You are on page 1of 9

BẾP LỬA

Bằng Việt
Đề 1: Cảm nhận vẻ đẹp tình bà cháu trong đoạn thơ sau:

“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy mùa nắng mưa

Lên bốn tuổi cháy đã quen mùi khói

Tám năm ròng cháy cùng bà nhóm lửa

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”

A. Mở bài:

Bằng Việt là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ thời chống Mỹ.
Thơ ông trong trẻo, giàu trải nghiệm và thường khai thác kỉ niệm tuổi hoa niên. Bài thơ “Bếp
lửa” đã in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Thi phẩm được sáng tác vào năm 1963
khi tác giả đang học ở nước ngoài. Ra đời trong hoàn cảnh ấy bài thơ là dòng kỉ niệm đầy xúc
động về người bà và tình bà cháu, thể hiện lòng kính yêu trân trọng của người cháu đối với bà
cũng là đối với gia đình quê hương đất nước. Đặc biệt vẻ đẹp tình bà cháu thể hiện chân thành
và cảm động nhất trong bốn khổ thơ đầu thi phẩm.

B. Thân bài:

I. Khái quát đầu thân bài:

Đoạn thơ này là những lời tâm tình cảu người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về người
bà kính yêu nơi quê nhà. Lời tâm tình ấy được đệt bằng biết bao kỷ niệm tuổi thơ và mỗi kỷ
niệm lại được bao bọc trong một nỗi nhớ thương vừa dâng trào vừa sâu lắng. Qua hồi tưởng và
suy ngẫm của người cháu trưởng thành đoạn thơ đã gợi lên những kỉ niệm xúc động về bà và
tình bà cháu.

II. Cảm nhận

1. Khổ một: + Dẫn dắt (nêu nội dung)


+ Chép thơ
+ Cảm nhận (từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ)

Khơi nguồn cho dòng cảm xúc của người cháu phương xa về bà là hình ảnh bếp lửa ấm nồng
mang màu sắc cổ tích.

“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy mùa nắng mưa”

- Cái bếp lửa đun bằng củi, bằng rơm, bằng rạ, quá đỗi gần gũi thân thuộc với mỗi gia đình Việt
nam trong chiến tranh chính là hình ảnh đầu tiên hiện về trong kí ức người cháu. Điệp ngữ “Một
bếp lửa” đã làm ngời sáng hình ảnh gợi thương, gợi nhớ và làm sống dậy một tuổi thơ đẹp đẽ
bên bà. Rất giàu sức gợi hình gợi cảm là hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm”. Từ láy “chờn
vờn” đã miêu tả thật chính xác ngọn lửa trong là sương sớm lúc mờ, lúc to, lúc nhỏ, khi lụi, lúc
rực cháy. Từ láy này cũng gợi đưuojc cả nét mờ nhòa của hình ảnh trong kí ức. Nếu hai chữ
“chờn vờn” hư ảo bao nhiêu thì từ “ấp iu” lại cụ thể và xác thực bấy nhiêu. Nó vừa gợi đượ cái
nồng đượm của bếp lửa vừa gợi ra bàn tay kiên nhẫn, khéo léo, ý thơ đã gợi lên liên tưởng một
cách tự nhiên đến người nhóm lửa. Bên bếp lửa ấp iu nồng đượm đã thấy ẩn hiện hình bóng bà
cặm cụi.

- Hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình thương bà trong lòng cháu. Tình thương tràn đầy của
người cháu phương xa được thể hiện giản dị và trực tiếp “Cháu thương bà” và một lý do cụ thể
“biết mấy nắng mưa”. Hình ảnh “nắng mưa” là ẩn dụ cho những vất vả và cực nhọc của đời bà.
Đằng sau lời thơ giản dị là cả một tình thương trĩu nặng và một sự thấu hiểu đến tận cùng những
lam lux cơ cực của đời bà.

- Ngời sáng trong những dòng thơ mở đầu thi phẩm là hình ảnh bếp lửa và người bà lặng lẽ âm
thầm. Có một sự gắn bó thật tự nhiên giữa hai hình ảnh thân thương ấy. Bà và bếp lửa cùng
đồng hiện trong nỗi nhớ của người cháu phương xa. Hình ảnh bếp lửa đã trở thành hình tượng
nghệ thuật mang ý nghĩa biểu tượng cho bà và gia đình cho quê hương và nguồn cội. Người
cháu mượn bếp lửa để nói với bà, để bộc lộ tình thương và cũng là để đối thoại với bà.

2. Khổ hai:

Hình ảnh bếp lửa ấp iu nồng đượm đã soi sáng ký ức của người cháu và làm sống dậy cả
một tuổi thơ đẹp đẽ bên bà. Đó là một tuổi thơ nhiều gian khổ thiếu thốn nhọc nhằn nhưng vẫn
ấm nồn tình bà cháu:

“Lên bốn tuổi, cháu đã quen mùi khói


Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xa khô rạc ngựa gầy
Ghi nhớ khói nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

- Các hình ảnh thơ “đói mòn đói mỏi” và “khô rạc ngựa gầy” in đậm dấu ấn của nạn đói năm
1945. Hình ảnh thơ đã làm sống dậy không khí ảm đạm tiêu điều xơ xác tang thương nạn đói
năm Át Dậu. Không trải qua cái đói quay đói quắt, đói mòn đói mỏi thì khó mà có thể viết được
những câu thơ chân thực đến thế.

Song ấn tượng nhất với cháu trong những năm tháng tuổi thơ ấy không phải là cái đói mà là mùi
khói từ bếp của bà. Đó là khói từ bếp lửa con nhà nghèo “đã hun nhèm mắt cháu”. Cái mùi khói
bếp ấy đã trở nên quá đỗi gần gũi thân thuộc với tuổi thơ cháu. Nhà thơ Bằng Việt đã thật tinh tế
khi chọn chi tiết này để miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ trong năm tháng đói khát. Hình
ảnh “khói hun nhèm mắt cháu” vừa gợi ra cảnh mắt cay xè vì khói, vừa gợi cuộc sống khốn khó
hai bà cháu. Thật xúc động biết bao khi đã mấy năm trời mà cái mùi khói trong bếp của bà vốn
còn vẹn nguyên trong kí ức của cháu, đến giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cái cay vì khói bếp
của cậu bé 4 tuổi và cái cay xúc động cảu người cháu về bà đã hòa quyện với nhau trong ý thơ
này. Trong khoảnh khắc của hồi ức hoài niệm khoảng cách về thời gian như bị xóa nhòa, quá
khú và hiện tại cùng đồng hiện. Điều ấy dù cho thấy mùi khói bếp của bà có sức ám ảnh ghê
gớm làm lay động cả thể xác và tâm hồn cháu.

3. Khổ ba:

Kỷ niệm nối tiếp kỉ niệm và trong tâm hồn người cháu phương xa lại bừng sáng một mảnh kí ức
khác về bà và tình bà cháu:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu và còn nhớ không bà

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm bà chăm cháu

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà

Kêu chỉ hoài trên những cánh đồng xa”

Bếp lửa của bà của tình thương của quê hương lại gợi liên tưởng khác trong tâm trí cháu đó là
“tiếng chim tu hú”. Trong khổ thơ này âm thanh ấy xuất hiện bốn lần, khi tha thiết, lúc khắc
khoải. Đưa vào dòng hồi ức của người cháu tiếng chim tu hú là sáng tạo độc đáo Bằng Việt. Sự
xuất hiện của tiếng chim làm không gian kỷ niệm như có chiều sâu và nỗi nhớ bà của cháu trở
nên thăm thẳm. Âm thanh tiếng chim đồng nội trở nên một mảnh tâm hồn cháu.

Từ các cung bậc khác nhau của tiếng chim tu hú tâm trạng của cháu cũng mỗi lúc hiện lên tha
thiết và hình ảnh bà trở nên hiện ra rõ dần. Bên bếp lửa bà “bảo cháu nghe”, “dạy cháu làm”,
“chăm cháu học”. Biện pháp tu từ liệt kê đã tô đậm sự quấn quýt giữa hai bà cháu và tình
thương của bà dành cho cháu. Suốt 8 năm trời cháu không cô đơn vì luôn có bà bên cạnh. Bà đã
làm thay công việc của người cha, người mẹ, vừa chăm sóc vừa bảo ban dạy dỗ cháu lên người.
Cái bếp lửa bà nhóm lên mỗi sớm chiều không chỉ nuôi nấng và sưởi ấm cháu mà còn bồi đắp
vẻ đẹp tâm hồn cháu. Người cháu phương xa đã thấu hiểu rằng trong sự trưởng thành ngày hôm
nay của mình có biết bao nhiêu mồ hôi công sức của bà. Lời thơ chất chứa niềm biết ơn sâu
nặng của cháu dành cho người bà tần tảo đã đùm bọc cưu mang cháu trong suốt năm tháng khó
nhọc.

2. Khổ bốn

Lời thơ vẫn tiếp tục tuôn chảy nhẹ nhàng trong dòng kỷ niệm và người cháu phương xa lại bồi
hồi sống lại kỷ niệm khác về bà.

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh

Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày biết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”

Lời kể vẫn bắt đầu bằng mốc thời gian cụ thể gợi cảm giác kỉ niệm rất thực, rất sống động. Đó
là “năm giặc đốt làng”. Hình ảnh làng quê tiêu điều tan tác trong khói lửa chiến tranh được nhà
thơ miêu tả bằng chi tiết chân thực “cháy tàn cháy rụi”. Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy
hiện lên hình ảnh hai bà cháu trong sự đùm bọc cưu mang xóm làng. Điều khiến cháu xúc động
nhất là một mình bà già nua nhỏ bé gánh hết mọi lo toan vất vả đến các con yên tâm công tác.
Trong hoàn cảnh gian khổ thiếu thốn bà “vẫn vững lòng”. Sự mạnh mẽ của bà thể hiện rất rõ
qua lời dặn của cháu: “Chớ kể này kể nọ - Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Lời bà nôm na giản
dị nhưng chất chưa biết bao nhiêu tình: tình thương con, tình yêu đất nước. Ngời sáng ở bà là vẻ
đẹp tâm hồn người phụ nữ giàu lòng vị tha biết hi sinh. Bà đã hi sinh tình riêng cho đất nước,
đặt việc nước lên trên việc nhà.

Hiện lên trong dòng kỷ niệm nhà thơ Bằng Việt là hình ảnh người bà vẻ đẹp tâm hồn cao quý.
Bà không chỉ là chỗ dựa đứa cháu bé bỏng mà còn là điểm tựa tinh thần cho các con đang chiến
đấu và là hậu phương vững chắc của cả tiền tuyến. Ở bà tình bà cháu dã hòa quyện tình yêu quê
hương đất nước. Ẩn chứa trong lời kể đầy xúc động người cháu phương xa là niềm tự hào và
lòng biết ơn vô hạn dành cho người bà kính yêu nơi quê nhà.

III. Khái quát cuối thân bài

Đoạn thơ là dòng kỷ niệm người cháu hiếu thảo về người bà kính yêu. Sức hấp dẫn của đoạn
thơ là sự chân thành sâu sắc trong cảm xúc và sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với tự sự.
Đặc biệt ngôn ngữ thơ nồng đượm thấm đẫm chất trữ tình khi dâng trào sâu lắng rất phù hợp với
dòng tâm tư của cháu khi nhớ về bà. Ấn tượng nhất là tác giả đã xây dựng thành công hình
tượng bếp lửa làm điểm tựa khơi gợi mọi kỷ niệm, cảm xúc, suy tư qua dòng hồi tưởng, suy
ngẫm của người cháu đã trưởng thành ta thấy sáng lên hình ảnh người bà thương con, thương
chaus và yêu nước. Nhà thơ Bằng Việt đã gửi gắm vào dòng cảm xúc người cháu phương xa lời
nhắn nhủ về lòng biết ơn quê hương, gia đình, nguồn cội.

C. Kết bài

Được sáng tác năm 1963 tại phương trời xứ lạnh, nhưng bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt đặc
biệt là đoạn thơ trên vẫn ấm nồng tình bà cháu hòa trong tình yêu quê hương đất nước. Mặc dù
ra đời cách đây hơn nửa thế kỉ, song thi phẩm vẫn làm xúc động trái tim bạn đọc bởi nó đã chạm
tới phần kí ức mà mỗi chúng ta ai cũng trân trọng nâng niu, giữ gìn.
Đề 2: Cảm nhận vẻ đẹp tình bà cháu trong đoạn thơ sau:

“Rời sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng

Lặn đặn đời bà biết mấy nắng mưa...!

Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm nhiềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo nới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

A. Mở bài

Bằng Việt là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ thời chống Mỹ.
Thơ ông trong trỏe giàu trải nghiệm và thường khai thác kỉ niệm tuổi hoa nnieen. Bài thơ “Bếp
lửa” đã in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Thi phẩm được sáng tác năm 1963 khi
tác giả đang học tập ở nước ngoài. Ra đời trong hoàn cảnh ấy bài thơ là dòng kỷ niệm đầy xúc
động về người bà và tình bà cháu thể hiện lòng kính yêu trân trọng của người cháu đối với bà
cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Đặc biệt vẻ đẹp của tỉnh bà cháu được thể hiện
chân thành và cảm động nhất trong ba khổ thơ cuối thi phẩm.

B. Thân bài

I. Khái quát đầu thân bài


Trước đó, người cháu phương xa đã sống lại kỷ niệm tuổi thơ đẹp đẽ gắn liền với bà và bếp lửa.
Đến đoạn thơ này, cảm xúc thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang những suy ngẫm sâu sắc của
người cháu về bà và bếp lửa, về ngọn lửa thiêng liêng kỳ diệu.

II. Cảm nhận

1. Khổ một

Từ hình ảnh bếp lửa bà nhóm lên mỗi sớm mỗi chiêu, người cháu hiếu thảo đã liên tưởng đến
ngọn lửa trong lòng bà.

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chưa niềm tin dai dẳng.”

- Vượt lên trên những khó khăn gian khổ người bà vẫn âm thầm lặng lẽ làm công việc nhóm bếp
thường ngày của mình. Mỗi sớm mỗi chiều bà vẫn đều đặn nhóm lên bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Cái công việc giản dị ấy trong suy ngẫm người cháu phương xa lại thật thiêng liêng và kỳ diệu
bởi người cháu đã phát hiện ra rằng cái bếp lửa của bà được nhóm lên bằng chính ngọn lửa sức
sống, tình yêu thường và “niềm tin dai dẳng” trong trái tim bà. Điệp ngữ “một ngọn lửa” khiến
lời thơ càng trở nên tha thiết đồng thời tổ đạm suy tư người cháu hiếu thảo về cái bếp lửa kì diệu
của bà.

- Từ hình ảnh “bếp lửa” người cháu đã liên tưởng đến “ngọn lửa trong lòng bà. Đó là liên tưởng
tự nhiên hợp lí và mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Vượt lên trên ý nghĩa tả thực, “ngọn lửa” đã trở
thành hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Nó là biểu tượng cho sức sống bất diệt
không chỉ của tâm hồn bà mà còn của cả đất nước, của dân tộc trong năm tháng chiến tranh gian
khổ, trong suy tư người cháu hiếu thảo bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người giữ lửa
và truyền lửa, ngọn lửa của sự sống, tình yêu thương và niềm tin cho thế hệ mai sau.

2. Khổ hai

Khi suy tư về bà và bếp lửa người cháu đã phát hiện ra bao điều kỳ diệu trong hành động nhóm
lửa của bà:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa...

Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ


Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”

Cái nhìn người cháu hiếu thảo đã thấu suốt đời bà. Để rồi nhận ra bao “lận đận”, “nắng mưa” bà
đã trải qua. Biết bao gian nan vất vả cơ cực của đời bà đã được gửi gắm vào hình ảnh ẩn dụ
“nắng mưa”. Đặc biệt từ láy “lận đận” được đảo lên đầu câu thơ đã khắc họa thật sống động
hình ảnh người bà tần tảo lam lũ một nắng hai sương để lo cho con cho cháu. Lời thơ ý thơ thấm
đẫm niềm xót thương và lòng biết ơn vô hạn của người cháu hiếu thảo phương xa dành cho
người bà ở quê nhà.

- Trong tác phẩm “Đa-ghet-xtan của tôi” nahf văn Gam-za-tốp người phụ nữ quê ông cả đời chỉ
xoay quanh ba công việc: lấy nước, đưa nôi và nhóm lửa. Ba công việc ấy thật giản dị nhưng lại
duy trì sự sống. Người bà trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt cả đời cũng làm cái công việc
nhóm lửa thiêng liêng kỳ diệu ấy. Đều đặn mỗi “sớm” mỗi “chiều” từ “mấy chục năm” cho đến
“tận bây giờ” bà vẫn nhóm lên bếp lửa để duy trì sự sống của cả gia đình. Các từ ngữ chỉ thời
gian thể hiện thật xúc động sự kiên nhẫn bền bỉ trong công việc nhóm lửa của bà. Dẫu cuộc sống
có những biến động nhưng dường như ở bà vẫn không hề có sự xáo trộn. Với bà, nhóm lửa đã
trở thành nhịp điệu bình thường của cuộc sống, là công việc đều đặn hàng ngày. Chỉ riêng việc
ấy thôi bà cũng đã viết lên bao điều kì diệu. Ấn chứa trong bài thơ là cảm nhận sâu sắc của
người cháu hiếu thảo về sự tần tảo và tấm lòng yêu thương cùng đức hi sinh của bà. Với cháu bà
là người nhóm lửa và bà cũng là người giữ cho ngọn lửa ấy luôn tỏa sáng và ấm nóng trong gia
đình.

- Điệp từ “nhóm” cùng nghệ thuật ẩn dụ đã tô đậm sự thiêng liêng kì diệu trong hành động
nhóm lửa của bà. Từ “nhóm” đầu tiên mang ý nghĩa tả thực và cái bếp lửa ấp iu nồng đượm của
bà cũng là bếp lửa của đời thực. Cái bếp lửa ấy đã nuôi dưỡng và duy trì sự sống của cả gia đình
trong những năm tháng chiến tranh gian khổ. Song bếp lửa của bà không chỉ có ý nghĩa như thế.
Từ hành động nhóm lửa bà đã nhóm dậy, khơi dậy những gì cao quý nhát, thiêng liêng nhát. Bở
vậy ba từ “nhóm” sau mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Mỗi lần bà nhóm bếp ngọn lửa cháy lên lại
mang một ý nghĩa tượng trưng. Cái bếp lửa đã nhóm niềm “yêu thương khoai sắn ngọt bùi”
trong lòng cháu. Ngọn lửa trong cái bếp của bà đã làm cháy lên trong lòng tình yêu thương, gắn
bó với những gì giản dị gần gũi của quê hương dẫu đó chỉ là củ khoai, củ sắn. Nhóm lên bếp lửa
ấy là người bà đã truyền cho cháu tình yêu thương ruột thịt và nhắc nhở cháu phải sống ân nghĩa
thủy chung với quê hương làng xóm. Cái bếp lửa của bà còn “nhóm nồi sôi gạo mới sẻ chung
vui”. Đó là bà đã nhóm lên lòn cháu niềm vui san sẻ tình làng nghĩa xóm. Ngọn lửa của bà như
dạy bảo cháu rằng phải biết mở lòng ra với xung quanh, sống gắn bó với xóm với làng. Không
chỉ có vậy cái bếp lửa ấp iu nồng đượm của bà còn nhóm dậy những tâm tình tuổi thơ. Ngọn lửa
bàn tay bà nhen lên khơi dậy trong lòng cháu bao khát vọng đã bồi đắp tâm hồn tuổi thơ cháu.
Ngọn lửa thiêng liêng kì diệu của bà đã nhóm dậ ước mơ đẹp đẽ của tuổi thơ và tiếp thêm sức
sống tuổi thơ cháu. Cái công viêc nhóm lửa bình thường giản dị của bà lại biết bao nhiêu điều
kì diệu. Người cháu năm xưa giờ đã khôn lớn trưởng thành đã bước ra thế giới bên ngoài rộng
lớn nhưng ngọn lửa của bà vẫn cháy mãi trong lòng cháu. Nó trở thành ngọn lửa ấm lòng thành
niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên những chặng đường đời.

- Người cháu hiếu thảo phuong xa khi suy nghĩ về hành động nhóm lửa của bà đã thốt lên đầy
biết ơn khâm phục.

“Ôi kì lạ và thiêng liêng-bếp lửa!”


- Từ cảm thán “ôi” đã mở rabao nỗi xúc động dạt dào trong lòng cháu. Chất chưa trong đó
không chỉ là sự xúc động mà còn là niềm hành phúc, và cảm phục của người cháu phương xa về
bà và bếp lửa. Đặc biệt hình ảnh “bếp lửa” được tách ra vế câu riêng như để khẳng định, nhấn
mạnh và cũng là cảm nhận hết vẻ đẹp kì diệu của nó. Với cháu cái bếp lửa của bà thật “kì lạ” và
“thiêng liêng” bởi lẽ, bếp lửa là tinh bà ấm nóng, là bàn tay bà chăm chút. Cái bếp lửa của bà
được nhóm lên bằng chính ngọn lửa trong lòng bà, đó là ngọn lửa sức sống niềm tin tình yêu
thương. Không chỉ có vậy cái bếp lửa thiêng liêng kì diệu của bà đã thắp lên ngọn lửa ước mơ
và khát vọng trong lòng cháu. Trong suy tư người cháu trưởng thành bà và bếp lửa là biểu tượng
sự sống gia đình quê hương. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa, truyền lửa cho thế hệ cháu con.
Chính vì vậy, người cháu đã cảm nhận trong cái bếp lửa bình thường giản dị của bà có sức tỏa
sáng bởi sự thiêng liêng kì diệu, sự nâng đỡ tâm hồn của con người trên hành trình cuộc đời. 3.

3. Khổ ba

Thi phẩm khép lại bằng niềm thương nhớ và lòng biết ơn vô hạn của người cháu với bà.

“Giờ cháu đã đi xa; có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng chẳng lúc nào quên nhắc nhở

- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

- Người cháu bé bỏng năm nào đã rời xa bà đến chân trời khác. Cuộc sống mới thật nhiều niềm
vui với “khỏi trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả” nhưng cháu vẫn nhớ hoài về cái
bếp lửa của bà. Cháu đã biết đến nhiều ngọn lửa khác nhưng ngọn lửa trong cái bếp của bà vẫn
là kì lạ và thiêng liêng nhất. Đến khổ thơ này tác giả đã “nâng bổng” ý thơ lên. Đó là bà không
chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa mà còn là người biết kết nối cháu với cuộc sống
bên ngoài. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay là bếp lửa bà, của quê hương nguồn cội.
Lòng biết ơn

You might also like