà hiểu rằng dứa cháu ngày dại của mình rồi sẽ kể lễ, tỉ tê những chuyện ở nhà. Bà không muốn cháu kể cho bố mẹ nghe cũng vì không muốn để những chuyện
phiền toái nhỏ nhặt làm ảnh hưởng đến tâm lý của người ra trận. So với dẳng cay dời bà thì chuyện nhà cháy rụi hay dắt dìu dứa cháu di tránh bom đạn chỉ là những chuyện bình thường. Thế

nên không có gì dễ mà than thở với cháu con. Lòng bà vẫn vững vàng, son sắt với quê hương, thuỷ chung với cách mạng như tre bao dời bám chặt rễ mình giữ đất. Giặc dốt nhà thì di tản, đến
khi giặc di rồi sẽ lại trở về. Căn nhà tuy có quan trọng với con người nhưng tinh thần vẫn là điều cần phải giữ. Đặc biệt là tinh thần yêu nước, lòng tin vào tiền tuyến đang ngày đêm đấu tranh
chống kẻ thù.

Đọc những dòng thơ, ta như nhìn thấy gương mặt những bà mẹ anh hùng. Bà mẹ của cán bộ, chiến sĩ và của đất nước Việt Nam. Những người phụ nữ lùi lại phía sau, ôm hết dau khổ, dắng
cay, thiệt thòi về bản thân dễ làm hậu phương vững chắc. Chân dung người bà chu đáo, lo toan của nhà thơ lần duy nhất xuất hiện trực tiếp thông qua lời nói. “mày có viết thư chứ kể này kể
nợ”. Cách xưng hô, cách dùng tử ngữ đều dởi thưởng dùng như lời ăn tiếng nói hằng ngày. Không cần trau chuốt, tỉa gọt, không cầu kỷ, bóng bẩy, Bằng Việt làm ta nhớ đến những người bà của
riêng ta, bà hay mắng yêu cháu, thậm chí là gọi cháu bằng “mày” nhưng đó là cách gọi của tỉnh thâm, của tấm lòng bà giản dị, bao dung.

Từ hình ảnh bếp lửa, nhà thơ nâng lên thành ngọn lửa, ngọn lửa của lòng bà âm i qua năm tháng.

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chửa niềm tin dai dẳng...”

Bếp lửa của bà sống mãi cùng năm tháng, bên cháu vượt qua những chặng dưởng dài ở mọi miền đất nước. “Rồi sớm rồi chiều thời gian dâu dừng lại một ngày mà là cả một dời âm thầm của
bà nhóm bếp. Lửa trong lòng bả truyền cho cháu, lửa trong tâm tưởng cháu chảy rực một nỗi nhớ về bà. Không chỉ là bếp lửa mỗi ngày bà nhóm lên khối cay xẻ mắt cháu. Đâu chỉ là bếp lửa
sưởi ấm dôi tay bé nhỏ của cháu trong những mùa gió lạnh mà bếp lửa kia hoả thân thành ngọn lửa sưởi ấm cả tâm hồn ngây dại của cháu. Nhà thơ gọi đó là ngọn lửa “chứa niềm tin dai
dẳng”, ngọn lửa của tình bà nồng ấm, tình cảm gia đình thiêng liêng. Với nhà thơ, đó còn là ngọn lửa của niềm tin yêu, hy vọng. Phép điệp “một ngọn lửa” như sức lan tỏa của tình yêu qua
từng thế hệ. Tình cảm gia đình dấu chỉ ẩn minh nơi chái bếp, trong ô cửa mà còn âm ỉ cháy trong tim mỗi con người để từ tình yêu bà, cháu yêu cả xóm làng thân thuộc, yêu từng bờ tre, gốc
chuối và lớn hơn nữa cháu yêu mảnh đất quê hương mình. Ngọn lửa trong tim bả là cội nguồn của mọi sự yêu thương, dức hi sinh không bao giờ tắt. Từ láy “dai dẳng”chính là sức sống thần kỳ
của tình bà cháu. Không chỉ hôm qua, không phải khi cháu còn bé dại, hôm nay và mãi sau này ngọn lửa bà nhen luôn là diều tuyệt vời nhất mà cháu mang theo từ tấm bé đến lúc trưởng
thành. Ngọn lửa trong tay bả nhóm như một hạt mầm gieo vào miền dất cháu một tỉnh cảm lớn dể từ ngọn lửa cháu có thêm vô vàn những bài học quý về cuộc sống. Thế nên cháu dâu thể
nào dùng lời dễ diễn tả hết lòng minh. Dấu chấm lửng như muốn nói rằng có những diều thiêng liêng vượt qua giới hạn của ngôn từ. Bà trong lòng cháu cũng thế, ngoài là nhịp cầu kết nối thế
hệ, bà còn là người giữ lửa, truyền lửa cho con cháu mai sau.

Với lòng yêu thương, kính trọng, nhà thơ mở ra những suy ngẫm về cuộc dời bà.

“Lận dận dời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nổi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

Chỉ bằng một từ láy “lận dận” kết hợp với phép ẩn dụ “nắng mưa” nhà thơ dã có cái nhìn xuyên suốt về quãng dời nhiều lo toan, vất vả của bả. Không lận dận làm sao được khi bao năm thay
con nuôi cháu, một mình đồng sâu ruộng cạn lại còn bảo vệ cháu trước mưa bom. Cuộc đời bà trải qua bao nắng mưa, nhiều thăng trầm nhưng chẳng bao giờ lùi bước. Bà như gốc cổ thụ vững
vàng trong giông bão, càng già càng rắn rỏi, bám rễ sâu chắt nước cho dời. “Mấy chục năm rồi” mà vẫn như hôm nào bà vẫn không thể tách rời bếp lửa, vẫn giữ cho mình thói quen dậy sớm dễ
nhóm bếp hồng. Tuy bên ngoài lời thơ là lời kể về cuộc đời bình dị của bà nhưng thật ra bên trong vẫn chan chứa nỗi xúc động của cháu và đặc biệt là chất nghị luận thấm dẫm từng câu chữ.
Thói quen dậy sớm của bà dù những tháng ngày vất vả đã qua, dù cháu không còn bé, nó đã trở thành tính cách, nếp sống của bà. Cuộc đời có đổi thay nhưng sự tảo tần, đức hi sinh trong bả
vẫn vẹn nguyên. Bả vẫn tiếp tục “nhóm” bếp lửa, tiếp tục dùng dôi tay cần mẫn dễ chăm chút yêu thương. Điệp ngữ “nhóm” vang lên như từng sợi dây dàn rung cảm trong lòng cháu, nhắc nhở
cháu dừng quên những tháng ngày thiếu thốn cùng nồi xôi, củ sắn. Chính thời gian khó nhọc ấy mới tạo nên chiếc rễ khoẻ mạnh, bám chặt, ăn sâu vào dời sống. Trên hết, câu thơ ấm áp tình

làng nghĩa xóm, tình cảm giữa con người với nhau không phải được do bằng vật chất mà quý nhau ở tấm chân tỉnh. Sống phải biết san sẻ, gắn bó, cho di dễ thấy lỏng thanh thản.

Một bếp lửa, một ngọn lửa bình dị thế kia nhưng lại là nguồn cảm hứng bất tận của nhà thơ. Hơn mười lần hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa xuất hiện cũng là từng ấy lần nhà thơ bồi hồi nhớ về bả
dể rồi phải bật lên thành câu cảm thán.

“Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa”

Với cháu, bếp lửa dâu chỉ có lửa và khói mà còn có hình ảnh thân yêu của bà, còn có bao nhiêu điều hay lẽ phải. Thế nên sức mạnh kỳ diệu mà cháu nói là sức mạnh nhóm dậy cả tâm tình tuổi
nhỏ dễ khi nơi đất khách cháu vẫn trận trọng giá trị bình dị của quê nhà yêu quý những diều rất riêng của tuổi thơ. Câu thơ đặc biệt hơn bởi dấu gạch ngang dứng trước hai từ Bếp lửanhư một
dấu lặng nghệ thuật, phía sau ấy là những điều khó mà giải bày bằng ngôn ngữ như thanh âm không cần lời vẫn khiến lòng xao xuyến. Càng đến cuối bài thơ, chúng ta càng cảm nhận dược hết
vẻ dẹp “thiêng liêng” của bếp lửa.

Sự kết hợp giữa chất trữ tình và suy ngẫm đã làm nền để cuối bài thơ Bằng Việt khép lại hình tượng bếp lửa bằng những chiêm nghiệm về bà khi cháu đã trưởng thành.

“Giờ cháu đã di xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở :

– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Hôm nay cháu không còn là dứa trẻ lên bốn mắt mũi lấm lem khói bếp, bà cũng không còn phải lặn lội đồng xa nhưng ngọn lửa, bếp lửa kết nối giữa bà và cháu không bao giờ nguội lạnh. Ở nơi
đất khách, có “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” cũng không sao thay thế được bếp lửa nồng hậu bà nhen. Phép liệt kê này như mở ra trước mắt người dọc những chân trời
cháu di qua di, cuộc sống rộng mở phía trước, dời đã di lên và còn nhiều điều hy vọng dang chờ dồn. Tuy vậy cháu vẫn nhớ đến quá khứ, nhớ về bếp lửa như một thói quen để tự nhắc nhở bản
thân ghi khắc những lời bà dạy bảo. Những vui buồn ngày hôm nay, những thành công hiện tại cháu có được cũng đều ươm mầm từ bàn tay bà chăm chút. Nhà thơ Xuân Quỳnh đã từng bộc
bạch động lực để cháu trở nên can đảm, kiên cường hôm nay cũng xuất phát từ tình yêu thương của bà. “Cháu chiến dấu hôm nay

Vì lòng yêu tổ quốc

Vì xóm làng thân thuộc Bà ơi cũng vì bà!”

Có những người phụ nữ tuyệt vời như thế mỗi gia đình mới có thể bình yên. Người bà, người mẹ Việt Nam với dáng vẻ chân quê, lam lũ bên trong họ là sự cần mẫn, tẩm lòng rộng mở, nhân
hậu bao dung. Họ là hiện thân cho quê hương, đất nước cho những con người sống trong cơ cực mà vẫn chắt lọc trái ngọt cho dời.

Đọc thơ Bằng Việt, ta bắt gặp một phong cách rất riêng giàu suy tưởng của trí tuệ và cũng nhiều rung động tinh tế. Lời thơ bình dị nhưng vẫn chan chứa chiều sâu suy tưởng. Bếp lửa đã xây
dựng một hình tượng nhiều tầng ý nghĩa thông qua đó nổi lên dược thái độ biết ơn của nhà thơ dối với người bà của mình và cũng là lời cảm ơn chân thành đối với những bà mẹ quê hương.
Nhà thơ đã từng chia sẻ “Trong cả hai cuộc Kháng chiến, chống Pháp và chống Mỹ, có lẽ vai trò của những người bà, người mẹ, người chị... như thế là không có gì thay thế nổi. Và có thể nói
không ngoa rằng chính những con người hiển hoa, nhân hậu, khiêm nhường ấy đã cùng nhau gánh cả cuộc kháng chiến lên trên đôi vai gầy guộc, bé nhỏ của mình. Tôi tự hào dù chỉ làm được
một chút gian ủi những năm dẳng dẵng vất vả, dài dằng dặc ấy của bà, như tiếng chim tu hủ cộng hưởng với nỗi cô đơn lo toan của bà, gắng làm cho bà được nhẹnhõm hơn, bớt cảm giác cô
đơn, lận đận hơn”.

Qua dòng hồi tưởng của người cháu hình tượng người bà và bếp lửa hiện ra chân thật, sống động và chan chứa ân tình. Yêu thương bà, nhà thơ trận trọng cả những giá trị tinh thần mà quê
hương đem đến. Bài thơ còn là tiếng nói của thái độ sống ân nghĩa thuỷ chung. Thật may mắn làm sao khi sống trong tỉnh thương mến của gia đình, dược là thế hệ sau của một dân tộc giàu
lòng nhân ái, trọng tình nghĩa, vẹn thuỷ chung. Có như thế mới thấy được những điều giản đơn nhất bên cạnh chúng ta mỗi ngày đềucó sức nâng dỡ con người trên hành trình dài rộng của
cuộc dời.

Dffrf
Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông toát lên vẻ đẹp trong sáng mượt mà “như những
bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình và “Bếp lửa cũng không là bài thơ ngoại lệ.Tác phẩm được sáng tác năm 1963, khi
tác giả đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, là tập thơ đầu tay của Bằng Việt, sau được đưa vào tuyển tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang Vũ

Mạch cảm xúc của bài thơ đi tử hồi tưởng đến hiện tại, tử kỉ niệm đến suy ngẫm. Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người cháu (chính là
Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bả,
đối với gia đình, đối với quê hương, đất nước.

Trước hết là hình ảnh “bếp lửa” – nơi khởi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân yêu, có bà
và có cả những kỉ niệm ẫu ở khi còn nhỏ. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa."

Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khởi của buổi sớm mai. Những đốm than hồng đỏ rực
nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bản tay dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chỉ chút của người bà. Đồng thời, cái bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong tâm trí, trong nỗi nhớ ám ảnh
của nhà thơ, ấp ui, trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần củ, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của người bà. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia và bao
hàm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình. Như vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm nỗi nhớ
da diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thần yêu. Có thể coi đây là khúc dạo đầu viết về nỗi nhớ. Từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bải. Bài thơ sẽ là lời tâm tư, nỗi nhớ của
người cháu về bếp lửa, về người bà và cả những kỉ niệm buồn vui khi còn bên cạnh bà.

Nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta luôn thưởng trực nghĩ tới những năm tháng hồn nhiên, tinh khôi, trong trẻo khi được sống trong sự đủ đầy cả về vật chất và tinh cảm yêu thương
của cha mẹ, người thân. Nhưng với những thế hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt thì điều đó làm sao có được khi họ phải sống trong những năm tháng bom rơi đạn lạc chiến tranh, sự sống và cái
chết chỉ trong gang tấc. Vì thế, khi nhớ về thời ấu thơ, những kỉ niệm trong kí ức như một thước phim quay chậm lần lượt hiện về trọng tâm trí của Bằng Việt với biết bao nhiêu là sự thiệt thòi,
gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Kỉ niệm đầu tiên ấy là khi lên bốn tuổi:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khởi

Năm ấy là năm đói mòn đôi môi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khỏi hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Thành ngữ “đói mòn đói mỏi" gợi tả cái đói kéo dài làm cho mệt mỏi, rã rời và kiệt sức. Vì thế, cái đổi đã khiến cho ngựa cũng trở nên gầy rạc, hình ảnh người bố đánh xe chắc chắn cũng khô
héo, tiểu tụy, xanh xao...Tất cả đã khiến cho người đọc dâng lên một nỗi niềm xót xa khi nhớ tới nạn đói khủng khiếp đến rợn người năm Ai Dậu 1945 năm nào. Khi ấy, cháu ở cùng bà và đã
cùng bà nhóm lửa, khỏi bếp tỏa ra đã làm cho nhóm mắt, “nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Làn khói đã in đậm, in sâu trong tâm trí của người châu hay đó chính là nỗi cơ cực, vất vả của cái
nghèo, cái đói, của chiến tranh loạn lạc trong tuổi ấu thơ của người cháu. Những câu thơ được viết lên bằng những tỉnh cảm chân thực nên chan chứa nước mắt và đầy đặc làn khỏi. Giọng thơ
trầm xuống thấm thía một nỗi buồn cơ cực đến xót xa khi dòng hoài niệm tuổi thơ dâng đầy trong lòng thi sĩ khiến “sống mũi còn cay”.

Tiếp đến là những dòng hoài niệm về tám năm ròng trong cuộc sống có chiến tranh sống bên bả: “Tám năm ròng cháu cùng bả nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhỏ không bà

Bả hay kể những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa?"

Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, réo rắc cuộn xoáy vào trong lòng của người con xa xứ. Âm thanh của tủ hủ kêu được tái hiện trong
những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi thì từ cánh đồng xa vọng lại (Tu hú kêu trên những cánh đồng xa) gợi lên một không gian rộng lớn, mênh mông và vắng lặng; khi thì lại rộn lên
khắc khoải, da diết khiển lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm (Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà Bả hay kể chuyện những ngày ở Huế); khi thì lại giống giả, kêu hoài đến khô khan, lạnh
vắng trên những cánh đồng xa xôi, heo hút (Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa)... Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ âm của những dòng hoài niệm hồi tám tuổi, có tác dụng khắc
họa không gian sống vắng lặng, heo hút, mênh mông; lại vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn trống trải đến da diết, rợn ngợp. Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thấm đẫm tinh
cảm yêu thương, đùm bọc cưu mang của người bà yêu quí. “Mẹ và cha công tác bận không về” và hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bả bảo ban, dạy
dỗ và chăm cháu học. Các động từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương bao la, chăm chút của người bả dành cho người cháu. Vì thế, bà trở
thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gin tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quí của tỉnh cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến đi xa bận công tác của
bố mẹ. Cho nên, người châu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bé ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thổi cũng đã đủ gói ghém tất thủy tình

yêu thương, sự kinh trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.
Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người
châu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn.

“Năm giặc đốt làng chảy tần cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Dỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chở kể này, kể mộ),

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!"

Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà
không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chẳng là phẩm chất cao quí của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến
tranh. Ta đọc ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gảnh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc giã xâm lăng, đem
lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bả vẫn được cháu “đinh ninh” nhớ mãi trong lỏng, được trích nguyên văn được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố củng cho
thấy phẩm chất đáng qui biết bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có được
thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương.

Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”

Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều là không đơn giản chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên,
mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Diệp ngữ “một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất
diệt của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì
thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.

Tử suy ngẫm về vai trò của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao quí của người bà: tần tảo, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân ái:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẽ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tỉnh tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!"

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi lên cuộc đời của người bà vất vả, gian truân, lận đận nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Diệp từ “nhóm”
(4 lần) bao gồm rất nhiều nghĩa, nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng
trong mỗi gia đỉnh. Từ “ấp iu nồng đượm” gọi là công việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chỉ chút của bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn
nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẽ chia chung vui và tâm tỉnh tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà đầu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thưởng nữa
mà cao hơn nó đã thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bả. Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người châu hơi ấm của tình yêu, sự sẻ chia
với mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc
ghi nhớ tới cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc mình. Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể
hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu giữ cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng. Khổ cuối bài thơ là lời bộc
bạch chân thành của người cháu khi đã lớn khôn, trưởng thành. Dù cho khoảng cách về không gian, thời gian có xa xôi “khỏi trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngàn nhưng người cháu vẫn
luôn khắc khoải trong lòng nỗi nhớ khôn nguời về hả, về bếp lửa: “Những vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhớ/ – Sớm mai này bả nhóm bếp lên chưa?...”. Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại,
giữa “khỏi lửa” của cuộc sống hiện đại với bếp lửa bình dị, đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm lên trong mỗi sớm chiều luôn thưởng trực và sống mãi trong
lỏng của người cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm của tuổi thơ về bà – một người truyền lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin “dai dẳng” bất diệt cho thế hệ tiếp nối. Chính vì
thế nhớ về bả là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài vọng xa xăm của người cháu luôn đau đau, thiết tha
nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia đình, nhớ tới quê hương, đất nước.

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ đạt đảo cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tinh, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lỗi trùng
điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ trản ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nồng. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thẩm thia, xúc động trước
nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu. Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trân trọng hơn
tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới thấm thía hết được lời hải hát của nhạc sĩ Trung Quân, thật ý nghĩa biết chừng nào:

“Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người...”


Sfdgfg

Đối với tôi, văn học là tình yêu, còn tình yêu là cuộc đời. Chỉ cần ta còn sống trên đời này, thì ta vẫn còn yêu. Ta say sưa đắm mình trong chuyện tình cảm trai gái, ta yêu bạn bè mình, ta
thương, ta mến người thầy, người cô dìu dắt ta nên người. Nhưng tôi vẫn cứ luôn thắc mắc, liệu có thứ tình yêu nào trên đời này đẹp đễ và thiêng liêng hơn tình yêu gia đình không, và có lẽ là
không. Có thể ta sẽ không yêu gia đình mình, nhưng gia đình thì lúc nào cũng yêu thương ta, đó là tình cảm giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong nhà và là tình cảm của ông bà đối với
con cháu. Và văn học, nó ghi chép lại những thứ tình yêu đẹp để nhất, đặc biệt nhất, trong đó bao gồm có cả tình cảm gia đình. Tôi đã từng đọc qua rất nhiều tác phẩm khai thác về hai chữ : '
Gia đình ‘, nhưng trong trái tim tôi, vẫn luôn dành một góc nhỏ cho tác phẩm mà tôi luôn yêu thích, đó chính là : “ Bếp Lửa “ - Bằng Việt. Những áng văn hay khai thác về đề tài tình bà cháu
trong thời kì kháng chiến chống Mỹ đã đễ lại những rung động sâu sắc trong trái tim tôi.

Người tác giả xuất thân từ mảnh đất Hà Tây mang tên Bằng Việt có lẽ sẽ không còn xa lạ gì với chúng ta . Với ngòi bút mang màu sắc tinh tế, trầm lắng đi cùng đó là mạch cảm xúc tự nhiên,
sống động . Tác phẩm Bếp Lửa của ông được viết nên bằng những xúc cảm chân thật nhất tại nơi đất khách quê người vào năm 1963 và được in trong tập thơ “ Hương Cây - Bếp Lửa “. Bài thơ
là những suy ngẫm và hồi tưởng của người cháu đã trưởng thành nhớ về những kỉ niệm thời thơ ấu còn được sống trong vòng tay bảo bọc che chở và đỡ đần của bả, song cũng bày tỏ lòng biết
ơn với bà, cùng đó bày tỏ lòng yêu quê hương, yêu đất nước. Những mạch thơ trong trẻo, hoạ lên hình ảnh người bà đầy ấm áp, tần tảo đã vô tình làm rung lên những nhịp đập thật đặc biệt
trong trái tim mỗi độc giả.

Những dòng hồi tưởng đầu tiên của tác giả được bắt đầu khi ông đang ngồi cạnh chiếc bếp lửa ở nơi đất khách quê người, ngọn lửa cháy chờn vờn trước mắt như dắt tay ông đi về miền kí ức
thân thương bên chiếc bếp lửa của tuổi thơ “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa “

Ở khổ thơ này tác giả đã khéo léo, sử dụng điệp ngữ ‘ một bếp lửa ' được lặp lại hai lần, thể hiện được ý thơ trong trẻo nhưng lại mang cảm xúc sâu sa, đặc biệt của tác giả. Trong áng thơ trên,
Bằng Việt đã sử dụng những ngôn từ vô cùng đắt giá như : chờn vờn, ấp iu, song thành công tả thực được hình ảnh chiếc bếp lửa lúc to, lúc nhỏ gần với hình ảnh chiếc bếp lửa thần thuộc trong
mỗi gia đình Việt Nam thời kì bom đạn kháng Mỹ ác liệt. Bên cạnh đó hình ảnh chiếc bếp lửa ấp iu đã lột tả được đôi bàn tay sần sùi, chai lì của người theo năm tháng chiến tranh, nhưng đôi
tay ấy lúc nào cũng khéo léo, tần tảo chăm lo cho gia đình và lại vô cùng mềm mại, ấm áp. Và từ ngữ ấp iu như nói lên được tấm lòng kiên trì của người nhóm lửa, chắt chiu từng li, từng tí vì
yêu thương con cháu của mình. Từ những hình ảnh trên, đã vô tình khởi động cuộn phim kí ức trong trái tim người cháu, mọi kỉ niệm ùa về như một thước phim đẩy nỗi nhớ bà của người cháu
lên đến da diết, nhớ những sớm mai thức giấc chợt thấy bà bên cạnh cái bếp lửa, giờ đây hỉnh ảnh của bà cùng ngọn lửa đó đã mãi mãi chờn vờn trong kí ức của cháu và có lẽ như Bằng Việt sẽ
không thể nào quên được hình ảnh người phụ nữ tần tảo, âm thầm và lặng lẽ hi sinh đời mình vì đời cháu, hình ảnh ẩn dụ ; nắng mưa' ở câu thơ cuối cùng của khổ thơ đã nói lên những vất vả

gian khổ trong đời bà, đã dầm mưa, dãi nắng, lao động khổ cực cả một đời vì gia đình và hơn cả là vì đất nước. Bà là hiện thân chuẩn mực của một bà mẹ Việt Nam anh hùng, sẽ mãi mãi sống
trong lòng cháu, sống với trời xanh, đất rộng của quê hương, của tổ quốc.

Tiếp tục chạy trong cuộn phim kí ức của Bằng Việt, ta sẽ bắt gặp được những dòng kỉ niệm tuổi thơ của người cháu sống trong vòng tay tần tảo, dịu hiền của bà

“ Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay ! “

Lời thơ mang đậm màu sắc chân thành, mộc mạc, tựa như một lời thủ thỉ, tâm tình kể về một tuổi thơ, mà trong đó có bom đạn, khói thuốc. Và có phải là quá bất công đối với một cậu bé vừa
lên bốn mà mùi khói bếp đã quyện chặt vào tâm trí cháu, đã chứng kiến cái cảnh dân tộc ta lâm vào cái nạn đói ghê gớm đến gai người. Ở đây, có hai thành ngữ được đưa vào đó là : ! Đói
mòn, đói mỏi ‘ và khô rạc ngựa gầy *, song Bằng Việt đã thành công khi khiến độc giả rợn người khi lột tả lại được nạn đói năm 1945 một cách gần nhất, chân thật nhất, khiến cho con người ta
không khỏi đau lòng trước cuộc sống khổ cực, đấu đá vì miếng ăn, miếng mặc. Những mảnh kí ức đó trong lòng Bằng Việt lâu ngày đã được thời gian mài dũa trở nên sắc bén, để khi mỗi lần
nhắc lại, nó sẽ như vết cắt khứa vào lồng tác giả, sẽ thấy mằn mặn nơi đầu môi, cay cay hun nhèm nơi khoé mắt. Chắc không phải vì đau, mà là vì cháu nhớ khói bếp, nhớ ngày cháu còn bé, và
là vì cháu nhớ bà.

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế I Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng
bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Bên cạnh ngọn lửa ấm, những kí ức của tác giả lại liên tục ùa về như một giấc mơ, mọi thứ được tác giả cảm nhận từ thị giác, khứu giác, và đến đây là bằng cả thính giác khi ông đã làm dấy lên
tiếng tu hú quê hương vắng vắng bên tai của những tri âm tri kỷ của tác giả. Âm thanh tu hú quen thuộc gắn với đồng quê mỗi khi mùa hè trở về vang lên và cuộn xoáy trọng tâm khảm của
người cháu. Xuyên suốt 11 câu thơ, âm vang tu hú đã được Bằng Việt làm nổi lên 5 lần với mỗi lần là mỗi cung bậc cảm xúc khác nhau. Mỗi khi tiếng chim tu hú vang dội khắp trên những cánh
đồng thì đó chính là tín hiệu của mùa hè, đông thời mở ra sự ấm áp, tha thiết của tình bà cháu thiêng liêng cao đẹp. Dừng lại ở đây, ta thấy Bằng Việt đã sử dụng chút chất thơ chất tình, sử
dụng biện pháp điệp ngữ : ‘ Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa “, kết hợp với đó là câu hỏi tu từ : Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà / Kêu chi hoài trên những cảnh đồng xa ? ", từ những biện

pháp tu từ đó, tác giả thành cộng vẻ lên một bức tranh phong cảnh, gợi lên trước mắt người đọc một không gian mênh mông bao la rộng lớn, nhưng lại buồn hiu, vắng lặng. Người cháu mỗi
khi nhóm lên cái bếp lửa thì lại nghĩ về bà với tâm trạng nôn nao, thương nhớ, tiếng chim càng khắc khoải thì nỗi nhớ bà càng thêm nhiều, càng da diết đến đau lòng. Bà, cháu, bếp lửa, và tiếng
tu hú mỗi khi hè về, tất cả, đã sống cùng nhau, và hơn cả là yêu thương nhau, dìu dắt nhau đi qua bom đạn chiến trường.

Cuộc đời người cháu tuy thiếu thốn vật chất đủ điều, tuy vậy, trong suốt ngần ấy năm, bà chưa bao giờ để cháu phải cảm thấy thiệt thòi hay buồn bã, cả tuổi thơ ấy, bà đã cho cháu sống trong
sự yêu thương, đùm bọc, sống trong vòng tay chở che đỡ đần của bà. Những từ ngữ : · Bà bảo, bà dạy, bà chăm ‘ đã nói lên rằng bà không chỉ là một người bà yêu thương con cháu hết mực,
mà bà còn là người cha dạy cho cháu những bài học trong cuộc sống, còn lại người mẹ hàng ngày lắng nghe cháu tâm sự, song còn là người thầy dạy cho cháu kiến thức, những điều hay lẽ phải
trong cuộc sống. Tất cả những vai trò quan trọng nhất trong cuộc đời của một con người, là những yếu tố quyết định nhân cách của đứa trẻ sau này, giờ đây mọi thứ đều đã được đặt lên đôi
vai nhỏ bé của bà. Dù cho có khó khăn, khổ cực, bà vẫn luôn dành hết tất cả những yêu thương, nỗ lực, sự chăm chút tỉ mỉ, ân cần đều là dành cho người cháu mà bà yêu nhất, bà là chỗ dựa
vững chắc để cho cháu tựa vào, bà đã thay thế, lắp đầy những lổ hổng, thiếu thốn trong trái tim cháu.

Bà và cháu, cùng sống và cùng nhau đi qua chiến tranh ác liệt, lắm lần chúng đánh ta tan nát, nhưng chưa bao giờ mà hai bà cháu chọn từ bỏ, mà luôn kiên quyết đấu tranh, giữ vững ngọn lửa
yêu nước, cháy đến khi ta không còn nữa mới nguôi ngoai :

‘Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh “ Bố ở chiến khu, bồ còn việc bố Mày có viết thư
chớ kể này, kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!

Bọn giặc Mỹ ác độc, tàn nhẫn sẵn sàng thiêu rụi cả một ngôi làng, đốt cả gia sản của một người nông dân, đốt luôn cả ngôi nhà lá xập xệ của bà. Nhưng bà vẫn điềm tĩnh, vững lòng trước bao
khó khăn, tai hoạ khắc nghiệt của chiến tranh tàn khốc. Ở đây, Bằng Việt khéo léo và sáng tạo khi làm nổi bật được tinh thần đoàn kết của con dân Việt Nam lúc bấy giờ, qua hai câu thơ : ‘
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi / Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh ‘ đã sáng lên được tình cảm tình làng nghĩa xóm của con người Việt Nam ta luôn kề vai sát cánh cùng nhau, giúp đỡ, đỡ đần
nhau đi qua chiến tranh ác liệt. Song, qua từng con chữ, từng áng văn của Bằng Việt, hình ảnh của người bà lại hiện lên rõ nét hơn với những phẩm chất tốt đẹp. Dẫu cho nhà bà giờ đây đã
cháy tàn, cháy rụi, bà vẫn không nửa lời than thở, kêu ca, lại còn dặn cháu nhỡ có viết thư, chớ có kể chuyện nhà cho ba mẹ, nhớ lại làm lòng ba phiền, lòng mẹ lo. Bà chính là đại diện cho hình
ảnh người mẹ Việt Nam anh hùng, ở bà, bà là một hậu phương vững chắc cho con cái ngoài tiến tuyến có thể an lòng mà chiến đấu, không cần phải bận tâm về chuyện vặt việc nhà mà chuyên
tâm vào làm việc chiến đấu vì tổ quốc, vì quê hương. Bà toả sáng lấp lánh với vẻ đẹp và phẩm chất của một người phụ nữ Việt Nam anh hùng. Khổ thơ được Bằng Việt thể hiện xen kẽ giữa lời

trần thuật và lời bộc bạch cảm xúc, song đã để lại ấn tượng sâu đậm và khó phai trong lòng độc giả về hình ảnh một người bà ấm áp, tần tảo nhưng lại vô cùng mạnh mẽ, kiên cường. Tuổi thơ
của người cháu tuy sống thiếu tình yêu thương của cả cha và cả mẹ nhưng lại được bù đắp bằng tình cảm đong đầy của người bà.

Cũng vì chấu sống trong thứ tình cảm yêu thương mà bà đặc biệt dành riêng cho cháu nên cháu cũng yêu bà, yêu bà với một tình cảm đặc biệt khó nói thành lời. Và Bằng Việt, ông viết nên
những áng thơ này trong một chốc ông say sưa bên cái bếp lửa, nên từng câu chữ trong đó chất chứa đầy tình thương nỗi nhớ về bà của ông, song tạo nên những áng thơ đầy lắng động, sâu
sắc. Ông viết, viết và những suy ngẫm của một người cháu đã trưởng thành về bà và cuộc đời mà bà đã sống, và những suy ngẫm đó được Bằng Việt gửi gắm qua 3 câu thơ : ‘ Rồi sớm rồi chiều
lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Dù cho có là sáng sớm hay là chiều tối, trong lòng Bằng Việt vẫn in mãi hình ảnh người bà tần tảo ngồi cạnh chiếc bếp lửa, cặm cụi nhen lên ngọn lửa đỏ, sưởi ấm cho cháu khỏi mùa đông lạnh
lẽo, buốt giá. Dừng lại và tận hưởng áng thơ trong trẻo, ta sẽ nhận ra, tại đây xuất hiện một hình ảnh ẩn dụ vô cùng đắt giá: Bếp lửa được bà nhen lên không chỉ bằng củi, bằng than, mà ngọn
lửa kia chính là tượng trưng cho ánh sáng, cho tâm hồn, cho hơi ấm và sự sống, ngọn lửa đó rất sớm đã được bà ủ sẵn trong lòng, đó là ngọn lửa bất diệt, sẽ chạy vĩnh cửu, cháy cho tình yêu
thương, soi rọi ý chí, nghị lực trong cháu, làm dấy lên tình yêu tổ quốc yêu quê hương từ lâu đã ngủ sẫu trong trái tim cháu. Và để truyền ngọn lửa ấy vào tác phẩm, điệp ngữ : ‘ Một ngọn lửa '
lặp lại hai lần đã nhấn mạnh và khẳng định tình yêu thương vô bờ bến của bà dành cho cháu, hơi nóng mà bà truyền cho cháu chính là cái nóng của ngọn lửa mà cả dân tộc Việt Nam ta cùng
nhau đồng lòng nhóm lên để vượt qua những khó khăn, gian khổ, thử thách trong thời kì đau thương đầy nước mắt của cả dân tộc. Bà không chỉ là người nhóm lẫn ngọn lửa thiêng liêng ấy,
mà còn là người giữ cho nó cháy mãi, cháy mãi, song bà mang ngọn lửa ấy truyền đi khắp nơi trên đất Việt. Đó là ngọn lửa của ý chí, của sự kiên cường để chống lại giặc đói, giặc dốt, và giặc
ngoại xâm. Ba câu thơ tuy ngắn nhưng lại chất chứa nhiều xúc cảm mạnh mẽ, quyết liệt, từ tình cảm thiêng liêng đó, Bằng Việt cho ra đời 8 câu thơ tiếp theo để người đọc hiểu hơn về sự tần
tảo, về đức hi sinh của bà:

‘ Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nỗi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa !

Mở đầu khổ thơ bằng từ láy ‘ lận đận ‘, ta thấy ta hiểu và ta thương cho bà một đời đầy gian truân vất vả, cụm ' mấy nắng mưa một hình ảnh ẩn dụ đẹp đến đau lòng được dùng để diễn tả bà
sống đời lam lũ, vất vả, ấy thế nhưng trong ngần ấy năm, bà không kêu ca lấy một lời than vãn, trách móc. Bà là người giàu đức hi sinh, chỉ cần con cháu bà khoẻ mạnh, quê hương bà hoà bình,

thì lam lũ, khổ tâm một chút cũng không sao. Và điều đặc biệt nhất, nổi bật nhất ở khổ thơ này đó

chính là điệp ngữ ‘ nhóm ‘ được tác giả điệp lại 4 lần với nhiều sắc thái khác nhau. 4 động từ nhóm được Bằng Việt sắp xếp theo thứ tự hợp lí, từ đó làm điểm nhấn cho khổ thơ và góp phần
tạo nên cái đẹp toàn diện cho cả bài thơ. Đầu tiên : ‘ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm ‘, từ nhóm ở câu này mang nghĩa gốc, nghĩa là bén lên ngọn lửa đỏ chờn vờn trước mắt cháu, xua tan đi
cái lạnh mùa đồng, song nuôi nấng cháu lớn khôn về thể chất. Còn từ ‘ nhóm ‘ ở câu thơ thứ 5 ,6,7 đều mang một nét tương đồng đó chính là nhóm lên và khơi dậy trong người cháu tình
người. Đến đây, ta nhận thấy rằng ngọn lửa bếp bà nhóm hằng ngày để luộc khoai, luộc sắn cho cháu, đã góp phần vào hành trình trưởng thành của cháu, và ngọn lửa lại phần nào trở nên
thiêng liêng hơn, ấm áp và kì diệu hơn. Song, một lần nữa sẻ chia đoàn kết giữa bà con xóm giềng mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước lại được Bằng Việt khai thác bằng chi tiết nồi xôi
gạo mới rất ấm áp và hợp tình, hợp lí. Cuối cùng là hình ảnh - Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ ·, trong vô thức, ngọn lửa đó như chất xúc tác làm sống dậy hết những kỉ niệm, những tình
cảm thuở thơ ấu ùa về, sà vào tâm trí Bằng Việt, những mảnh kỉ ức ấy đẹp đẽ đến mức thôi thúc ông phải thốt lên : ‘ Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa ! . Câu thơ được sử dụng để khép lại khổ
thơ, ở đây, dường như Bằng Việt đã gửi gắm rất nhiều xúc cảm ở áng thơ ấy, khiến cho câu thơ trở nên ngọt ngào, nhẹ những nhưng lại mạnh mẽ, quyết liệt. Bếp lửa kì lạ - thiêng liêng là bởi
nó gắn liền với cuộc sống con người, nó đã luôn hiện hữu và gắn bó song hành với bà, và với cháu, với những năm tháng thời thơ ấu của cháu. Bà cùng với cái bếp lửa, trở thành người bạn
đồng hành không thể tách rời, song tạo nên điểm tựa vững chắc cho cháu nghỉ ngơi, nương vào trong cái thời đầy gian truân khổ sở ấy. Cầu thơ là một câu cảm thán đặc biệt với cấu trúc đảo
đã bộc bạch được sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như khám phá ra được phép màu kì diệu giữa cuộc đời đầy đau thương nước mắt. Từ hình ảnh bếp lửa, và ngọn lửa đỏ cháy phừng phực, người
cháu tìm được ánh sáng mới về niềm tin vào tương lai ngày mai, tin vào linh hồn của dân tộc vất vả gian lao nhưng đầy nghĩa, đầy tình.

Làn khói dần tan, ngọn lửa trước mắt Bằng Việt dần ổn định trở lại, dường như thư gì đó đã kéo ông về lại thực tại. Giờ đẫy, ông đã lớn, đã trưởng thành, đã rời xa quê hương để theo đuổi
ước mơ của mình, rời xa cái làng quê thân thuộc, rời xa vòng tay bà ấm áp. Nhưng giờ đây, cháu đã có cuộc sống hạnh phúc hơn, đủ đầy hơn, điều đó được tác giả Bằng Việt thể hiện thông
qua khổ thơ cuối :

‘Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngã

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?

Biện pháp tu từ điệp ngữ được Bằng Việt sử dụng xuyên suốt cả bài thơ và ở khổ thơ này là điệp ngữ “ có “ và “ trăm “ nhằm nhấn mạnh sự đủ đầy về vật chất trong cuộc sống hiện tại. Thế
nhưng, bao nhiêu cũng là không đủ khi so với khoảng thời gian còn sống trong vòng tay bà dịu hiển, người cháu vẫn chưa bao giờ quên được hơi ấm từ ánh sáng chờn vờn của cái bếp lửa, sẽ
không bao giờ quên được cái lận đận hiểm nguy đời bà và sẽ mãi mãi khắc ghi trong tim cái ấm áp, tần tảo, cái tình nghĩa, và đức hi sinh cao cả của bà dành cho cháu. Đó chính là đạo lý, đạo
nghĩa được nuôi dưỡng và bù đắp từ thuở thơ ấu. Khép lại bài thơ, tác giả sử dụng một câu thơ có dạng câu hỏi tu từ để bộc lộ được nỗi nhớ thương da diết, khắc khoải luôn thường trực trong

trái tim cháu, nhắc nhở cháu phải luôn nhớ về bà, cũng như nhớ về gia đình, về cội nguồn của mình

Những áng thơ của Bằng Việt là sự kết hợp hoàn hảo và nhuần nhuyễn giữa bốn phương thức biểu đạt, lỗi kể tự sự phối hợp ăn ý với lời bộc lộ cảm xúc, câu văn miêu tả sóng đôi với lời bình
đã làm sáng lên cả tình cảm của người cháu đối với bà và tình yêu thương vô bờ bến của bà dành cho cháu. Cũng như phần nào nhắc nhở tất cả mọi người đều phải ghi nhớ cội nguồn của
mình, và yêu quê hương, yêu tổ quốc.
Bài thơ “ Bếp Lửa “ của tác giả Bằng Việt đã dẫn dắt độc giả đi qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, vui có, buồn có, hạnh phúc có, đau thương có. Tất cả những xúc cảm ấy, về sau đọng lại
trong trái tim mỗi độc giả, để lại ấn tượng khó phai, sâu đậm. Dù thời gian trỗi qua, nhưng “ Bếp Lửa “ sẽ sống mãi, sống trong lòng mỗi người đọc, sóng trong trái tim Bằng Việt, và sống giữa
bầu trời xanh biếc của đất nước.

Sfdf

Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình. Trong thời kỳ đất nước chống giặc ngoại xâm, biết bao người đã rời khỏi gia đình để nhập ngũ, dốc sức vì đất nước. Nhà thơ Bằng Việt
cũng có một tuổi thơ mà bố mẹ ông đều đi đánh giặc. Một mình sống với bà nhưng ông không hề cảm thấy cô đơn mà còn rất tự hào và vui sướng vì được sốia đình tình yêu thương quê
hương đã trở thành nguồn cảm hứng khơi nguồn cho ông viết bài thơ bếp lửa. Đặc biệt, bài thơ thể hiện sự suy ngẫm của người cháu về bà và bếp lửa đã cho thấy tình bà cháu cao đẹp. Nó
như một thông điệp về tình yêu thương gia đình thiêng liêng mà Bằng virjt gửi đến cho ng đọc. “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa" đã đi liền với các từ láy chờn vờn, ấp iu... gợi cho ta cái cảm giác ấm áp với tình cảm chứa chan. Và ngay lập tức, hình ảnh người bà đã hiện lên. Ở
đây, bà không hiện lên như một bà tiên mà hiện lên trong trái tim của người cháu nhớ về người bà gian nan. Tình cảm trào dậy một cách tự nhiên:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

“Nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ quen thuộc gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, thăng trầm trong cuộc đời bà để nuôi cháu khôn lớn. Chữ “thương” được dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán đã gói
trọn bao cảm xúc của cháu dành cho bà. Từ đây bà và bếp lửa là hai hình ảnh sóng đôi, đi suốt dọc bài thơ và theo cả nỗi nhớ của người cháu. Từ bếp lửa nhớ về người nhóm lửa, ký ức đưa
người cháu trở về những năm lên bốn tuổi:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi, Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy. Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Tuổi thơ của cháu không phải là vòm trời cổ tích cao rộng với những phép màu diệu kì của ông Bụt, bà Tiên. Tuổi thơ của cháu thật nhọc nhằn, quen mùi khói bếp nhà nghèo và có bóng đêm
ghê rợ của nạn đói năm 45. Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” diễn tả cái đói triền miên, dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người.Người bố đi đánh xe với con ngựa gầy, tất
cả trong mùi khói hun đến nghẹt thở, nao lòng cả tuổi thơ. Nghĩ mà thượng tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Cái cay nồng mà người cháu cảm nhận được không phải
là mùi khối bếp mà đó chính là dư vị tuổi thơ ám ảnh trong tâm thức bỗng trỗi dậy mạnh mẽ. Năm tháng qua đi nhưng nó đã trở thành vết thương lòng đầu dễ nguôi ngoai.Qua những năm

thắng đói mòn đói mỏi lại nhớ về kỉ niệm những năm chiến tranh “Mẹ cùng xa công tác bận không về”. Tám năm

cháu ở cùng bà. Bên ánh lửa bập bùng, bà vừa là cha, là mẹ, bà dạy dỗ cháu nên người:

“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe, Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học” Sự xuất hiện của hàng loạt những động từ “dạy”, “bảo”, “chăm”, “học”, “ở”, “nghe”, “làm” diễn tả những công việc
lặng thầm của bà. Mỗi cử chỉ của bà đều thấm đẫm tình yêu thương, sự cưu mang, đùm bọc cháu. Bếp lửa còn đánh thức thêm kỉ niệm nữa của tuổi thơ, kỉ niệm với tiếng chim tu hú. Tiếng
chim tu hú là âm thanh quen thuộc của làng quê mỗi độ vào hè. Tiếng chim râm ran trong vòm lá, trên cánh đồng, cứ khắc khoải kêu hoài, kêu mãi, giục giã cả một khoảng trời, khiến cho lòng
người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Nhà thơ đang kể chuyện mà như tách hẳn ra để trò chuyện cùng bài

“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà? Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.” Những câu chuyện đó là sự từng trải của cuộc đời bà và bà muốn nhắc nhở cháu hãy sống thật tốt, thật có ích cho
cuộc đời. Tự nhiên cháu thấy thương bà quá. Cháu thương bà vất vả, lo toan, không biết ngỏ cùng ai chỉ biết tâm tình với chim tu hú mà thôi: “Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Câu hỏi tu từ đã thể hiện được những cung bậc cảm xúc trong tâm trạng của người cháu. Như vậy hình ảnh “bếp lửa" đã đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, linh hình ảnh người và có cả hình ảnh đất
nước. Hình ảnh người bà bỗng trở nên cao lớn vĩ đại khi người cháu nhớ về những năm tháng đau thương, vất vả khi giặc tàn phá xóm làng.

Lời dặn “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ. Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!" không chỉ gợi ra giọng nói hiền từ của bà, suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lẫn phẩm chất của bà. Bà đã nhận về
minh tất cả mất mát, khổ đau để con cháu yên tâm đánh giặc. Bà là người mẹ, người bà, người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến. Với Bằng Việt, họ gánh cả kháng chiến lên đôi vai bé nhỏ
của mình.

Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ, về bà, người cháu trở về với hiện tại để suy ngẫm về cuộc đời và những lẽ sống về bà, cũng là để thương bà nhiều hơn, nhớ bà nhiều hơn:

“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen, Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Từ bếp lửa bình dị thân quen ấy đã nâng lên thành ngọn lửa. Ngọn lửa không chỉ được nhen lên bằng những nguyên liệu đời thường mà còn

được nhen lên từ tấm lòng bao la của bà, được bà ấp ủ, chở che nên không bao giờ vụt tắt. Điệp từ “rồi" kết hợp với hai danh từ chỉ thời gian “sớm”, “chiều” khiến câu thơ vang lên như bước
gõ nhịp của thời gian. “Bếp lửa” là hình ảnh tả thực còn “ngọn lửa” được chuyển hóa thành hình ảnh biểu tượng.

Ngọn lửa là niễm tin dai dẳng, bền bỉ, bất diệt bà nhen lên trong lòng cháu. Nhờ ngọn lửa ấy mà cháu tin vào chiến thắng của dân tộc. Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành vừa tạo
nhạc tinh cho câu thơ khiến lời thơ dồn dập, tha thiết mà mạnh mẽ, xúc động, vừa khẳng định sức sống mãnh liệt, bất tận của ngọn lửa bà nhen. Theo dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người
cháu, hình ảnh người bà hiện lên lung linh, sáng đẹp, ấm áp:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi, Nhóm niềm
xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...


Từ láy “lận đận” giàu giá trị gợi cảm được đảo lên đầu dòng thơ gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, gian truân của cuộc đời người bà. Điệp từ “nhóm” đứng ở đầu mỗi dòng thơ, nhắc đi nhắc lại bốn
lần khắc ghi những ý nghĩa trong công việc nhóm lửa của bà. Mỗi sớm mai bà nhóm lên bếp lửa là nhóm lên niềm yêu thương; nhóm sự chở che, cưu mang đùm bọc giữa ngọt bùi, khoai sắn;
nhóm sự sẻ chia, đoàn kết của tình làng, nghĩa xóm; nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ của cháu.

Bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa và giữ lửa. Bà không chỉ làm công việc khởi đầu của một ngày mà còn làm công việc khởi đầu của một đời người. Từ đây cảm xúc về
bà và bếp lửa dâng trào lên mãnh liệt:

“Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!" Người cháu giờ đây đã khôn lớn trưởng thành, nhưng trong sâu thẳm lòng cháu vẫn da diết một nỗi nhớ thương về bà và bếp lửa:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả. Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...”

Nơi cháu đang sống với đầy đủ tiện nghi vật chất, khác hẳn với không gian của bà cháu nơi quê nhà, nhưng cháu luôn nhớ về bà, nhớ về ngọn lửa bà

nhen. Câu hỏi tu từ ở cuối bài thơ nhắc nhở cháu không nguôi nhớ về những kỉ niệm về bà và bếp lửa.

Bài thơ đã sáng tạo hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Bài thơ có sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận, giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm
xúc hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu. Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa thầm kín: Những gì là thân thiết nhất với tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình
dài rộng của cuộc đời.

“Tác phẩm là kết tinh tâm hỗn người sáng tác”. Bài thơ “Bếp lửa” đã thể hiện được tất cả tình yêu thương của Bằng Việt đối với người bà kính yêu của mình. Chính tình cảm bà cháu thiêng
liêng ấm áp đã đ an dệt thành một bài thơ xúc động và mang nhiều ý nghĩa.

Ffd

Phân tích bài thơ Bếp lửa – Bằng Việt

Văn học ra đời giữa những buồn vui của loài người và sẽ làm bạn với con người cho đến ngày tận thế. Mỗi tác phẩm nghệ thuật chân chính giống như thứ khi giới thanh cao mà đắc lực mà
chúng ta có để thay đổi thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn. Văn chương trao truyền những tình cảm, cảm xúc tươi đẹp, trong trẻo cho tâm hồn con
người hướng đến vẻ đẹp của chân thiện mĩ. Chính vì thế mà văn chương giống như suối nguồn lai tạo sự sống cho tâm hồn mỗi người. Những trang văn câu thơ bồi đắp thêm cho ta những
tình cảm ta sẵn có và làm giàu thêm những tỉnh cảm ta chưa có. Bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt là một bài thơ như thế. Cũng viết về những tình cảm muôn thuở của loài người đó là tình bà
cháu, tình yêu quê hương, đất nước ta đã gặp trong thơ ca dân gian, trong những trang văn tuyệt đẹp của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông quê hương, những câu hát và cảnh xứ non
sông, những câu tục ngữ về tỉnh bà cháu thiêng liêng: “Ngó lên nạt luộc mái nhà/Bao nhiêu nạt luộc nhớ ông bà bấy nhiêu. Nhưng tìm đến những câu thơ của Bằng Việt không hiểu sao vẫn
rung động hồn ta bởi những nỗi băn khoăn riêng, vẫn ám ảnh và đầy dư ba về sự hi sinh của người bà tần tảo và tình cháu yêu bà.

Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông toát lên vẻ đẹp trong sáng mượt mà “như những
bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình và “Bếp lửa cũng không là bài thơ ngoại lệ.Tác phẩm được sáng tác năm 1963, khi
tác giả đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, là tập thơ đầu tay của Bằng Việt, sau được đưa vào tuyển tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang Vũ.

4. Phân tích nội dung bài thơ.

a. Những hồi tưởng về bà và tình bà cháu.

* Khổ 1 nói về bếp lửa và lòng cháu thương bà. Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn liền trong quá khứ như dòng sông, bến đò, cây đa.... Dối với Bằng Việt, sự

hồi tưởng được bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

- Ba tiếng “một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điêu sâu lắng, hình ảnh quen thuộc trong mọi gia đình. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh của “chờn vờn sương
sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”. Từ “ấp iu” vừa diễn tả công việc nhóm bếp, vừa gợi ra bản tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của người nhóm bếp.( Các chữ “ấp
iu”, “nồng đượm”, “chờn vờn” rất hình tượng, gợi tả; Áp iu: là một sáng tạo từ mới mẻ -> đó là sự kết hợp và biến thế của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”. Bếp lửa ấm áp “nồng đượm” ấy còn
mang tình thương chở che, ôm ấp, “ấp iu” của lòng bà)

- Hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên đánh thức dòng cảm xúc hồi tưởng của cháu về bà, người nhóm lửa, người nhóm bếp mỗi sớm mai - một hình ảnh xuyên suốt bài thơ, lúc nào cũng chập chờn
lay động: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Bếp lửa của bà là bếp lửa của một cuộc đời đã trải qua “biết mấy nắng mưa”, nghèo khổ và vất vả. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về bếp lửa mà trong
lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt. Chữ “thương” dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, làm cho cảm xúc lan toả, thấm sâu vào hồn người.

* Từ đó, bài thơ gọi lại cả một thời thơ ấu bên người bà ( Khổ 2,3,4)

-Kí ức đưa nhân vật trở về những năm “đói mòn đói mỏi" của nạn đói năm 1945: “cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” (Chế Lan Viên). Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” — cái đói kéo dài làm mỏi
mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc cùng với người bố đánh xe chắc cũng gầy khô...Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng người đọc. Tuy nhiên cái đói chỉ là cái cớ để nhà thơ nhớ về một tuổi thơ cay
cực, thiếu thốn trăm bề:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khỏi

Năm ấy là năm đói mòn đội mỏi


Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

- Ấn tượng nhất là mùi khói bếp: “Khói hun nhèm mắt cháu. Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Hai câu thơ có giá trị biểu cảm cao. Hình ảnh tả thực : khói nhiều cay, khét vì củi ướt vì sương

nhiều và lạnh và vừa là hình ảnh tượng trưng: sự xúc động- nghĩ mà thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Cảm xúc quá khứ hoà lẫn hiện tại và chắc hẳn cảm xúc
quá khứ phải sâu sắc lắm mới có thể trỗi dậy mạnh mẽ thế. Cho dù năm tháng trôi qua nhưng kí ức ấy trở thành một vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai. Qua đó, nhà thơ khẳng định, tuổi thơ
dẫu thiếu thốn vật chất nhưng không bao giờ thiếu thốn nghĩa tình.

- Từ mùi khói bếp, nhân vật trữ tình lại nhớ về tiếng chim tu hú trong suốt tám năm ròng của tuổi thơ - những kỉ niệm đầy ắp âm thanh, ánh sáng và những tỉnh cảm sâu sắc xung quanh cái bếp
lửa quê hương được nhắc tới trong đoạn thơ thứ ba.

“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

+Thật là hồn nhiên, trong sáng và xúc động làm sao khi nhà thơ tâm tỉnh với chim tu hú. Tiếng chim tu hú là tiếng chim quen thuộc của đồng quê mỗi độ vào hè. Tiếng chim râm ran trong vườn
lá, trên cánh đồng cứ khắc khoải kêu mãi, kêu hoài, trong hiện thực đã tha thiết, tiếng chim trong nỗi nhớ như giục giã, khắc khoải một điều gì da diết lắm, khiến lòng người trỗi dậy những hoài
niệm nhớ mong: “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”. Nhà thơ đang kể chuyện về bà mà như tách hẳn ra để trò chuyện trực tiếp với bà: “bà còn nhớ không bà....... Còn gì hơn với những chi tiết
tự sự xúc động như thế?

+ Âm điệu tha thiết của câu thơ còn gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi cút, vời vợi nhớ thương của hai bà cháu:

Tu hủ ơi chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cảnh đồng xa?

Câu thơ mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên, nuôi dưỡng cả tâm hồn lẫn thể chất cho cháu, vậy mà bây giờ cháu cũng đi xa, để bà một
mình khó nhọc.Tiếng chim tu hú giờ đây trở thành một mảnh tâm hồn tuổi thơ để gợi nhớ gợi thương. Cháu thương bà vất vả, lo toan, biết ngỏ cùng ai, chỉ có thể tâm tình với chim tu hú mà

thôi. Như vậy, bếp lửa đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó lung linh hình ảnh người bà và có cả hình ảnh quê hương.

- Đặc biệt hình ảnh người bà bỗng nhiên trở nên cao lớn, vĩ đại khi Bằng Việt nhớ về những năm tháng đau thương, vất vả giặc tàn phá xóm làng – hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. “Mẹ và cha công tác bận không về", cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà, sớm có ý thức tự lập, sớm phải lo toan. Bên bếp lửa: “bà hay kể
chuyện những ngày ở Huế", “bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học", bà dặn cháu đinh ninh:

“Bố ở chiến khu bổ còn việc bổ

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

, Cử bảo nhà vẫn được bình yên!"

Bà là hiện thân cụ thể nhất, sinh động nhất cho hậu phương lớn. Trong nhiều gia đình Việt Nam, do nhiều cảnh ngộ khác nhau, mà vai trò của người bà – bà nội, bà ngoại — đã thay thế vai trò
của người mẹ hiền. Sống trong những năm dài chiến tranh, thế nhưng bà vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, thử thách. Các từ ngữ như “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả một cách sâu
sắc tấm lòng đôn hậu, tỉnh thương bao la, sự chăm chút của bà đối với cháu nhỏ. Chữ" bờ” và chữ “cháu” được điệp lại 4 lần gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương. Dược sống trong tình
thương là hạnh phúc. Người cháu trong bài thơ “bếp lửa” tuy phải sống xa cha mẹ, tuy gặp nhiều thiếu thốn khó khăn, nhưng em thật hạnh phúc khi được sống trong vòng tay yêu thương của
bà. Vì thế cháu mới cảm thấy một cách thiết tha nồng hậu: “nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.

=> Tóm lại, làm nên thành công của đoạn thơ nhớ về bà, qua dòng chảy cảm xúc của nhân vật trữ tình chính là sự kết hợp, đan cài nhuần nhuyễn với nhau giữa các yếu tố biểu cảm, miêu tả và
tự sự. Đây cũng là nét bút pháp quen thuộc của nhà thơ. Chính sự kết hợp nhuần nhị độc đáo đó khiển cho hình ảnh của bà thật gần gũi, những mảng kí ức tuổi thơ lại hiện về sống động và
chân thành, giản dị.

b. Những suy ngẫm về hà và hình ảnh bếp lửa. (Khổ 5,6)

- Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu trở về hiện tại để suy ngẫm về cuộc đời và lẽ sống của bà và cũng là để thương bà nhiều hơn, nhớ bà nhiều hơn. Hình ảnh bà luôn
gắn liền với hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Có thể nói bà là “người nhóm lửa”, lại cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và toả sáng trong mỗi gia đình.

+ Từ “bếp lửa”, đứa cháu nghĩ về “ngọn lửa”- một hình ảnh ẩn dụ rất tráng lệ. “

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen.

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng"

“Bếp lửa bà nhen sớm sớm chiều chiều" không phải chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài mà đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, ngọn
lửa của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm lòng, niêm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu
thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống
của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến. Diệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào. Tình thương, đức
hi sinh, tính kiên trì nhẫn nại của bà là nguồn nhiên liệu vô tận làm bừng sáng lên ngọn lửa vĩnh cửu truyền cảm ấy. Như thế, hình ảnh bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người
truyền lửa - ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

+Tám câu thơ tiếp theo là những suy nghĩ sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về người bà kính yêu, về bếp lửa trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta. Cuộc đời của bà nhiều “lận đận”, trải qua
nhiều “nắng mưa” vất vả. Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình. Cảnh nghèo nên bà suốt đời vất vả. Từ “lận đận” thể
hiện tấm lòng đôn hậu và đức hi sinh của bà:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ


Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm"

Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời bà, đã trải qua nắng mưa “mấy chục năm rồi”. Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi bàn tay già nua, gầy guộc, mà là bằng tất cả tấm lòng đôn hậu “ấp
iu nồng đượm” của bà đối với con cháu. Diệp từ “ nhóm” được nhắc đi nhắc lại 4 lần trong 4 câu thơ đan kết với những chi tiết rất thực... có điểm chung là cùng gắn với hành động nhóm bếp,
nhóm lửa của bà nhưng lại khác nhau ở những ý nghĩa cụ thể: khi thì nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh buốt của sương sớm; đến câu tiếp theo thì đã vừa
nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng mà như còn đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình yêu thương vô hạn của bà. Dến câu tiếp theo thì lòng bà còn
mở rộng hơn cùng với nồi xôi gạo mới mùa gặt là tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi và đến câu thứ tư thì hoàn toàn mang nghĩa trừu tượng: nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ.
Tình cảm của bà bao la giản dị như khoai sắn và cũng đậm đà như khoai sắn.Các từ ngữ “ấp iu nồng đượm”, “yêu thương”, “ngọt bùi”, “chung vui” thể hiện sự tinh luyện của một ngòi bút nghệ
thuật, đã diễn tả thật hay tình thương, niềm vui, sự no ấm, hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con cháu. Bà đã “nhóm dậy cả những tâm tỉnh tuổi nhỏ”, nuôi dưỡng và làm bừng sáng những
ước mơ, những khát vọng của đàn cháu nhỏ. Bếp lửa bà nhen đã nhóm lên ngọn lửa của tình thương ấm áp. Chính vì thế mà nhà thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân
thuộc sự kì diệu, thiêng liêng: “ÔI! Kì lạ và thiêng liêng - Bếp lửa”. Như vậy, từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một “niềm tin dai dẳng” về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc
vất vả, gian lao mà tình nghĩa.

c. Niềm thương nhớ của cháu

- Dứa cháu năm xưa giờ đã trưởng thành

“ Giờ cháu đã đi xa.

Cỏ ngọn khói trăm tàu.

Cỏ lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa"

- điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới mẻ. Cháu đã được sống với những niềm vui rộng mở, nhưng giữa “ngọn khói trăm tàu, ngọn lửa trăm nhà, cháu vẫn không thể
quên bếp lửa của bà, vẫn không nguôi nhớ thương bả.... Mỗi ngày đều tự hỏi: “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?, mỗi ngày đều nhớ về bà và bếp lửa của bà. Hình ảnh ấy đã trở thành kỉ
niệm thiêng liêng làm ấm lòng, nâng đỡ cháu trên những bước đường đời.

d. Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình đài rộng của cuộc đời. Tình yêu
thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước.

Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận; giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng
và suy ngẫm. Bài thơ như ngọn lửa ấm áp toả sáng và cháy mãi trong tỉnh cảm của người đọc.

Sff

Đoạn văn diễn dịch


1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc về bà :

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Khổ một trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã mang đến những cảm nhận sâu sắc về tình cảm bà cháu ấm áp được khơi nguồn từ hình ảnh bếp lửa thân quen. Khi nhớ về quê hương, ta
thường nhớ về những kỉ niệm gắn bỏ với làng quê có con sông xanh biếc, gốc đa, bến nước, sân đình,.... Nhưng dòng hồi tưởng của tác giả lại bắt đầu từ hình ảnh về bếp lửa vốn đã quen thuộc
trong mỗi gian bếp quê. Mở đầu là điệp ngữ "một bếp lửa" gợi cảm nhận về hình ảnh bếp lửa đã in đậm vào suy nghĩ và cuộc đời của tác giả. Đó là bếp lửa được bà nhóm lên trong "sương
sớm" ban mai. Nó luôn hiện hữu trong suốt những năm tháng tuổi thơ của Bằng Việt. Từ tượng hình "chờn vờn" giúp ta hìnhdung ánh lửa hồng khi mờ khi tỏ trong mỗi sớm mai, gợi về cái mờ
nhòa của kí ức theo thời gian. Không những thế, cháu còn cảm nhận được hơi ấm của màu than đỏ đang “ấpiu nồng đượm”. Từ "ấp iu" vừa diễn tả công việc nhóm lửa, vừa gợi đội bàn tay
khéo léo, tỉ mẩn và tấm lòng chăm chút của bà. "Nồng đượm" là cảm nhận tinh tế về khói bếpđang cháy bén, cũng chính là sự ấm áp của tỉnh bà cháu. Hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” tượng trưng
cho bao nỗi cơ hàn, vất vả đè nặng lên tấm thân già nua của bà. Chữ “thương” được dùng qua vần thơ cảm thán đã gói trọn bao cảm xúc của cháu dành cho bà, nó sẽ còn đọng lại trong tâm trí
người đọc một ý nghĩa sâu sắc.

2. Tuổi thơ được bà yêu thương, che chở:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khỏi

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khỏi hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay !


Khổ hai trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã mở ra những dòng hồi tưởng về năm tháng ấu thơ được bà yêu thương, che chở. Tuổi thơ của cháu không phải là vòm trời cổ tích cao rộng
với những phép màu diệu kì, mà tuổi thơ của cháu thật nhọc nhằn, quen mùi khói bếp khi mới chỉ lên bốn. Những năm tháng đó là những năm tháng khó khăn, thiếu thần gắn với bóng đêm
ghê rợn của nạn đói năm 1945 trong lịch sử dân tộc. Cụm từ "đói mòn đói mỏi" nghe như tiếng kêu xé lòng, diễn tả cái đói triền miên, dai dẳng đã vắt kiệt sinh mạng của biết bao nhiêu người.
Nghĩ mà thương một tuổi thơ gian khó,nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Năm tháng qua đi nhưng nó đã trở thành vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai. "Sống mũi còn cay" vừa là cảm
giác khi hít phải khói bếp, nó quen thuộc và sâu đậm đến giờ cháu vẫn không thể nào quên. Đồng thời, nó còn diễn tả cái cay đắng, cảm xúc rưng rưng mỗi khi nhớ về những kỉ niệm ấu thơ đói
khổ cùng bà.

3. Những hoài niệm về thời niên thiếu bên bà gắn với âm thanh khắc khoải của tiếng chim tu hú :

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hủ kêu, bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa P

Khổ ba trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã gợi nhớ những hoài niệm về thời niên thiếu bên bà gắn với âm thanh khắc khoải của tiếng chim tu hú. Tám năm trời ròng rã bên ánh lửa bập
bùng, bà vừa là cha, vừa là mẹ, là người dạy dỗ cháu nên người. Tiếng chim tu hú là âm thanh quen thuộc của làng quê mỗi độ vào hè. Tiếng chim râm ran trong vòm lá, trên những cánh đồng

cứ kêu hoài, kêu mãi, giục giã cả một khoảng trời khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm. Từ "tu hú" được nhắc lại bốn lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi, tha thiết, làm cho người
đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của người cháu xa quê. Tiếng chim còn gợi ra không gian bao la, bát ngát nhưng lại vắng lặng, heo hút lạ thường, đó cũng là
tình cảnh của hai bà cháu. Dẫu vậy, tuổi thơ cháu vẫn ấm áp, thấm đượm tình yêu thương của bà. Các từ "bảo", "dạy", "chăm" nói đến với tấm lòng trân trọng, diễn tả sâu sắc, thấm thía sự
đôn hậu, chăm chút tỉ mỉ, tình thương chan chứa của bà. Bốn lần các từ "bà", "cháu" được nhắc tới và đi kèm với nhau gợi tả tình bà cháu quấn quýt, là sự kết hợp cao quý giữa tình cha –
nghĩa mẹ – công thầy. Câu hỏi tu từ và tâm lí chạnh lòng thốt lên "tu hú ơi!" thể hiện ở nơi phương xa, Bằng Việt chỉ mong tu hú "đến ở cùng bà" để trở thành người bạn chia sẻ những buồn
vui, lo toan. Ơn nghĩa của bà cháu mãi khắc ghi qua những vần thơ da diết, xúc động.

4. Nghị lực và đứa hy sinh của bà trong những năm tháng kháng chiến :

Năm giặc đốt làng chảy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh :

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chở kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !

Khổ bốn trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã nói lên nghị lực và đức hy sinh cao cả của bà trong những năm tháng kháng chiến. Hình ảnh người bà bỗng trở nên cao lớn, vĩ đại khi cháu
nhớ về "năm giặc đốt làng" đau thương, vất vả. Vần thơ gợi lại tội ác của kẻ thủ đã khiến bao gia đình chịu mất mát, chia lia. Cuộc sống của hai bà cháu vô cùng cơ cực khi rơi vào cảnh "màn
trời chiếu đất", đó là những tháng ngày tăm tối đã hằn sâu trong tuổi thơ của người cháu. Nghèo khổ là vậy nhưng bà "vẫn vững lòng", trở thành bức tường thành luôn che chở, bảo vệ cháu.
Từ "đinh ninh" là nhắc đi nhắc lại để chắc chắn ghi nhớ cháu rằng "chớ kể này, kể nọ". Bà "dặn cháu" như vậy để bố mẹ yên tâm công tác trên chiến trường. Từ đó, ta thấy ở bà có những phẩm

chất thật cao đẹp : giàu lòng thương, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc tuổi già để đổi lấy độc lập dân tộc và đặc biệt là lòng dũng cảm, kiên định của bà trước mọi gian nan. Lòng ta lại nhớ về bà
mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã rơi bao giọt nước mắt để tiễn chồng con ra tiền tuyến. Bà nhận về mình tất cả những mất mát, giấu đi những đau thương, làm tròn nhiệm vụ hậu
phương để người đi xa được yên lòng. Bà chính là hình mẫu của người phụ nữ được thêu nên từ tám chữ vàng "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" như Bác Hồ ca ngợi. Hình ảnh bếp
lửa tương phản với ngọn lửa thù địch. Bên cạnh ngọn lửa thiêu rụi sự sống của giặc thì vẫn còn ngọn lửa nhen lên một sự sống khác.

5. Người bà tần tảo, yêu thương, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu :

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chửa niềm tin dai dẳng...

Khổ năm trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã khắc họa hình ảnh người bà tần tảo, yêu thương, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu. Cụm từ "rồi sớm rồi chiều" khiến câu thơ vang lên
như bước gõ nhịp của thời gian, tạo nhạc tính khiến lời thơ dồn dập,tha thiết mà mạnh mẽ. Từ "lại" gợi hình ảnh người bà lặng thầm, bền bỉ, nhẫn nại trướcmọi khó khăn. Từ bếp lửa bình dị,
thân quen ấy đã trở thành ngọn lửa. Ngọn lửa khôngchỉ được nhen lên bằng rơm, bằng củi, mà còn được nhen lên từ tấm lòng bao la của bà, được bà ấp ủ bằng đôi tay gầy guộc nên không
bao giờ vụt tắt. Nó sáng bừng lên thànhngọn lửa bất diệt của tình thương "luôn ủ sẵn" trong lòng bà. Nhờ "ngọn lửa chứ niềm tin dai dẳng" ấy mà cháu tin vào chiến thắng của dân tộc, tin vào
ngày cháu có thể trở về cùng bà. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phithường của người bà. Vì thế, trong tâm hồn nhà thơ, bà không chỉ là người nhóm
lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sựsống, niềm tin cho thế hệ mai sau nối tiếp. Âm điệu thơ trải dài với cách ngắt nhịp 3/ điệp ngữ cùng dấu
chấm lửng cuối câu khiến hình ảnh ngọn lửa cứ cháy mãi, sáng mãitrong tâm hồn thi sĩ cũng như người đọc.
6. Suy ngẫm về cuộc đời lận đận, gian truân của bà :

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm niềm xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa !

Khổ sâu trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt như một thước phim quay chậm, mọi kniệm ùa về khiến tâm trí tác giả chợt xuất hiện những dòng suy ngẫm về cuộc đời bà. Từlấy "lận đận" kết
hợp cùng nghệ thuật đảo ngữ đã gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn được đặt trên đôi vai gầy guộc của bà. Cụm từ "biết mấy nắng mưa" thể hiện nỗi cơ cực mà bà phải gánh chịu trong suốt cuộc
đời. Đã "mấy chục năm rồi", chiến tranh vẫn đi qua, gian khổ chưa vơi bớt, bà "vẫn giữ thói quen dậy sớm", cuộc đời bà cứ vất vả như vậy tưởng chừng như không bao giờ dứt. Điệp từ "nhóm"
được nhắc lại bốn lần mang nhiều tầng nghĩa, bồi đắp dần những nét "kì lạ và thiêng liêng" của bếp lửa. Đó là hành động "nhómbếp", làm cho lửa bén vào, cháy lên ngọn lửa ấm áp trong mỗi
gian bếp quê. Bên cạnhđó, nó còn mang những ý nghĩa ẩn dụ sâu xa và đầy xúc động. Bà đã khơi dậy bao tỉnh cảm trong tâm hồn trẻ thơ của cháu, dạy cho cháu tình yêu thương ruột thịt, xóm
làng, quê hương và luôn mở lòng với mọi người xung quanh. Người bà kì diệu ấy đã khơi dậy,ươm mầm cho cháu về ước mơ, hoài bão, về lẽ sống của "tâm tình tuổi nhỏ". Cháu đã trưởng
thành từ bếp lửa của bà, nhờ ngọn lửa đó đã chắp cánh cho cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng. Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ẩm hay đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong
trái tim để rồi nhà thơ phải thốt lên : "Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!". Sự kì lạ thể hiện ở chỗ qua bao năm tháng mà bếp lửa vẫn cháy sáng trong lòng người. Bếp lửa thiêng liêng đã trở
thành hình ảnh người bà và hơn thế nữa là hình ảnhcội nguồn, dân tộc để con người đi xa luôn nhớ mãi.

7. Nỗi nhớ về bà và bếp lửa :

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở :

- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa ?...

Khổ cuối trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã thể hiện nỗi nhớ da diết về bà và bếp lửa của người cháu xa quê. Bao năm dài đằng đẳng trôi qua. Đứa cháu năm xưa nay đã khôn lớn, được
tình yêu thương của bà chắp cánh bay tới những phương trời xa xôi, rộng lớn. Cháu đã được mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, "niềm vui trăm ngả". Đó là cuộc
sống đầy đủ với bao điều mới mẻ hiện ra, nhưng vẫn không nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Dấu chấm đặt ở giữa câu thơ để nhấn mạnhsự xa cách về không gian. Điệp ngữ "có", "trăm"
cho thấy những điều cháu được trải nghiệm, chứng kiến, cho thấy sự trưởng thành nhưng không thể làm cháu quên đi ánhlửa bập bùng và hơi ấm của bà. Xa vòng tay chăm chút ấy để đến với
chân trời mới. Nhưng chính tình cảm giữa hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái mùa đông lạnhgiá của nước Nga. Bài thơ kết thúc bằng câu hỏi tu từ như một lời tự vấn đã gợi cảmnhận
về nỗi nhớ khắc khoải thường trực về bà.

Sffd

Bằng Việt, một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy
xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được
khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà,

Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngọn lửa bập bùng cháy, ngọn lửa thực mà cũng chất chứa biết bao ý nghĩa:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm...

Một khung cảnh đơn sơ mà hết sức thân thuộc hiện lên trước mắt người đọc. Ngọn lửa cháy bập bùng kia gợi nhắc biết bao nhớ thương, lòng biết ơn của người cháu xa xứ đối với bà. Hai từ
“ấp iu” gợi lên hình ảnh đôi bàn tay tảo tần của bà ngày ngày nhen nhóm ngọn lửa, thức khuya dậy sớm chăm cho cháu từng miếng ăn giấc ngủ. Và để từ đó trong cháu vỡ òa cảm xúc thương
yêu bà vô tận:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Để rồi sau đó, biết bao kỉ niệm ùa về trong lòng nhà thơ, đó là những kỉ niệm mà tác giả chẳng thể quên. Về một nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng biết bao người dân Việt Nam:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỗi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”


Khi mà hàng loạt người chết đói, thì bà vẫn kiên cường, tần tảo sớm hôm, cho cháu củ khoai, một từng củ sắn, dành trọn miếng ăn cho đứa cháu vượt qua cơn đói cồn cào. Nỗi ám ảnh đó vẫn
lần sâu trong tâm chí tác giả, cái đói ghê rợn ấy, mà giờ chỉ cần nghĩ lại sống mũi cháu đã cay. Cái cay ấy không chỉ làmùi khói, mà cái cay ấy còn là những giọt nước mắt thương xót cho những
nỗi cơ cực, vất vả mà bà phải trải qua, là giọt nước mắt tri ân với tấm lòng bà dành cho cháu. Chỉ cần có bà thì mọi giông bão ngoài kia bà cũng chở che để vượt qua, bảo vệ cho cháu.

Tám năm xa cha mẹ, Bằng Việt sống cùng bà, cũng là tám năm bà bên cháu bảo ban, nuôi dạy cháu nên người:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về,

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

, Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhạc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cảnh đồng xa?

Câu thơ mà thực như là lời kể lời giãi bày của tác giả, nhưng cũng chỉ cần có vậy thôi đã nói lên tấm lòng, sự tận tụy của bà đối với cháu. Bà đã trở thành người cha, người mẹ dạy cháu khôn
lớn, nên người. Cấu trúc “ba-cháu” cho thấy sự gắn bó khăng khít giữa. Nếu không có bà ở bên có lẽ cũng sẽ không có cháu thành công, nên người của thời điểm hiện tại. Tác giả đã dồn hết
lòng kính yêu, sự tôn trọng dành cho người bà của mình.

Sang đến khổ thơ tiếp theo, khung cảnh chiến tranh trở nên khủng khiếp hơn, khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, để trơ trọi lại chỉ là những mảnh tro tàn. Nhưng bà không khuyu ngã, mà vẫn
vô cùng kiên cường, dưới sự giúp đỡ của hàng xóm dựng lại túp lều tranh cho hai bà cháu có chỗ trú mưa trú nắng- Không chỉ vậy, sợ các con công tác ngoài chiến tuyến lo lắng, bà còn dặn
trước Bằng Việt: “Bố ở chiếnkhu bố còn việc bố/ Mày có viết thư chở kể này kể nạ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” . Những lời dặndò ấy đã nói lên hết tấm lòng hi sinh cao cả của bà mẹ Việt
Nam anh hùng.

Không chỉ chăm lo, bảo ban cháu, bà còn nhóm lên trong cháu những tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

Nhóm niềm xối gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Khổ thơ với điệp từ nhóm vang lên bốn lần, đã tạo nên một khung cảnh thiêng liêng, ấm cúng và đầy tình yêu thương. Bếp lửa ấy dạy cháu biết chia sẻ, yêu thương những người xung quanh,
bếp lửa ấy giúp cháu sống có mơ ước, khát vọng, vun đắp mơ ước cho cháu. Cũng bởi vậy, mà Bằng Việt phải tốt lên : “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa" - để khẳng định ý nghĩa vai trò của bếp
lửa, hay chính của bà đối với cuộc đời mình. Để rồi ngọn lửa của hơi ấm tình thương theo cháu đi muôn ngả, giúp cháu vươn đến thành công trong bước đường tương lai. Dù đã đi xa, đến
những nơi đẹp đẽ, cuộc sống sung túc nhưng cháu vẫn không bao giờ quên hình ảnh bà, và vẫn tự nhắc nhở bản thân

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?

Câu hỏi kết lại bài thơ như một lời nhắc nhở khắc khoải, khiến người đọc lưu giữ lại ấn tượng sâu đậm.Bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị và tràn đầy cảm xúc Bằng Việt đã bày tỏ tấm lòng biết ơn
sâu sắc đối với bà. Đồng thời với bài thơ này cũng gửi gắm thông điệp về ý nghĩa tầm quan trọng của gia đình đối với mỗi người. Chúng ta phải nâng niu, trân trọng tình cảm thiêng liêng, cao
quý ấy.

Fdfdx

You might also like