Professional Documents
Culture Documents
Chuyen de On Thi Vao Lop 10 Bai Tho Bep Lua 0fa24
Chuyen de On Thi Vao Lop 10 Bai Tho Bep Lua 0fa24
Bằng Việt
I. Kiến thức cơ bản
1. Tác giả
- Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mỹ cứu nước.
- Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm và ước mơ của tuổi trẻ
nên rất gần gũi với bạn đọc.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Sáng tác năm 1963
- Xuất xứ: trích tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang Vũ
b. Chủ đề:
- Qua hình tượng bếp lửa, bài thơ góp phần gợi lại kỉ niệm đầy xúc động về bà và tình
bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với
bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.
c. Mạch cảm xúc
- Bài thơ là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về bà
- Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống
bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vất vả và tinh
yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu. Từ những kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng
thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối
cùng, người cháu muốn gửi niềm mong nhớ về với bà. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi
tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm.
II. Hướng dẫn phân tích các đoạn thơ.
1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn dòng hồi tưởng (khổ 1)
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
* Hai câu đầu
- Điệp từ “một bếp lửa” được lặp lại hai lần trong hai câu đầu bài nhấn mạnh một dấu ấn
rất sâu đậm không bao giờ phai mờ trong kí ức của tác giả làm nổi bật hình ảnh trung
tâm khơi nguồn cảm xúc của bài thơ. Đó là hình ảnh rất đỗi quen thuộc hiện về trong
nỗi nhớ của người cháu khi ở phương xa: hình ảnh bếp lửa nơi quê nhà từ thuở ấu thơ.
Đằng sau hình ảnh ấy là cả một trời kí ức tươi đẹp về thời ấu thơ, về người bà kính yêu.
- Từ láy “chờn vờn” gợi lên hình ảnh bếp lửa được nhóm lên trong sáng sớm với ngọn
lửa không định hình lúc cao lúc thấp lúc to lúc nhỏ lúc ẩn lúc hiện, nó hiện lên trong kí
ức của người cháu lúc rõ nét, lúc mờ nhạt. Một hình ảnh thực nhưng cũng rất đẹp.
- Từ tượng hình ấp iu” được tác giả sử dụng một cách sáng tạo, độc đáo, là sự kết hợp
nghĩa của các từ “ấp ủ, nâng niu, chắt chiu, chi chít”, đi liền sau là tính từ “nồng đượm”
không chỉ gợi lên hình ảnh bếp lửa hồng cháy âm ỉ không bao giờ tắt mà còn gợi đến
hình ảnh bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người nhóm lừa để
ngọn lửa ấy sáng mãi trong tâm hồn người cháu.
-> Hai câu thơ đầu hình ảnh bếp lửa đã được gợi về một cách tự nhiên chân thực và xúc
động. Hiện tại mờ đi để quá khứ rõ nét hình thành để rồi thấp thoáng trong hình ảnh
ngọn lửa buổi sương sớm ấy là bóng dáng quen thuộc của người nhóm lửa.
* Khi nhớ về bà, nhớ về bếp lửa trong lòng người cháu lại trào dâng tình cảm yêu
thương khi nhớ về bà:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
- Chữ “thương” thể hiện tình cảm kính yêu của người cháu đối với bà. Tiếng “thương”
cho cảm xúc lan tỏa thấm sâu hồn người, tiếng “thương” rất chân thật mà giản dị không
chút hoa mỹ tấm lòng yêu mến bà của cháu. Chữ “thương” ấy đi với “bà” là hai thanh
bằng đi liền nhau tạo ra âm vang như ngân dài xao xuyến, như nỗi nhớ trải dài của
người cháu dành cho bà.
- Sau tiếng “thương” ấy là hình ảnh người bà lặng lẽ âm thầm trong khung cảnh “biết
mấy tháng mưa”. Hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” không chỉ diễn tả sự biến thiên của thời
gian mà còn gợi ra cuộc đời gian lao vất vả, nhọc nhằn đầy lo toan của người bà để nhờ
đó cháu lớn khôn trưởng thành. Có lẽ chính bởi vậy mà tình cảm cháu đối với bà càng
thêm da diết sâu nặng.
-> Như vậy, ba câu thơ mở đầu bài thơ như những nốt nhạc dạo cho khúc ca về tuổi thơ,
tình bà cháu.
- Nghệ thuật: sử dụng điệp từ cùng một loạt các từ ngữ gợi hình, gợi cảm, tác giả đã làm
nổi bật hình ảnh người bà hiện và bếp lửa cùng song hành đan xen với nhau trở thành
hình ảnh trung tâm của bài thơ suốt chiều dài nỗi nhớ thương của người cháu, để rồi từ
đây trong tâm tưởng người cháu hiện về những kí ức tuổi thơ bên bà, bên bếp lửa.
2. Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà. Hình ảnh bà gắn liền với hình
bếp lửa. (khổ 2)
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
- Câu thơ đầu:
+“Bốn tuổi” là tuổi của cháu còn thơ bé, dại khờ thế mà cháu đã “quen” mùi khói bếp
bà.
+ Cách sử dụng từ vô cùng giản dị nhưng giàu sức gợi “quen” - quen thân, quen thuộc,
gắn bó. Cháu đã gắn với bếp lửa của bà từ những năm tháng nằm nôi, như “củ khoai ủ
giữa lòng bà” (Đồng Đức Bốn)
- Cuộc sống đói nghèo được tác giả tác hiện qua 2 câu thơ:
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rao ngựa gầy
+ “Năm ấy” là năm 1945, và cũng là năm cháu lên bốn tuổi. Khi nhớ về những ngày thơ
ấu gian khổ bên bà, người cháu nhớ về năm đói kém mà cháu sống trong sự cưu
mang,tình yêu thương sâu đậm của bà khi bố phải đi đánh xe, để cháu lại quê nhà cho
bà chăm bẵm.
+ Đi vào thơ Bằng Việt, nạn đói đó đã được diễn tả bằng các từ “đói mòn đói mỏi”. Từ
“mòn mỏi” được tách ra làm hai tiếng đau đến xé lòng, nó như ăn sâu vào tâm trí đứa
cháu sự ám ảnh không thể nào quên - cái đói kéo dài làm con người mệt mỏi, kiệt sức
dần, như thể từ từ giết chết người ta vậy! Cái đói dai dẳng triền miên vắt kiệt sức lực
của con người và được khắc họa rõ nét hơn qua hình ảnh “bố đi đánh giặc, khô rạc ngựa
gầy”
- Trong những năm tháng đói nghèo ấy, người cha của tác giả lao đao kiếm sống bằng
nghề kéo xe.
+ Bốn chữ “khô rạc ngựa gầy” đã diễn tả hình hài còm cõi xác xơ tội nghiệp của con
người nhưng sâu xa hơn nó đã gợi ra cái tàn phá của nạn đói, khắc họa sâu sắc về những
năm tháng héo mòn sự sống của cả dân tộc cũng như của cả gia đình người cháu: