You are on page 1of 13

BẾP LỬA

Bằng Việt
I. Kiến thức cơ bản
1. Tác giả
- Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mỹ cứu nước.
- Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm và ước mơ của tuổi trẻ
nên rất gần gũi với bạn đọc.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Sáng tác năm 1963
- Xuất xứ: trích tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang Vũ
b. Chủ đề:
- Qua hình tượng bếp lửa, bài thơ góp phần gợi lại kỉ niệm đầy xúc động về bà và tình
bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với
bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.
c. Mạch cảm xúc
- Bài thơ là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về bà
- Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống
bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vất vả và tinh
yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu. Từ những kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng
thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối
cùng, người cháu muốn gửi niềm mong nhớ về với bà. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi
tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm.
II. Hướng dẫn phân tích các đoạn thơ.
1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn dòng hồi tưởng (khổ 1)
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
* Hai câu đầu
- Điệp từ “một bếp lửa” được lặp lại hai lần trong hai câu đầu bài nhấn mạnh một dấu ấn
rất sâu đậm không bao giờ phai mờ trong kí ức của tác giả làm nổi bật hình ảnh trung
tâm khơi nguồn cảm xúc của bài thơ. Đó là hình ảnh rất đỗi quen thuộc hiện về trong
nỗi nhớ của người cháu khi ở phương xa: hình ảnh bếp lửa nơi quê nhà từ thuở ấu thơ.
Đằng sau hình ảnh ấy là cả một trời kí ức tươi đẹp về thời ấu thơ, về người bà kính yêu.
- Từ láy “chờn vờn” gợi lên hình ảnh bếp lửa được nhóm lên trong sáng sớm với ngọn
lửa không định hình lúc cao lúc thấp lúc to lúc nhỏ lúc ẩn lúc hiện, nó hiện lên trong kí
ức của người cháu lúc rõ nét, lúc mờ nhạt. Một hình ảnh thực nhưng cũng rất đẹp.
- Từ tượng hình ấp iu” được tác giả sử dụng một cách sáng tạo, độc đáo, là sự kết hợp
nghĩa của các từ “ấp ủ, nâng niu, chắt chiu, chi chít”, đi liền sau là tính từ “nồng đượm”
không chỉ gợi lên hình ảnh bếp lửa hồng cháy âm ỉ không bao giờ tắt mà còn gợi đến
hình ảnh bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người nhóm lừa để
ngọn lửa ấy sáng mãi trong tâm hồn người cháu.
-> Hai câu thơ đầu hình ảnh bếp lửa đã được gợi về một cách tự nhiên chân thực và xúc
động. Hiện tại mờ đi để quá khứ rõ nét hình thành để rồi thấp thoáng trong hình ảnh
ngọn lửa buổi sương sớm ấy là bóng dáng quen thuộc của người nhóm lửa.
* Khi nhớ về bà, nhớ về bếp lửa trong lòng người cháu lại trào dâng tình cảm yêu
thương khi nhớ về bà:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
- Chữ “thương” thể hiện tình cảm kính yêu của người cháu đối với bà. Tiếng “thương”
cho cảm xúc lan tỏa thấm sâu hồn người, tiếng “thương” rất chân thật mà giản dị không
chút hoa mỹ tấm lòng yêu mến bà của cháu. Chữ “thương” ấy đi với “bà” là hai thanh
bằng đi liền nhau tạo ra âm vang như ngân dài xao xuyến, như nỗi nhớ trải dài của
người cháu dành cho bà.
- Sau tiếng “thương” ấy là hình ảnh người bà lặng lẽ âm thầm trong khung cảnh “biết
mấy tháng mưa”. Hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” không chỉ diễn tả sự biến thiên của thời
gian mà còn gợi ra cuộc đời gian lao vất vả, nhọc nhằn đầy lo toan của người bà để nhờ
đó cháu lớn khôn trưởng thành. Có lẽ chính bởi vậy mà tình cảm cháu đối với bà càng
thêm da diết sâu nặng.
-> Như vậy, ba câu thơ mở đầu bài thơ như những nốt nhạc dạo cho khúc ca về tuổi thơ,
tình bà cháu.
- Nghệ thuật: sử dụng điệp từ cùng một loạt các từ ngữ gợi hình, gợi cảm, tác giả đã làm
nổi bật hình ảnh người bà hiện và bếp lửa cùng song hành đan xen với nhau trở thành
hình ảnh trung tâm của bài thơ suốt chiều dài nỗi nhớ thương của người cháu, để rồi từ
đây trong tâm tưởng người cháu hiện về những kí ức tuổi thơ bên bà, bên bếp lửa.
2. Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà. Hình ảnh bà gắn liền với hình
bếp lửa. (khổ 2)
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
- Câu thơ đầu:
+“Bốn tuổi” là tuổi của cháu còn thơ bé, dại khờ thế mà cháu đã “quen” mùi khói bếp
bà.
+ Cách sử dụng từ vô cùng giản dị nhưng giàu sức gợi “quen” - quen thân, quen thuộc,
gắn bó. Cháu đã gắn với bếp lửa của bà từ những năm tháng nằm nôi, như “củ khoai ủ
giữa lòng bà” (Đồng Đức Bốn)
- Cuộc sống đói nghèo được tác giả tác hiện qua 2 câu thơ:
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rao ngựa gầy
+ “Năm ấy” là năm 1945, và cũng là năm cháu lên bốn tuổi. Khi nhớ về những ngày thơ
ấu gian khổ bên bà, người cháu nhớ về năm đói kém mà cháu sống trong sự cưu
mang,tình yêu thương sâu đậm của bà khi bố phải đi đánh xe, để cháu lại quê nhà cho
bà chăm bẵm.
+ Đi vào thơ Bằng Việt, nạn đói đó đã được diễn tả bằng các từ “đói mòn đói mỏi”. Từ
“mòn mỏi” được tách ra làm hai tiếng đau đến xé lòng, nó như ăn sâu vào tâm trí đứa
cháu sự ám ảnh không thể nào quên - cái đói kéo dài làm con người mệt mỏi, kiệt sức
dần, như thể từ từ giết chết người ta vậy! Cái đói dai dẳng triền miên vắt kiệt sức lực
của con người và được khắc họa rõ nét hơn qua hình ảnh “bố đi đánh giặc, khô rạc ngựa
gầy”
- Trong những năm tháng đói nghèo ấy, người cha của tác giả lao đao kiếm sống bằng
nghề kéo xe.
+ Bốn chữ “khô rạc ngựa gầy” đã diễn tả hình hài còm cõi xác xơ tội nghiệp của con
người nhưng sâu xa hơn nó đã gợi ra cái tàn phá của nạn đói, khắc họa sâu sắc về những
năm tháng héo mòn sự sống của cả dân tộc cũng như của cả gia đình người cháu:

Con đói lả ôm lưng mẹ khóc


Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi!
(Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu)
- Có thể thấy mùi khói bếp đã in thấm vào cháu để đến bây giờ dù đã trưởng thành đã
xa cách nghìn trùng quê hương yêu dấu cháu vẫn cảm nhận:
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
+ Cụm từ “hun nhèm” gợi hình ảnh làn khói dày đặc, mịt mù vì rơm ướt, củi ẩm, lá mục
đồng thời tô đậm vất vả, khó nhọc đời bà.
+ Chính vì lẽ đó, trong cháu nghẹn ngào xúc động, “cay” nơi sống mũi. “Cay” là cảm
giác cay xè sống mũi vì làn khói độc xộc vào, là cảm xúc rưng rưng nghẹn ngào khi nhớ
về bà và bếp lửa. Cảm giác của quá khứ và cảm xúc ở hiện tại chan hoà vào nhau làm
cho kỉ niệm của cháu về bà còn vẹn nguyên, tươi rói, không nhạt chẳng phai, không hao
chẳng khuyết. Đó cũng là minh chứng cho lòng thuỷ chung của cháu với bà, cũng là với
quê hương, đất nước, nguồn cội
-> Có thể thấy kỉ niệm năm lên bốn tuổi là quãng thời gian không thể quên về một thời
thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần nhưng lại đầy ắp tình yêu thương..
3. Kỉ niệm tám năm sống bên bà (khổ 3):
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bạn không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
- Đoạn thơ với giọng điệu tâm tình thủ thỉ như một lời kể chuyện có thời gian, không
gian và các nhân vật cụ thể: Đó là quãng thời gian “tám năm ròng” cháu sống cùng bà,
nhận được sự yêu thương che chở của bà.
- Câu thơ mở đầu đoạn thơ với danh từ chỉ thời gian cụ thể “tám năm” cùng với cách sử
dụng từ “ròng” rất giản dị đã gọi lên một quãng thời gian dài dằng dặc và trong khoảng
thời gian ấy cháu cùng bà không phải là đốt lửa mà là “nhóm lửa”.
+ Chính động từ “nhóm” đã gợi nên sự bền bỉ, khó khăn của người bà trong công việc.
+ Nếu như kỉ niệm hồi bốn tuổi ấn tượng đậm nét nhất với đứa cháu là mùi khói bếp thì
đến dây ấn tượng ấy lại là “tiếng chim tu hú”. Trong văn học nghệ thuật, tiếng chim tu
hú là biểu tượng của một sự khắc khoải nhớ nhung da diết khôn nguôi. Trong thực tế, tu
hú lại là một loài chim bất hạnh, không biết ấp trứng và làm tổ. Tiếng kêu của chúng
phải chăng vì vậy mà trở nên khắc khoải, mòn mỏi, mong đợi, khát khao một điều gì đó
tha thiết lắm.
- Mở rộng: Ta đã từng nghe thấy tiếng kêu ấy trong “Khi con tu hú" của Tố Hữu, làm
sục sôi khao khát tự do mãnh liệt, bùng cháy mạnh mẽ nơi người tù cách: mạng,khiến
anh phải thốt lên:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết mất thôi!
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu
- Ta dễ dàng cảm nhận được trong “Bếp lửa”, tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng
kỉ niệm của cháu trải dài hơn, rộng hơn và sâu hơn trong cái không gian xa vắng của nỗi
nhớ thương.
- Có mười một câu thơ mà âm thanh vang vọng lên năm lần, khi thảng thốt, khắc khoải,
có lúc lại mơ hồ văng vẳng từ những cánh đồng xa “Tu hú kêu trên từng cánh đồng xa”,
khi thì lại rộn về rất gần gũi, tha thiết “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế". Rồi có lúc
gióng giả kêu hoài.
- Điệp ngữ và câu hỏi tu từ đã tạo nên những cung bậc khác nhau của âm thanh: “Tu hú
ơi, chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa". Tất cả gợi lên không
gian mênh mông, bao la, buồn vắng đến lạnh lùng. Trong những cung bậc khác nhau
của âm thanh tiếng chim tu hú, tâm trạng của người cháu mỗi lúc một trở nên da diết,
mạnh mẽ hơn.
- Bên cạnh bếp lửa hồng, bên cạnh âm thanh của tiếng chim tu hú, hai bà cháu đã gắn bó
chia sẻ, chắt chiu những tình cảm ấm nồng suốt tám năm ròng.
-Trong các cung bậc khác nhau của tiếng chim tu hú, hình ảnh người bà hiện rõ dần:
+ Bên bếp lửa, “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”. Hai câu thơ “Khi tu hú kêu bà
còn nhớ không bài Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế” như là lời trò chuyện trực tiếp
của cháu với bà để cùng bà ôn lại những kỉ niệm năm xưa. Trong kỉ niệm ấy, bà hiện
lên gắn liền với những câu chuyện mà bà hay kể cho cháu nghe, chuyện đời nay, đời
xưa... có cả những câu chuyện về những ngày đồng khởi ở Huế. Qua từng câu chuyện.
bên bếp lửa có lẽ bà muốn truyền cho cháu ý thức về tinh thần chiến đấu của cả dân tộc
trong những năm tháng chiến tranh ác liệt.
- Bên bếp lửa, bà làm tất cả mọi việc để giúp cháu có cuộc sống đầy đủ cả về vật chất
và tinh thần:
Mẹ cùng cha công tác bạn không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
- Các câu thơ là kể lại những công việc của người bà, diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng
đôn hậu, tình yêu thương, bao la, sự chăm chút của người bị đối với đứa cháu nhỏ.
+ Điệp từ “bà” được lặp lại nhiều lần trong câu thơ gợi tả tình cảm bà cháu quấn quýt
yêu thương. Hình ảnh người bà hiệu lên ấm áp, tần tảo, chịu thương chịu khó, bà luôn là
chỗ dựa vững chắc cho cháu, thay thế và lấp đầy tất cả những thiếu thốn của người
cháu. Có thể nói trong tâm tưởng của người cháu khi “Mẹ cùng cha công tác bận không
về" thì bà đã làm thay công việc của cả cha mẹ thậm chí cả công việc của người thầy.
Bà đã bồi đắp cho cháu cả về thể chất lẫn tinh thần, bà hiệu lên trong bài thơ là sự kết
hợp cao quý giữa tình cha, nghĩa mẹ, ơn thầy.
- Được sống trong tình yêu thương của bà, tuy gặp muôn vàn khó khăn nhưng cháu vẫn
cảm thấy hạnh phúc, có lẽ vì thế mà tình cảm cháu dành cho bà cũng thật thiết tha,
nồng hậu:
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
+ Đến đây cảm xúc của người cháu được bộc lộ trực tiếp “Nhóm bếp lửa nghĩ thương
bà khó nhọc”. Lại một lần nữa tiếng thương gieo vào dòng thơ tình cảm kính yêu nhớ
thương tha thiết cháu dành cho bà. Thương bà người cháu thấu hiểu những nhọc nhằn
khó nhọc và sự cô đơn, trống vắng mà bà phải chịu đựng.
+ Và trong tâm tưởng người cháu cất tiếng gọi chim tu hú như một lời trách cứ nhẹ
nhàng “Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà”. Trách tu hú hay người cháu trách chính mình
không ở bên bà khi tuổi già trái gió. Tự trách hay đó cũng chính là niềm mong mỏi của
người cháu khi ở phương xa luôn mong cho người bà được sống vui vẻ. Niềm mong
mỏi ấy cũng chính là nỗi lòng luôn nhớ về quê hương, về người bà của tác giả.
- Mở rộng: Cảm xúc này, thật giống với những cảm xúc của cô con gái xa bố, xa vườn
vải, xa quê hương trong bài thơ “Tiếng chim tu hú” của Anh Thơ:
Con đi dài thương nhớ
Mười năm chưa về quê
Tu hú ơi tu hú!
Kêu hoài chi vườn xanh?
Ta còn đi đi nữa
Như dòng sông trôi nhanh
- Nghệ thuật liệt kê, điệp ngữ, câu hỏi tu từ, nhân hóa... góp phần tái hiện một phần kỉ
niệm tuổi thơ tám năm ròng giúp ta cảm nhận được tấm lòng của người bà dành cho
cháu cũng như sự biết ơn của cháu với công lao sâu nặng của bà. Hình ảnh bếp lửa cùng
hình ảnh người bà ân cần tần tảo trong tiếng chim tu hú kêu xa cứ trở đi trở lại tạo nên
bức tranh tình người lung linh xao xuyến...
4. Kỷ niệm năm giặc đốt làng (khổ 4)

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi


Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên
- Hồi tưởng về những năm giặc đốt làng, tác giả đã sử dụng một loạt các phương thức tự
sự, miêu tả để làm sống dậy những thiệt thòi, mất mát của hai bà cháu.
- Câu thơ đầu tiên “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi” với các từ “đốt làng” và phép
lặp “cháy tàn cháy rụi” đã gợi về hoàn cảnh đau thương của dân làng khi giặc đến đồng
thời cũng phần nào thể hiện tội ác của thực dân Pháp, Cùng với dân làng, hai bà cháu
cùng chung cảnh khó khăn gian khổ khi giặc tới đốt phá làng. Trong khó khăn ấy, được
sự giúp đỡ của xóm làng, bà đã dựng lại được túp lều tranh. Hai chữ “đỡ đần” gói trọn
bao nhiêu sẻ chia, tình đoàn kết của người dân Việt Nam trong những năm kháng chiến
chống Pháp gian khổ.
- Vượt lên những khó khăn gian khổ ấy bà vẫn vững lòng dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên
+ Dặn cháu như vậy là bà muốn nhận về mình biết bao khó nhọc để con cháu yên tâm
công tác. Lời dặn của bà đâu chỉ gợi nên tình cảm suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên
phẩm chất của người mẹ VN: đảm đang, ý chí, nghị lực, tần tảo, giàu đức hi sinh. đây
hình ảnh bếp lửa ân cần, ấm cúng và nhẫn nại của bà hoàn toàn tương phản với ngọn lửa
thù địch đối với sự sống :"Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi".
-> Có thể thấy đối lập với ngọn lửa thiêu rụi sự sống của bọn ngoại xâm là ngon lừa của
tình bà cao cả, của tấm lòng yêu thương gia đình, lo toan, gánh vác mọi công việc.
- Nghệ thuật….
- Đánh giá: Như vậy có thể thấy đoạn thơ xen lẫn giữa lời kể là mạch cảm xúc hình ảnh
thơ cứ lan tỏa giọng thơ chuyển từ trữ tình sang tự sự đã làm sáng lên những dấu ấn sâu
đậm về hình ảnh người bà. Hình ảnh của bà tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt
Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với tình yêu thương của bà, với sự chăm chút, nâng
niu của bà, cháu đã lớn không trưởng thành, để rồi khi nhớ về bà, trong lòng cháu lại
trào dâng tình yêu thương, niềm biết ơn vô hạn.
5. Khổ 5: Sau muôn vàn khó khăn gian khổ người bà lạt vững vàng trong cuộc
sống của minh với công việc nhóm lửa
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
- Cụm từ “rồi sớm tối chiều” với diệp từ “rồi" cùng 2 từ chỉ thời gian “sớm, chiều” đã
diễn tả dòng thời gian nối tiếp quen thuộc. Cùng với dòng thời gian ấy là hình ảnh bếp
lửa bà nhen lên mỗi sớm mỗi chiều.
- Từ “lại” đặt giữa lòng thơ gọi cho người đọc nghĩ đến sự tần tảo, vất vả của bả trong
công việc nhóm lửa.
- Đến cây hình ảnh bếp lửa đã được thay thế bằng hình ảnh ngọn lửa mang ý nghĩa ẩn
dụ tượng trưng cho ánh sáng và hơi ấm của sự sống đó là ngọn lửa của tình yêu thương
luôn ủ sẵn trong lòng bà là ngọn lửa của đức hi sinh cao cả, ngọn lửa của niềm tin của ý
chí, nghị lực, niềm hy vọng, ngọn lửa ấy truyền cho người cháu niềm tin về tương lai
tươi sáng.
- Điệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh và khẳng định tình yêu thương ấm áp mà bà
dành cho cháu và những điều kì diệu mà bà đã nhen lên trong tâm hồn người cháu. Hình
ảnh ngọn lửa tỏa sáng câu thơ lung linh chân dung người bà, làm ấm lòng mỗi trái tim
bạn đọc. Ngọn lửa ấy là sức sống, là tình thương của bà trong cuộc sống của hai bà
cháu, của cả gia đình, rộng hơn với công cuộc kháng chiến lúc bấy giờ. Đó còn là ngọn
lửa biểu tượng của sự sống muôn đời bất diệt không chỉ của riêng bà trong kỷ niệm của
cháu ở bài thơ này mà còn là biểu tượng cho toàn dân tộc, đất nước ta trước kia thắp
sáng đến bây giờ và mai sau.
-> Đó phải chăng là ý chí nghị lực, niềm tin của cả dân tộc trong thời kỳ lịch sử khó
khăn hướng về ngày mai hòa bình, tươi sáng về một tương lai tốt đẹp. Qua đây có thể
thấy hình ảnh người bà hiện lên không chỉ là người giữ lửa, người thắp lửa mà còn là
người truyền lửa. Ngọn lửa ấy là niềm tin, là sức sống truyền đến các thế hệ mai sau.
- Nghệ thuật: sự kết hợp, đan xen nhuần nhuyễn giữa các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự
sự. Đây cũng là bút pháp quen thuộc của nhà thơ. Chính sự kết hợp nhuần nhị độc đáo
đó khiến hình ảnh của bà thật gần gũi, nhưng mang tuổi thơ lại hiện về sống động, chân
thành và giản dị. Qua đó, trong dòng hồi tưởng về quá khứ, người cháu thể hiện nỗi nhớ
thương vô hạn và biết ơn bà sâu nặng.
6. Suy ngẫm về cuộc đời bà và công việc nhóm lửa (khổ thơ 7)
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
- Câu thơ mở đầu
+ Từ láy “lận đận” như gợi ra trước mắt ta dáng hình người bà sớm hôm tần tảo bên bếp
lửa. Bên cạnh đó câu thơ với cấu trúc đảo còn gợi sự vất vả lam lũ của cuộc đời bà.
+ Cụm từ “biết mấy nắng mưa” vốn được nhắc đến ở khổ đầu bài thơ được lặp lại ở khổ
thơ này khắc sâu thêm những nhọc nhằn vất vả bà đã đi qua. “Biết mấy nắng mưa” ấy
không chỉ là sự cách trở của thời gian mà còn là những gian truân vất vả của cuộc đời
bà. Trong những năm tháng cả nước ngập chìm trong gian lao vất vả, đói nghèo chinh
chiến, bà gánh vác những nhọc nhằn, những thiếu thốn, những lo toan để con cháu nơi
xa được yên lòng. Đi qua những mưa nắng cuộc đời bằng ý chí nghị lực vững vàng,
bằng tình yêu thương cháu, bằng niềm tin dai dẳng để nuôi cháu khôn.
-> Như vậy, cách lặp cấu trúc câu cùng với cách diệp và đảo ngữ khiến giọng thơ tha
thiết lắng sâu tạo sự xúc động dạt dào trong tâm hồn cháu. Đó là sự biết ơn chân thành
của cháu ẩn sâu trong nỗi nhớ thương với sự cảm thông sâu sắc, sự trân trọng của cháu
với bà, cuộc đời vất vả, tần tảo của bà.
- Nhớ về bà là người cháu nhớ đến những thói quen công việc của bà:
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
+ Hai câu thơ như là sự khái quát cuộc đời bà từ quá khứ đến hiện tại. Đã mấy chục
năm có biết bao sự thay đổi nhưng bà vẫn giữ thói quen dậy sớm để nhóm bếp nhóm
lửa. Cách dùng số từ không xác định “mấy chục năm” cùng với mốc thời gian xác định
“bây giờ” kết hợp với phó từ “vẫn”, hai câu thơ đã giúp chúng ta cảm nhận được thói
quen công việc đã trở thành thường nhật của người bà trong suốt quãng thời gian dài.
Thói quen ấy được đo bằng chiều dài thời gian của cả đời người “mấy chục năm rồi”.
_ Nếp sống ấy lại càng tô đậm sự vất vả gian truân của cuộc đời bà. Hình ảnh của
bà có lẽ chính là hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh dù trải qua
bao gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương đối với con cháu..
- Càng thương bà bao nhiêu người cháu càng hiểu sâu sắc ý nghĩa công việc nhóm lửa
của bà:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
+ Điệp từ “nhóm” lặp lại bốn lần ở đầu bốn câu thơ liên tiếp thể hiện những suy nghĩ
sâu sắc về bà, về bếp lửa, nhấn mạnh những ý nghĩa tử công việc nhóm lửa: Khơi dậy
tình cảm tốt đẹp trong tâm hồn con người. Bên cạnh đó, việc điệp lại cấu trúc câu với
hình ảnh bếp lửa ấm nóng trở đi trở lại hết sức thấm thía khắc sâu trong lòng người cháu
những tình cảm yêu thương nồng nàn mà bà dành cho cháu.
+ Từ "nhóm" đầu tiên: "Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm" nhóm là động từ thể hiện một
hành động làm cho lửa bén, cháy lên ngọn lửa và một bếp lửa hoàn toàn có thật có thể
cảm nhận bằng mắt thường để xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt để nấu
chín thức ăn và đó là một bếp lửa rất bình dị có ở mọi gian bếp của làng quê Việt Nam.
+ Nhóm bếp lửa là nhóm lên tinh yêu thương. Bốn chữ “khoai sắn ngọt bùi” gợi đến
hình ảnh thực của cuộc sống bình dị, mộc mạc, hơn thế, nó còn tượng trưng cho tình
yêu thương thơm thảo mộc mạc của bà. Tinh yêu thương đó không chỉ gửi vào những
món ăn dân dã mà đó còn là tình yêu thương gia đình mà muốn khơi dậy trong tâm hồn
cháu.
+ Bên bếp lửa, bà còn khơi dậy trong cháu tình làng nghĩa xóm, san sẻ, đoàn kết trong
hương vị “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”. Ba chữ “sẻ chung vui” truyền đến sự gắn kết
tình làng nghĩa xóm với niềm vui thuần hậu. Nồi xôi gạo mới kia hay chính là sự đền ơn
đáp nghĩa của bà trước sự “đỡ dần” của làng xóm trong cơn hoạn nạn? Đó là biểu hiện
vẻ đẹp cao quý mà cũng vô cùng quen thuộc của con người Việt Nam, là cội nguồn của
tình yêu thương đoàn kết của cả dân tộc.
+ Chính từ bếp lửa, từ lòng bà, bà còn khơi dậy trong tuổi thơ cháu những ước mơ khát
vọng: “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”. Hai tiếng “tâm tình” là sự kết hợp của
tâm hồn và tình cảm. Bà với tình yêu thương không chỉ nuôi cháu lớn xác mà còn chăm
cháu lớn hồn, không chỉ nuôi cho cháu lớn khôn mà còn dạy cho cháu lớn lên. Chính vì
vậy dù đã khôn lớn trưởng thành, đã đi xa nhưng cháu vẫn nhớ về bếp lửa, nhớ về cội
nguồn quê hương đất nước. Người bà kỳ diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức
mạnh kì diệu từ trái tim.
- Mở rộng: Ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:
Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trắng.
- Khi nghĩ về bà, cảm xúc trào dần khiến cháu thốt lên đầy ngạc nhiên:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng– bếp lửa!”
+ Câu cảm thán, đảo ngữ, nhấn mạnh và thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như một sự
khám phá ra điều kì diệu của bếp lửa và sự thiêng liêng của tình bà cháu.
+ Câu thơ như một sự khám phá của người cháu về điều kì diệu trong cuộc đời bình dị:
đó là bếp lửa bình thường, giản dị, quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam nhưng với
nhà thơ nó lại hiện lên vô cùng cao quý, kì lạ, thiêng liêng vì bếp lửa ấy luôn cháy lên
trong mọi cảnh ngộ không chỉ cháy lên trong lòng bà mà còn cháy sáng trong tâm hồn
người cháu vì bếp lửa ấy không chỉ được thắp lên từ nhiên liệu thông thường mà nó còn
được nhen lên từ lòng bà, từ “niềm tin dai dẳng” của bà. Từ bếp lửa của bà, cháu có kí
ức tuổi thơ tươi đẹp bên bà, từ bếp lửa của bà mà cháu lớn khôn. Kì diệu và thiêng liêng
là thế, đến dây bếp lửa trở thành biểu tượng cho tình cảm quê hương, đất nước, cội
nguồn.
- Cách sắp xếp khéo léo hình ảnh bếp lửa và hình ảnh người bà đi gần nhau nhà thơ
muốn gửi đến người đọc một thông điệp: những gì thiêng liêng nhất của tuổi thơ bao
giờ cũng có sức mạnh nâng đỡ tâm hồn và chắp cánh ước mơ cho mỗi con người trên
suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Trong đó tình cảm bà cháu, tình cảm đối với gia
đình, với quê hương sẽ giúp con lớn lên trưởng thành và luân cội nguồn cho tình yêu
thương.
- Nghệ thuật…
7. Suy nghĩ của cháu khi trong hiện tại khi ở xa (khổ cuối)
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lửa lên chưa?
+ Vậy là đứa cháu bé bỏng năm xưa giờ đã khôn lớn trưởng thành. Từ chỉ thời gian “giờ
đặt đầu khổ thơ kéo người đọc từ hồi ức quá khứ với những kỉ niệm êm đềm bên bà của
người cháu trở về với thực tại.
+ Câu gợi mở cả về thời gian và không gian xa cách “cháu đã đi xa”. Lời thơ như một
lời thông báo cháu đã rời xa bà, rời xa bếp lửa. Liền sau lời thông báo ấy là dấu chấm
giữa dòng thơ khiến nhịp thơ như mang lại lắng đọng bao cảm xúc như chưa thể nói tiếp
thành lời. Dấu chấm như một cánh cửa vô hình khác với nhau nên đường đời của người
cháu: quá khứ và hiện tại. Sau cảm xúc lắng đọng câu thơ ớ ra cuộc sống của chúng
trong hiện tại:
... Có ngọn khói trăm tàu...
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
+ Nghệ thuật liệt kê cùng điệp từ “trăm, có” được lặp lại trong 2 câu thơ đã mở ra cuộc
sống mới người cháu nơi xứ người. Người cháu nay đã trưởng thành đã lớn khôn từ nơi
bếp lửa nhỏ bé ở chân đã hết đến khói trăm tàu, lửa trăm nhà với cuộc sống đầy đủ tiện
nghi vật chất khác hẳn cuộc sống của hai bà chúng lúc trước cũng như cuộc sống hiện
tại của bà nơi quê nhà, cháu đã có cuộc sống mới với những niềm vui mộng mở. Vẫn là
hình ảnh khói, lừa nhưng lửa khói hôm nay khác xa khói, lừa ngày xưa bên bếp lửa của
bà.
- Tác giả đi đến khẳng định đình mình một thái độ sống không thay đổi:
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lửa lên chưa?...
+ Từ “nhưng” đứng ở đầu câu thơ thứ ba khiến cho giọng thơ chuyển từ sôi nổi, vui tươi
hồng ân xuống thể hiện sự đối lập tương phản giữa điều kiện sống và thái độ sống của
người cháu.
+ Từ “vẫn” khiến lời thơ mang tính khẳng định, liền sau ba chữ “chẳng lúc nào” đã
khẳng định niềm thủy chung vẹn toàn, là lời tự nhắc lòng của người cháu: Dù xa cách
nghìn trùng về thời gian, không gian, dù cuộc sống nơi xứ người có đa dần sung sướng
thì cháu vẫn không nguôi nhắc nhở: “Sớm mai này bà nhóm bếp lửa lên chưa?”
+ Câu thơ có hình thức như một lời thoại, nhà thơ tự nói với lòng mình, tự hỏi mình.
Câu hỏi tu từ ấy gợi cho người đọc cảm nhận như có một nỗi nhớ khắc khoải, thường
trực, một nỗi nhớ đau đớn khôn nguôi,. Lời thơ khẳng định tấm lòng yêu thương biết ơn
bà của người cháu, dù xa cách bà về thời gian và không gian nhưng hình bóng của bà và
bếp lửa sớm mai sẽ là những ký ức thiêng liêng sưởi ấm lòng cháu,
+ Câu hỏi tu từ cùng dấu chấm lửng kết thúc bài thơ như như xoáy sâu vào lòng người
đọc bao cảm xúc, để lại trong ta âm vang tình bà cháu. Tình cảm ấy sẽ luôn là bệ phóng
nâng đỡ cháu suốt chiều dài của cuộc đời.
- Mở rộng: Sau này, chúng ta lại bắt gặp tình cảm ấy trong “Đôi dòng trên đưa bà nội”
mà tác giả viết khi bà nội qua đời, đó là những tình cảm kính trọng biết ơn, là tôi nhớ
thương da diết của da chau dành cho người bà kính yêu của mình:
Đôi mắt càng già càng dùng thấm thía yêu thương
Dù da dẻ khô đi, tấm lòng không hợp lại
Giàu kiên nhẫn, bà còn hy vọng mãi
Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm
8. Nghệ thuật
- Thể thơ 8 chữ biến thể, giọng điệu trầm lắng thiết tha, tâm tình phù hợp với lời tâm
tình của người cháu với bà.
- Kết hợp hài hòa giữa biểu cảm, miêu tả, tự sự và bình luận sử dụng nhiều biện pháp
nghệ thuật.
- Sáng tạo nên hình ảnh bếp lửa vừa mang ý nghĩa tả thực vừa giàu ý nghĩa biểu tượng.
Trong bài thơ có tới 10 lần tác giả nhắc đến bếp lửa, song hành cùng đó là hình ảnh
người bà. Hai hình ảnh gắn kết làm điểm tựa để khơi gợi mọi tình và cảm xúc về bà và
tình bà cháu tha thiết. Bếp lửa chính là biểu tượng cho những tình cảm cao quý của tình
bà, là phẩm chất cao đẹp của bà, bếp lửa cũng là gia đình, là quê hương, cội nguồn.
GV biên soạn
Nguyễn Anh Huy

You might also like