You are on page 1of 6

CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ "BẾP LỬA" (Bằng Việt)

Mặt trời của thi ca nga puskin đã từng viết: Linh hồn là ấn tượng của tác phẩm, cỏ cây sốngd dược là nhờ ánh sáng
chim muôn sống được là nhờ tiếng ca và tác phẩm sống được là nhờ tiếng longf của người cầm bút. Thật vậy, thơ
ca muôn đời là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của người nghệ sĩ. Bếp lửa của Bằng Việt là một bài thơ như vậy,
Đọc thi phẩm, có những câu thơ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc:
“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

-Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Bài thơ Bếp lửa được bằng việt snags tác năm 1963, khi ấy ông đang theo học luật tại liên xô cũ, ở một thành phố
xa quê hương nửa vòng trái đất. Tại đây, trong không khí giá lạnh của băng tuyết, những kỉ niệm về tuổi ấu thơ,
nỗi nhớ gia đình, quê hương,nơi có người bà và bếp lửa như ùa về trong tâm trí của nhà thơ bằng việt. Chính
những nỗi nhớ ấy đã thôi thúc nhà thơ sáng tác nên thi phẩm. Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hình ảnh bếp lưả
khơi nguồn cảm xúc đến những kỉ niệm gắn bó bên bà để rồi nhà thơ có những suy ngẫm về bà và bếp lửa và cuối
cùng là những nỗi nhớ của người cháu nơi phương xa.
Mở đầu tác phẩm, với những câu thơ mang âm hưởng trầm lắng, ngân vang, sâu sắc đã sáng lên hình ảnh bếp lửa
thiêng liêng khơi gợi những cảm xúc đầu tiên trong cháu:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
hình ảnh của “một bếp lửa”, được nhà thơ điệp tới hai lần, xuất hiện ở đầu hai câu thơ khiến cho tiếng “một bếp
lửa” trở thành điệp khúc của toàn bài. Viết về bếp lửa, Bằng Việt viết với giọng thơ sâu lắng, đong đầy những hoài
niệm, bếp lửa đã đi vào tiềm thức, là một dấu ấn khó phai mờ trong tâm trí của người cháu, và mỗi lần nghĩ về bếp
lửa, người cháu lại có cảm giác nhói trong lòng. Phải chăng đằng sau bếp lửa còn có một hình ảnh nào khác nữa?
Đó là người bà, hình bóng của người bà tần tảo thức khuya, dậy sớm để chăm sóc cháu khiến cho người cháu
không thể nào quên, cháu vẫn luôn nhớ mãi cái hình bóng thân thương mà quen thuộc ấy, để khi cháu xa bà, hình
bóng ấy vẫn luôn dai dẳng trong đầu cháu, và được gợi nhắc nhiều hơn qua hình ảnh của bếp lửa. Hình ảnh “bếp
lửa chờn vờn sương sớm” là hình ảnh vô cùng quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam vào buổi sớm mai, nhất
là vào mùa đông lạnh giá, bếp lửa mang lại hơi ấm, giúp con người xích lại gần nhau hơn, vì vậy, bếp lửa luôn ấm
nóng là dấu hiệu của một gia đình hạnh phúc, tràn đầy yêu thương. Hình ảnh bếp lửa được nhà thơ cảm nhận rõ
bằng thị giác, ngọn lửa ấy ẩn hiện chờn vờn trong làm sương sớm. Hình ảnh “chờn vờn” thật sống động , gợi nên
một ngọn lửa không định hình, khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ.Từ láy chờn vờn ấy ko chỉ gợi
nhơ sgợi thương về hình dáng bếp lửa mỗi sơm smai mà còn gợi lên cái chờn vờn trong tâm trí đứa cháu nơi
phương xa. Bếp lửa chờn vờn hay ký ức đang chờn vờn sống dậy trong tâm trí người cháu?. Bếp lửa không chỉ
sưởi ấm người cháu mà còn sưởi ấm cả người đọc qua hình ảnh ẩn dụ “ấp iu nồng đượm”. Ở đây, tác giả đã rất
khéo léo khi sử dụng từ láy tượng hình “ấp iu”. Ở câu thơ thứ hai này, nhiều người cho rằng “ấp iu” không được
coi là từ láy”. Nhưng đây là một sự sáng tạo trong cách dùng từ của Bằng Việt, “ấp iu” là sự kết hợp tinh tế giữa
hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”, qua đó để gợi nên một bàn tay kiên nhẫn, một bàn tay khéo léo để thắp lên ngọn lửa
sáng hồng, ngọn lửa được đốt lên khôgn chỉ bởi than, rơm mà còn là tấm lòng chi chút của, bà thương cháu, yêu
cháu, bà không muốn cháu bị lạnh giữa mùa đông, bà muốn cháu có được một giấc ngủ ấm áp trọn vẹn. Thật cảm
động làm sao! Hình ảnh của bà trong “bếp lửa”gợi cho ta liên tưởng tới người bà của nhà thơ Xuân Quỳnh trong
“tiếng gà trưa”, bà chắt chiu, nhẹ nhàng nhặt từng quả trứng với đôi tay khéo léo và đôn hậu :
“Cứ hàng năm hàng năm
Khi gió mùa đông tới
Bà lo đàn gà toi
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới”
Cả hai bài thơ “bếp lửa” và “tiếng gà trưa” đều nói về tình cảm gia đình tha thiết, tình bà ấm áp thiêng liêng nhưng
bài thơ “bếp lửa” không chỉ dừng lại ở đó mà bài thơ còn là dòng hồi ức của người cháu về bà, dòng hồi ức ấy
không ngưng ùa về trong tâm trí kể cả khi người cháu đang sống xa nhà. Người bà ân cần nhóm nhen ngọn lửa tình
cảm ấy, cũng giống như đôi tay bà chăm sóc cho cháu nhẹ nhàng quan tâm, hình ảnh người người bà như làn khói
từ bếp vào mỗi buổi sớm mai, hình ảnh khổ cực chăm nuôi của bà dãi dầu nắng mưa càng thắp lên trong lonhg
người cháu rõ rệt vết hằn nỗi nhớ
Một cách tự nhiên, hình ảnh bếp lửa làm trỗi dậy dòng cảm xúc yêu thương, mãnh liệt trong lòng người cháu :
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Tình thương của cháu với bà được bộc lộ trực tiếp và giản dị. Cháu thương bà - lời thốt lên từ trái tim cháu thật
chân thật,thật xúc động. Trong lòng của cháu đi xa trào dần lên những cảm xúc mãnh liệt, cháu thương bà lặng lẽ,
âm thầm đi qua biết bao gian khó, biết bao nắng mưa. “Nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ khéo léo cho cuộc đời khổ
cực, lao đao của bà, có lẽ lúc này, người cháu đã nhận thức được đôi vai gầy bà đã gánh gồng bao sương gió, tấm
lưng còng đã đội bao nắng mưa, vì vậy mà cháu càng yêu bà nhiều hơn. Hai tiếng “thương bà” đi liền với tâm
trạng xao xuyến, thương bà vì bà phải trải qua nhiều gian khó, vất vả, thương bà vì cuộc đời bà đầy cay đắng, thấm
đậm sương muối. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia và bao
hàm cả sự kính trọng và biết ơn sâu sắc, phải chăng rằng đằng sau chữ “thương” là một lời cảm ơn âm thầm của
cháu dành cho bà. Cảm ơn bà bà vì đã yêu thương cháu, nuôi nấng cháu, cảm ơn bà vì đã hi sinh để cháu có một
bữa ăn no dù bà đã tuổi dưỡng già, cảm ơn bà vì đã luôn bên cạnh cháu, cho cháu hơi ấm của tình thương, cháu
yêu bà, nhớ thương rất nhiều. Như vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm và nỗi
nhớ da diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thân yêu. Có thể coi đây là khúc dạo đầu viết về nỗi nhớ,
từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bài. Bài thơ là lời tâm tư, nỗi nhớ của người cháu về bếp lửa và bà và cả những
kỉ niệm buồn vui khi ở bên cạnh bà.Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh nổi bật và gắn bó mật thiết với nhau, nhòe
lẫn trong nhau đó là “bà” và “bếp lửa”. Trong hồi tưởng của người cháu, hình ảnh bà luôn hiện diện cùng bếp lửa.
Qua bao năm tháng, nắng mưa, bà vẫn nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời, trong mọi cảnh ngộ.
Bếp lửa là biểu hiện cụ thể, đầy gợi cảm về sự tần tảo, sự chăm sóc, yêu thương của bà dành cho cháu và những
người thân. Bếp lửa là tình bà ấm nóng. Bếp lửa ban ngày bà chăm chút. Bếp lửa còn gắn với những khó khăn gian
khổ của đời bà. Bếp lửa ấy cứ ám ảnh day dứt trong tâm trí, trong nỗi nhớ mà nhà thơ luôn trân trọng, gìn giữ.
Chính vì điều đó, khi nghĩ đến bếp lửa, hình ảnh người bà nhân hậu lại hiện lên rất rõ trong tâm trí của nhà thơ.
Và chính tình thương nhớ da diết đã đánh thức tác giả sống lại với bao kỉ niệm thời thơ bên cạnh bà. Kỉ niệm đầu
tiên hiện huwũ trong tâm tưởng của tác giả là vào năm lên 4 tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Nếu trong đoạn trích “trong lòng mẹ”, tuổi thơ ấu của Nguyên Hồng gắn với hình ảnh người mẹ và những người
cùng mà ông yêu thươn thì đối với Bằng Việt, thời thơ ấu của ông gắn với một bếp lửa và một người bà thân
thương, mộc mạc. Lời thơ giản dị, nhẹ nhàm cùng với thành ngữ “đói mòn đói mỏi” như đưa ta trở về quá khứ của
những năm 1945, nhắc đến năm 1945, chúng ta sẽ phải rợn mình trước nạn đói năm ấy, khiến hơn hai triệu đồng
bào ta bị chết vì đói. Năm 1945 là năm của sự đau thương và mất mát, trong tác phẩm “vợ nhặt” của nhà văn Kim
Lân, ông cũng từng tái hiện cảnh tượng ấy : “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào mà người trong làng đi
chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác
rưởi và mùi gây của xác người”. Và người cháu đã lớn lên trong hoàn cảnh như vậy đấy, một bóng đen tâm lý ghê
rợn trong tuổi thơ của người cháu. Cái đói ấy cứ kéo dài theo năm tháng khiến con người ta mỏi mệt, kiệt sức,
nhưng câu thơ lay động tâm trí người đọc bằng những hình ảnh con người gầy rạc, chết dần chết mòn vì cái đói
hành hạ trên làng quên tiêu điều, xơ xác. Câu thơ trĩu xuống khiến lòng người nao nao nghẹn ngào khi nhớ về
những kỉ niệm tuổi thơ ấy. Tuổi thơ của người cháu phải sống trong cảnh đói nghèo, phải chứng kiến từng người ra
đi vì cái đói hành hạ, phải chứng kiến sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh. Một đứa trẻ bốn tuổi làm sao có thể
chịu đừng được những điều ấy, hình ảnh ghê rợn ấy như khắc sâu trong tâm trí của người cháu, như bóng đen
không cách xóa đi được. Nhà thơ như đang kể lại cuộc sống ngày ấy “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”. Nhà thơ
vừa tả, vừa kể, bút pháp kể tả được đan lồng vào nhau khiến cho hình ảnh câu thơ trở nên rõ nét hơn bao giờ hết.
Vì đói, vì nghèo mà người bố phải bươn chải khắp nơi, vắt kiệt sức lực của mình để chắt chiu ra từng hạt cơm nuôi
sống cả nhà, tấm thân gầy guộc ấy của bố cùng với con ngựa gầy khiến Bằng Việt không thể nào quên. Câu thơ
miêu tả cái biểu hiện đáng sợ của “giặc đói”, vừa là nguyên nhân khiến đứa cháu phải sống xa ba mẹ từ khi còn
nhỏ. Cái đói cái nghèo lan tràn thôn xóm khiến người bố phải lên thành thị đánh xe cùng con ngựa gầy rạc, bỏ lại
đứa con thơ cho bà chăm non. Thật cảm động , thật xót xiết bao, chúng ta không chỉ đau xót cho người cháu và gia
đình người cháu mà ta còn đau xót cho cả những đứa trẻ, những gia đình có hoàn cảnh như vậy, và cả những con
người phải chết vì đói. Nhà thơ bày tỏ nỗi niềm thương cảm trước hoàn cảnh của nước ta lúc bấy giờrước những
năm đói khổ ấy, cháu cùng bà nhóm lửa, làn khói tỏa ra từ bếp lửa khiến người cháu nhớ mãi :
“Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Khói bếp của bà đã lưu giữ một kì niệm sống mãi không nguôi, mùi khói hun nhèm mắt cháu để mỗi lần người
cháu nghĩ lại “sống mũi vẫn còn cay”, cay vì khói bếp, cay vì cuộc sống nhọc nhằn, gian khổ, thiếu thốn, cái cay
của một cậu bé mới chỉ lên bốn tuổi thật tội nghiệp làm sao, mùi khói bếp tuy không thơm nhưng lại tỏa ngào ngạt,
xua tan mùi tử khí, quện chặt trong kí ức của người cháu. Bao trùm trong xã hội lúc bấy giờ là cái đói ghê rợn,
trong ký ức người cháu nó vẫn còn dai dẳng lắm, khủng khiếp lắm! Hơn 20 năm trôi qua, khói vẫn làm cay mắt
cháu như thể mới chỉ vừa hun nhèm mà thôi! Là mùi khói làm cay mắt cháu hay chính lòng của người cháu không
thể cầm được nước mắt vì nhớ thương bà?
Kỉ niệm thứ 2 trào dâng trong tâm tưởng cháu là khi lên 8 tuổi:
”Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Tám năm đối với nhiều người không phải là khoảng thời gian quá dài nhưng lại là cả tuổi thơ của người cháu. Tám
năm ròng ấy, cháu ở cùng bà, nhận được sự yêu thương, chở che của bà, cuộc sống của hai bà cháu tuy vất vả
nhưng luôn tràn đầy tình yêu thương. Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, là chỗ dựa tinh thần, sự cưu mang, đùm
bọc chi chút của bà. Bà và cháu đã nhóm lên ngọn lửa của sự sống, của tình yêu thương cháy bỏng nơi trái tim của
một cậu bé hồn nhiên. Hình ảnh bếp lửa gợi cho người cháu liên tưởng tới hình ảnh con chim tu hú - âm thanh
quen thuộc của làng quê vào mỗi độ hè về, để báo hiệu một mùa lúa chín vàng, vải chín đẻ cành, tiếng chim vang
vọng như xoáy sâu vào trong lòng của người cháu. Tiếng chim tu hú như giục giã lúa mau chín, để người dân thoát
khỏi cái đói và tiếng chim tu hú còn giống như một chiếc đồng hồ báo thức của người cháu để cháu nhắc bà
rằng :”Bà ơi đến giờ kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy”. Tiếng chim tu hú được điệp ba lần khiến cho âm điệu câu
thơ càng thêm bồi hồi, tha thiết, trở thành biểu tượng của một sự khắc khoải khôn nguôi. Tiếng chim tu hú đã trở
thành một khoảng trời kì niệm nhẹ nhàng đậm tình thương giữa bà và cháu, trở thành điệp khúc chủ âm của dòng
hoài niệm hồi lên tám tuổi, khắc họa một không gian sống vắng lặng, mênh mông, vừa gieo vào lòng người đọc
một nỗi buồn trống trải, da diết, rợn ngợp, tiếng chim lúc mơ hồ, lúc văng vẳng trên những cánh đồng xa bạt ngạt,
gọi mùa hè vàng ươm trong mường tượng của người tù Cách mạng :
“Khi chim tu hú gọi bầy
Lửa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp dây vàng hát đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
( Khi con tu hú - Tố Hữu )
Nếu Tố Hữu thốt lên một tràng thơ với những hình ảnh của thiên nhiên sống động dù đang chịu cảnh ngục tù thì
Bằng Việt chỉ thốt lên một câu duy nhất “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. Tha thiết vì tiếng chim tu hú kêu khắc
khoải hay tha thiết về những câu chuyện mà kể cháu nghe, bà sưởi ấm tuổi thơ của cháu, để cháu không còn cảm
thấy nhọc nhằn, cháu yêu bà, cảm thấy thươn bà khi nghe bà kể chuyện về cuộc đời. Bằng nét thơ sáng tạo, người
cháu đã thể hiện tình cảm của mình dành cho bà khi tâm sự chân thành với những tiếng chim tu hú bình dị trên
những cánh đồng xa. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỷ niệm có chiều sâu khiến cho nỗi nhớ
của người cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi.
Trong ký ức của mình, tác giả chẳng thể nào quên được dù bao nhiêu mùa tu hú đi qua thì bà vẫn tần tảo chăm sóc
cháu :
”Mẹ cùng cha công tác bận chưa về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”
Xa rời vòng tay của bố mẹ từ khi còn rất nhỏ, sợ cháu thiếu thốn tình thương, bà càng thương, càng yêu cháu nhiều
hơn. Những câu thơ đơn sơ mộc mạc ấy đã nói lên sự tận tụy của bà chăm lo cho cháu. Bên bếp lửa “bà hay kể
chuyện những ngày ở Huế”, bà thường kể cho cháu những câu chuyện về ngày xưa, cả những câu chuyện đời nay
để nuôi dưỡng tâm hồn cháu, cho cháu những giây phút bình yên, vui tươi giữa hiện thức gian khổ, nhọc nhằn. .
Từ những câu chuyện ấy, bà muốn răn dạy cháu những điều hay, lẽ phải, những bài học quý giá. . Bà ươm lên và
nuôi dưỡng trong những suy nghĩ, tình cảm của cháu ngay từ khi còn thơ dại một mầm cây tốt, đẹp đẽ, sáng ngời,
nó là cái gốc để phát triển thành những cành, những hoa, lá, những quả,....sau này! Nhà thơ đang nhớ lại chớt quay
sang nói chuyện với bà, tưởng như bà đang ngồi đối diện “bà còn nhớ không bà”. Bà có nhớ những câu chuyện bà
vẫn thường hay kể, trên chiếc võng, vừa nghe bà kể vừa mân mê những sợi tóc bạc trên đầu bà. Từ câu chuyện của
bà, cháu cảm thấy ngưỡng mộ những anh bộ đội cụ Hồ dũng cảm, xả thân vì dân, vì nước. Tấm lòng bao la chăm
chút của bà dành cho cháu được nhà thơ diễn tả qua hàng loạt các động từ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm”. Trong
những năm tháng bên bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên
của cháu. Bà dạy cho cháu học chữ cái, những phép tính đầu tiên trong cuộc đời người cháu. Không chỉ thế, bà còn
dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Các từ “bà - cháu” được điệp lại bốn lần, đan xen
như thể hiện sự gắn kết giữa bà và cháu. Hình ảnh người bà như một người cha, người mẹ chăm bẵm cho con
mình, cũng như một người thầy dạy bảo học trò, bà cũng là cả một bầu trời yêu thương của người cháu. Bà là sự
kết tinh cao quý giữa tình cha, nghĩa mẹ, ơn thầy, là chỗ dựa vững chắc cả về vật chất lẫn tinh thần của cháu. Bởi
nhà thơ đã từng tâm sự : “Trong cả hai cuộc Kháng chiến, chống Pháp và chống Mỹ, có lẽ vai trò của những người
bà, người mẹ, người chị… như thế là không có gì thay thế nổi. Và có thể nói không ngoa rằng chính những con
người hiền hoà, nhân hậu, khiêm nhường ấy đã cùng nhau gánh cả cuộc Kháng chiến lên trên đôi vai gầy guộc, bé
nhỏ của mình. Tôi tự hào dù chỉ làm được một chút gì an ủi những năm đằng đẵng vất vả, dài dăc ấy của bà, như
tiếng chim tu hú cộng hưởng với nỗi cô đơn lo toan của bà, gắng làm cho bà đươc nhẹ nhõm hơn, bớt cảm giác cô
đơn, lận đận hơn”.Bà yêu thương cháu, hi sinh vì cháu, người cháu vô cùng biết ơn bà, sự kính trọng bà của người
cháu được thể hiện chân thành qua câu thơ :
”Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc “
Cháu lo nghĩ cho bà, nhìn thấy bà cực nhọc, cháu giúp bà nhóm lửa để bạn đỡ đi phần nào mệt nhọc. Chỉ một mình
chữ “thương” cũng đủ để gói gọn hết thảy tình thương, sự kính trọng và lòng biết ơn sâu nặng mà bà dành cho
cháu. Cho đến tận bây giờ, khi đang du học ở nơi xứ người xa xôi, đang đứng dưới tuyết trời giá lạnh, người cháu
vẫn cảm nhận được tình yêu thương, sự vỗ về, chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà, cháu càng thương bà nhiều hơn.
Thương bà một mình dưới túp lều tranh siêu vẹo, thương bà ngày ngày một mình nhóm lửa, luôn cầu cho cháu
được bình an. Hạnh phúc tưởng chừng nhỏ bé mà lại thiêng liêng và lớn lao nhất trong cuộc đời mỗi con người, là
hạnh phúc của gia đình, là phút giây sung sướng đến tột cùng khi được trông thấy đứa con - hình hài yêu dấu -
món quà vô giá mà cuộc sống ban tặng cho mình - cất tiếng khóc chào đời, là sự mãn nguyện nhất khi có một căn
nhà, một tổ ấm - nơi nương tựa vững chãi nhất trong những giây phút bi an, yếu lòng, sau mỗi vấp ngã của cuộc
đời - con người ta tìm về để được an ủi, sẻ chia một cách chân thành!Từ tình yêu sâu sắc của mình dành cho bà, tác
giả quay sang khẽ trách chim tu hú :
”Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Với việc khéo léo sử dụng câu cảm thán “tu hú ơi!” kết hợp với câu hỏi tu từ, nhà thơ đang trách chim tu hú mãi
bay ngoài cánh đồng ca, không đến ở cùng bà cho đỡ cô quạnh, đỡ buồn tủi hay tác giả đang trách sự vô tâm, bất
lực của chính bản thân mình? Câu thơ như lời than thở thật tự nhiên, cảm động vô cùng chân thật, thể hiện nỗi nhớ
thương da diết người bà của đứa cháu. Thời gian cứ trôi qua, bà vẫn xa đằng đẵng...Cháu đi rồi thì ai sẽ “ cùng bà
nhóm lửa “, ai sẽ nghe bà “ kể chuyện những ngày ở Huế “ Nhà thơ Anh Thơ cũng đã từng đồng điệu với những
cảm xúc ấy :
“ Con đi dài thương nhớ
Mười năm chưa về quê
Tu hú ơi tu hú
Kêu chi hoài vườn xanh “
( Tiếng chim tu hú – Anh Thơ )
Nỗi lòng của chim tu hú “ Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa “ đâu có khác gì với nỗi nhớ mong bà sâu sắc của
đứa cháu ở nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết, âm vang
trong tim người đọc. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình, châm rãi đầy nhung nhớ đã đưa ta về với
tuổi thơ sống bên bà và đầy ắp tình bà cháu của tác giả. Tiếng chim tu hú khép lại khổ thơ mà cứ như xoáy sâu vào
tâm trí kẻ xa quê đang dáo dác kiếm tìm những kỉ niệm yêu thương... Âm điệu trong khổ thơ thật da diết, trầm
buồn, phù hợp với tâm trạng của thi sĩ: nỗi nhớ quê, nhớ bà da diết, sâu đậm, day dứt... Qua những hồi ức của nhờ
thơ, ta thấy được sự thiêng liêng và diệu kì của tình thương gia đình, thứ tình cảm thiêng ấy vượt qua mọi khoảng
cách địa lý xa xôi - nước Liên Xô, dù vậy, người cháu vẫn cảm động được hơi ấm từ bà, cảm nhận được cái cay
cay của khói bếp và cả những nỗi nhọc nhằn của đời bà nữa, phải yêu, phải nhớ nhiều đến nhường nào thì nhà thơ
mới cảm nhận được rõ tới từng cảm giác như vậy!
Cuối cùng kỉ niệm để lại cho cháu dấu ấn sâu đậm nhất là những năm tháng đau rthương của quê hương, đất nước
khi ngọn lửa quân thù thiết đốt cả căn làng nhỏ:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi


Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”.
Hết đói khát lại đến giặc dã. Kẻ thù hung bạo luôn có ở xung quanh và sẵn sàng tấn công vào cuộc sống bất cứ lúc
nào. Quân giặc đến, tất cả bị hủy hoại, bị đốt phá hòng dập tắt sự sống con người; hòng phá tan ước vọng hòa bình
và muốn khuất phục con người bằng sức mạnh của đạn bom. Nhưng không, họ đã không chết, họ đã không đầu
hàng, họ vẫn mạnh mẽ vươn lên "dựng lại túp lều tranh” làm lại từ đầu từ đống tro tàn đổ nát. Họ vẫn tin tưởng
vào cách mạng, tin tưởng vào cuộc chiến, tin tưởng vào tư thế tất thắng của dân tộc. Càng bị áp bức, họ càng vững
vàng hơn:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.
Chi tiết thơ đậm chất hiện thực. Hiện thực cuộc sống được phản ánh khốc liệt trong câu thơ có vẻ nhẹ nhàng càng
tô đậm thêm đức tính hi sinh của bà. Thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê
hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh.
Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu. Điều khiến
cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan, đau khổ
mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ, kiên cường trước hiện thực ác liệt. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã
làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh:
“Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Không biết điều gì đang xảy ra nhưng chắc chắn người cháu nhận ra một điều đó là bà đang cố nén lại đau thương,
tỏ ra bình tĩnh và sáng suốt ngay trong hoàn cảnh điêu đứng nhất. Bà đinh ninh dặn dò, lời dặn dò chắc nịch như
nén lại niềm căm phẫn trước tội ác của kẻ thù tàn bạo, quyết tâm làm tốt trách nhiệm của người hậu phương luôn
hướng về tiền tuyến.
Người bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu
thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không
nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.
Hình ảnh của bà gọi nhớ đến người mẹ thành đồng bồng con đánh giặc năm nào:
“Mẹ là nước chứa chan,
Trôi giùm con phiền muộn
Cho đời mãi trong lành
Mẹ chìm dưới gian nan”.
(Huyền thoại mẹ – Trịnh Công Sơn)
Hình ảnh người bà gắn chặt với hình ảnh bếp lửa trong kí ức tuổi thơ của người cháu. Người cháu đã ghi nhớ rất rõ
theo từng giai đoạn lịch sử. Đó là năm 4 tuổi, nạn khói khủng khiếp xảy ra, cháu đã cùng bà vượt qua giai đoạn
khó khăn ấy. Năm 12 tuổi, 8 năm ròng cùng bà nhóm lên bếp lửa. Bố mẹ đi kháng chiến, người bà đã thay thế,
chăm nom và dạy bảo.
Càng lớn lên, cháu càng thương bà, bởi đã hiểu được những khó khăn vất vả của bà. Năm giặc về đốt làng, tất cả bị
hủy diệt. Dù thế bà vẫn giữ im lặng, không làm ảnh hưởng đến chiến đấu, bà chấp nhận hi sinh tất cả những gì
mình có, để cùng dân tộc chống lại kẻ thù. Bếp lửa vẫn cháy xuyên suốt qua những năm tháng cam go, khốc liệt
ấy. Hình ảnh bếp lửa dường như biến thành ngọn lửa của tình yêu và ngọn lửa hận thù.
Trong tấm lòng của bà luôn âm ỉ một ngọn lửa :
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở câu trên, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Như thế, bếp lửa
không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương
“luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm
lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu
thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi
chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí,bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ
Việt Nam giữa thời chiến. Điệp ngữ – ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên
mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng,
khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin
cho các thế hệ nối tiếp. Hình ảnh người bà hiện lên thật mộc mạc mà rực rỡ, một người bà cần cù, bền bỉ, chắt
chiu, giàu nghị lực và có tấm lòng hi sinh cao cả. Đó là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam, người mẹ Việt Nam
trong các cuộc chiến tranh khốc liệt, vừa anh hùng, trung hậu, dũng cảm, vừa rất mực đảm đang. Ba câu thơ như
một nốt nhấn, một điệp khúc khó quên trong bản tình ca: tình bà thiêng liêng cao quý.
Từ ngọn lửa ấm nóng ấy, nhà thơ mở ra suy ngẫm về cuộc đời bà, về bếp lửa:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Cảm xúc “biết mấy nắng mưa” được lặp lại giống ở khổ một, đầu bài thơ: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Có phải đó là lời nhấn mạnh, sự tô đậm những nỗi cơ cực của cuộc đời bà? Cuộc đời người bà gói gọn trong hai
chữ “lận đận”. Bao nhiêu khó khăn, vất vả, gian nan, “biết mấy nắng mưa”, bà âm thầm chịu đựng để được lo lắng,
chăm sóc cho con cháu.
Đã mấy chục năm rồi, chiến tranh vẫn đi qua, gian khổ nhọc nhằn vẫn chưa vơi bớt, bà vẫn “giữ thói quen dậy
sớm”. Cuộc đời bà cứ gian nan, vất vả như vậy tưởng chừng như không bao giờ dứt. Tình thương yêu tác giả dành
cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà thật sâu nặng thiết tha. Suốt cuộc
đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người thức khuya dậy sớm, chịu
nhiều vất vả nhất trong nhà nhưng bà cũng chính là người nhóm lên trong gia đình ngọn lửa của tình yêu thương:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
Từ “nhóm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng
cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả. Khi nhóm lên “lửa ấp iu nồng đượm”, bà đã dạy cho
cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Nhóm tình quê “khoai sắn ngọt bùi”, bà dạy cháu tình yêu thương
xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. “Nhóm nồi xôi gạo mới mẻ chung vui”, bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với
mọi người xung quanh.
Bên cạnh đó, bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm
tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Không chỉ nhóm lên ngọn lửa đó ấm nồng và cháy sáng mãi trong
lòng mọi người. Người bà kì diệu ấy đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục, bồi đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn
tâm hồn, về ước mơ, lẽ sống của “tâm tình tuổi nhỏ”.
Bếp lửa của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả. Bà nuôi cháu khôn lớn bằng bếp lửa ấy. Vậy mà giờ đây, cháu đã du
học tận trời Nga xa xôi, xa bà, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc đời của cháu như một câu chuyện cổ tích. Và ở
đấy, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng đỡ từng bước đi của cháu. Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc
sống nghèo khổ, bà ươm mầm ước mơ cho cháu đi du học phương xa. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay
chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng.
Đứa cháu không thể trưởng thành, hay dù trưởng thành về thể xác nhưng tâm hồn cũng chẳng thể lớn khôn nếu
không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa, bằng chính tấm lòng của người bà rất đỗi yêu thương. Người bà có một
sức mạnh kì diệu từ trái tim, đã nhóm dậy trong tâm hồn đứa cháu biết bao tình cảm cao đẹp, chắp cánh cho ước
mơ bay cao, bay xa để mai này cháu khôn lớn thành người. Nhờ ngọn lửa mà bà “ủ”, bà “nhen”, bà “giữ”, cháu
biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng.
Người cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu, thêm yêu dân tộc mình, nhân dân mình. Trong tâm trí nhà thơ, bếp
lửa và bà là những gì tuy thật bình dị, song ẩn chứa điều cao quý thiêng liêng.
Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ấm hay đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ
phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Câu thơ chỉ có tám chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình
cảm của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa,
người xây đắp nên tuổi thơ cho cháu. Bà và bếp lửa đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu
trong đời sống tinh thần của tác giả dù cho lúc này, hai bà cháu đang chia xa.
Dù giờ đây, tuy không được ở gần bên bà, ở gần quê hương nhưng tâm hồn của người cháu vẫn luôn hướng về
mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi có người bà lặng lẽ, cô đơn:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?…”
Bao năm dài đằng đẵng trôi qua. Đứa cháu năm xưa nay đã khôn lớn, được bà và tình yêu thương của bà chắp cánh
bay tới những phương trời xa, rộng lớn; bay tới những cuộc sống đầy đủ, với nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc khắp
nơi, khắp chốn. Vậy mà cháu vẫn không nguôi nhớ bà, không quên ngọn lửa của bà. Câu hỏi tu từ như một lời tự
vấn, lời độc thoại: “- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”
Khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt trong tâm trí người đọc. Người cháu đang tự nhắc nhở
bản thân mình luôn phải nhớ về “Bếp lửa” của quê hương, nhớ về bà, chỗ dựa tinh thần vững chắc cho chúng cháu
phương xa. “Bếp lửa” vừa thực tế, vừa có ý nghĩa biểu tượng cho sự yêu thương, niềm tin, nguồn cội gia đình và
quê hương, sức sống bền bỉ của con người.
Bài thơ khép lại bằng một dấu câu đặc biệt, dấu chấm lửng. Dấu câu như gợi mở về một bài học đạo lý tha thiết:
sống chung thủy, nhân nghĩa; phải có lòng biết ơn, có cách đối xử ân tình với gia đình, với láng giềng, với quê
hương, với nguồn cội. Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân
thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của
cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
Từ tình cảm bà cháu, bài thơ nâng dần thành tình cảm yêu làng quê, yêu Tổ quốc. Và hình tượng “bếp lửa” tượng
trưng cho những kỷ niệm ấm lòng đã trở thành niềm tin thiêng liêng, kỳ diệu, in sâu vào tâm hồn tác giả; là hành
trang để người cháu bước vào đời, nâng cánh ước mơ cho cháu ở những phương trời xa…
Qua việc vận dụng âm điệu thơ trữ tình, sâu lắng; ngôn ngữ thơ bình dị, hình tượng bếp lửa sáng tạo cùng với các
điệp ngữ, ẩn dụ đặc sắc, bài thơ đã khắc họa chân thực, xúc động hình ảnh người bà giàu tình yêu thương, đức hi
sinh; tình bà cháu ấm nồng, sâu nặng thiết tha…
Với “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để
dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình,
quê hương, đất nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân
thương. Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã
mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày
nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim…

You might also like