You are on page 1of 280

OSHO

Nam Tuyền:
Điểm khởi hành

Bài nói về thiền

1
HÀ NỘI 6/2003

2
OSHO

Nansen:
The Point of
Departure

Talks on Zen

3
4
Mục lục

1. Đất Trời không tách rời......................................1


2. Ra ngoài trống rỗng.........................................27
3. Thôi thúc phải thành khẩn thiết........................47
4. Ngay cả Himalayas cũng tới và đi....................79
5. Ngồi ở trung tâm vòng tròn............................103
6. Mọi nghiêm chỉnh đều tựa lâu đài cát............131
7. Bạn quên mất đôi cánh..................................157
8. Bạn cần hoa hồng, chỉ bột mì không đủ........179
9. Chỉ đi dạo buổi sáng......................................207
10. Điệu vũ của tôi là đầy đủ..............................229
Về Osho.............................................................255

i
ii
Giới thiệu

Đọc những lời được in ra của bài nói của Osho là đọc
những âm hưởng nguyên gốc của bản giao hưởng, trong
việc hình dung ra kinh nghiệm tràn đầy về buổi biểu diễn
trước công chúng. Những lời này là xương của Thiền,
nhưng "nếu bạn có thể thấm vào chính cốt tuỷ… toàn thể
bầu trời bùng nổ."
Từng bài nói là cả một buổi tối của thiền sống, bắt
đầu bằng bài ca, điệu vũ, và sự đón chào của những người
yêu, và kết thúc bằng thiền, được chuẩn bị bởi những tiếng
cười bột phát và những chuyện cười làm vỡ tung tâm trí
chúng ta trước khi nó đưa 'mười nghìn chư phật' vào
những chiều sâu đại dương của im lặng.
Những bài nói này đều dựa trên các giai thoại về các
thiền sư, Nam Tuyền, nhà thơ Sekiso, và câu hỏi của đệ
tử. Chúng là chính chất liệu của Thiền. "Với bất kì ai điều
đó đều có thể có vẻ như câu đố, nhưng nó không phải là
câu đố. Nó là cách chỉ ra cái không thể nói ra được...
Thiền không làm đầy đủ các câu của nó; nó để mọi thứ
mở; nó đơn giản nêu ra gợi ý. Đó là phép thử trí thông

iii
minh của người hỏi để hoàn chỉnh nó." Osho đưa chúng ta
đi qua từng câu của những câu chuyện này một cách tinh
tế: "mặc dầu giai thoại này dường như là đơn giản, nó
không phải vậy."
Người đã gọi nó là "Điểm khởi hành" bởi vì Người
yêu nhà cải cách dũng cảm trong Nam Tuyền, đặc biệt
trong nhấn mạnh của ông ấy rằng tâm linh không phải tách
rời với vật chất. "Tình yêu của tôi với Nam Tuyền là mênh
mông bởi vì từ hiểu biết này... ông ấy đã mở ra cánh cổng
lần đầu tiên, làm rõ ràng rằng điều linh thiêng và điều trần
tục đều là một, chỉ cách thấy là khác nhau. Không cần phải
hành hạ thân thể để làm thuần khiết linh hồn. Chúng cả hai
có thể cùng nhảy múa với nhau, cũng thiêng liêng như
điệu vũ có thể vậy... Tôi muốn đất và trời là cùng nhau.
Chỉ trong cùng nhau của chúng mới là cái toàn thể; chỉ
trong cùng nhau của chúng mới là niềm vui, mới là trọn
vẹn."
Nhưng loạt chuyện này không chỉ được thấm nhuần
bởi tình yêu của Người đối với nhà cách mạng triệt để
này; Người nhân những cơ hội này chỉ ra cách xã hội,
truyền thống, quá khứ làm chúng ta què quặt và thành nô
lệ. Và cách thức chúng ta luôn cần để khởi hành từ những
hình mẫu đã thiết lập sang việc cảm thấy cái ta thực của
mình trong mọi hành động của mình trong bầu trời vô hạn.
Nhiều lần Người cười vào đạo đức ngu ngốc của con
người, vào định kiến mù quáng của chúng ta, đánh chúng
ta bằng cây gậy thiền của sự hóm hỉnh và cái nhìn đúng
đắn của Người.
'Điểm khởi hành' là mạch chảy mảnh mai nhất. "Lí lẽ
là mạch duy nhất mà qua nó, với hiện nay, bạn có thể hiểu
thấu điều gì đó của cõi bên kia." Những bài nói này cũng

iv
bao gồm những bổ sung thêm cho Bảo tàng các Thần -
vườn bách thú mà con người đã tôn thờ - và chúng bao
gồm khoảnh khắc khi thân thể bị đầu độc của Người
không còn có thể nhảy múa với chúng ta. Chúng là vui vẻ
vô tư và không bao giờ nghiêm chỉnh, vậy mà: "Thiền sư
đùa... nhưng tất cả việc đùa này bao giờ cũng mang tính
chỉ báo về cái vĩnh hằng và điều tối thượng."
Những lời này mở ra các cánh cửa, nhưng ai biết để
làm gì? Liệu có ai biết không? "Tôi đã vắng mặt ba mươi
nhăm năm nay," tiếng nói êm dịu, mạnh mẽ tràn đầy im
lặng nói với hàng nghìn người tìm kiếm. Tâm trí có đó -
để bị trêu chọc, châm chích, gây choáng váng và tiêu
khiển. Trái tim nhảy múa với sự hiện diện của Người, với
sự duyên dáng trang nhã của mọi cử chỉ của Người. Và
bản thể bên trong nhất bị huých vào, bị kích động, xúc
động như hạt mầm nứt ra, như chồi xanh vươn tới mặt trời
một cách đáng khâm phục. Nhưng đây là trường phái bí ẩn
và bất kì tâm trí nào muốn có lời giải thích đều phải tự bịa
ra theo cách riêng của mình.
Swami Anand Robin, M.A. (Cantab.)
3/1989

v
Lưu ý cho độc giả

Phần cuối mỗi bài nói trong loạt này tuân theo một
định dạng nào đó mà có thể gây khó hiểu với độc giả còn
chưa hiện diện tại chính sự kiện.
Đầu tiên là thời gian của Sardar Gurudayal Singh.
“Sardarji” là một đệ tử lâu năm có tiếng cười nồng nhiệt
và tiêm nhiễm đã làm nẩy sinh việc mang tên anh ấy cho
lúc kể chuyện cười.
Chuyện cười được tiếp sau bởi việc thiền bao gồm
bốn phần. Mỗi giai đoạn của thiền đều được báo trước bởi
một tín hiệu từ Osho cho người đánh trống, Nivedano.
Nhịp trống này được biểu diễn trong văn bản là như sau:

(tiếng trống)

Giai đoạn thứ nhất của thiền là nói lảm nhảm, mà


Osho đã mô tả là “lau sạch tâm trí bạn khỏi mọi loại bụi

vi
bặm... nói bất kì ngôn ngữ nào mà bạn không biết... ném
tất cả sự mất trí của bạn ra.”
Trong vài khoảnh khắc căn phòng tràn đầy sự điên
khùng, khi hàng nghìn người hô, hét, lảm nhảm điều vô
nghĩa và vung vẩy tay chân mình khắp xung quanh.
Tiếng lắp bắp được biểu thị trong văn bản như sau:

(nói lắp bắp)

Giai đoạn thứ hai là thời kì ngồi im lặng, tập trung


tâm thức vào trung tâm, điểm chứng kiến.

Giai đoạn thứ ba là “buông bỏ” - mỗi người ngã vô


nỗ lực xuống đất, cho phép các biên giới vốn vẫn giữ họ
phân tách nay tan biến đi.
Và nhịp trống cuối cùng báo cho toàn thể hội chúng
trở lại tư thế ngồi, như họ được hướng dẫn trong việc làm
cho kinh nghiệm thiền của mình ngày càng là một phần
của cuộc sống thường ngày. Những người tham dự được
hướng dẫn qua từng giai đoạn của thiền theo lời của Thầy,
và toàn bộ văn bản của từng buổi thiền tối được tái tạo lại
ở đây.

vii
1. Đất Trời không tách rời

Osho ơi,
Vào một ngày nào đó, tất cả các sư trong đạo
tràng của Nam Tuyền đều tham gia vào việc
chuẩn bị cho ngày hôm sau - ngày giỗ của Mã
Tổ.
Nam Tuyền nói với các đệ tử của mình, "Mai
chúng ta sẽ cúng đồ chay cho thầy Mã Tổ. Các
ông có cho rằng thầy sẽ tới không?"
Không ai trả lời cả. Nhưng trong nhóm đó có
một thanh niên, một sư lang thang, tên là Động
Sơn. Anh ta bước ra và nói, "Thầy sẽ đợi người
đồng hành tới."
Nam Tuyền bình, "Mặc dầu người này còn trẻ,
anh ta đủ phẩm chất cho việc rèn luyện."
Động Sơn đáp, "Thầy tôn kính không nên chèn
ép người tốt bằng việc coi người đó là kẻ không
có giá trị gì."

1
Maneesha, trong lịch sử dài lâu của Thiền có những
cột mốc. Mahakashyapa là cột mốc đầu, nhưng không mấy
điều được biết về ông ấy - trong kinh sách Phật giáo ông
ấy chỉ được nhắc tới mỗi một lần. Chỉ mỗi một lần nhắc
tới vậy mà ông ấy vẫn được coi là đệ tử vĩ đại nhất của
Phật Gautam.
Trong hai mươi năm ông ấy đã không nói lấy một
lời, không câu hỏi, chỉ ngồi bên cạnh Phật Gautam. Ngay
cả Phật Gautam cũng băn khoăn: "Đây là anh chàng lạ kì -
anh ta thậm chí chẳng nói lấy lời chào; có hàng nghìn sư,
họ tất cả đều tới với câu hỏi, vấn đề, nhưng người này
dường như chẳng có câu hỏi nào." Nhưng trong im lặng
hoàn toàn đó, mọi sự đã xảy ra.
Mahakashyapa dũng cảm vô cùng để hoàn toàn im
lặng trong hai mươi năm, thậm chí không hỏi thầy, mà chỉ
đợi: "Bất kì khi nào thời gian chín muồi, thầy sẽ chuyển
trao chân lí." Và điều đó đã xảy ra, và điều đó đã xảy ra
theo cách kì lạ.
Hoàng đế Prasenjita đã tới cúng dường cho Phật
Gautam vài đoá hoa trái vụ. Và đồng thời một triết gia vĩ
đại, người mà mãi cho tới lúc đó Prasenjita vẫn tin là thầy
giáo của mình, đã tới cùng với Prasenjita.
Prasenjita giới thiệu thầy của mình, Maulingaputta,
và nói với Phật Gautam, "Ta xin bày tỏ lòng biết ơn là
thầy đã ở trong vương quốc của ta; cho ta biết liệu có cần
gì cho hội đoàn lớn các sư ở đây không. Một điều nữa ta
muốn hỏi thầy: Ta đã đưa thầy giáo của ta tới,
Maulingaputta, và thầy đã tới với năm trăm người đi theo
của mình. Thầy là một triết gia vĩ đại, một con người với
hiểu biết vô biên, rất lưu loát trong thảo luận về mọi điều.

2
Ta cầu xin thầy cho ông ấy một cơ hội thảo luận về những
vấn đề tối thượng với thầy."
Phật Gautam quay sang Maulingaputta và nói, "Ta
sẵn sàng. Nhưng ông có sẵn sàng không?" Maulingaputta
không thể hiểu được sự sẵn sàng nào được cần vậy.
Phật Gautam nói, "Sẵn sàng nghĩa là ông liệu có khả
năng im lặng, im lặng hoàn toàn, không một ý nghĩ thoáng
qua tâm trí ông không?"
Ông ấy nói, "Ý nghĩ là cuộc sống của tôi, tôi là nhà
tư tưởng; triết lí là nghề của tôi. Tất cả những điều tôi biết
về tâm trí là ở chỗ nó là tiến trình suy nghĩ. Bên ngoài
điều đó tôi không biết im lặng gì mà ông đang nói tới."
Thế rồi Phật nói, "Ông không sẵn sàng rồi. Và điều
đó sẽ là cuộc đối thoại rất kì lạ. Từ trên đỉnh đồi ta nói to
với ông, còn từ thung lũng tối tăm ông sẽ trả lời ta - không
có hiểu biết về ta. Cho nên trước hết, chúng ta đi tới điểm
nơi tâm thức chúng ta ở cùng một mức đi."
Điều đó thật thuyết phục và ngay cả Prasenjita cũng
nói, "Phật Gautam phải đấy. Nhưng phải làm gì đây?"
Phật Gautam nói, "Chẳng phải làm gì cả. Chỉ ngồi im
lặng bên cạnh ta trong hai năm. Nhiều người sẽ tới rồi đi,
và hỏi - ông đừng bận tâm về bất kì cái gì. Công việc của
ông đơn giản là quan sát và im lặng. Không một lời trong
hai năm."
Vào lúc đó Mahakashyapa, đang ngồi dưới gốc cây,
bắt đầu cười phá lên, không thể dừng được... Cả hội chúng
sửng sốt - họ thậm chí chưa bao giờ nghe ông ấy nói, ông
ấy đã chẳng nói gì với ai cả. Bạn có thể nói điều gì đó, ông
ấy sẽ không trả lời; ông ấy sẽ không chú ý tới ai cả. Mọi

3
người đã chấp nhận ông ấy như một anh chàng kì lạ.
Nhưng điều gì đã xảy ra vậy? Đột nhiên, chẳng từ đâu cả...
Và ông ấy cười, tiếng cười giòn tan thế, âm vang trong im
lặng đó của cả hội chúng. Maulingaputta nói, "Sao đệ tử
của ông lại cười?" Phật nói, "Ông có thể đích thân hỏi ông
ấy." Đây là duy nhất việc nhắc tới Mahakashyapa.
Mahakashyapa nói, "Tôi cười bởi vì anh chàng này
bị mắc mẹo rồi. Ông ấy cũng bày mẹo cho cả tôi nữa, theo
hệt cách ông ấy đang làm điều đó với ông. Nhưng bây giờ
ông ấy đã già rồi, cho nên ông ấy nói chỉ hai năm; tôi đã
phải im lặng trong hai mươi năm. Nếu ông thực sự muốn
hỏi các câu hỏi, hỏi ngay bây giờ đi. Sau hai năm nữa thì
điều đó thành quá trễ." Đây là việc nhắc tới duy nhất.
Và khi Prasenjita cúng dường hoa, Phật đã gọi
Mahakashyapa và trao những đoá hoa này cho ông ấy. Và
ông ấy nói, "Điều có thể được nói qua lời, ta đã nói cho
mọi người. Điều không thể được nói qua lời, nhưng chỉ
qua im lặng, ta đã truyền cho Mahakashyapa."
Điều này làm cho ông ấy trở thành thiền sư thứ nhất.
Nhưng bên cạnh điều này, không có nhắc nhở gì về ông ấy
cả. Có lẽ im lặng vẫn còn là phương pháp của ông ấy.
Nhiều người phải đã trở nên chứng ngộ khi ngồi cạnh ông
ấy, nhưng chẳng có gì được nói ra. Ông ấy là thầy im lặng.
Cho nên không ghi chép nào còn lại.
Thế rồi tới việc khởi hành thứ hai - đã có nhiều
người khác - nhưng việc khởi hành vĩ đại thứ hai trong
quá khứ là Bồ đề đạt ma. Ông ấy thậm chí còn kì lạ hơn cả
Mahakashyapa. Ông ấy là tổ thứ sáu trong dòng truyền
thừa Thiền.

4
Sau Bồ đề đạt ma, Nam Tuyền là điểm khởi hành
mới. Ông ấy mở cho Thiền sang sự đa dạng rộng lớn hơn,
ông ấy cho Thiền nhiều chiều hướng hơn. Nó không còn là
dòng suối nhỏ nữa, mà trở thành đại dương.
Hôm nay chúng ta bắt đầu một loạt bài về Nam
Tuyền1. Một chút ít giới thiệu về tiểu sử:

Nam Tuyền, cũng còn được biết dưới cái tên


Nan-ch'uan, sinh ra ở miền bắc Trung Quốc
vào năm 748. Bắt đầu học thiền khi còn là
thanh niên, Nam Tuyền trở thành tu sĩ Phật
giáo vào tuổi ba mươi và đi du hành tới nhiều
đạo tràng nổi tiếng. Khi tới Giang Tây và gặp
Mã Tổ, Nam Tuyền lập tức trở thành một trong
những đệ tử lỗi lạc nhất của Mã Tổ.

Chúng ta đã thảo luận về Mã Tổ 2. Không có gì ngạc


nhiên là con người đầy sáng suốt Nam Tuyền này ngay lập
tức trở thành... ông ấy đã không bỏ lỡ một khoảnh khắc
khi ông ấy tới đạo tràng của Mã Tổ, khi ông ấy gặp thầy,
ông ấy lập tức chạm chân thầy.
Và kính trọng này không phải là một phía, tình yêu
này không phải là một phía; Mã Tổ đã trút tình yêu và
kính trọng lớn lao lên Nam Tuyền. Cả hai đều nhìn vào
nhau, cái gì đó lập tức trở nên được nối liền. Mã Tổ hiểu
sự khẩn thiết và mãnh liệt của việc tìm kiếm của Nam

1
Nansen - Nam Tuyền Phổ Nguyện (zh. nánquán pǔyuàn 南泉普願,
ja. nansen fugan), 738-835, là Thiền sư Trung Quốc, một trong những
môn đệ lừng danh của Mã Tổ Đạo Nhất và là thầy của một học trò
không kém uy dũng là Triệu Châu Tòng Thẩm
2
Ma Tzu - Baso - Mã Tổ Đạo Nhất, thiền sư Trung Quốc , 709-788

5
Tuyền, và Nam Tuyền đã hiểu, "Đây là chính người ấy.
Nếu mình không thể làm điều đó với người này, mình sẽ
không làm điều đó chút nào cả."
Đây là cách đệ tử và thầy gặp nhau. Đây không phải
là điều hời hợt; nó là cái gì đó bản chất bên trong, trực
giác, và ngay lập tức. Bạn phải hiểu từ 'ngay lập tức'.
Không phải bởi vì cái gì đó, mà Nam Tuyền mới trở thành
đệ tử thân tín của Mã Tổ. Không có nguyên nhân thấy
được. Không có cái gì làm trung gian cho ông ta để trở
thành đệ tử - đó là lí do tại sao nó mới là ‘ngay lập tức’.
Không nguyên nhân, không lí do thấy được, không cái gì
được hiểu bằng tâm trí... nhưng từ trái tim sang trái tim cái
gì đó đã xảy ra. Họ đã đi vào tình yêu sâu sắc, tình yêu vĩ
đại.

Ông ấy đã nhận ra chứng ngộ và sau đó rời


khỏi đạo tràng của Mã Tổ.

Đó là lí do tại sao tôi đã gọi loạt bài này là "Điểm


khởi hành". Mã Tổ có phương pháp riêng của mình; ông
ấy đã đưa phương pháp của Bồ đề đạt ma tới đỉnh tối
thượng. Nam Tuyền yêu Mã Tổ, nhưng không sẵn sàng trở
thành người kế tục Mã Tổ. Nếu như ông ấy còn ở lại đó,
ông ấy sẽ là người kế tục của Mã Tổ. Chỉ để tránh sự bối
rối - bởi vì ông ấy sẽ đi vượt ra xa ra ngoài theo chiều
hướng khác - nên tốt hơn cả là ra đi trước khi thầy đề nghị
rằng, "Ông là người kế tục ta." Thế thì việc ra đi sẽ không
thể được.
Ông ấy đã trở nên chứng ngộ... Tiến trình thông
thường sẽ là ở chỗ khi bạn trở nên chứng ngộ với thầy,
bạn có thể đi đâu được? Tình yêu này, chỗ trú ẩn này, bạn

6
sẽ không tìm thấy ở đâu cả. Không cần đi đâu hết cả. Bây
giờ bạn có thể hiểu bài ca vĩ đại của thầy, và âm nhạc vô
hình. Đây không phải là lúc khởi hành.
Nhưng lí do cho việc khởi hành của ông ấy khỏi đạo
tràng của Mã Tổ là ở chỗ nếu ông ấy không ra đi bây giờ,
ông ấy sẽ không bao giờ có khả năng ra đi được nữa. Một
khi Mã Tổ đã đề nghị rằng, "Ông trở thành người kế tục
ta," thì ông ấy không thể nói không với thầy được.
Nhưng ông ấy muốn đưa nhiều điều mới vào Thiền.
Đôi khi chúng có thể mâu thuẫn với Mã Tổ, đôi khi chúng
là mới với phương pháp thuyết giảng của Mã Tổ, và ông
ấy không muốn bất kì ai nói rằng ông ấy đang phản lại
thầy mình. Thay vì phản bội, ông ta đơn giản rời bỏ đạo
tràng vào tuổi năm mươi.
Nam Tuyền tìm ra cộng đồng riêng của mình và thu
hút hàng nghìn đệ tử.

Maneesha đã đem tới lời kinh:

Osho ơi,
Vào một ngày nào đó, tất cả các sư trong đạo
tràng của Nam Tuyền đều tham gia vào việc
chuẩn bị cho ngày hôm sau - ngày giỗ của Mã
Tổ.
Nam Tuyền nói với các đệ tử của mình, "Mai
chúng ta sẽ cúng đồ chay cho thầy Mã Tổ. Các
ông có cho rằng thầy sẽ tới không?"

Trước khi chúng ta đi xa thêm nữa - đây là một một


điều trong số nhiều điều - Mã Tổ vẫn nhấn đi nhấn lại về

7
đồ ăn chay. Trong đạo tràng của ông ấy đồ ăn mặn bị tuyệt
đối cấm. Điều này phải quay về với Phật Gautam.
Phật Gautam là người ăn chay, ăn chay trường. Và
tất cả mọi người đi theo ông ấy đều là người ăn chay. Đó
là cuộc cách mạng theo một cách nào đó, vì con người đã
sống như người ăn mặn cả triệu năm. Và theo Phật, người
ta vẫn còn là người man rợ trừ phi người đó trở thành
người ăn chay. Giết hại cuộc sống là phá huỷ đi khả năng
trưởng thành riêng của bạn. Bạn phải kính trọng cuộc
sống; tôn kính cuộc sống sẽ giúp cho trưởng thành tâm
thức của bạn. Và ông ấy tuyệt đối đúng.
Nhưng một sự việc kì lạ đã xảy ra, và điều này sẽ chỉ
ra cho bạn cách thức tâm trí tinh ranh của con người lấn
lướt thế nào, ngay cả với các thầy như Phật Gautam.
Ông ấy đã làm rõ ràng cho mọi người là , "Bất kì cái
gì được trao cho các ông trong bình bát khất thực, nhận nó
với lòng biết ơn."
Và mọi người đều biết rằng họ đều là những người
ăn chay, cho nên mọi người đã chuẩn bị thức ăn chay.
"Nhưng đừng vứt đi cái gì đã được trao cho các ông
bằng tình yêu và lòng kính trọng. Ăn mọi thứ rơi vào bình
bát khất thực của các ông."
Một hôm một sư tới với dáng vẻ rất khó xử. Ông ta
nói, "Tôi đang trong khó xử kì lạ. Một con chim bay
ngang qua làm rơi một miếng thịt vào bình bát khất thực
của tôi. Tôi vừa mới đi khất thực trong thành phố về, nghỉ
dưới gốc cây" - trong khu vườn nơi họ đang ngụ - "để ăn
thức ăn. Bây giờ vấn đề là, nếu tôi vứt miếng thịt này đi
thì tôi đang làm ngược lại lời dạy của thầy rằng, 'Phải ăn
mọi thức rơi vào bình bát khất thực của các ông.' Còn nếu

8
tôi ăn nó, tôi vẫn làm ngược lại lời dạy của thầy về, 'Bao
giờ cũng là người ăn chay.' Bây giờ tôi được giả định phải
làm sao?"
Toàn thể hội chúng các sư cũng lâm vào tình thế kì
lạ: Phật định giải quyết điều đó như thế nào?
Phật nghĩ, "Nếu ta nói 'vứt nó đi', thì điều đó sẽ trở
thành một điều phổ biến. Mọi người sẽ bắt đầu chọn lựa:
bất kì cái gì tốt, ngon họ sẽ ăn và cái còn lại họ sẽ vứt. Đất
nước nuôi dưỡng các sư. Điều này sẽ đi ngược lại những
người đang nuôi dưỡng các ông. Phải vất vả lắm họ mới
kiếm được, còn các ông lại đem vứt thức ăn đi. Cho nên ta
không thể nói vứt nó đi được.
"Còn nếu liên can tới con chim kia, gần như chắc,
trong hàng thế kỉ tiếp sau, không con chim nào sẽ lặp lại
điều này. Cho nên chẳng có gì nguy hiểm cả, nếu chỉ một
người ăn vào một ngày một mẩu thịt." Ông ấy nói, "ăn
mọi thứ đã rơi vào bình bát khất thực của ông."
Và điều này đã trở thành kẽ hở cho tâm trí tinh ranh
của con người, rằng, "Phật không chống lại việc ăn thịt;
mình chỉ phải đừng giết hại thôi, ông ấy chống lại việc
giết hại. Nếu thịt được đem cho mình, được cúng dường
cho mình, mình phải tiếp nhận nó một cách kính trọng."
Cho nên bây giờ ở Trung Quốc và Nhật Bản, tất cả
các phật tử đều là người ăn mặn. Không một phật tử nào là
người ăn chay. Và trong mọi cửa hàng thức ăn, nhà hàng
họ nói rõ rằng ở đây có sẵn thức ăn mặn nhưng không phải
là của con vật bị giết - nó là từ con vật tự chết.
Bây giờ, biết bao nhiêu con vật không chết theo cách
riêng của chúng. Và trong thực tế, vài con vật quả có vậy;
bạn sẽ chẳng bao giờ biết làm sao chúng chết. Bạn có thấy

9
con bò hay con quạ sắp chết, đã chết không? Có lẽ thỉnh
thoảng có thấy vì dây điện… bằng không thì trước khi
chết, bằng cách nào đó chúng biến mất. Chúng biến đi ở
sâu trong rừng, chúng biến đi trong núi non, để tìm nấm
mồ an bình.
Ngay cạnh đây, có một trong những công viên hươu
quốc gia với hàng nghìn con hươu. Tôi thường hay tới đó
lắm. Nó ở sâu trong rừng, chỉ một ngôi nhà nghỉ nhỏ và
một cái hồ lớn, và trong đêm hàng nghìn con hươu sẽ tới
uống nước. Và trong đêm mắt chúng ánh lên như sao. Bạn
thấy một hàng các ngôi sao đi quanh hồ, được phản xạ vào
hồ. Đó là một trong những cảnh đẹp nhất mà tôi đã từng
thấy.
Tôi đã quan sát những con hươu đó. Tôi hỏi thăm
người làm công cho ngôi nhà nghỉ, người chăm nom ngôi
nhà nghỉ, "Ông có thấy con hươu nào chết không?"
Ông ấy nói, "Hàng triệu người phải đã tới thăm công
viên này; chẳng ai hỏi câu hỏi như vậy cả. Không, tôi chưa
bao giờ thấy một con hươu nào chết cả." Và tôi đã hỏi ông
ta, "Ông thậm chí không tự hỏi chúng biến đi đâu sao?"
Ông ta nói, "Chính câu hỏi này chưa hề nảy sinh trong
tôi."
Từ đâu mà ở Trung Quốc, ở Hàn Quốc, ở Đài Loan,
ở Myamar, ở Nhật bản - ở mọi nước phật giáo... Dường
như con vật có một niềm vui đặc biệt: chúng tới nhà hàng
và chết theo cách của chúng - tự phát. Và không một phật
tử nào đã bao giờ nêu ra câu hỏi rằng, "Điều này tuyệt đối
ngớ ngẩn, điều này không thể có được. Con vật phải bị săn
bắt và bị giết, chỉ thế thì bạn mới có thể có thức ăn mặn."
Nhưng Mã Tổ tuyệt đối hài hoà với Phật Gautam.

10
Cho nên khi Nam Tuyền dọn dẹp đạo tràng của mình
để chuẩn bị cho buổi giỗ Mã Tổ, ông ấy đã nói với các đệ
tử - cảm động thế -

"Mai chúng ta sẽ cúng đồ chay cho thầy Mã Tổ.


Các ông có cho rằng thầy sẽ tới không?"
Không ai trả lời cả. Nhưng trong nhóm đó có
một thanh niên, một sư lang thang, tên là Động
Sơn. Anh ta bước ra và nói, "Thầy sẽ đợi người
đồng hành tới."
Nam Tuyền bình, "Mặc dầu người này còn trẻ,
anh ta xứng đáng với việc huấn luyện."
Động Sơn đáp, "Thầy tôn kính không nên chèn
ép người tốt bằng việc coi người đó là kẻ không
có giá trị gì."

Động Sơn3 cuối cùng tự mình đã trở thành một thầy


lớn. Anh ta đang nói rằng thầy sẽ tới - Mã Tổ sẽ tới - và
thầy sẽ không tới một mình.
Đó chính thói quen của Mã Tổ mà anh ta đang nói
tới. Mã Tổ bao giờ cũng đi cùng một đệ tử đã chứng ngộ,
bởi vì phương pháp thuyết giảng của ông ấy kì lạ đến mức
nhiều người bị mê hoặc.
Cho nên trước hết ông ấy sẽ phái người đồng hành đã
chứng ngộ tới, người có thể thảo luận, người có thể làm
cho họ nhận biết về tất cả các khả năng, và người cũng có
thể làm cho họ nhận biết rằng, “Nếu ông muốn có trao đổi
nào với Mã Tổ, ông phải sẵn sàng với những điều này -
bất kì cái gì cũng đều có thể cả. Thầy có thể đánh ông,

3
Tozan - Động Sơn Lương Giới, thiền sư Trung Quốc, 807-869

11
thầy có thể nhảy lên người ông, thầy có thể ngồi lên ngực
ông và hỏi, ‘Đã nhận ra điều đó chưa?’”
Thầy bao giờ cũng có cách thức riêng của mình, và
chúng ta không thể nói rằng thầy sai theo cách của thầy
bởi vì hàng trăm đệ tử đã trở nên chứng ngộ qua thầy. Cho
nên phương tiện nào thầy dùng không thành vấn đề, mục
đích lớn lao thế.
Nếu bạn phân tích vấn đề, bạn sẽ hiểu có sáng suốt
tâm lí lớn. Một người lạ tới - ngay cả trong mơ người đó
cũng không thể nghĩ được rằng thầy sẽ nhảy lên mình.
Người đó tới để hỏi, "Chân lí là gì?" Bây giờ câu hỏi này
theo bất kì cách nào cũng không xứng với việc thầy phải
nhảy xổ vào người đó, và ngồi lên ngực người đó với cây
thiền trượng trong tay. Hiển nhiên, vào khoảnh khắc này,
tất cả mọi suy nghĩ của người lạ kia sẽ dừng lại. Bạn có
thể nghĩ được gì trong tình huống như vậy? Trong một
khoảnh khắc toàn bộ tâm trí đi tới điểm dừng hoàn toàn,
phanh két lại.
Mã Tổ từ bi vô cùng. Việc dừng lại của tâm trí này
phải mất nhiều năm - ông ấy đã đảm đương việc đó trong
chỉ một phút. Nhưng phương pháp của ông ấy làm cho
ông ấy thành người rất kì quái. Và người bỗng nhiên trở
nên nhận biết về trạng thái của im lặng mới có khả năng
thấy điều đó. Nhiều người đã trở nên chứng ngộ.
Có lần một sư đi vào cửa - anh ta mới vào tới lưng
chừng, nửa bên trong cửa nửa bên ngoài - và Mã Tổ thấy
thế liền đóng cửa lại, thế là anh ta bị kẹp ở giữa, la hét ầm
ĩ, trong khi Mã Tổ hỏi, "Đã nhận ra điều đó chưa?" Anh ta
thậm chí còn chưa đi vào hết trong đền. Và điều có vẻ kì

12
lạ là những người đó đã nhận ra điều đó - họ chẳng bao
giờ hỏi lại nữa.
Có lần ông ấy ném một người ra khỏi cửa sổ, thế rồi
nhảy lên người đó từ cửa sổ, và hỏi anh ta… Anh ta bị gẫy
xương nhưng Mã Tổ chẳng bận tâm tới xương gãy; ông ấy
nói, "Quên chuyện gãy xương đi! Trước hết nói cho ta,
anh đã nhận ra nó chưa?" Và tương truyền rằng người này
hổn hển nói, "Dạ vâng, con đã nhận ra nó."

Cho nên chàng thanh niên này đang nói tới thói quen
của Mã Tổ bao giờ cũng có người đồng hành đi cùng,
người sẽ giải thích ông ấy cho bất kì người lạ nào, việc
trao đổi qua lời, và cũng sẽ giải thích rằng, "Nếu anh
muốn Mã Tổ làm việc với anh, anh phải sẵn sàng với tất
cả những điều này - bất kì cái gì cũng đều có thể xảy ra.
Ông ấy là thầy không đoán trước được."
Chàng thanh niên này, Động Sơn, không phải là đệ
tử của Nam Tuyền, anh ta chỉ đi qua... Điều đó nữa cũng
phải được hiểu: ở Trung Quốc và ở Nhật Bản và các nước
phật giáo khác các sư liên tục đi lang thang từ đạo tràng
này sang đạo tràng khác, cho tới khi họ tìm thấy trái tim
làm cho nhịp tim họ hoà cùng điệu vũ. Họ được nhận vào
trong mọi đạo tràng với sự kính trọng. Họ ở lại đó vài
ngày và nếu không có gì xảy ra ở đó, họ đi tiếp với lòng
biết ơn rằng, "Các ông đã cho phép chúng tôi ở lại đây
trong bốn ngày."
Chàng thanh niên này, Động Sơn, không là sư
thường trú trong đạo tràng của Nam Tuyền.
Anh ta bước ra và nói, "Thầy sẽ đợi người bạn đồng
hành tới." Nhưng thầy sẽ tới; đó là ngụ ý: thầy sẽ tới. Khi

13
biết bao nhiêu người trong các bạn kỉ niệm ngày giỗ của
thầy, làm sao thầy có thể không tới được? Vấn đề duy nhất
là, nếu thầy không thể kiếm được người bạn đồng hành,
thế thì sẽ rất khó cho thầy tới. Nhưng thầy sẽ kiếm được
bạn đồng hành - có biết bao nhiêu người chứng ngộ đã
chết. Và với một người như Mã Tổ, khi ông ấy nói với ai
đó, "Đi theo ta," người đó phải đi.
Nhưng các đệ tử riêng của Nam Tuyền vẫn cứ trơ ra
đấy mà chẳng có câu trả lời nào; họ bỏ lỡ mất vấn đề.
Và Nam Tuyền đã biểu lộ cái đẹp thế của trái tim
mình; mặc dầu ông ấy không phải là người kế tục của Mã
Tổ, ông ấy đã trở nên chứng ngộ dưới Mã Tổ.

Mai chúng ta sẽ cúng đồ chay cho thầy Mã Tổ.


Các ông có cho rằng thầy sẽ tới không?

Người đã chứng ngộ có thể tới thăm. Có hàng trăm


trường hợp người đã chứng ngộ đã tới thăm. Điều kiện
duy nhất cần được thoả mãn là lời mời yêu mến của bạn.
Và đó là điều Nam Tuyền đang nói, "Chúng ta gửi
lời mời yêu mến tới Mã Tổ, và chúng ta hứa với thầy ..."
bởi vì Nam Tuyền đã đi xa khỏi phái ăn chay, ông ấy đã
cho phép người ăn mặn vào đạo tràng của mình. Thái độ
của ông ấy là ở chỗ nếu toàn thể nhân loại - và luận cứ này
cũng đáng xem xét - nếu toàn thể nhân loại trở thành
người ăn chay, thì sẽ không thể nào cung cấp được thức ăn
cho mọi người. Gần chín mươi chín phần trăm nhân loại
ăn mặn. Bạn có thể kiếm đâu ra nhiều thức ăn chay thế?
Cho nên xem xét của ông ấy là rất thực tế và thực
dụng. Ông ấy nói, "Chỉ bởi vì thức ăn, đừng ngăn cản sự

14
trưởng thành tâm linh của họ. Vâng, đúng là với thức ăn
chay họ có thể đi vào trong trạng thái thiền dễ dàng hơn,
nhưng đó là vấn đề của họ. Với thức ăn mặn việc đi của họ
vào những tâm thức cao hơn là khó khăn hơn, nhưng
không phải là không thể được."
Các thầy ăn mặn đơn giản đã theo con đường khó
khăn hơn, nhưng tình huống của thế giới lại là ở chỗ
chúng ta không thể cung cấp được đồ ăn chay cho mọi
người.
Đó là lí do tại sao ông ấy nói rằng, "Chúng ta đang
gửi lời mời tới linh hồn đã chứng ngộ của Mã Tổ, được tự
do với thân thể. Chúng ta sẽ cúng dường thức ăn chay -
chúng ta hứa. Các ông có cho rằng thầy sẽ tới không? Ta
nghĩ thầy sẽ tới, thầy phải tới chứ."
Người chứng ngộ đơn giản sống trong tự do toàn bộ
khỏi thân thể, nổi như đám mây trắng, không bắt rễ vào
đất, và không có đích nào. Chỉ từ tự do - đi về phương
bắc, về phương tây, về phương đông - bất kì nơi đâu sự
chuyển động tự phát xuất hiện, người đó đều đi theo. Nếu
ông ấy được mời với tình yêu, với lời cầu nguyện, với
thiền sâu sắc, có lẽ bạn sẽ không thấy ông ấy, nhưng bạn
sẽ cảm thấy sự hiện diện của ông ấy - đặc biệt với những
người đã biết tới sự hiện diện của ông ấy.
Nam Tuyền sẽ cảm thấy ông ấy nếu ông ấy tới. Ông
ấy biết hương thơm của ông ấy, ông ấy biết cái chạm của
ông ấy, ông ấy biết bầu không khí tới cùng ông ấy.
Ông ấy đã hỏi một câu hỏi rất hay, nhưng không đệ
tử nào có khả năng hiểu được một hiện tượng bí ẩn.
Và Động Sơn, người mang định mệnh bản thân bạn
trở thành một thầy chứng ngộ, chắc chắn đã biểu lộ hiểu

15
biết sâu sắc. Anh ta nói, "Thầy sẽ đợi người bạn đồng
hành tới. Tôi biết thầy, thầy sẽ không tới một mình đâu -
đấy không phải là thói quen của thầy. Nếu thầy tới, thầy sẽ
tới với một người chứng ngộ khác."
Thấy hiểu biết của con người này, Nam Tuyền bình,
"Mặc dầu người này còn trẻ, anh ta xứng đáng với việc
huấn luyện."
Ông ấy đã không ca ngợi nhiều câu trả lời của Động
Sơn, bởi vì đó là có điều kiện. Và khi để Mã Tổ tới buổi
giỗ, ông ấy sẽ không tuân theo thói quen cũ của việc có
người đồng hành đi theo.
Thầy không tới đây để dạy ai cả, sao thầy phải đợi
bạn đồng hành nào? Bạn đồng hành được chọn chỉ để
tránh bất kì hiểu lầm nào với mọi người. Tại đây thầy sẽ là
khách; không cần thầy phải đợi bạn đồng hành.
Đó là lí do tại sao Nam Tuyền đã không coi anh ta có
nhiều công trạng, mặc dầu Động Sơn đã tỏ ra có chút ít
hiểu biết. Cho nên ông ấy nói,

"Mặc dầu người này còn trẻ, anh ta xứng đáng


với việc huấn luyện."
Động Sơn đáp, "Thầy tôn kính không nên chèn
ép người tốt bằng việc coi người đó là kẻ không
có giá trị gì."

Anh ta cảm thấy bị xúc phạm. Anh ta phải đã nghĩ


rằng anh ta đáng được ca ngợi.
Nhưng tôi đồng ý với Nam Tuyền... có chút ít chân lí
trong hiểu biết của anh ta rằng 'Thầy sẽ tới, nhưng thầy sẽ
đợi bạn đồng hành'. Nhưng cái 'đợi bạn đồng hành đó', đã

16
phá đi toàn bộ sự hiểu biết. Đó là lí do tại sao Nam Tuyền
lại nói, "anh ta xứng đáng với việc huấn luyện."
Nhưng Động Sơn sâu bên dưới cảm thấy bị xúc
phạm. Anh ta đã nghĩ mình đáng được ca ngợi, rằng trong
khi chẳng đệ tử nào đáp ứng, thì anh ta, một sư lang thang,
đã nói rằng thầy sẽ tới. Anh ta đã biểu lộ hiểu biết sâu sắc
của mình, nhưng Nam Tuyền không ca ngợi hiểu biết của
anh ta, ông ấy nhiều nhất chỉ nói rằng anh ta xứng đáng
được huấn luyện.

Động Sơn đáp, "Thầy tôn kính không nên chèn


ép người tốt bằng việc coi người đó là kẻ không
có giá trị gì."

Điều này đã phá huỷ đi chân lí nhỏ bé mà anh ta vừa


biểu lộ trong việc nói, 'thầy sẽ tới, nhưng thầy sẽ đợi
người bạn đồng hành.' Bạn không giả thiết mình bị thầy
xúc phạm, bởi lí do đơn giản là có lẽ bạn xứng đáng với
điều bạn có. Còn thầy theo bất kì cách nào không quan
tâm tới việc xúc phạm ai cả. Thầy sẽ được gì bằng việc
xúc phạm? nhưng thầy không thể ca ngợi bên ngoài giới
hạn, bởi vì điều đó sẽ cho bạn bản ngã một cách không
cần thiết. Và theo cách đó thầy sẽ trở thành cản trở cho
tiến bộ của bạn.
Động Sơn đã không thể hiểu được tại điểm đó.

Những giai thoại nhỏ này là có ích nhiều lắm, nếu


bạn hiểu rằng chúng ta không nghiên cứu chúng chỉ với
mục đích nghiên cứu. Chúng ta là những người đang trên
đường, chúng ta đang đi theo cùng hướng. Cho nên chúng

17
ta nên lưu ý tới mọi hiện tượng có thể xảy ra trên con
đường: sai lầm, đi lạc lối vì những điều tầm thường nhỏ
nhặt, trở nên giận dỗi với thầy, còn thầy tát bạn chỉ từ lòng
từ bi và tình yêu, việc tát chẳng cho thầy niềm vui gì.
Tất cả những giai thoại này, nếu được hiểu đúng, sẽ
giúp cho tiến hoá của bạn, cho việc định tâm của bạn. Một
bài thơ của Sekiso:

Điều linh thiêng và trần tục về nguồn gốc


cùng sống trong một ngôi nhà.
Với bàn tay từ bi
Thầy vĩ đại lần đầu tiên
đã mở ra cánh cửa.
Chớ hỏi ai hay bao nhiêu người
đang trong phòng.
Những miếng ngói và rui xà này
chứa cả trời và đất.

Sáng suốt lớn lao của Sekiso.


Ông ấy đang nói, điều linh thiêng và trần tục - vật
chất và tâm linh - về nguồn gốc sống trong cùng một ngôi
nhà. Với bàn tay từ bi thầy vĩ đại lần đầu tiên đã mở ra
cánh cửa.
Phát biểu này, rằng điều trần tục và linh thiêng sống
trong cùng một ngôi nhà, là việc mở ra, việc mới mở ra
cánh cổng bởi vì tất cả các thầy bao giờ cũng lên án vật
chất, cái trần tục, và ca ngợi cái linh thiêng, tâm linh. Họ
bao giờ cũng phân chia zorba và phật. Trong hiểu biết của
họ, zorba phải chết đi - chỉ thế thì phật mới có thể đi vào
sự tồn tại. Đó là là lịch sử của mọi tôn giáo.

18
Nam Tuyền đã mở ra một cánh cửa mới bằng việc
nói rằng, Điều linh thiêng và trần tục về nguồn gốc sống
trong cùng một ngôi nhà. Sekiso là đệ tử của Nam Tuyền.

Với bàn tay từ bi thầy vĩ đại lần đầu tiên mở ra


cánh cửa. Chớ hỏi ai hay bao nhiêu người đang
trong phòng.

Số không thành vấn đề, chớ hỏi bao nhiêu người đã


vào qua cổng. Điểm có ý nghĩa là ở chỗ Nam Tuyền đã
mở cánh cổng, ở chỗ điều trần tục và điều linh thiêng có
thể ở cùng nhau. Không cần chúng phải bị tách rời. Đó đã
là sự khởi hành triệt để vô cùng từ quá khứ.

Chớ hỏi ai hay bao nhiêu ngườ đang trong


phòng. Những miếng ngói và rui xà này chứa
cả trời và đất.

Khi một người như Nam Tuyền sống trong một ngôi
đền, thì rui xà và ngói lát cũng trở thành cái gì đó thiêng
liêng, cái gì đó linh thiêng, nhưng không phải là linh
thiêng chống lại trần tục. Nam Tuyền đã nối đất với trời.
Tình yêu của tôi với Nam Tuyền là mênh mông bởi
vì từ hiểu biết này mà đất và trời không tách biệt - không
thể tách biệt nổi. Và bạn nên tận hưởng cả hai.

Maneesha đã hỏi:

19
Osho ơi,
Sao thầy đã gọi loạt bài này là Nam Tuyền:
Điểm khởi hành?

Bởi vì ông ấy đã mở ra cánh cổng lần đầu tiên, làm


rõ ràng rằng điều linh thiêng và điều trần tục đều là một,
chỉ cách thấy là khác nhau. Không cần phải hành hạ thân
thể để làm thuần khiết linh hồn. Chúng cả hai có thể cùng
nhảy múa với nhau, cũng thiêng liêng như điệu vũ có thể
vậy. Và chừng nào tâm linh chưa làm biến đổi thân thể
bạn, nó còn chưa mang tính tâm linh nhiều lắm đâu.
Zorba phải không bị giết, zorba phải được biến đổi.
Zorba là phật, chỉ trong hình thái hạt mầm. Bạn không
phải phá huỷ hạt mầm, bạn phải tìm ra mảnh đất hợp, khí
hậu hợp cho hạt mầm, và chờ đợi đến mùa vụ khi mây
đem tới những giọt mưa đầu tiên, và hạt mầm của bạn sẽ
bắt đầu nảy mầm. Hạt mầm và hoa là không tách rời - hạt
mầm là hoa ẩn kín, hoa là hạt mầm đi tới việc nở ra.
Đó là lí do tại sao, Maneesha này, tôi đã gọi loạt bài
này là Nam Tuyền: Điểm khởi hành. Từ tâm linh quá khứ,
Nam Tuyền là việc khởi hành vô cùng, chấp nhận cả cái
trần tục và cái linh thiêng, cái một - hai khía cạnh của một
thực tại.
Bạn có thể hiểu tình yêu của tôi với Nam Tuyền, bởi
vì Nam Tuyền đã bị quên lãng, ngay cả với người kế tục
của ông ấy. Lần nữa lại cùng phân chia ấy len vào giáo
huấn của họ: "Đây là vật chất, đây là điều tầm thường, đây
không phải là tâm linh." Điều Nam Tuyền đã làm, ngay cả
người kế tục ông ấy đã hoàn tác lại. Và không ai đã lưu ý
tới việc khởi hành vĩ đại này.

20
Tôi phải đưa ra lưu ý về việc khởi hành vĩ đại này,
bởi vì hiểu biết riêng của tôi cũng là như vậy. Tôi muốn
đất và trời là cùng nhau. Chỉ trong cùng nhau của chúng
mới là cái toàn thể; chỉ trong cùng nhau của chúng mới là
niềm vui, mới là trọn vẹn. Phật một mình là một nửa,
Zorba một mình là một nửa, và chừng nào họ chưa cùng
với nhau thì họ không thể nào là cái toàn thể được.
Tôi muốn mọi người của tôi là con người toàn thể,
không phủ nhận điều gì mà biến đổi mọi thứ, bao hàm mọi
thứ trong trưởng thành tâm linh của họ.
Bây giờ điều gì đó nghiêm chỉnh nhé...

Đó là ngày hè thứ bảy đẹp trời, cho nên Zabriski


quyết định đi tắm nắng truồng lần đầu tiên trong đời. Anh
ta leo lên mái toà nhà căn hộ của mình, và anh ta quên mất
thời gian. Năm giờ sau, anh ta thấy mình thực tế đã bị
cháy nắng phỏng rộp - đặc biệt là chim.
Sau đó vào ban đêm, Zabriski vào giường với cô bạn
gái Polack mới, Carmen Klopski, và anh ta đau lắm. Cho
nên anh ta bật dậy, đi nhón chân tới nhà bếp, rót một cốc
cao đầy sữa kem lạnh, và dìm cái chim đỏ au của mình
vào đó. Zabriski thở dài sau sự giảm nhẹ mát mẻ này, thì
bỗng nhiên Carmen xuất hiện ở lối cửa.
"Ôi, trời!" cô ấy hổn hển. "Vậy đó là cách bọn con
trai các anh nạp các thứ vào à!"

Lucifer, quỉ, đang nướng bánh mì cho bữa trà trưa


trên ngọn lửa vĩnh hằng của địa ngục. Bỗng nhiên, có
tiếng đổ vỡ loảng xoảng ầm ĩ ở cổng.

21
Quỉ nhìn quanh cảnh giác và thấy một chiếc xe Rolls
Royce dài mầu bạc lái qua ngọn lửa hừng hực. Chiếc Rolls
Royce có một cô gái trẻ đang cười phá lên vì sung sướng
phía trước chiếc xe, và một người to lớn, quấn khăn xếp,
đứng trên cái chắn sốc - cười hết cỡ.
Bám theo người này ở đằng sau xe là một hàng
người dài, ca hát tưng bừng.
Những người mới tới chẳng mấy chốc làm họ thành
gia đình, và quỉ thấy rằng địa ngục không còn giống như
nó vẫn thế nữa.
Cho nên Lucifer gọi điện mời Thượng đế tới và giúp
làm ngăn nắp lại mọi sự. Khi Thượng đế tới, ông ta ngạc
nhiên bởi những điều mình trông thấy.
"Chuyện gì xảy ra cho tất cả ngọn lửa vĩnh hằng và
việc đày địa ngục thế này?" Thượng đế hỏi. "Chỗ này
chẳng có gì giống như cách chúng ta thông báo về nó trên
trái đất!"
"Tôi biết, thật là khủng khiếp!" quỉ khụt khịt. "Từ lúc
Osho lái xe tới đây với các sannyasin của ông ấy, toàn thể
chỗ này đã được làm điều hoà nhiệt độ rồi!"

Vua Carlos của Tây Ban Nha, Hoàng tử Bernhard


của Hà Lan và Hoàng tử Philip của Anh Quốc đang ngồi
cùng nhau uống rượu trong tiệm rượu. Họ có chút hơi say
và bắt đầu ba hoa về chim ai dài nhất.
Một đám đông tụ tập khi Vua Carlos thò máy của
mình ra và đặt nó lên bàn. Hai mươi centimet! Mọi người
vỗ tay và hát bài thánh ca Tây Ban Nha.

22
Thế rồi Hoàng tử Bernhard để cái của mình lên bàn.
Hai mươi nhăm centimet! Mọi người la hét, và rồi ca bài
thánh ca Hà lan.
Cuối cùng, Hoàng tử Philip tụt quần mình ra và đặt
chim lên bàn. Ba mươi centimet! Đám đông há hốc miệng
kinh ngạc, và mọi người bắt đầu hát "Thượng đế cứu
hoàng hậu"
Nivedano...
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng.
Nhắm mắt lại; cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông
cứng.
Bây giờ nhìn vào bên trong.
Thu lấy mọi tâm thức của bạn và đi thẳng vào trung
tâm bản thể bạn.
Trung tâm này là cánh cửa tới vĩnh hằng; trung tâm
này đi ra ngoài cái chết.
Đi sâu hơn vào trong nó.
Đây là phật của bạn.

23
Bạn phải sống nó ngay trong cuộc sống hàng ngày
của mình.
Tôi không thích là sư.
Tôi muốn chư phật ở mọi chỗ, trong mọi hoạt động.
Tôi muốn toàn thể thế giới đầy chư phật. Đó là cách
duy nhất chúng ta có thể biến đổi thế giới này thành thiên
đường.
Làm điều đó rõ hơn đi,
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi, và chỉ là nhân chứng cho thân thể bạn,


cho tâm trí bạn, và im lặng lớn lan toả khắp...
Tại khoảnh khắc này, ai bận tâm tới con số?
Tại khoảnh khắc này mọi thứ đều trở thành thiêng
liêng; mọi thứ đều trở thành kho báu vĩnh hằng: chân lí,
cái thiện, cái đẹp.
Giữ chặt lấy phật; bạn phải đem ông ấy quay lại.
Và bạn phải sống ông ấy trong cuộc sống của mình,
khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia.
Tối nay thật đẹp theo cách riêng của nó, nhưng bạn
đã làm cho nó thành kinh nghiệm rực rỡ, oai nghiêm,
thành bí ẩn, khoảnh khắc của phép màu.
Đem phép màu này đi cùng bạn.
Nivedano...

24
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng quay lại như chư phật, im lặng,


duyên dáng.
Ngồi xuống và hồi tưởng lại trong vài phút nơi bạn
đã tới, ngôi đền bạn đã thăm, và con đường tới ngôi đến
đó.
Con đường trên đó bạn đã đi vào, cũng là con đường
bạn đã đi ra. Dần dần con đường này sẽ trở thành tuyệt đối
rõ ràng. Và phật tính sẽ không phải là vấn đề, nó sẽ là kinh
nghiệm của bạn.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, thưa Osho!

25
26
2. Ra ngoài trống rỗng

Osho ơi,
Một sư hỏi Nam Tuyền, "Từ tổ sang tổ đều có
truyền trao. Cái gì là cái họ muốn truyền trao
từ tổ nọ sang tổ kia?"
Nam Tuyền nói, "Một, hai, ba, bốn, năm."
Sư lại hỏi, "Cái gì là cái người cổ đại sở hữu?"
Thầy nói, "Khi nào nó có thể được sở hữu, ta sẽ
bảo cho ông."
Sư nói một cách nghi hoặc, "Thưa thầy, sao
thầy phải nói dối?"
Thầy đáp, "Ta không nói dối. Huệ Năng nói
dối."
Một lần khác một sư nói với Nam Tuyền, "Có
ngọc trên trời; làm sao chúng tôi có thể lấy
được nó?"
Nam Tuyền nói, "Chặt tre và làm thang; bắc nó
lên trời và trèo lên lấy nó!"
Sư nói, "Làm sao thang có thể dựng lên trời
được?"
Nam Tuyền nói, "Làm sao ông có thể hoài nghi
về việc lấy ngọc của mình?"

27
Maneesha, rất hãn hữu mới tìm ra so sánh chính xác
giữa hai nhà huyền môn. Nhưng đôi khi cách diễn đạt của
họ là như nhau, biểu tượng và biểu dụ của họ là như nhau.
Điều đó ngẫu nhiên xảy ra bởi vì họ có thể đã không biết
nhau chút nào. Đây là trường hợp như vậy mà Maneesha
đã đem tới:

Một sư hỏi Nam Tuyền, "Từ tổ sang tổ đều có


truyền trao. Cái gì là cái họ muốn truyền trao
từ tổ nọ sang tổ kia?"

Đó là một câu hỏi rất hàm chứa, nhưng gần như


không thể nào trả lời được. Nhưng chính sự hiện hữu của
thầy lại đem điều không thể được vào bên trong những
giới hạn có thể được - nếu không phải là bản thân mặt
trăng, thì ít nhất cũng là sự phản xạ. Và sự phản xạ có thể
được đem lại. Và qua sự phản xạ người ta có thể tìm được
mặt trăng.

Nam Tuyền nói, "Một, hai, ba, bốn, năm."

Điều này làm tôi nhớ tới Kabir. Tôi không nghĩ đã
biết về người khác, nhưng đây là cách Kabir thường hay
trả lời các câu hỏi, đích xác là một. Với bất kì ai điều đó
đều có thể có vẻ như câu đố, nhưng nó không phải là câu
đố. Nó là cách chỉ ra cái không thể nói ra được.
Kinh nghiệm là về cái không. Cho nên khi kinh
nghiệm chứng ngộ xảy ra, nó là một; không có gì khác
hơn sự bừng sáng. Nhưng ngay lập tức bạn nhận ra sự
bừng sáng, ngay lập tức việc nhận biết tới, nó trở thành

28
hai. Vào lúc bạn nhận ra, đó là sự nhận biết mơ hồ, vẫn
còn chưa thành quan niệm. Khi bạn quan niệm nó như
chứng ngộ, như thức tỉnh, như phật tính, nó đã trở thành
ba. Khi bạn nói nó cho ai đó khác - đó là việc truyền trao -
khi bạn truyền đạt nó, trao đổi với ai đó khác, nó trở thành
bốn. Và nếu người mà bạn đã truyền đạt nó hiểu nó, thì nó
trở thành năm.
Tại từng bước bạn cứ đi xa mãi từ cái không, nhưng
chẳng cái gì có thể được làm về nó. Đó là bản chất của
thực tế. Bây giờ nó không còn là câu đố khi bạn hiểu điều
họ ngụ ý bởi một, hai, ba, bốn, năm. Đến năm thì việc
truyền trao mới hoàn chỉnh.

Sư lại hỏi, "Cái gì là cái người cổ đại sở hữu?"

"Người cổ đại" không mang nghĩa những người của


thời xưa. 'Người cổ đại' nói tới những người đã đạt tới
những chiều cao của tâm thức. Họ là những người cổ đại
thực, không theo thời gian mà theo tâm thức. Theo thời
gian họ có thể là người đương đại, họ có thể ngồi bên cạnh
bạn. Khi có liên quan tới thời gian, bạn có thể đồng đại
với phật. Nhưng chiều cao tâm thức của ông ấy đã đưa
ông ấy vượt xa. Ông ấy đã trở thành người cổ đại.
Thông thường khi một người trở nên già, chúng ta
không gọi người đó là cổ đại. Người đó chỉ được gọi là già
cả. Nhưng nếu một người trở thành phật, thế thì không chỉ
theo thời gian người đó đã trở thành già, trưởng thành,
chín chắn, mà bên ngoài thời gian người đó đã đạt tới
chính ngọn nguồn của cuộc sống nơi mọi chư phật cổ đại
đã đạt tới. Đó là cùng một cội nguồn. Người đó đã trở
thành một với tất cả mọi chư phật.

29
Cho nên khi những câu hỏi này được hỏi, bao giờ
bạn cũng nhớ, 'người cổ đại' không có nghĩa người già,
hay người của thời xưa. Nó có nghĩa con người của tâm
thức lớn hơn, của các đỉnh cao lớn hơn của bản thể. Họ là
những người cổ đại thực sự. Họ có thể đương đại với bạn,
nhưng bạn tồn tại chỉ trên những mức độ khác biệt thế,
bạn không thể gọi họ là đồng đại với mình được.

"Cái gì là cái", sư lại hỏi, "người cổ đại sở hữu?"


Thầy nói, "Khi nào nó có thể được sở hữu, ta sẽ
bảo cho ông."

Thầy đang nói rằng cái đó không bao giờ có thể được
sở hữu hoặc bởi bạn hoặc bởi bất kì người cổ đại nào. Khi
bạn đạt tới kinh nghiệm đó, bạn bị tràn ngập bởi nó. Nó sở
hữu bạn, không phải bạn sở hữu nó. Bạn có thấy khác biệt
khi bạn bị sở hữu không? Kinh nghiệm này còn lớn hơn
bạn rất nhiều. Bạn bị hấp thu vào trong nó.
Thầy là phải khi thầy nói, "Khi nào nó có thể được
sở hữu, ta sẽ bảo cho ông." Như chỗ tôi biết, nó không thể
nào bị sở hữu; bạn phải sẵn sàng để bị nó sở hữu. Nhưng
Thiền không làm đầy đủ các câu của nó; nó để mọi thứ
mở; nó đơn giản nêu ra gợi ý. Đó là phép thử trí thông
minh của người hỏi để hoàn chỉnh nó.
Sư nói một cách nghi ngờ, "Thưa thầy, sao thầy phải
nói dối? Thầy sở hữu nó. Và thầy đang nói dối tôi." Người
đó đã bỏ lỡ vấn đề. Thầy không sở hữu nó; nó sở hữu
thầy. Bởi vì việc sở hữu của nó với thầy, nên thầy không
còn nữa. Nó là cái không thuần khiết mà qua đó toàn thể

30
sự tồn tại có thể đi qua - không cản trở, chỉ là sự cảm nhận
thuần khiết.
Thầy đáp, "Ta không nói dối. Huệ Năng nói dối."
Huệ Năng là thầy của thầy. Thầy nói rằng, "Ông nên
tới Huệ Năng. Ông ấy đã nói dối ta rằng 'Đúng, chân lí có
thể được sở hữu.' Nhưng khi ta đạt tới điểm đó, tảng đá
nơi ông nhảy vào cái không, đó lại là câu chuyện khác
hoàn toàn. Ta bị nó sở hữu; ta không được tìm thấy ở đâu
cả; kinh nghiệm này quá nhiều. Ta không thể giữ nó trong
tay ta; nó giữ ta từ mọi hướng.
"Ta không nói dối. Nếu ông muốn bất kì lời dối trá
nào, ông nên tới thầy ta Huệ Năng. Ông ấy đã nói dối ta."
Nhưng điều đó được nói ra với sự kính trọng lớn lao. "Bởi
vì việc nói dối của thầy mà ta mới có thể đi tới điểm nơi
chân lí sở hữu ta. Nếu mà thầy không nói dối, ta sẽ không
đi lấy một li."
Tất cả các thầy đều phải nói dối, bởi vì không có
cách nào để nói ra chân lí. Nhưng với phương thức nào đó
bạn có thể bắt đầu đi hướng tới chân lí.
Tôi đã kể cho các bạn câu chuyện này nhiều lần rồi.
Nhà một người bị cháy. Anh ta có lũ con còn bé lắm trong
nhà. Một đám đông đã tụ tập bên ngoài và họ đang gọi lũ
trẻ, "Chạy ra khỏi nhà đi. Vài phút nữa sẽ không có lối ra
đâu." Và không ai dám vào. Điều đó là nguy hiểm. Lửa
cháy mạnh thế.
Và vừa lúc đó người bố của tụi trẻ từ cửa hiệu trở về.
Tụi trẻ con không nghe lời những người hàng xóm, bởi vì
chúng không thể hiểu được. Chúng thực sự thích thú ngọn
lửa khắp quanh nhà; chúng chưa bao giờ thấy cảnh đẹp

31
thế. Chúng nhảy múa và tận hưởng và chúng không thể
hiểu được sao họ lại bảo chúng rời khỏi nhà.
Khi người bố tới, mọi người bảo anh ta, "Làm ngay
lập tức điều gì đó đi, mọi lối vào đều bị lửa bắt rồi. Chúng
tôi đã hét to, nhưng bọn trẻ nhà anh kì lạ thật. Chúng cứ
nhảy múa, chúng ca hát và chơi đùa. Chúng tận hưởng
ngọn lửa đẹp khắp xung quanh."
Bây giờ thì không có lối vào và cũng không có thời
gian để vào nữa. Người bố hét lên, "Bố về đây rồi và bố
mang mọi thứ đồ chơi về cho các con đây."
Bọn trẻ nhảy qua cửa sổ cuối cùng cũng sắp bị lửa
đốt cháy. Chúng chạy ra và chúng nói, "Đồ chơi của
chúng con đâu rồi?"
Người bố nói, "Bố xin lỗi nhé, hôm nay bố quên mất
rồi, nhưng mai bố sẽ đem đồ chơi cho các ông."
Anh ta đã nói dối. Nhưng lời nói dối đã cứu mạng tụi
trẻ. Bạn không thể chê trách người bố được.
Nam Tuyền không chê trách gì thầy mình cả, ông ấy
đang nói thầy từ bi tới mức nói dối. "Ta không nói dối, ta
chỉ nói, 'Khi nào nó có thể được sở hữu.' Nếu có lúc nào
đó mà ta có thể sở hữu nó, ta sẽ nói cho ông. Ngay bây giờ
thì nó sở hữu ta cho nên ta không thể nói cho ông được."
Sư này nghi ngờ. Anh ta nói, "Thưa thầy, sao thầy
phải nói dối? Tôi biết và mọi người đều biết rằng thầy có
nó." Nhưng đây là vấn đề vấn đề với ngôn ngữ. Anh ta
nói, "Thầy có nó." Nếu như anh ta nói, "Nó có thầy," thì
mọi sự sẽ khác.
Thầy đáp, "Ta không nói dối. Ta đơn giản nói thẳng
sự kiện. Ông hỏi ta, 'Thầy có sở hữu nó không?' Ta không

32
sở hữu. Nếu khi nào ngẫu nhiên ta sở hữu nó, ta sẽ nói cho
các ông. Nếu ông nói rằng ta nói dối, ta không nói dối.
Thầy ta Huệ Năng mới nói dối. Và bởi vì thầy nói dối, nên
ta mới là thầy. Ông nên tới Huệ Năng."

Một lần khác một sư nói với Nam Tuyền, "Có


ngọc trên trời; làm sao chúng tôi có thể lấy
được nó?"
Nam Tuyền nói, "Chặt tre và làm thang; bắc nó
lên trời và trèo lên lấy nó!"
Sư nói, "Làm sao thang có thể dựng lên trời
được?"
Nam Tuyền nói, "Làm sao ông có thể hoài nghi
về việc lấy ngọc của mình?"

Câu hỏi này không phải về việc dựng thang, câu hỏi
này là để phá huỷ hoài nghi. Và ngọc không ở trên trời;
ngọc ở trong bạn. Trên trời nó được phản xạ, cũng như
mặt trăng phản xạ vào hồ. Ngọc ở bên trong bạn, nhưng
nó được phản xạ lên trời xa xăm.
"Ông hỏi ta một câu hỏi ngu xuẩn, ta phải trả lời ông
bằng câu trả lời ngu xuẩn. Đừng hỏi câu hỏi ngu xuẩn và
ta có thể nói cho ông chân lí. Từ đâu ông có ý tưởng là có
ngọc trên trời? Ông đã bao giờ nhìn vào bên trong mình
chưa? Nếu ông đã nhìn vào bên trong ông, ông sẽ ngạc
nhiên rằng tất cả mọi cái đẹp của sự tồn tại đều là sự phản
xạ của cái huy hoàng bên trong của ông. Điều ông thấy ở
bên ngoài - hoa hồng và cái đẹp của chúng, và những ngôi
sao và sự oai nghiêm của chúng - nhợt nhạt đi vào khoảnh
khắc ông nhìn vào bên trong. Ngay bây giờ ông không có

33
tiêu chuẩn nào để phán xét cái gì là phản xạ và cái gì là
thật."
Nhìn vào bên trong và bạn sẽ thấy cái thực - hương
vị của nó, chắc chắn của nó, hùng vĩ của nó - và mọi thứ
bên ngoài sẽ trở nên nhạt mờ, chỉ là phản xạ.
Phải ghi nhớ rằng trước khi hỏi thầy một câu hỏi, bạn
nên nhìn vào trong câu hỏi của mình thật sâu sắc nhất có
thể được. Nó nên trở thành có ý nghĩa hơn. Chỉ khi bạn đã
được thoả mãn rằng câu hỏi chín muồi, nó không thể được
tô điểm thêm nữa, nó không thể được làm thông minh hơn
nữa, thì bạn có thể hỏi. Chỉ câu hỏi thông minh mới thu
được câu trả lời thông minh. Bằng không bạn hỏi một câu
hỏi ngu xuẩn và thầy sẽ cho câu trả lời ngu xuẩn. Đấy chỉ
là vì lòng tốt. Thầy có thể đơn giản nói, "Đừng hỏi những
câu hỏi ngu xuẩn thế." Thay vì nói như vậy, thầy bảo anh
ta,

"Chặt tre và làm thang; bắc nó lên trời và trèo


lên lấy nó!"

Bất kì người nào có chút ít thông minh đều có thể


hiểu rằng vì câu trả lời là ngu xuẩn, nên câu hỏi phải đã
ngu xuẩn rồi. Thầy không muốn nói điều đó một cách trực
tiếp, nhưng một cách gián tiếp thầy đang chỉ ra cái ngu
xuẩn của câu hỏi. Nhưng người hỏi vẫn không dừng ở đó;
anh ta cứ đi tiếp. Đây là vấn đề: người ngu khi người đó
lớn lại trở nên ngu hơn; kẻ ngốc lại thành kẻ ngốc lớn hơn
khi người đó trở nên lớn hơn - những kẻ ngốc già hơn lại
nguy hiểm hơn và mọi người cứ nghĩ người già trí huệ.
Sekiso có bài thơ:

34
Sáu năm ngồi một mình
tĩnh lặng như rắn
trong cây tre,
không gia đình ngoài băng
trên núi tuyết...
Đêm qua, nhìn trời rỗng
bay thành từng mảnh,
Ông ấy lay sao mai tỉnh dậy
và giữ ngôi sao trong mắt mình.

Một bài thơ cực kì hay. Ông ấy đang nói, Sáu năm
ngồi một mình - điều đó nghĩa là thiền; ngồi đấy, trong
Thiền, là tương đương với thiền. Chỉ ngồi và không làm gì
cả. Sáu năm ngồi một mình tĩnh lặng như rắn... Khi rắn
đợi bắt cái gì đó để ăn, nó vẫn còn tuyệt đối bất động cứ
dường như nó chết rồi. Một hơi chút chuyển động, thế thì
chim nó định bắt sẽ đi đời, thế thì bướm nó định bắt sẽ
không còn đó nữa. Nó phải vẫn còn như chết, không
chuyển động.
Tĩnh lặng như rắn trong cây tre, không gia đình
ngoài băng trên núi tuyết Đêm qua… sáu năm ngồi đó đã
chín muồi. Đêm qua khoảng khắc của phúc lành lớn lao
tới.
Đêm qua, nhìn trời rỗng bay thành từng mảnh, ông
ấy lay sao mai tỉnh dậy và giữ ngôi sao trong mắt mình.
Ông ấy đang nói về bầu trời bên trong, cái trống rỗng bên
trong, bỗng nhiên cái đó để lộ ra con đường. Trong sáu
năm ông ấy đã giữ gìn. Đêm qua, bỗng nhiên cái trống
rỗng cũng tan thành từng mảnh. Ông ấy nghĩ rằng chỉ
trống rỗng là đủ cho thiền. Chỉ là trống rỗng cũng mới là

35
bắt đầu. Một khoảnh khắc tới khi cái trống rỗng tan thành
từng mảnh. Bạn vượt ra ngoài cái trống rỗng.
Đêm qua, nhìn trời rỗng bay thành từng mảnh, ông
ấy lay sao mai tỉnh dậy... Ông ấy đang nói về bản thể bên
trong riêng của mình. Cái trống rỗng đó bay thành từng
mảnh lay ngôi sao tỉnh dậy và ông ấy giữ nó trong mắt
mình. Bây giờ ông ấy đang mang ngôi sao đó trong mắt
mình, sự sáng tỏ đó, ánh sáng đó, viên ngọc chói sáng
không ở trong bầu trời, cái vẫn ẩn kín ở đâu đó bên trong
cái trống rỗng của bạn, cái bị bao phủ bởi ý nghĩ và xúc
động của bạn. Tâm trí bạn đang chắn con đường, nhưng
đâu đó bên trong bạn, nó vẫn chiếu sáng ra. Chỉ quay vào
trong chút ít, và bạn sẽ được mãn nguyện.

Maneesha đã hỏi:

Osho ơi,
Thầy vẫn thường nói Thầy sẽ không có người kế
tục. Nhưng chẳng lẽ tất cả những người yêu
mến Thầy lại không phải là người kế tục Thầy
sao, theo nghĩa chúng tôi mang Thầy trong máu
và xương mình và như vậy Thầy là một phần
của chúng tôi mãi mãi chứ?

Maneesha, khái niệm về người kế tục là quan liêu.


Chính cái ý tưởng về sự kế tục không phải là ý tưởng đúng
trong thế giới tâm thức. Đó là lí do tại sao tôi đã nói, tôi sẽ

36
không có người kế tục. Nhưng bạn cũng đúng khi nói rằng
bạn sẽ mang trong xương bạn và máu bạn tình yêu của tôi,
sáng suốt của tôi. Nhưng đừng dùng từ 'kế tục', thay vì thế
dùng từ 'bạn sẽ là tôi'. Sao lại phải đi xa thế, người kế tục,
khi bạn có thể là tôi? Trống rỗng tới mức tôi có thể làm
nhà trong bạn, tới mức cái trống rỗng của bạn có thể hấp
thu cái trống rỗng của tôi, tới mức trái tim bạn có thể có
cùng điệu vũ như trái tim tôi. Điều đó không phải là kế
tục; nó là truyền trao.
Chính ý tưởng về kế tục là chính trị. Chỉ một người
mới có thể là người kế tục, cho nên nhất định có ganh đua,
tham vọng. Nhất định có đấu tranh tinh vi để được ở gần
thầy hơn, để buộc người khác ở xa hơn. Điều đó có thể
không ở trên bề mặt nhưng, ngầm phía dưới, vấn đề vẫn sẽ
còn lại trong các đệ tử: "Ai sẽ là người kế tục?"
Tôi phá huỷ toàn bộ khái niệm này. Mọi đệ tử đã yêu
đều trở thành một với thầy. Không có nhu cầu về bất kì
ganh đua nào, không có một người kế tục. Điều đó dành
cho mọi người đã cống hiến mình trong lòng biết ơn sâu
sắc, người đã trở thành một theo nghĩa nào đó với sự hiện
diện của thầy. Không có nhu cầu về bất kì ganh đua nào.
Hàng nghìn người có thể có cùng kinh nghiệm, hàng triệu
người có thể có cùng kinh nghiệm.
Để tránh chính trị trong tôn giáo, tôi đã nói rằng tôi
sẽ không có người kế tục. Tôi muốn tôn giáo phải tuyệt
đối tránh tham vọng, ganh đua, cao hơn người khác, đặt
mọi người thấp hơn bản thân bạn. Với tôi các bạn tất cả
đều bình đẳng. Và tôi tin cậy và yêu các bạn, rằng các bạn
sẽ chứng tỏ sự bình đẳng này. Trong bình đẳng không có
ganh đua; có nỗ lực tổ hợp. Các bạn tất cả đều sẽ mang
thông điệp của tôi, nhưng không ai sẽ là người cao hơn

37
hay thấp hơn, không ai sẽ là người kế tục. Tất cả sẽ là
người yêu của tôi và họ sẽ mang tôi.

Tôi nhớ tới một trường hợp: Ramakrishna bị ung thư


họng. Trong giai đoạn cuối thậm chí còn không thể uống
được nước. Tất cả mọi đệ tử của ông ấy đều nói, "Sao thầy
không xin trong lời cầu nguyện của mình với Thượng đế
để loại bỏ ung thư này đi? Chúng tôi biết rằng nếu thầy
hỏi xin, lời cầu nguyện của thầy sẽ được nghe thấy. Và
nếu lời cầu nguyện của thầy mà không thể được nghe thấy,
thế thì mọi lời cầu nguyện khác đều giả cả."
Ramakrishna là con người mà nếu lời cầu nguyện
của ông ấy không được Thượng đế nghe thấy, thì điều đó
chỉ có nghĩa là không có Thượng đế, hay Thượng đế điếc
rồi. Nếu lời cầu nguyện của Ramakrishna mà không được
trả lời, thế thì không ai khác trên toàn thế giới này lại hòng
hi vọng rằng lời cầu nguyện của mình sẽ được trả lời. Cho
nên họ cứ nài nỉ mãi, nhưng Ramakrishna nói, "Điều đó có
vẻ không phải. Ta nhắm mắt lại vì sự nài nỉ của các ông.
Nhưng ta không thể hỏi xin cái gì từ sự tồn tại được. Có lẽ
ung thư là phải; bằng không thì sao nó lại được trao cho
ta? Ta không thể khôn ngoan hơn sự tồn tại được."
Các đệ tử trong thất vọng đề nghị vợ của
Ramakrishna, Sharda, "Nếu mà cô không nói với thầy, thì
thầy sẽ chẳng chịu nghe ai cả. Và cô phải rất nài nỉ vào."
Sharda bảo Ramakrishna. Ông ấy nói, "Anh biết rằng
các đệ tử của anh sẽ đem em tới, và anh không thể từ chối
em bởi vì anh chưa bao giờ từ chối cả. Mà em cũng chưa
bao giờ yêu cầu điều gì; đây là lần đầu tiên trong cả đời
em mà em yêu cầu điều gì đó, và trong những khoảnh

38
khắc cuối cùng này làm sao anh có thể từ chối em được?
Anh sẽ thử." Ông ấy nhắm mắt lại và sau đó vài giây ông
ấy mở mắt ra và bắt đầu cười. Sharda nói, "Có chuyện gì
vậy? Anh đã hỏi chưa?"
Ông ấy nói, "Anh đã hỏi. Nhưng câu trả lời tới: 'Sao
con cứ nhất định là cổ của riêng con thế? Uống từ tất cả
các cổ của các đệ tử ấy. Sao cứ nhất định phải đồng nhất
với thân thể riêng của con vậy? Sao không nhập vào trong
tất cả mọi người yêu con?' Đó là lí do tại sao anh bắt đầu
cười bởi vì anh biết đây sẽ là câu trả lời. Em đã làm anh
thành có vẻ ngu xuẩn không cần thiết trước sự tồn tại."
Nếu đệ tử yêu thầy, nếu có sự tin cậy, và sự tin cậy
dựa trên kinh nghiệm, thì người đó sẽ mang một cách tự
phát thông điệp của thầy. Không có nhu cầu phải nói điều
gì cả, người đó sẽ là thông điệp của thầy mình. Bây giờ
điều gì đó nghiêm chỉnh nhé...

Ronald Reagan đang ở chặng cuối cùng của nhiệm kì


tổng thống. Cho nên để gây cho thế giới ấn tượng về mình
là con người văn hoá, ông ta mở một phòng tranh mới ở
Washington DC. Reagan mời giáo hoàng Polack,
Margaret Thatcher và Mikhail Gorbachev - mời cả anh
bạn thân cũ của mình, Bonzo, con tinh tinh.
Ronald và người hướng dẫn nhóm của mình,
Reginald người đồng dục, cho những nhân vật nổi tiếng
thế giới này một chuyền thăm đặc biệt bộ sưu tập các bức
tranh vô giá.
"Ah, đây rồi," Reagan nói, như một nhà am hiểu
nghệ thuật nghiệp dư, "bức tranh này là của Rembrandt."

39
"Không, không phải vậy," Reginald nói, "bức này là
của Salvador Dali."
Nhóm dừng lại một chốc, lấy hơi thở sâu, và rồi đi
tiếp.
"Còn bức này," Reagan nói một cách tự hào, "do
Monet vẽ đấy."
"Không đâu," Reginald lại sửa, "bức này là do Van
Gogh vẽ."
Tại bức ảnh tiếp, Reagan đứng bất động. Ông ta nhìn
chăm chăm vào nó theo cách này cách nọ, và rồi ông ta gãi
đầu.
"Hừ, tôi đoan chắc bức này phải là một Picasso," ông
ta nói to cho cả nhóm.
"Lại sai toét, Ronnie," Reginald đáp. "Đấy là cái
gương!"

Gia đình Babblebrain định đi xem hát buổi tối,


nhưng chẳng ai muốn ở nhà trông ông cả. Thế là họ đem
ông đi cùng.
Vở kịch đang gần tới cao trào của nó thì cả hàng ghế
bị ông già Babblebrain quấy rối bằng việc ông ấy bò lồm
cồm bằng tay và đầu gối.
"Ông ơi!" Boris thì thào to tướng. "Về chỗ ông đi!"
"Tao không thể về được," ông đáp. "Tao đánh rơi
miếng kẹo bơ rồi."

40
"Ngồi xuống đi!" Boris cắn cảu. "Ông làm phiền cả
rạp hát chỉ vì miếng kẹo bơ. Con sẽ mua cho ông cái khác
chỉ cần ông ngồi xuống."
"Tao cần cái đó cơ," ông nói.
"Lạy chúa!" Boris kêu lên. "Có gì đặc biệt thế với cái
kẹo bơ ấy?"
"Thế này," ông nói, "răng tao ở trong nó rồi!"

Giáo hoàng Polack đang trong chuyến hành hương


mười triệu đô la về Ấn Độ. Ông ấy đi tới Calcutta, nơi ông
ấy viếng thăm trẻ con mồ côi của Mẹ Teresa.
Ông ấy đứng ở giữa một nhóm tụ tập đông những
người Ki tô giáo Ấn Độ, thì một đứa nhỏ đi tới ông ấy.
"Cha thiêng liêng," đứa bé hỏi, "xin kể cho con cái gì
đi. Nếu cha của cha mà là con đười ươi và mẹ của cha là
đười ươi, thì cha sẽ là gì?"
Giáo hoàng Polack lập tức thấy khó chịu, những vẫn
cố mỉm cười, và trả lời tỉnh bơ, "Con ta, ta đoán ta sẽ là
con đười ươi, tất nhiên rồi."
Một chốc sau đó, lại cùng đứa nhỏ ấy ngắt buổi lễ
của Polack và hỏi, "Cha thiêng liêng, nếu mẹ của cha là
con lừa và bố của cha là con lừa, thì cha sẽ là gì?"
Giáo hoàng Polack rất khó chịu và bực mình - nhưng
vẫn giữ khuôn mặt bình thản, và trả lời đứa bé. "Một cách
tự nhiên, con ta," ông ấy trả lời một cách căng thẳng, "ta
sẽ là con lừa."

41
Sau buổi lễ, giáo hoàng Polack thấy chính đứa bé đó
ở bên ngoài. Ông ta lôi nó vào góc yên tĩnh, tóm cổ nó, và
nổi đoá, ông ta nói lắp bắp, "Được rồi, thằng hợm con.
Đây là câu hỏi cho mày! Nếu bố mày là con đười ươi, còn
mẹ mày là con lừa, thì mày sẽ là gì?"
"Điều đó thì đơn giản," đứa bé đáp, vẻ rạng sáng.
"Cháu sẽ là giáo hoàng Polack!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng.
Nhắm mắt lại; cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông
cứng.
Bây giờ nhìn vào bên trong, với sự khẩn thiết toàn
bộ, dường như đây là khoảnh khắc sống cuối cùng của
bạn.
Đi sâu nhất có thể được.
Tại chính chỗ cuối đó là cội nguồn cuộc sống của
bạn. Khoảng cách không nhiều. Chỉ chút ít can đảm, can
đảm đi vào trong cái không biết và bạn ở tại chính ngọn
nguồn của cuộc sống. Chỗ này được gọi là phật.

42
Đây không phải là thành tựu; đây là khám phá. Nó
bao giờ cũng cùng với bạn; nó là bản tính của bạn. Cho dù
bạn có muốn làm mất nó, bạn cũng không thể làm được;
bạn chỉ có thể quên mất nó hay nhớ lại nó: đây là hai khả
năng duy nhất. Bạn đã sống hàng triệu năm trong quên
lãng. Ý nghĩa căn nguyên của tội lỗi là quên lãng.
Bây giờ khoảnh khắc đã tới, bạn có thể thay đổi
khuôn mặt mình, bản thể mình thành việc nhớ lại. Việc
nhớ lại là đức hạnh duy nhất, chỉ sự quên lãng mới là tội
lỗi duy nhất. Với tính toàn bộ của cái nhìn tâm thức của
bạn, và bạn sẽ thấy mình là phật.
Để làm cho điều đó rõ ràng,
Nivedano...
(tiếng trống)

Quan sát và chứng kiến thân thể và tâm trí. Bạn


không phải là thân thể, không là tâm trí. Bạn chỉ là nhân
chứng thuần khiết. Phật tính của bạn chỉ bao gồm nhân
chứng thuần khiết - tấm gương - phản xạ mọi thứ mà
không bị ảnh hưởng bởi bất kì cái gì.
Buổi tối nay đẹp theo cách riêng của nó, nhưng bạn
đã làm cho nó thành đẹp hơn, đáng nhớ hơn. Bạn đã làm
nó thành khoảnh khắc vàng, cột mốc trong cuộc sống của
bạn bởi vì phật này, việc chứng kiến này phải trở thành
chính phong cách sống của bạn. Chỉ trong ngọn lửa của
chứng kiến bạn mới được biến đổi; không có cách nào
khác. Đây là chính điểm khởi hành từ dốt nát tới trí huệ, từ

43
bóng tối tới ánh sáng, từ hữu tử tới bất tử, từ thời gian tới
vĩnh hằng.
Trong khoảnh khắc đẹp vô biên này trong Thính
phòng Phật không có mười nghìn người, mà chỉ một tâm
thức đại dương. Mọi người đều tan biến vào trong nó; mọi
người đều bị nó sở hữu. Đây là điều lớn nhất có thể xảy ra
trong cuộc sống con người. Và nếu bạn có thể sống nó
trong cuộc sống hàng ngày bình thường của mình, trong
các hành động của bạn, cử chỉ, lời nói, im lặng, thì bạn đã
đạt tới đỉnh cao nhất của Himalayas - Himalayas của tâm
thức.
Nivedano...
(tiếng trống)

Mời chư phật quay lại, ai đó có thể đi quá xa. Quay


lại một cách im lặng, duyên dáng, nhớ rằng bạn là phật.
Đừng quên điều đó.
Tôi phải gọi các bạn vào khoảnh khắc tôi thấy rằng
vài người đang tới điểm tại đó họ có thể nhảy ra ngoài
phật. Thế thì không có cách nào quay lại cả. Phật là cột
mốc cuối cùng nơi con đường kết thúc. Những người đã
vượt ra ngoài phật, họ đơn giản tan biến vào trong sự tồn
tại.
Bản thân Phật đã nói, vẫn còn thêm một bước nữa.
Chỉ có hai bước trong toàn bộ cuộc hành trình: một bước
từ bạn tới phật, và bước thứ hai từ phật tới sự tồn tại đại
dương. Trước hết học bước thứ nhất trong tính toán bộ của
nó. Khi điều đó trở thành sự tồn tại hai mươi bốn giờ của
bạn, thế thì tôi sẽ không nói 'Nivedano' để gọi bạn lại. Bạn

44
có thể lấy cái nhảy, nhưng chưa chín muồi. Chín muồi, thế
rồi cái nhảy xảy ra theo cách riêng của nó. Nó không phải
là nỗ lực. Nó tuyệt đối tự phát.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật được
chứ?
Vâng, thưa Osho.

45
46
3. Thôi thúc phải thành
khẩn thiết

Osho ơi,
Có một lần, quan tri phủ nói với Nam Tuyền,
"Có một tảng đá trong nhà tôi. Đôi khi nó đứng
thẳng và đôi khi nó nằm ra. Bây giờ có thể khắc
ảnh Phật vào nó được không?"
"Có chứ," Nam Tuyền nói, "điều đó là có thể."
"Nhưng điều đó cũng là không thể được chứ?"
quan tri phủ phản đối lại.
"Điều đó là không thể được!" Nam Tuyền tuyên
bố. "Điều đó là không thể được!"

Maneesha, một lưu ý nhỏ:

Một trong những đệ tử nổi tiếng nhất của Nam


Tuyền là Lu Hsuan, người về sau trở nên nổi
tiếng là Rikuko Taifu, tri phủ của phủ Hsuan.
Sau khi ở ẩn trên núi ba mươi năm không một
lần ra ngoài, Nam Tuyền cuối cùng nhận lời
yêu cầu của tri phủ xuống núi và dạy Thiền cho

47
mọi người dưới đồng bằng. Từ lúc đó, ông ấy
trở nên rất nổi tiếng
Viên tri phủ có lần hỏi Nam Tuyền về câu nói
rằng mọi thứ đều tới từ cùng một nguồn, cho
nên không thể có đúng hay sai. Nam Tuyền trỏ
vào khoảnh đất hoa mẫu đơn trong vườn và
nói, "Ông tri phủ, khi mọi người thời nay thấy
những hoa này nở, điều ấy cũng dường như họ
thấy chúng trong giấc mơ."

Viên tri phủ đã đưa ra một phát biểu rất quan trọng.
Nếu chỉ một cội nguồn của mọi thứ, thế thì không thể có
đúng, sai, không có tốt, xấu, không Thượng đế, không quỉ.
Và điều đó đích xác là trường hợp này; tất cả mọi cái đúng
và sai của chúng ta đều là những phán đoán của tâm trí
chẳng biết gì về cội nguồn cả.
Các quan niệm của chúng ta đều mang tính đạo đức,
chúng không mang tính tôn giáo. Chúng không dựa trên
kinh nghiệm về cội nguồn nguyên thuỷ, từ đó mọi thứ nảy
sinh và chung cuộc lại biến mất cũng vào trong cùng cội
nguồn đó, hệt như sóng phát sinh từ đại dương và lại rơi
trở lại trong đại dương.
Nhưng để sống với điều sáng suốt này trong cuộc
sống của bạn cần dũng cảm vô biên; điều đó cần tâm trí
không phán xét. Và chúng ta đã được nuôi lớn với mọi ý
nghĩ riêng lẻ đều được bị phán xét: cái này phải, cái kia
trái.

Một cậu bé được hỏi ở trường, "Tên con là gì?"

48
Nó nói, "Đừng!"
Thầy giáo nói, "Đừng à? Thầy chưa bao giờ nghe
thấy cái tên như thế."
Nó nói, "Bất kì cái gì con làm, bất kì đâu con muốn
đi họ bao giờ cũng nói 'Đừng!' Cho nên con nghĩ đây là
tên con."

Nhưng thực tế đây là trường hợp của mọi người.


Tiêu chuẩn về đúng sai của bạn là gì? Ai cho bạn tiêu
chuẩn ấy? Làm sao bạn quyết định được, làm sao bạn
phán xét được? Tất cả mọi đạo đức của chúng ta đều là
những qui ước nhân tạo. Bất kì cái gì thuận tiện cho xã hội
đều trở thành đạo đức.
Chẳng hạn, theo tự nhiên, cứ một trăm con trai được
sinh ra thì có tám mươi tư con gái sẽ được sinh ra. Vào lúc
chúng đến tuổi hôn nhân, con số sẽ bằng nhau. Nhiều con
trai chết hơn, con gái có sức đề kháng hơn.
Mọi người hay nghĩ về sức mạnh chỉ theo kiểu cơ
bắp, nhưng có những cách nghĩ khác về sức mạnh. Đàn bà
có nhiều sức đề kháng hơn với bệnh tật; họ không bị ốm
nhanh thế. Và trung bình mười sáu con trai sẽ bị mất đi
trước lúc chúng mười bốn tuổi. Đến mười bốn tuổi số con
trai và con gái bằng nhau. Hiển nhiên thế thì cũng thuận
tiện để tạo ra ý niệm một vợ một chồng; bằng không sẽ có
rất nhiều bất tiện. Một đàn ông một đàn bà: điều này trở
thành điều phải, nhưng đấy chỉ là sự thuận tiện.
Để tôi nêu cho bạn sự tương phản: vào thời của
Mohammed, đặc biệt ở Saudi Arabia, mọi người còn man
rợ, liên tục đánh nhau và giết nhau. Đoàn lái buôn chất

49
đầy hàng hoá từ nước này sang nước khác bị cướp bóc và
đàn ông bị giết. Tại Saudi Arabia vào thời đó, không có
cách nào khác để sống còn; giết chóc đã là nghề nghiệp.
Cho nên nhiều đàn ông bị giết chết hơn đàn bà vì đàn ông
làm việc giết chóc và đánh nhau. Tỉ lệ giữa đàn ông và đàn
bà trở nên khác biệt đến mức cứ bốn đàn bà mới có một
đàn ông. Điều đó đã tạo ra sự rất bất ổn, cho nên
Mohammed trong kinh Koran phải làm thành một khái
niệm đạo đức là đàn ông lấy ít nhất bốn đàn bà. Bản thân
ông ấy đã lấy chín đàn bà; tất nhiên, ông ấy là lãnh tụ, và
ông ấy đã đề xuất khái niệm đạo đức này, ông ấy phải tuân
theo nó cho tới cùng.
Ngày nay điều đó đã trở thành ngu xuẩn, bởi vì
những phán xét này phụ thuộc vào nguyên nhân và thời
gian. Bây giờ tình thế không còn như vậy nữa. Nhưng
những người Hồi giáo vẫn cứ khăng khăng… ngay cả ở
đất nước này họ cũng buộc chính phủ Ấn Độ phải nêu
trong hiến pháp rằng người Hồi giáo được phép có bốn
đàn bà.
Bây giờ toàn bộ vấn đề là ngu xuẩn! Số đàn bà và
đàn ông trong những người Hồi giáo là bằng nhau; từ đâu
mà đàn ông có thể kiếm được bốn đàn bà? Điều này bây
giờ cho họ một cơ hội để đánh cắp đàn bà của người khác.
Người Hindus và Jainas rất khắt khe về đạo đức: nếu một
người đàn bà đã từng ở trong nhà người Hồi giáo một
đêm, bị cưỡng bức, thì không ai sẽ chấp nhận cho cô ấy
quay trở về, cả chồng, cả con, cả cha mẹ cô ấy. Toàn thể
xã hội bác bỏ cô ấy; cô ấy không còn là một phần của họ
nữa. Cô ấy phải quay lại và cầu xin người Hồi giáo giữ cô
ấy.

50
Bây giờ phán xét dựa trên sự tiện lợi đã trở thành tội
lỗi. Và nó đã cho sinh ra nhiều tội lỗi. Tất cả mọi phán xét
đạo đức bằng cách nào đó đều dựa trên sự tiện lợi của xã
hội; chúng không có giá trị nền tảng nào. Nếu bản chất của
con người được nhìn lại, thì không có người đàn ông nào
một vợ một chồng, mà cũng không đàn bà nào như vậy cả;
cả hai đều là nhiều vợ nhiều chồng và điều đó tuyệt đối tự
nhiên.
Nếu chúng ta nhìn vào tự nhiên, chúng ta phải tạo ra
một xã hội linh hoạt hơn nơi mọi người ít nhất cũng có thể
trao đổi vợ hay chồng của mình với bạn bè họ một đôi lần,
trong ngày nghỉ cuối ctuần. Điều đó sẽ tạo ra xã hội hạnh
phúc, thoả mãn, hài lòng hơn.
Nhưng điều đó lại đi ngược với mọi khái niệm đạo
đức mà quá khứ đã trao cho chúng ta. Điều tuyệt đối đơn
giản là hiểu rằng mọi người đều phát ngán với một thứ
liên tục. Nó không tự nhiên; nó chẳng nói gì về con người
cả. Vợ bạn có đẹp và hay thế nào... cô ấy có thể trông đẹp
với cả thế giới và tốt với mọi người, nhưng bạn nghĩ tới
anh chồng đáng thương mà xem! Anh ta có thể liên tục
nghĩ tới cái đẹp của cô ấy được bao lâu? Có lẽ vào lúc
tuần trăng mật kết thúc, cô ấy đã trở thành hiển nhiên,
được cho không. Và việc liên tục yêu với cùng sự mãnh
liệt đó hàng ngày sẽ trở thành ngày một khó khăn hơn.
Chồng bị vợ làm cho chán, dù cô ấy đẹp đến đâu. Vợ
bị chồng làm cho chán, dù anh ta có là người đàn ông vĩ
đại đến đâu. Cái chán này được diễn đạt trong mọi hành
động của cuộc sống; tất cả mọi hành động của họ đều bị
chi phối bởi cái chán này. Cuộc sống của họ dường như là
cuộc sống của tù nhân: nếu họ thay đổi bạn tình, toàn thể
xã hội chống lại họ, họ mất đi sự kính trọng, họ có thể mất

51
việc, họ có thể trở thành người bị xã hội ruồng bỏ. Cho
nên họ liên tục bám lẫn nhau, nhưng họ cả hai liên tục tạo
ra khổ cho nhau.
Bây giờ tôi sẽ không gọi điều này là đạo đức dựa trên
nhận biết rõ ràng; nó là đạo đức dựa trên sự tiện lợi thông
thường. Tôi biết sẽ rất không thuận tiện nếu mọi người
liên tục đổi vợ. Trẻ con sẽ không biết ai là bố và ai là bác.
Nhưng vấn đề là gì trong đó? Trong thực tế đó sẽ là cơ hội
tốt cho trẻ con biết tới nhiều người bố; đó sẽ là sự chuẩn bị
cho cuộc sống riêng của chúng, và nhiều mẹ... điều đó sẽ
là sự chuẩn bị lớn lao cho cuộc sống riêng của chúng.
Trong tương lai, nếu xã hội tiếp tục tồn tại sau năm hai
nghìn, sẽ có cuộc cách mạng vô cùng trong mối quan hệ
đàn ông - đàn bà. Toàn thể khái niệm về đúng và sai sẽ
thay đổi.
Viên tri phủ này đã hỏi một câu hỏi thực sự nền tảng;
nếu cội nguồn là một thế thì có gì khác biệt giữa phải và
trái? Mọi khoảnh khắc người ta đều phải quyết định bằng
một khái niệm rõ ràng không định kiến nào, không ý niệm
sắp sẵn nào. Tôi chống lại đạo đức bởi lẽ đơn giản rằng nó
cho bạn định kiến, định kiến hời hợt. Bất kì cái gì đi
ngược lại nó, bạn lập tức có ý tưởng rằng nó là sai, nó là
đúng.

Chuyện xảy ra với Lão tử, cội nguồn của Đạo giáo,
là ông ấy được chọn làm quan toà chính cho toà Thượng
thẩm của Trung Quốc. Ông ấy đã xin nhà vua, "Bệ hạ
đang phạm sai lầm; ta không phải là đúng người đâu. Bệ
hạ sẽ phải nghĩ lại đấy."

52
Nhưng nhà vua biết rằng ông ấy là người trí huệ nhất
vẫn còn sống, và ông ấy quả như vậy, không có hoài nghi
gì về điều đó cả. Nhà vua nói, “Sao ta phải nghĩ lại? Ông
mới là người trí huệ nhất."
Lão tử nói, "Đó là vấn đề đấy. Phán xét của ta sẽ tới
từ trí huệ của ta. Còn phán xét của bệ hạ sẽ không bao giờ
điều chỉnh được theo phán xét của ta."
Nhưng nhà vua cũng ương ngạnh lắm; ông ấy nói,
"Chúng ta xem sao."
Cho nên trường hợp thứ nhất xảy tới: một tên trộm bị
bắt quả tang đang trộm trong nhà một người giầu. Lão tử
nghe toàn bộ câu chuyện.
Tên trộm tự nó thú nhận rằng, "Ngay trước ông, tôi
không thể nói dối được. Nếu có quan toà khác, sẽ là vấn
đề khác, nhưng tôi bao giờ cũng kính trọng ông và yêu
mến ông. Cho nên tôi nói không cần nhân chứng nào cả.
Tôi đã ăn cắp, không chỉ lần này mà từ ngôi nhà của cùng
người này tôi đã lấy cắp nhiều lần rồi. Lần này tôi bị bắt.
Bất kì phán xét nào mà ông cảm thấy phải, tôi sẽ không
phàn nàn."
Lão tử đợi một chốc và rồi nói, "Cả hai ông, ông và
người có ngôi nhà mà ông đã đánh cắp, đều là tội phạm
cả."
"Cả hai à?" người giầu hỏi. "Ông có điên không
đấy?"
Lão Tử nói, "Ông đã bòn rút nhiều tiền đến mức gần
năm mươi phần trăm của cải của thành phố đều trong tay
ông, còn năm mươi phần trăm kia trong tay cả thành phố.
Tình huống này tạo ra khả năng của việc ăn cắp. Người

53
này là nạn nhân; trong thực tế ông là kẻ tội phạm. Nhưng
ta sẽ rất công bằng: sáu tháng tù cho cả hai."
Người giầu nói, "Lạy trời! Tôi chưa bao giờ nghe
thấy rằng khi ai đó ăn cắp nhà ông thì ông lại bị đi tù!"
Ông ta nói, "Tôi muốn trước hết đến gặp nhà vua! Ngay cả
nhà vua cũng nợ tiền tôi. Bất kì khi nào nhà vua cần, tôi
đều đem tiền tới cho ông ấy."
Và ông ta tới nhà vua và kể lại điều đã xảy ra. "Và
thần phải nhắc nhở bệ hạ rằng chẳng mấy chốc bệ hạ cũng
sẽ bị tù nữa! Nếu con người này cứ vẫn còn làm quan toà
tối cao của vương quốc, bệ hạ không thể vẫn còn ở ngoài
nhà tù lâu được. Chúng thần chỉ là tội phạm cỡ nhỏ theo
ông ấy. Bệ hạ mới là kẻ tội phạm lớn nhất."
Nhà vua nói, "Có lẽ ông ấy nói phải là ta sẽ phải nghĩ
lại. Đừng lo, ta sẽ miễn nhiệm ông ấy ngay lập tức."
Ông ấy gọi Lão tử tới và nói, "Đây là phán xử rất kì
lạ."
Lã tử nói, "Không phải vậy. Nếu mọi người đều sống
hài hoà với tự nhiên, nếu mọi người đều từ bi lẫn nhau,
nếu họ cảm thấy tình huynh đệ nào đó với nhau, thì làm
sao có thể có người giầu kẻ nghèo được? Chỉ có một loại
người thôi. Và có đủ." Trong thời đó ít nhất điều đó cũng
hoàn toàn đúng, có đủ cho mọi người sống thoải mái.
Vào thời đó, khi Lão tử nói điều đó, ở Ấn Độ dân số
chỉ mới hai triệu người. Bây giờ dân số là chín trăm triệu,
và đến cuối thế kỉ này, nếu nhân loại còn tồn tại - cơ hội
này là rất mỏng manh - Ấn Độ sẽ có một tỉ người. Lần đầu
tiên Ấn Độ sẽ là nước đông dân nhất; mãi cho tới nay
Trung Quốc vẫn còn là số một và Ấn Độ là số hai. Trong
cuộc đua Ấn Độ sẽ thắng trong vòng mười năm.

54
Trong những ngày đó khi đất nước mới chỉ có hai
triệu người, tự nhiên là thừa thãi. Không có nhu cầu cho
bất kì ai là giầu hay nghèo. Mọi sự có thể đã được mọi
người tận hưởng dễ dàng, thoải mái. Nhưng đấy lại không
phải là trường hợp, cả ở Ấn Độ lẫn Trung Quốc lẫn ở bất
kì chỗ nào khác. Bây giờ điều đó đã trở thành tuyệt đối
không thể được.
Nhưng Lão tử là phải khi ông ấy nói, "Một người thu
thập quá nhiều của cải đến mức hàng nghìn người trở nên
không được nuôi dưỡng - họ không có nhà, họ không có
việc, họ không có đủ để ăn... Ông còn muốn gì? Họ có
phải ăn cắp hay không? Việc ăn cắp của họ không phải là
tội lỗi; người giầu mới là kẻ tội phạm. Phỏng có ích gì mà
bòn rút mọi thứ của cải này? Của cải của ông đơn giản là
máu của người khác. Ông nên sung sướng rằng ta bỏ tù
ông chỉ sáu tháng thôi. Trong thực tế nếu ta mà công bằng
ra, thì người kia chỉ bị tù sáu tháng, còn ông phải tù cả
đời! Ít hơn thế sẽ là không công bằng."
Nhà vua nói, "Ta hiểu. Ta cho ông miễn nhiệm. Ông
đã nói phải là ta sẽ nghĩ lại; ông là một kẻ nguy hiểm."

Sự thuận tiện của nhà vua, sự thuận tiện của quyền


lợi được đầu tư, người giầu nhất, siêu giầu, sự thuận tiện
của họ mới là vấn đề. Mọi thứ là phải khi khớp với sự
thuận tiện của họ, và mọi thứ là trái khi không khớp với sự
thuận tiện của họ.
Tất cả mọi đạo đức của chúng ta đều được quyết
định bởi việc bóc lột các giai cấp, kẻ bị áp bức. Chính
những người mà là nguyên nhân của mọi sự phi đạo đức
trong xã hội lại là những người quyết định về đạo đức.

55
Krishna có mười sáu nghìn vợ, và không người
Hindu nào phản đối điều đó. Ông ấy vẫn còn là hoá thân
hoàn hảo của Thượng đế. Người khác là hoá thân không
hoàn hảo; ông ấy là người duy nhất là hoá thân hoàn hảo.
Nhưng không ai nghĩ rằng con người này chỉ lấy một đàn
bà, phần còn lại ông ấy đã lấy từ bất kì đâu; ông ấy cứ
thấy bất kì đàn bà đẹp nào, và lính của ông ấy sẽ đem cô
ấy về lâu đài. Cô ấy có chồng, cô ấy có con, cô ấy có cha
mẹ già, hay chồng cô ấy có bố mẹ già - chẳng ai quan tâm.
Và người ta có thể nghĩ rằng Krishna phải mang tính
dâm dục. Bạn sẽ làm gì với mười sáu nghìn đàn bà? Trong
một đời sống nhỏ mà những mười sáu nghìn đàn bà! Bạn
đối xử với đàn bà như súc vật; bạn thậm chí sẽ không biết
tới tên của họ. Nhiều người sẽ không có cơ hội gặp được
bạn.
Nhưng đây là những người làm ra luật lệ cho xã hội.
Đối với xã hội qui tắc là một vợ một chồng. Krishna ở trên
mọi qui tắc, ông ấy là hoá thân của Thượng đế. Cho nên
xã hội áp bức đã quyết định các luật lệ cho kẻ bị áp bức.
Tất cả mọi kẻ đạo đức đều là tội phạm.
Chỉ người trong thiền sâu sắc và im lặng mới có thể
nói điều gì đó, nhưng người đó sẽ không dùng từ 'phải' hay
'trái'. Và người đó sẽ không quyết định điều đó mãi mãi
như một tiêu chuẩn; có thể chỉ trong khoảnh khắc đó, một
đáp ứng tự phát, không phải là phản ứng. Người đó không
quyết định về đạo đức.
Bạn nhìn từ góc độ khác, chỉ có một điều đúng và đó
là tuyệt đối có ý thức, và chỉ một điều sai, là tuyệt đối vô ý
thức. Từ vô ý thức bất kì cái gì nảy sinh đều sẽ là sai. Từ ý

56
thức bất kì cái gì này sinh cũng đều đúng. Vấn đề không
phải là hành động, vấn đề là nó nảy sinh từ đâu.
Nhưng dầu vậy nó vẫn là tương đối theo nghĩa tối
thượng. Dù nảy sinh từ vô ý thức hay từ ý thức cũng
không thành vấn đề, với mọi thứ dù nó là bất kì cái gì.
Không có vấn đề đúng hay sai, bởi vì vô ý thức và ý thức
cả hai đều nảy sinh từ cùng một cội nguồn, cội nguồn của
cuộc sống vĩnh hằng.
Do đó tương truyền phật đi ra ngoài qui tắc thông
thường: ông ấy sống theo đáp ứng riêng của ông ấy. Ông
ấy không bước theo người hữu tử đã quyết định trước, ông
ấy lấy bước đi theo nhận biết của mình từ khoảnh khắc nọ
sang khoảnh khắc kia.
Người thường chẳng biết gì về ý thức hiển nhiên cần
một loại đạo đức nào đó, một hệ thống các qui tắc nào đó.
Nhưng đây là điều không may. Nó đơn giản chỉ ra rằng
người đó vẫn chưa trở thành có ý thức đầy đủ, do đó người
đó mới cần các qui tắc để giữ mình bên trong giới hạn và
biên giới. Cái ngày toàn thể xã hội trở nên ý thức hơn, thì
sẽ không cần tới đạo đức và không cần chính phủ, và
không cần toà án nào. Đây là những điều xấu xí, đây là
những điều sỉ nhục cho nhân loại. Chúng làm bẽ mặt.

Cái ngày tôi vào Mĩ, câu hỏi đầu tiên của người
phỏng vấn tôi về chuyện xin visa vào là, "Ông có là kẻ vô
chính phủ không?" Anh ta phải đã được thông báo; anh ta
có toàn bộ hồ sơ. Tôi nói, "Tôi là cái gì đó còn hơn thế
nữa."
Anh ta nhìn với chút ít bị sốc, bởi vì với điều này
không có qui tắc; anh ta bắt đầu nhìn vào hồ sơ. Ở Mĩ kẻ

57
vô chính phủ không được vào. Kẻ vô chính phủ là người
không tin vào chính phủ, người tin rằng mọi chính phủ
đều là cảnh nô lệ và chừng nào chúng ta còn chưa được tự
do với mọi chính phủ con người sẽ cứ sống trong cảnh nô
lệ, đổi sự nô lệ và cứ nghĩ mình được tự do, ý niệm của
người đó về tự do chỉ là giấc mơ. Nhưng khi tôi nói, "Tôi
là cái gì đó còn hơn thế nữa," anh ta đâm lúng túng chẳng
biết phải làm gì với tôi. Anh ta nói, "Ông ngụ ý gì với 'cái
gì đó hơn thế nữa'?"
Tôi nói, "Tôi ngụ ý rằng trước khi các chính phủ có
thể được giải tán, vô thức của con người phải bị làm tan
biến. Tôi không phải là kẻ vô chính phủ. Nhưng chủ nghĩa
vô chính phủ sẽ là sản phẩm phụ của toàn bộ nỗ lực của
tôi." Anh ta nói, "Ông dường như rất khó đấy."

Và từ khoảnh khắc đó trong năm năm liên tục tôi đã


trong tranh đấu với chính phủ Mĩ. Và chúng tôi không sai.
Nhưng những định kiến của họ! Tôi nói với viên coi tù khi
tôi bị bỏ tù, "Bạn có coi rằng bạn cũng là người ngoại
quốc ở đây không?" Không người Mĩ nào là người Mĩ cả;
tất cả đều là người ngoại quốc. Người bản xứ, người da đỏ
đáng thương, mới là người Mĩ. Người Mĩ thậm chí đã thay
đổi tên của họ; họ là người da đỏ và nước Mĩ thuộc về họ.
Tôi đã nói với người coi tù - bởi vì anh ta đã trở nên
thân thiện trong ba ngày tôi trong nhà tù của anh ta - tôi
nói với anh ta, "Bạn hay bố bạn hay ông của bạn nhiều
nhất cũng phải tới từ bên ngoài nước Mĩ. Và tôi ít nhất
cũng có hộ chiếu hợp pháp. Bố mẹ bạn đã vào Mĩ mà
chẳng có hộ chiếu nào. Bố mẹ bạn đã vào Mĩ như kẻ xâm
lược; tôi đã tới như khách du lịch.

58
"Và các bạn đã giết gần chín mươi phần trăm người
da đỏ. Mười phần trăm còn sống thì các bạn để cho nửa
sống nửa chết. Các bạn đã buộc họ vào những khu dành
riêng, trong rừng sâu, và các bạn liên tục cho họ tiền trợ
cấp. Để làm gì? Bởi vì các bạn không muốn họ vào xã hội
và làm việc và là một phần của xã hội. Để tách họ ra các
bạn liên tục cho họ tiền trợ cấp mà chẳng có việc gì. Một
cách tự nhiên khi các bạn nhận tiền mà không làm việc thì
bạn sẽ làm gì? Thế thì bạn sẽ đi uống rượu, ma tuý, cờ
bạc, mãi dâm. Bạn sẽ làm gì khác với tiền của mình?
"Cho nên những người da đỏ này đã trở nên bị tiêu
diệt hoàn toàn. Họ thậm chí không thể tranh đấu cho tự do
bởi vì tranh đấu cho tự do nghĩa là mất tiền trợ cấp. Và có
tiền trợ cấp thì tốt thế! Chỉ việc đẻ ra nhiều trẻ con và bạn
lại có nhiều tiền trợ cấp hơn. Và tận hưởng cuộc sống,
uống thật nhiều tuỳ thích, dùng ma tuý thật nhiều tuỳ
thích, nhưng không đi ra ngoài khu dành riêng. Vẫn còn ở
trong rừng sâu."
Tôi bảo anh ta, "Bạn có quyền gì để ngăn cản người
khác vào Mĩ? Đấy không phải là đất mẹ của bạn." Nhưng
họ đã làm cho nó thành của họ, và không ai trên thế giới,
thậm chí đến cả các nhà tư tưởng riêng của họ, đã từng
nêu ra câu hỏi, "Tự do của nước Mĩ thì sao? Khi nào
chúng ta sẽ cho phép?"
"Và bạn đã trở thành người pha chế đạo đức, phán
xét, bạn đã tạo ra toà án luật pháp và hiến pháp. Và đất
nước này không thuộc vào bạn; bạn là kẻ xâm lăng man
rợ. Nếu có tội ác nào lớn hơn thì bạn kể cho tôi!"
Anh ta nói, "Ông đúng đấy, nhưng bây giờ điều đó
quá trễ rồi. Chúng tôi đã ở đây ba trăm năm, và điều gì

59
xảy ra thì cũng đã xảy ra. Bây giờ chúng tôi không thể đi
đâu được cả. Có người Italia, có người Đức, và có người
Anh, và có người Tây Ban Nha, có người Hà lan; từ mọi
nước châu Âu đều có người. Họ sẽ không bị đem trở lại;
đất nước họ sẽ không chấp nhận họ nữa."
Cho nên họ chẳng có đâu mà đi cả. Và họ đang
chiếm đất nước của người bản xứ đáng thương. Ông sẽ
ngạc nhiên mà biết hành vi của họ man rợ thế nào trong
toàn bộ lịch sử của họ. Cả thành phố New York đã được
mua lại từ những người da đỏ bởi cái gọi là những người
Mĩ chỉ với hai mươi bốn đồng đô la bạc. Ông có thể gọi
điều đó là kinh doanh được không? Họ bị ép buộc. Cả
thành phố New York này chỉ đáng hai mươi tư đô la!

Mọi thứ đúng và sai mãi cho đến bây giờ đều đã
được quyết định bởi bất kì ai đang có quyền lực; chính
quyền lực mới quyết định. Ở Ấn Độ họ có câu ngạn ngữ,
'Bất kì ai có quyền trượng sẽ có trâu.' Nó thuộc vào ai
không thành vấn đề; vấn đề là: quyền trượng của ai lớn
hơn, ai mạnh hơn? Kẻ mạnh làm ra qui tắc cho kẻ yếu,
người giầu làm ra qui tắc cho người nghèo. Một cách tự
nhiên những qui tắc này thiên về người giầu, cho người có
quyền, chúng ngược lại người nghèo và người yếu. Khi tôi
nói tôi chống lại đạo đức, tôi nói tôi chống lại toàn bộ cấu
trúc này, toàn bộ hệ thống làm ra luật lệ này với những kẻ
có quyền đối với người không có quyền.
Đàn ông đã làm ra qui tắc cho đàn bà bởi vì anh ta
mạnh cơ bắp hơn. Đàn bà mong manh hơn, phụ thuộc hơn
bởi vì cô ấy trở nên mang thai. Trong việc mang thai cô ấy
tuyệt đối phụ thuộc vào đàn ông về mọi thứ cô ấy cần.

60
Việc mang thai của cô ấy đã trở thành cảnh nô lệ của cô
ấy. Nếu đàn bà muốn được giải phóng khỏi đàn ông, họ
phải nghĩ tới việc mang thai trước nhất. Họ phải nhấn
mạnh vào việc kiểm soát sinh đẻ, và họ nên nhấn mạnh
rằng trong khi họ mang thai xã hội phải chăm sóc họ, bằng
không, họ không được chuẩn bị để trở nên mang thai.
Mang thai đã làm cho họ bị tàn tật đi; và đàn ông đã khai
thác tình huống này rất dễ dàng.
Với con người của tâm thức tối thượng không có gì
đúng hay sai. Mọi thứ đều như nó đang đấy, không có
phán xét.

Viên tri phủ đã hỏi điều gì đó rất quan trọng.

Nếu mọi thứ đều tới từ cùng một nguồn, cho


nên không thể có đúng hay sai.
Nam Tuyền trỏ vào khoảnh đất hoa mẫu đơn
trong vườn và nói, "Ông tri phủ, khi mọi người
thời nay thấy những hoa này nở, điều ấy cũng
dường như họ thấy chúng trong giấc mơ."

Câu trả lời của ông ấy có chút ít gián tiếp. Nhưng


điều ông ấy đang nói là ở chỗ mọi người vô ý thức tới mức
bất kì cái gì họ thấy đều không nhiều hơn giấc mơ. Trong
giấc mơ của mình họ quyết định cái gì là đúng, cái gì là
sai. Khi họ tỉnh, họ sẽ thấy mọi thứ đều tan chảy vào lẫn
nhau: không có cái đối lập và không có mâu thuẫn, sự tồn
tại là sự thống nhất hữu cơ duy nhất.
Nhưng bởi vì mọi người đều đang vô ý thức, đang
mơ... Ý nghĩ của bạn là gì ngoài giấc mơ ngày, mơ với

61
mắt mở? Và giấc mơ của bạn là gì ngoài những ý nghĩ của
ban đêm? Làm sao bạn làm quyết định được? Bạn không
có đủ ý thức để quyết định điều gì. Bạn đơn giản theo các
qui tắc cũ. Nhưng bạn có biết rằng những người đã làm ra
các qui tắc đó cũng ngủ như bạn không?
Chẳng hạn, người Hindus theo các qui tắc của Manu.
Năm nghìn năm trước ông ấy đã làm ra đạo đức Hindu.
Theo ông ấy, con người được chia thành bốn đẳng cấp.
Người Brahmins là đẳng cấp cao nhất: không ai có thể vào
đẳng cấp Brahmin được; bạn được sinh ra là người
Brahmin. Việc chuyển đổi là không thể được, bởi vì việc
bạn là người Brahmin tuỳ thuộc vào việc làm tốt của kiếp
trước của bạn. Bây giờ bạn sẽ tìm đâu ra kiếp sống quá
khứ của mình và làm việc tốt. Nó đã qua rồi.
Tầng lớp thứ hai là chiến binh, tầng lớp thứ ba là
doanh nhân, và tầng lớp thứ tư là sudra, 'tiện dân'. Họ bẩn
thỉu tới mức nếu cái bóng của họ có phủ lên bạn, bạn phải
đi tắm. Họ còn chưa động tới bạn, cái bóng của họ mới
chạm vào bạn thôi, nhưng điều đó cũng đủ làm cho bạn
bẩn rồi. Tầng lớp thứ tư không thể được phép sống trong
thành phố, họ phải sống ngoài đô thị. Có những chỗ họ
không được vào, chẳng hạn trong đền đài. Họ không thể
đọc kinh sách, họ không thể vào trường học, họ không thể
được giáo dục.
Trong năm nghìn năm không ai đã nổi dậy chống lại
điều đó. Bạn đang buộc một người phải là thợ giầy chỉ bởi
vì anh ta được sinh ra trong gia đình thợ giầy. Anh ta có
thể có phẩm chất của một Albert Einstein, nhưng cánh cửa
đó bị đóng lại rồi, anh ta thậm chí không được bước chân
tới trường. Anh ta có thể có phẩm chất của Phật Gautam
nhưng tất cả mọi cánh cửa đã bị đóng lại, anh ta chỉ được

62
phép làm giầy. Trong năm nghìn năm tất cả mọi tổ tiên
của anh ta đã làm giầy, cho nên anh ta phải làm giầy.
Phân chia rất chặt chẽ và không linh động, không di
chuyển từ nghề nọ sang nghề kia. Manu đã là một người
Brahmin, cho nên hiển nhiên Brahmins là người tốt nhất.
Họ là nhân tố quyết định, họ sẽ quyết định cái gì là phải và
cái gì là trái.
Và tình huống này cũng là như vậy cho gần khắp trên
trái đất; mọi người đang sống trong vô ý thức tuyệt đối.
Tất cả những cái gọi là người tôn giáo đều chống lại tôi,
cũng hiển nhiên, bởi vì tôi đang nói với họ rằng tất cả mọi
đạo đức của họ đều làm cùng chất liệu như giấc mơ. Khả
năng duy nhất để biết cái đúng là trước hết hoàn toàn có ý
thức. Và khi một người hoàn toàn có ý thức, mọi sự thay
đổi.
Chẳng hạn, Phật Gautam đã vứt bỏ ý tưởng về đẳng
cấp ngay lập tức; khi ông ấy trở nên chứng ngộ bước đầu
tiên của ông ấy là nói, "Không có đẳng cấp; mọi người
đều phải được tự do làm bất kì điều gì mình muốn, là bất
kì điều gì mình muốn; việc sinh không thể quyết định
được định mệnh của người đó."
Giáo huấn của Phật không thể tồn tại được ở Ấn Độ
bởi vì toàn bộ nghề nghiệp của người Brahmins bị lâm
nguy. Nếu thông điệp của Phật mà lan rộng, thì người
Brahmins sẽ mất quyền lực mà họ đã có, chiến binh sẽ mất
quyền lực họ đã có, và tiện dân sẽ đi vào mọi chỗ, họ sẽ có
tự do mà chưa bao giờ được trao cho họ.
Phật có thể thấy được trong im lặng của mình, trong
sự an bình của mình rằng đây là ý tưởng ngu xuẩn. Nhân
danh đạo đức, nhân danh tôn giáo điều đó bị áp đặt lên

63
mọi người, nó phải bị vứt đi. Tự do là cơ sở, cơ sở nền
tảng của mọi nhân loại. Bất kì cái gì đi ngược lại tự do
cũng đều đi ngược lại nhân loại.

Maneesha đã hỏi:

Osho ơi,
Có một lần, quan tri phủ nói với Nam Tuyền,
"Có một tảng đá trong nhà tôi. Đôi khi nó đứng
thẳng và đôi khi nó nằm ra. Bây giờ có thể khắc
ảnh Phật vào nó được không?"
"Có chứ," Nam Tuyền nói, "điều đó là có thể."
"Nhưng điều đó cũng là không thể chứ?" quan
tri phủ phản đối lại.
"Điều đó là không thể!" Nam Tuyền tuyên bố.
"Điều đó là không thể!"

Một đối thoại kì lạ. Trước hết bạn phải hiểu rằng
viên tri phủ này đang nói theo biểu dụ. Khi ông ta nói rằng
"Có một tảng đá trong nhà tôi" ông ấy đang nói về bản
thân bạn. Ông ấy đang nói, "Tôi có là gì hơn tảng đá
không? Đôi khi tôi đứng dậy và đôi khi tôi nằm xuống.
Tôi vô ý thức như tảng đá." Bạn có cho rằng ông ấy đang
hỏi Nam Tuyền liệu hòn đá có thể được khắc phật vào
không? Đấy không phải là về hòn đá đâu, đấy là về bản
thân ông ấy. Đá không đứng lên và không nằm xuống,

64
chúng không mệt mỏi sớm thế. Ông ấy đang nói về bản
thân bạn đấy.
"Có chứ," Nam Tuyền nói, "điều đó là có thể." Ông
ấy không nói rằng điều đó là không tránh khỏi. Ông ấy
đơn giản nói rằng, "điều đó là có thể." Nếu thôi thúc nảy
sinh trong tảng đá, mọi sự là có thể: hòn đá có thể trở
thành phật.
Viên tri phủ nói, "Nhưng điều đó cũng là không thể
chứ?" Thấy rằng viên tri phủ không thể hiểu được ngay cả
đến một tảng đá, nếu một thôi thúc, một khao khát nảy
sinh trong nó, thì cũng có thể trở thành một hạt mầm, và
cuối cùng thành phật, khi thấy viên tri phủ không thể hiểu
nổi khả năng đó bởi vì ông ta nói, "Nhưng điều đó cũng là
không thể chứ, rất khó?", Nam Tuyền cũng nói, "Đúng,
điều đó là không thể." Ông ấy lặp lại lần nữa, "Điều đó là
không thể!"
Nếu bản thân bạn nghĩ điều đó là không thể, thế thì
chẳng có cách nào. Điều đầu tiên là thấy và cảm nhận tiềm
năng và khả năng của bạn. Nếu bản thân bạn nói điều đó
là không thể được, thế thì không ai có thể làm điều đó cho
bạn được. Đó không phải là điều gì đó ai đó khác phải
làm, bạn phải trưởng thành trong phật. Nếu bạn nói điều
đó là không thể được thế thì dự án này có thể vứt đi được.
Điều ông ấy đang nói với bạn trong giai thoại này là
ở chỗ chính thôi thúc của bạn để trở thành phật chung
cuộc sẽ khám phá ra phật trong bạn. Phật không ở đâu đó
xa xăm mà bạn phải đi tìm tòi. Nó ẩn đằng sau bạn. Nếu
thôi thúc của bạn trở nên khẩn thiết, cái bị dấu kín đó sẽ
mở ra cánh cửa của nó. Nếu bạn đi vào nội tâm với lực vô

65
biên để đạt tới chính cội nguồn và trung tâm của bản thể
bạn, bạn sẽ tìm thấy phật.
Nhưng nếu bạn nghĩ điều đó là không thể được, thế
thì bạn đã tự mình đóng sập cánh cửa tiềm năng của mình.
Không ai có thể làm cho bạn thành phật được. Nhưng đấy
là khả năng; nếu bạn có niềm đam mê, nếu bạn có lòng
khao khát, nếu bạn quay vào trong, vứt bỏ mọi điều trần
tục của cái bên ngoài, thì đấy là khả năng.
Sekiso đã viết:

Xúc phạm của mọi người


đã làm tan chảy cái mà là vàng
Và điều đó đã đi từ thế giới đó.
May và không may
cả hai đều thuộc vào mảnh đất của mơ
Đừng nhìn lại vào thế giới này,
cái lỗ cũ của bạn trong hầm rượu.
Từ đầu
chim bay đã không để lại
dấu chân nào trên trời xanh.

Sekiso là nhà thơ lớn. Ông ấy đang nói Xúc phạm


của mọi người đã làm tan chảy cái mà là vàng. Chúng ta
đã bỏ lại thời đại vàng ở sau, chúng ta đã dùng sai nó.
Tôi nhớ tới một sự việc rất có ý nghĩa. Trong rặng
núi Himalaya có vài bộ lạc, những bộ lạc rất cổ đã tuân
theo một qui tắc, rất độc tôn đàn ông, rằng nếu bạn trở
thành khách trong nhà họ thì họ sẽ cúng hiến cho bạn mọi
thứ. Và trong đêm họ sẽ hiến cho bạn cả vợ họ nữa. Khách
phải được trao cho mọi thứ.

66
Khi người Anh tới Ấn Độ, họ đã khai thác những
người nghèo này nhiều tới mức trong những vùng Manali
và Kulu gần chín mươi phần trăm người đã bị bệnh giang
mai.
Người Anh phải chịu trách nhiệm. Khi họ nghe thấy
rằng những người này hiến vợ họ, thì họ sẽ đi săn trên
miền núi đó và thế rồi trong đêm họ sẽ gõ cửa nhà nào đó.
Và những người đáng thương này đã hiến cho họ mọi thứ:
thức ăn, chỗ ở, vợ họ.
Họ không thể nghĩ được rằng những người này đã tới
chỉ để khai thác họ, để mãi dâm vợ họ. Và chúng đã làm
lây lan bệnh giang mai khắp vùng trong cả bộ lạc; ngay cả
trẻ con sinh ra cũng bị giang mai, và người Anh đã không
nhận trách nhiệm về những đứa trẻ đó, đã được sinh ra từ
việc làm tình của họ với vợ của những người đáng thương
đó.
Cho nên bạn có thể hiểu điều Sekiso đang nói, Xúc
phạm của mọi người đã làm tan chảy cái mà là vàng.
Chắc chắn có một thế giới tin cậy hơn, con người đáng
yêu hơn.
Tôi còn nhớ ngay từ thời thơ ấu của mình, trong làng
tôi và các làng xung quanh bạn không thể mua được sữa.
Bạn có thể lấy bao nhiêu sữa tuỳ ý, nhưng không ai bán
sữa cả. Bạn được nuôi dưỡng, ai đó đói còn bạn khai thác
cơn đói của người đó! Cho nên sữa có sẵn cho bất kì ai.
Bây giờ trong cùng làng đó bạn sẽ không tìm thấy sữa
thuần khiết với bất kì giá nào - nửa nước, nửa sữa.

Trong trường đại học nơi tôi học, một người cung
cấp sữa cho sinh viên. Ông ta là người rất tốt, người rất

67
hay, một ông già rất trí huệ. Và mọi người bắt đầu gọi ông
ấy là shantji, vị thánh. Và ông ấy hay tới với các thùng
sữa, cùng con mình mang theo một thùng khác, cho kí túc
xá. Và mọi người sẽ hỏi, "Shantji, có đúng là ông không
trộn nước vào sữa đấy chứ?"
Ông ấy sẽ đặt cả hai tay lên đầu đứa trẻ, và ông ấy sẽ
nói, "Trong cả đời tôi, tôi chưa bao giờ trộn nước vào sữa
cả. Nếu mà tôi làm thế, thì con tôi chết."
Tôi nghe thấy điều đó. Tôi nghĩ rằng điều này dường
như có vẻ kì lạ, bởi vì sữa chắc chắn năm mươi phần trăm
là nước. Đã là sữa, sữa thuần khiết thì chỉ tám phần trăm
nước thôi, và khi bạn trộn thêm nhiều nước vào nó, năm
mươi phần trăm, nó trở thành rõ ràng thế.
Cho nên ngày đầu tiên của tôi ở đại học khi tôi nghe
thấy ông ấy, tôi gọi ông ấy lại và tôi nói, "Nói cho tôi sự
thật đi, bởi vì chắc chắn sữa của ông đầy những nước. Và
nếu ông không nói cho tôi sự thật, tôi sẽ đưa ông tới ông
phó hiệu trưởng và sữa sẽ được gửi tới làm phân tích khoa
học. Và nếu người ta tìm thấy nước trong nó, toàn bộ việc
kinh doanh của ông sẽ đi đời."
Ông ấy nói, "Cậu là người đầu tiên tạo ra nhiều rắc
rối thế cho tôi. Tôi sẽ nói cho cậu sự thật, nhưng cậu đừng
có làm gì cả và đừng có nói cho người khác."
Tôi nói, "Ông nói cho tôi sự thật đi; sự thật là gì?"
Ông ấy nói, "Sự thật là tôi chưa bao giờ trộn nước
vào sữa, tôi bao giờ cũng trộn sữa vào nước. Đó là lí do tại
sao tôi có thể nói điều đó mà không sợ gì, nhưng đừng gửi
nó đi làm phân tích khoa học. Tôi sẽ cung cấp cho cậu
nước và sữa không mất tiền. Nếu cậu muốn sữa không
nước, tôi sẽ không để nước trong sữa của cậu, nhưng thế

68
thì cậu phải cử ai đó đến chỗ tôi. Nhưng đừng nói cho ai
cả; tôi đã nói cho cậu bí mật."

Đã có một thế giới, thật xa khi chúng ta quay ngược


trở lại nơi chúng ta có thể tìm ra phẩm chất nào đó của tin
cậy, đó là thời đại vàng của nhân loại.
Sekiso nói:

Và điều đó đã đi từ thế giới đó.


May và không may
cả hai đều thuộc vào mảnh đất của mơ.
Đừng nhìn lại vào thế giới này,
cái lỗ cũ của bạn trong hầm rượu.
Từ đầu
chim bay đã không để lại
dấu chân nào trên trời xanh.

Đây là lời của Phật Gautam. Ông ấy thường nói,


"Các ông phải theo con đường chưa được làm sẵn. Các
ông phải làm ra nó và bước nó. Các ông phải thu xếp con
đường của mình. Các ông không thể theo bất kì ai, điều đó
chỉ giống như bầu trời."

Chim bay đã không để lại


dấu chân nào trên trời xanh.

Cùng điều đó cũng đúng cho bầu trời bên trong, chư
phật đã không để lại dấu chân nào của họ. Cho nên bạn
không thể theo bất kì phật nào, bạn phải tìm ra con đường
của mình theo cách của mình, một mình. Đây là chân giá

69
trị của bạn. Đây là tự do vĩ đại. Nếu như có con đường làm
sẵn, đường siêu cao tốc, thế thì hàng xe tải người sẽ trở
thành chư phật mỗi ngày. Xe buýt sẽ đi. Nhưng bởi vì
trong thế giới bên trong bạn không thể đem xe tải của bạn
vào được, bạn thậm chí không thể đem xe kéo tay vào
được, hay xe đạp thuê, điều đó sẽ rất khó khăn; đi xe đạp
bạn có thể tới bất kì đâu ngoại trừ bên trong.
Bên trong bạn đi không phải bằng chân, bạn phải đi
bằng cái nhìn của bạn, bạn phải quay mắt bạn vào trong.
Không có dấu chân. Bầu trời bên trong tuyệt đối hoang vu.
Nhưng khoảng cách tới mục tiêu không thật lớn, chỉ một
bước.
Khi bạn nhìn vào bên trong một cách khẩn thiết, bạn
có thể thấy dường như bạn đang nhìn vào hố nước sâu bên
dưới, hay dường như bạn đang nhìn vào đường hầm, xa
xăm, mở tới bầu trời. Chỉ một bước bạn phải đi để đạt tới
phật. Dũng cảm và năng lượng nào đó là cần có cho cuộc
phiêu lưu, cho việc truy tìm, cho việc thám hiểm. Nhưng
nhớ phát biểu cực kì hay này: Chim bay đã không để lại
dấu chân nào trên trời xanh. Không có khả năng nào của
việc là người đi theo.

Maneesha đã hỏi:

Osho ơi,

70
Ai trong chúng tôi ở đây có thể đồng ý được rằng
"Cái là vàng đã mất khỏi thế giới này rồi"? Làm sao điều
đó có thể thế được, khi thầy ở trong chúng tôi, và trong sự
hiện diện của thầy chúng tôi cảm thấy rằng thầy đang làm
tràn ngập chúng tôi bằng vàng? Thầy là Midas của chiều
hướng tâm linh.

Maneesha, Thính phòng Phật này không phải là một


phần của cái bạn gọi là thế giới. Tự nó là một hòn đảo nơi
chỉ các chư phật cư ngụ. Với các bạn là những thiền nhân
thời gian không thành vấn đề. Bạn càng đi sâu hơn, bạn
càng trở nên đương đại hơn với Phật Gautam, với Lão Tử,
với Trang Tử, với tất cả những người đã kinh nghiệm điều
tối thượng. Bạn gặp họ tại chính cội nguồn của bản thể
bạn. Điều đó là cùng mùi vị, điều dó là cùng hương vị,
điều đó là cùng mục tiêu.
Bạn đúng mà bạn cũng sai. Đúng, bởi vì ở đây trong
Thính phòng Phật này bạn khẩn thiết thế, đam mê tìm
kiếm phật thế. Bạn đang mang thời đại vàng vào sự tồn
tại.
Nhưng bên ngoài cánh cửa này có một thế giới bao la
nơi thậm chí ý tưởng về nhìn vào trong cũng không xuất
hiện cho mọi người. Nếu bạn nói ý tưởng này về việc trở
thành phật cho những người đó bên ngoài cổng thì họ sẽ
cười, họ sẽ nói, "Anh có điên không đấy?" Họ sẽ nhìn bạn
với nghi ngờ: "Người này phải là say ma tuý đây, đang bị
ảnh hưởng của thuốc phiện hay thứ ma túy nào đó; anh ta
đang nghĩ trở thành Phật. Phật đã chết hai mươi nhăm thế
kỉ trước rồi."

71
Mọi người trong thế giới bình thường chẳng bao giờ
nghĩ rằng họ có định mệnh khác - hiện hữu không chỉ là
nhà kinh doanh, hay thư kí, hay trưởng ga, hay thầy giáo.
Những người này không phải là định mệnh của bạn,
những người này là nghề nghiệp của bạn. Tốt cho sự sống
còn trong thân thể, nhưng không đủ tốt để tìm ra phật.
Bạn phải làm điều gì đó khác, bạn phải đi vào trong
bản thân bạn, cái không phải là một phần của giáo dục hay
đạo đức của xã hội. Mọi người sẽ cười bạn vì bạn đi vào
đó. Họ sẽ nói, "Anh điên rồi, làm sao anh có thể đi vào
được? Chúng tôi chẳng thấy cánh cửa nào, cửa sổ nào, nơi
nào anh đi vào được? Và anh có thể tìm thấy cái gì ở đó?
Chỉ bộ xương! Đừng làm thế, bằng không anh sẽ trở nên
sợ chính bản thân bạn, khi thấy bộ xương bên trong, cái sọ
và mọi mạch máu và ruột. Tránh việc đi vào trong này đi!
Điều anh đang làm là rất nguy hiểm, và nếu anh thực sự
quan tâm, đợi cho tới lúc anh chết. Trong nấm mồ của
mình anh có thể nhìn vào bên trong bởi vì sẽ không có bên
ngoài nào nữa. Thế thì quan sát bộ xương của anh; anh sẽ
có đủ thời gian, không có việc gì khác!"
Bạn đúng khi nói là ở đây chúng ta đang đích xác cố
gắng đem thời đại vàng trở lại. Những người muốn tham
gia vào cuộc phiêu lưu lớn lao này, họ đều được đón chào.
Nhưng trong thế giới, Maneesha này, thời đại vàng chắc
chắn đã biến mất. Điều đang xảy ra trong thế giới bên
ngoài bạn có thể tìm ra từ những chuyện đùa này.

Chester Cheese đang trên chuyến đi bán hàng dài thì


xe của anh ta bị hỏng. Anh ta bước bộ tới nhà một nông
dân gần đó và gõ cửa.

72
"Tôi xin lỗi," Chester nói với người nông dân,
"nhưng xe ô tô của tôi đã bị hỏng. Tôi có thể trọ lại ở đây
đêm nay được không?"
"Này, tôi cũng đoán là vậy," ông già nói.
"Nhưng chỉ có mỗi chiếc giường thuộc về cô cháu
gái mười sáu tuổi của tôi, Lucy. Ông sẽ phải ngủ với nó."
"Thực thế à?" Chester mỉm cười. Và anh ta được chỉ
cho căn phòng của Lucy.
Sau đó trong đêm, nằm cạnh Lucy, Chester đặt tay
mình lên đùi non của cô bé.
"Bỏ tay ra!" Lucy kêu lên. "Nếu không mách bố
đấy." Nhưng rồi cô ta lấn gần chút ít vào Chester.
Một chốc sau đó, Chester lại thử nữa. "Bỏ tay ra!"
Lucy kêu. "Nếu không mách bố đấy." Nhưng rồi cô ta lấn
gần thêm chút nữa vào Chester.
Đến lần thử thứ ba, Lucy nhảy lên người Chester, và
họ có một thời gian thú vị.
Một chút sau đó, Lucy thì thào, "Ông ơi, chúng ta lại
ấy nữa đi?"
Chester đồng ý, và họ làm điều đó lần nữa. Năm phút
sau, Lucy kéo mạnh máy đã xì hơi của Chester. "Ông ơi,
chúng ta có thể ấy lần nữa không?" cô ấy hỏi.
"Bỏ tay ra!" Chester hổn hển. "Nếu không mách bố
đấy!"
Đó là điều đang xảy ra ở thế giới bên ngoài!

73
Swami Deva Cleverhead, nhóm trị liệu, một đêm
đang bước ra khỏi cổng trước.
"Xin chào ông," Đen-Béo, người bán hoa, nói. "Ông
mua hoa hồng cho người vợ đáng yêu của ông này?"
"Tôi đã lấy vợ đâu," Cleverhead cáu kỉnh, vẫy tay
xua ông ta đi.
"Thôi được," Đen-Béo nói, "hoa hồng cho bạn gái
ông vậy?"
"Không," Cleverhead la lên. "Tôi cũng chẳng có bạn
gái!"
"Thôi được," Đen-Béo nói, "thế thì mua hai bó hoa -
để kỉ niệm sự may mắn tốt lành của ông!"

Paddy và Seamus đang ngồi trong sân của Paddy


uống vài cốc bia.
"Này," Seamus nói. "Chuyến thuyền của cậu đi tây
Ban Nha thế nào?"
"Tuyệt vời!" Paddy nói. "Cậu tưởng tượng, tớ xa
khỏi Maureen lần đầu tiên trong mười lăm năm! Thế là,
trong đêm đầu tiên của chuyến đi của tớ, tớ đã gặp cô gái
lộng lẫy này, một trong những người đàn bà đẹp nhất tớ đã
từng gặp. Chúng tớ tán gẫu một chút, và đó là tình yêu
ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chẳng mấy chốc, chúng tớ đã
lăn vào vòng tay nhau, hoàn toàn trần truồng.
"Nhưng đến sáng, khi tớ ôm cô ấy trong tay mình, tới
mới phát hiện ra cô ấy là vợ mới của thằng bạn tốt nhất
của tớ, Fergus. Điều ấy gây choáng váng đến mức cả hai

74
chúng tớ đều cảm thấy thực sự mặc cảm. Và chúng tớ cả
hai đều khóc, rồi khóc, rồi khóc!"
"Lạy trời" Seamus nói. "Đấy mới thực sự là điều gì
đó! Vậy phần còn lại của chuyến đi của cậu thì sao?"
"Thế này, cậu biết đấy," Paddy nói. "Sau đó, chỉ toàn
là khóc và đéo, khóc và đéo...!"
Đó là điều đang xảy ra trong thế giới bên ngoài!

Olga Lớn, cô vợ quá tải của Kowalski, cứ ngày một


to khủng khiếp ra. Cho nên cô ấy tới bác sĩ Gasbag để xem
liệu cô ấy có được lời khuyên gì.
"Cô cần tập thể dục nhiều hơn nữa," Gasbag nói. "Và
cô ăn quá nhiều rồi. Cô phải tập luyện hàng ngày."
"Nhưng thưa bác sĩ," Olga phàn nàn, "tôi phải tập thể
dục thế nào?"
"Dễ thôi," Gasbag nói. "bắt đầu chậm rãi. Cởi hết
quần áo ra, nằm dài trên giường, và cố gắng ngồi dậy và
chạm vào đầu ngón chân. Thế rồi giơ chân lên trên vai. Cứ
làm thế này cho tới khi cô bắt đầu toát hết mồ hôi ra."
Đêm đó, Olga quyết định thử cái xem sao. Trần
truồng, nằm dài trên giường, cô ấy chẳng thể nhìn thấy
đầu ngón chân mình. Dầu vậy, cô ấy vẫn đẩy tới, và cố
gắng tóm lấy chân mình. Thế rồi cô ấy nâng chân lên.
Nhưng cô ấy bị mắc kẹt với mông nhô ra và chân cô ấy bị
đẩy ngược lên đầu. Vào lúc đó, Kowalski loạng choạng
vào phòng ngủ, hoàn toàn say.
"Lạy chúa tôi, Olga!" anh ta hét to ngạc nhiên. "Chải
đầu đi và ngậm răng em lại! Em trông giống như mẹ em!"

75
Đây là điều đang xảy ra trong thế giới bên ngoài!
Nivedano...
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại. cảm thấy thân thể bạn trở
thành hoàn toàn đông cứng.
Bây giờ nhìn vào bên trong, với tính toàn bộ, với tất
cả mọi tâm thức của bạn được thu lại như một mũi tên.
Đi ngày một sâu hơn. Nhớ lấy, mọi khoảnh khắc đều
có thể là khoảnh khắc cuối cùng của cuộc sống của bạn.
Do đó mới có sự khẩn thiết này.
Bạn không rời bỏ thân thể này mà không nhận ra
phật tính của mình. Điều đó là có thể. Ngay cả tảng đá
cũng có thể được khắc hình phật vào. Còn nói gì tới tâm
thức? Bản thân nó là phật tính.
Vui sướng với khoảnh khắc này đi. Rất ít người trên
thế giới này thậm chí đang cố gắng để biết mình là ai. Đó
là điều đang tạo nên sự lộn xộn của thế giới.
Nếu bạn biết một cách có ý thức về cội nguồn của
bản thể bạn, bạn trở nên được tràn ngập với hài lòng, vui
sướng, từ bi, tình yêu. Biết bao nhiêu nghìn đoá hoa nở
trong bạn. Bạn trở nên rực rỡ.

76
Đây là quyền tập ấm của bạn. Bạn có thể bỏ qua nó
nhưng bạn không thể phá huỷ được nó. Bất kì khoảnh
khắc nào bạn muốn nhớ tới nó, nó đều có sẵn. Chỉ cần
muốn nó là đủ.
Để làm cho điều đó rõ ràng,
Nivedano...
(tiếng trống)
Chỉ quan sát. Bạn là nhân chứng, bạn không phải là
thân thể, bạn không phải là tâm trí, bạn chỉ là nhân chứng
- chỉ là tấm gương.
Việc chứng kiến này là điểm khởi hành, điểm từ đó
biến đổi bắt đầu.
Uống sâu sắc từ cội nguồn. Thấm đẫm, ướt sũng, đến
mức khi bạn quay lại bạn mang phật trong tim bạn, trong
hơi thở bạn. Bạn phải sống phật này hai mươi bốn giờ.

Buổi tối nay thật đẹp trong chính nó. Nhưng sự hiện
diện của biết bao nhiêu phật đã làm cho nó thành cực kì
đẹp đẽ.
Thu lấy thật nhiều vàng hết mức. Chẳng mấy chốc,
Nivedano sẽ gọi các bạn quay lại. Đem tất cả theo cùng
bạn: hương thơm, im lặng, phúc lạc.

Trong khoảnh khắc này, không có mười nghìn chư


phật mà chỉ một bản tính phật, một đại dương nơi tất cả
các bạn đều tan biến.
Nivedano...

77
(tiếng trống)
Quay lại, nhưng chầm chậm, duyên dáng.
Đem phật đi cùng bạn. Chớ quên.
Ngồi như phật trong vài khoảnh khắc. Và nhớ tới chỗ
bạn đã ở, con đường bạn đã theo, và cùng con đường đó
bạn đã quay lại.
Nhớ lấy nó. Bạn sẽ phải đi đi đi lại trên cùng con
đường này để uống từ cội nguồn của cuộc sống vĩnh hằng.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội việc tụ tập chư phật được
chứ?
Vâng, thưa Osho.

78
4. Ngay cả Himalayas cũng
tới và đi

Osho ơi,
Có lần, Nam Tuyền quyết định tới thăm một
làng, nhưng đã rất ngạc nhiên mà thấy rằng
người ta đã chuẩn bị để đón chào ông ấy. Nam
Tuyền nói với lí trưởng, "Thói quen của ta là
không bao giờ để bất kì ai biết trước về nơi ta
sẽ tới. Làm sao ông có thể biết rằng ta đã tới
thăm làng ông hôm nay?"
Lí trưởng đáp, "Đêm qua, trong giấc mơ, thổ
địa đã báo mộng cho tôi rằng ông sẽ tới thăm
hôm nay."
Nam Tuyền đáp, "Điều này chỉ ra cuộc sống
tâm linh của ta yếu đuối và nông cạn tới mức
nó có thể được người ta thấy trước bằng linh
ảnh!"

79
Maneesha, trước khi thảo luận vào lời kinh của bạn
tôi phải thảo luận đôi điều về cách Nam Tuyền giải quyết
mọi thứ, phương pháp luận của ông ấy. Đôi khi ông ấy có
vẻ rất thách đố, sẽ đưa ra những phát biểu mâu thuẫn theo
chủ định. Chừng nào bạn chưa hiểu điều đó, sẽ khó mà tìm
ra bất kì sự hợp lí nào trong những lời kinh bạn đã đem tới
cho tôi. Và lí do cái mạch duy nhất mà theo đó, cho tới
hiện tại, bạn có thể nắm bắt được cái gì đó là ở cõi bên
kia.

Một lần, viên tri phủ, Lu Hsuan, nói với Nam


Tuyền, "Sẽ có chuyện gì nếu tôi bảo ông rằng
một người đã cho một con ngỗng vào trong cái
chai, ngắm nhìn nó lớn dần lên rồi đến một
ngày anh ta nhận ra rằng nó đã quá lớn không
thể chui qua nổi cái cổ chai? Vì ông ta không
muốn đập vỡ chai hay làm chết con ngỗng, làm
sao ông ấy lấy được con ngỗng ra?"

Một câu đố kìa lạ không thể giải được một cách hợp
lí. Dù bạn làm bất kì cái gì - hoặc bạn sẽ phải phá huỷ cái
chai hoặc con ngỗng - bạn không thể cứu được cả hai.
Nhưng con ngỗng và cái chai chỉ là biểu dụ của bản thân
việc chứng kiến và thân thể bạn.
Thân thể bạn là cái chai còn tâm thức bạn là con
ngỗng. Nhưng chưa bao giờ có ai tự hỏi làm sao tâm thức
đã đi vào trong thân thể và làm sao tâm thức có thể đi ra
khỏi nó. Tâm thức là phổ dụng, bao la, vô hạn theo mọi
chiều. Còn thân thể nhỏ bé thế, chỉ giống như cái chai nhỏ.
Làm sao điều này được sự tồn tại điều khiển? Chính phép

80
màu là cái vật lí, cái vật chất lại chứa bên trong nó cái phi
vật chất, cái tâm linh.
Viên tri phủ này đang hỏi câu hỏi theo truyền thống
Thiền. Đây là câu chuyện cổ; có lẽ mọi thầy đều phải làm
việc về nó.
Nam Tuyền hét lên, "Ông tri phủ!" Trong thoáng
chốc viên tri phủ hoàn toàn quên mất rằng mình là tri phủ
và Nam Tuyền chỉ là kẻ ăn xin khi có liên quan tới của
cải. Và không ai hét tri phủ như cách ông ấy đã hét. Câu
hỏi mà ông ta vừa hỏi không đòi hỏi... Ông ta quên ráo.
Tiếng hét sắc như lưỡi kiếm.
Trong một cú đánh, khi ông ấy hét lên, "Ông tri
phủ!" và viên tri phủ nói, "Dạ, thưa thầy," Nam Tuyền nói,
"Ngỗng ở ngoài!"
Một cách thức rất lạ để giải quyết vấn đề. Viên tri
phủ bầy tỏ tâm thức mình, diễn đạt tâm thức mình. Tâm
thức này không bị cản trở bởi thân thể; nó có thể đi ra, nó
có thể đi vào. Thân thể không phải là rào chắn; thân thể là
rào chắn chỉ với những thứ vật chất. Nhưng cái phi vật
chất tồn tại trong một chiều hướng khác. Nó có thể đi vào
thân thể mà không khuấy động cái gì trong thân thể, thậm
chí không chạm vào thân thể. Chẳng có đâu trong cuộc
sống của bạn mà tâm thức bạn lại chạm vào thân thể bạn,
dù bạn làm bất kì cái gì. Tâm thức bạn đơn giản vẫn còn là
nhân chứng, xa xa trên núi dường như ....
Nghĩ bạn đang đứng trước một tấm gương. Vấn đề là
làm sao hình phản xạ của bạn đi vào trong gương. Tấm
gương không có không gian chứa bạn, nhưng chắc chắn
bạn đang đứng trong gương. Nhưng nếu bạn quan sát cẩn
thận, bạn đang đứng trước tấm gương và quan sát sự phản

81
xạ của mình trong tấm gương. Tấm gương hoàn toàn có
khả năng phản xạ, nhưng nó không thể chứa được bạn.
Thân thể không chứa yếu tố tâm linh trong bạn, mà
yếu tố tâm linh cũng không chứa thân thể. Yếu tố tâm linh
chỉ là tấm gương. Nhiều nhất nó có thể phản xạ thân thể,
tâm trí; nhưng nó bao giờ cũng ở bên ngoài, nó bao giờ
cũng ở ngoài. Đó là điều Nam Tuyền ngụ ý, "Ngỗng ở
ngoài!" Ông ấy hét, "Ông tri phủ!" và viên tri phủ nói,
"Dạ, thưa thầy!" Viên tri phủ không ngủ, ông ta hoàn toàn
tỉnh.
Trong nhận biết này bạn không là thân thể và bạn
không trong thân thể. Bạn ở bên ngoài, bạn ở ngoài.
Ngỗng ở ngoài. Các thầy khác nhau đã làm việc trên giai
thoại nhỏ này về con ngỗng. Nhưng Nam Tuyền dường
như là người giỏi nhất.

Maneesha đã đem tới lời kinh:

Osho ơi,
Có lần, Nam Tuyền quyết định tới thăm một
làng, nhưng đã rất ngạc nhiên mà thấy rằng
người ta đã chuẩn bị để đón chào ông ấy. Nam
Tuyền nói với lí trưởng, "Thói quen của ta là
không bao giờ để bất kì ai biết trước về nơi ta
sẽ tới. Làm sao ông có thể biết rằng ta đã tới
thăm làng ông hôm nay?"
Lí trưởng đáp, "Đêm qua, trong giấc mơ, thổ
địa đã báo mộng cho tôi rằng ông sẽ tới thăm
hôm nay."

82
Nam Tuyền đáp, "Điều này chỉ ra cuộc sống
tâm linh của ta yếu đuối và nông cạn tới mức
nó có thể được người ta thấy trước bằng linh
ảnh!"

Sao ông ấy lại nhấn mạnh rằng không ai được biết


trước? Lí do là ở chỗ ông ấy muốn mọi người nhận ra điều
đã xảy ra cho Nam Tuyền, sự bừng sáng.
Chừng nào họ còn chưa tự bản thân họ nhận ra điều
đó, ông ấy sẽ đi qua làng này. Ông ấy sẽ không dừng lại ở
làng đó; nó còn chưa sẵn sàng cho phật. Mọi người đều
đang ngủ say. Họ không thể thấy được cái vô hình và họ
không thể hiểu được cái vĩnh hằng. Mũi họ tịt, mắt họ
nhắm, tai họ bị bịt lại. Họ không có nhạy cảm với điều
tinh tế, với cái bên trong. Họ không thể kinh nghiệm được
hương thơm của người đã về tới nhà.
Đó là lí do ông ấy sẽ không bao giờ cho phép bất kì
ai biết nơi ông ấy sẽ đi. Ngay cả bạn đồng hành của ông
ấy cũng không biết nơi ông ấy đi; bỗng nhiên ông ấy rẽ
ngoặt. Họ có thể hình dung rằng con đường này đưa tới
lâu đài kia, và trước khi đạt tới lâu đài đó ông ấy sẽ rẽ.
Toàn bộ nỗ lực của ông ấy là để tìm ra những người
có thể chỉ với sự hiện diện của ông ấy cảm thấy điều gì đó
ngân lên trong tim họ. Ông ấy muốn nói chuyện thân thiết
với những người dễ tiếp thu. Thế giới này bao la, đầy
những người tuyệt đối không dễ tiếp thu, những người có
trái tim đã trở thành cứng rắn tới mức chẳng cái gì có thể
ảnh hưởng tới họ cả. Họ nghe ấy vậy mà họ lỡ bởi vì họ
không thể lắng nghe được. Trong khi họ nghe, tâm trí của
họ đang làm cả nghìn lẻ một thứ.

83
Cho dù phật có đi qua trước họ, không chắc họ sẽ
nhận ra. Nhận ra phật là có nhạy cảm nào đó, nhạy bén
nào đó. Cũng như để nhận ra mặt trời bạn cần có mắt, để
nhận ra phật bạn cần phẩm chất nào đó, sự sáng tỏ, sự
trong suốt.
Và chừng nào bạn chưa nhận ra, chẳng có ích gì
trong việc thầy phí hoài thời gian chờ đợi cho những
người không cảm nhận. Có lẽ kiếp tới họ có thể có khả
năng cảm nhận; có lẽ đây không phải là đúng lúc cho họ -
chưa chín muồi, mùa vụ của họ còn chưa tới. Phật có thể
ảnh hưởng tới chỉ rất ít người được chọn lựa, bởi lẽ đơn
giản ảnh hưởng của ông ấy không là của tâm trí; không
phải là luận cứ thuyết phục bạn. Ông ấy thậm chí sẽ không
nói, "Ta là phật đây." Ông ấy muốn bạn nhận ra. Từ đó
cuộc hành trình mới bắt đầu, điểm khởi hành đúng.
Đó là lí do tại sao Nam Tuyền đã không muốn bất kì
ai biết rằng mình đang tới chỗ của họ. Nếu họ đã biết mà
không có nhận biết về phật tính của họ, chỉ theo thông lệ
bởi vì ông ấy nổi tiếng - hàng nghìn sư theo ông ấy - thì họ
như máy móc, như người máy mà tôn sùng ông ấy. Đây sẽ
là phí hoài không cần thiết thời gian của Nam Tuyền và
làm kéo dài mãi cách thức mù quáng, chính thống, truyền
thống.
Ông ấy muốn vào một làng như người lạ và xem liệu
người nào có thể nhận ra mình không. Và mọi người
thường nhận ra ông ấy, người thậm chí còn chưa bao giờ
gặp ông ấy. Chỉ nhìn ông ấy là cái gì đó sẽ đi qua họ như
tia sét. Trái tim sẽ bắt đầu nhảy múa theo sự hài hoà mới.
Họ sẽ biết rằng, "Người này mặc dầu người đó trông giống
như mọi người khác, rất xa xôi với chúng ta."

84
Tâm thức của người đó tràn ngập. Nó mưa rào lên
mọi người, nếu mà họ có cảm nhận, như đám mây mưa.
Nhưng người đó không sẵn sàng trút mưa một cách mù
quáng, cách thức của các đám mây mưa trút mưa rào
xuống. Nó chẳng quan tâm liệu nó đang mưa rào lên tảng
đá, lên cánh đồng, lên mảnh đất tốt; nó không quan tâm.
Đám mây là mù, nó đơn giản trĩu nặng với mưa và muốn
trút bỏ gánh nặng đó bất kì khi nào cơ hội nảy sinh. Khi có
đủ mức lạnh, hơi nước của nó bắt đầu trở thành nước, nó
mưa rào xuống. Nam Tuyền muốn mưa rào như đám mây
mưa, nhưng không giống như đám mây mưa mù quáng.
Ông ấy không muốn mưa rào lên tảng đá nơi chẳng cái gì
sẽ mọc ra. Ông ấy sẽ mưa rào lên đúng mảnh đất nơi có
khả năng để cái gì đó xảy ra.
Một mình ông ấy dùng phương pháp này trong toàn
bộ lịch sử của Thiền. Các thầy thường báo cho làng nơi họ
tới, để cho mọi người được chuẩn bị. Nhưng Nam Tuyền
có nhân cách duy nhất của riêng ông ấy. Nếu mọi người
được chuẩn bị, sẽ có mọi nguy cơ là theo truyền thống họ
sẽ bày tỏ sự kính trọng và sẽ không hiểu gì về người tới
thăm họ. Ông ấy không bao giờ cho phép bất kì ai biết cả.
Nhưng lần này điều đó đã đã xảy ra.

Lí trưởng đáp, "Đêm qua, trong giấc mơ, thổ


địa đã báo mộng cho tôi rằng ông sẽ tới thăm
hôm nay."
Nam Tuyền đáp, "Điều này chỉ ra cuộc sống
tâm linh của ta yếu đuối và nông cạn tới mức
nó có thể được người ta thấy trước bằng linh
ảnh!"

85
Ông ấy là một người rất chân thật. Bất kì ai ở vào vị
trí của ông ấy sẽ cảm thấy bản ngã lắm, "Ngay cả các thần
cũng tuyên bố về việc tới của mình." Nhưng ngược lại ông
ấy nói, "Điều này chỉ ra cuộc sống tâm linh của ta yếu
đuối và nông cạn tới mức nó có thể được người ta thấy
trước bằng linh ảnh, bằng các thần tưởng tượng mà là sự
bịa đặt của ông, điều ông đã thấy trong giấc mơ của ông
rằng ta sẽ tới." Cảm nhận này qua linh ảnh hay giấc mơ có
thể làm cho bất kì người nào không phải là người tâm linh
đích thực thấy tự hào và tuyên bố, "Trông đây này! Ngay
cả các thần cũng tuyên bố và tiên đoán về ta." Nhưng Nam
Tuyền nói, "Điều này chỉ ra tâm linh của ta yếu đuối và
nông cạn tới mức ông có thể đọc được nó ngay cả trong
giấc mơ của ông."
Một trong những phẩm chất quan trọng nhất của
người tôn giáo là sự chân thật của người đó về bản thân
bạn, khiêm tốn của người đó, vô ngã của người đó. Người
đó có đấy mà dường như là người đó không có đấy. Người
đó không cảm thấy bất kì cao siêu nào trong tâm linh của
mình. Nhưng người tôn giáo bình thường tìm điều tầm
thường để thoả mãn cho bản ngã của họ.
Tôi đã nghe nói có ba viện thuộc về người Ki tô giáo
của các giáo phái khác nhau. Một hôm ba giáo sĩ, đi dạo
buổi sáng, ngẫu nhiên gặp nhau ở chỗ giao đường. Họ
chào lẫn nhau và họ khoác lác. Một người thuộc dòng đại
học Baptist nói, "Các tu viện của các ông đều tốt, nhưng
các ông không thể đánh bại được chúng tôi về uyên bác
đâu. Sinh viên của chúng tôi là những người uyên bác
nhất." Người thứ hai là người Cơ đốc giáo. Ông ta nói,
"Ông phải đấy; đúng là sinh viên của các ông rất uyên bác.
Nhưng uyên bác chẳng liên quan gì tới tâm linh cả. Tâm

86
linh thực là kỉ luật, khổ hạnh; tại điểm đó thì các ông
không thể đánh bại chúng tôi được. Các tu sĩ của chúng tôi
là những người khổ hạnh nhất, kỉ luật nhất."
Người thứ ba là từ tu viện Tin lành nói, "Thế thì
chưa là gì cả nhé. Hễ nói tới khiêm tốn thì chúng tôi là
nhất."
Ngay cả khiêm tốn cũng có thể được dùng để thoả
mãn cho bản ngã. Và nhân danh tôn giáo đủ mọi loại ngu
xuẩn vẫn cứ được kéo dài bởi vì chúng thoả mãn cho bản
ngã. Chẳng hạn, cha trưởng tu viện Cơ đốc giáo đã nói
rằng không ai có thể đánh bại được các tu sĩ của họ - cứ
dường như đó là trò chơi bản ngã! Không ai có thể thắng
được về kỉ luật khổ hạnh. Nhưng điều đó đúng đấy; so với
bất kì ai khác thì tu sĩ Cơ đốc giáo là kẻ tự bạo hành nhất.
Ông ta hành hạ bản thân mình nhiều thế, chỉ để được mọi
người ca ngợi.
Tôi nhớ tới một câu chuyện. Một thanh niên vào một
tu viện Cơ đốc giáo. Anh ta được ông giáo sĩ trưởng tu
viện bảo, "Ta phải báo trước cho anh đây là tu viện Cơ
đốc giáo. Kỉ luật lớn là cần thiết; chẳng hạn, anh được
phép nói chỉ một lần trong bẩy năm."
Người này nói, "Tôi đã tới với một quyết định lớn
lao. Mọi kỉ luật tôi đều sẵn sàng tuân theo." Nhưng anh ta
lại không biết điều sẽ là định mệnh của mình. Anh ta vào
phòng của mình và thấy rằng không có đệm. Bây giờ anh
ta không thể nói được. Trong bẩy năm anh ta phải đợi cái
đệm. Anh ta nói, "Lạy chúa, mình không sống được bẩy
năm trong thời tiết lạnh này. Bên ngoài tuyết đang rơi.
Không có đệm, chỉ mỗi chiếc chăn nhỏ." Nhưng anh ta đã

87
hứa và điều đã đã trở thành vấn đề bản ngã. Anh ở lại đó
trong bẩy năm, chịu đựng.
Khi bẩy năm đã trôi qua anh ta rất sung sướng; anh ta
tới ông trưởng tu viện và anh ta nói, "Nhờ ân điển của
Thượng đế tôi vẫn còn sống sót đây. Không có đệm trong
phòng của tôi." Ông trưởng tu viện nói, "Đệm sẽ được
đem tới. Anh quay về đi, và trong bẩy năm đừng có phàn
nàn gì nữa nhé." Anh chàng đáng thương đã không phàn
nàn trong bẩy năm!
Tấm đệm tới, nhưng tấm đệm lại quá lớn; căn phòng
không lớn đến thế, và cửa lại quá nhỏ, cho nên trong khi
đẩy tấm đệm vào, các công nhân đã làm vỡ kính cửa sổ.
Bằng cách nào đó họ cũng ấn được cái đệm vào, nhưng
cửa sổ lại bị vỡ.
Anh ta đã chịu đựng qua cái lạnh, bây giờ anh ta bắt
đầu chịu đựng mưa. Nước rơi thẳng vào phòng nơi anh ta
ngồi che mình bằng chiếc chăn rách. Bẩy năm nữa trước
khi kính có thể được gắn vào cửa sổ! Sau bẩy năm anh ta
tới ông trưởng tu viện, và ông trưởng tu viện nói, "Lại anh
nữa à? Anh lại phàn nàn nữa chứ gì?"
Anh ta nói, "Đây không phải là phàn nàn. Nhưng
trong bẩy năm tôi đã chịu đựng mưa rồi. Nhưng công nhân
kia đã làm vỡ cửa kính chỗ tôi. Tốt hơn cả là không có
đệm - tôi đã quen rồi - nhưng bao giờ cũng vẫn còn sợ
mưa.... Ông trưởng tu viện nói, "Cửa sổ của anh sẽ được
sửa, nhưng đừng có tới với lời phàn nàn nào trong đời này
nữa nhé."
Nhưng tình huống vẫn còn như cũ: công nhân tới gắn
kính; anh ta không thể nói, và những kẻ ngốc này lại kéo
tấm đệm ra, để cho họ có thể làm việc thoải mái trên cửa

88
sổ và gắn kính vào. Họ chữa xong kính và bỏ tấm đệm ở
ngoài. Lần nữa tình huống lại như cũ - thực tế, còn tồi tệ
hơn.
Bây giờ bẩy năm có vẻ thực... kiếp tiếp có lẽ anh ta
sẽ có khả năng nói, "Tấm đệm của tôi bị bỏ ở ngoài." Anh
ta cố gắng kéo nó vào, nhưng chẳng có cách nào cả, nó
quá lớn. Và ông trưởng tu viện đã nói, "Bây giờ trong
cuộc đời này anh phàn nàn đã đủ rồi. Anh chẳng làm cái gì
khác từ khi anh tới - toàn phàn nàn với phàn nàn."
Những người này nghĩ rằng họ đang làm điều gì đó
tâm linh. Ngu xuẩn có nhiều cái tên; một trong chúng là
tâm linh. Thiền không quan tâm chút nào tới việc trang
điểm cho bản ngã. Ngược lại toàn bộ nỗ lực của nó là làm
sao làm trống rỗng bạn, làm sao làm ra cái không từ bạn,
không phải cái gì đó.
Từ chính thời thơ ấu của mình, họ hàng tôi, hàng
xóm tôi, người thiện chí nhất đều hay nói, "Cách cháu
đang lớn lên, cháu sẽ kết thúc chẳng là cái gì cả," bởi vì
tôi hay ngồi im lặng hàng giờ bên cạnh con sông. Và mọi
người trở nên quen thế, họ thậm chí sẽ không hỏi tôi đang
làm gì, bởi vì tôi chẳng làm gì hết cả.
Nhưng lời tiên tri của họ lại đúng. Tôi đã kết thúc
trong cái không. Nhưng đó là phúc lành lớn nhất nếu bạn
có thể kết thúc là cái không. Tốt vì cái không… chỉ từ cái
không đó mới nở ra hàng nghìn bông hồng.
Khiêm tốn không được Thiền thực hành và trau dồi.
Nó đơn giản là kết quả, sản phẩm phụ của việc thiền sâu
sắc. Khi bạn đi càng sâu hơn, bạn bắt đầu quên mất rằng
toàn thể thế giới đang tranh đấu để trở thành cái gì đó, ai
đó đặc biệt - giầu có hơn, quyền lực hơn. Mọi người đều

89
đang cố gắng làm ra lịch sử còn bạn lại đang biến mất gần
như làn khói trên trời. Nhưng những người có thể biến mất
như làn khói trên trời không để lại dấu vết gì đằng sau cả,
không dấu chân đằng sau, họ là người duy nhất đi tới biết
cái huy hoàng của sự tồn tại, cái đẹp của vũ trụ này, và
chân lí và chân giá trị; đấy mới chỉ là cái bắt đầu của
những bí ẩn lớn.
Cửa tiếp cửa cứ mở ra mãi cho người khiêm tốn. Và
người đó vẫn còn đơn giản là người quan sát. Đó là điều
tối thượng. Bạn không sở hữu cái gì theo một nghĩa nào
đó, và theo nghĩa khác bạn sở hữu toàn thể vũ trụ; nhưng
không có tính sở hữu. Bạn đã đi vào trong cái tinh tuý, vào
trong bí ẩn vĩnh hằng của cuộc sống và cái chết, và bạn đã
tìm thấy một điều, rằng mọi thứ thay đổi ngoại trừ nhân
chứng bên trong bạn. Nhân chứng này là hiện tượng vĩnh
cửu duy nhất.
Ngay cả Himalayas cũng tới và sẽ biến mất. Ngày
nào đó đã không có Himalaya; nó không phải rất già lắm
đâu; nó là ngọn núi rất mới. Trong Rig Veda cuốn sách cổ
đại nhất của người Hindus, Himalaya còn chưa được nhắc
tới. Không thể không nhắc tới Himalaya được. Dường như
là Himalaya đã lớn lên sau Rig Veda, bởi vì Himalaya đã
không được nhắc tới chút nào trong Rig Veda khi các
ngọn núi nhỏ hơn khác lại được nhắc tới - Vindhyachal,
Satpura - sông nữa, nhỏ trong so sánh với núi trong
Himalayas.
Lokmanya Tilak, một học giả Hindu ở thành phố
này, Pune, đã biện minh chống lại tất cả các học giả những
người đang cố chứng minh rằng Rig Veda chỉ mới năm
nghìn tuổi. Ông ấy biện minh rằng Rig Veda ít nhất cũng
chín mười nghìn tuổi với hai luận cứ: một là ở chỗ

90
Himalaya không được nhắc tới chút nào trong khi những
ngọn núi nhỏ lại được nhắc tới. Không có lí do để không
nhắc tới Himalaya. Himalaya phải đã lớn lên sau Rig
Veda.
Và những người đã viết Rig Veda đã tới từ Mông cổ.
Tất cả các quốc gia văn minh của thế giới đều bắt nguồn
từ Mông Cổ; Mông Cổ là cội nguồn, đặc biệt là giống
người Aryan. Người Negroes đã không bắt nguồn từ người
Mông Cổ, người Nam Ấn Độ cũng không. Nhưng người
Đức, người bắc Ấn Độ, người Anh, người Pháp, người
Italia, người Na Uy, người Thuỵ Điển, người Thuỵ Sĩ,
người Hi Lạp, tất cả họ đều bắt nguồn từ cùng một nguồn
gốc, người Mông Cổ, bởi vì tất cả các ngôn ngữ của họ
đều có phần trăm nào đó tiếng Phạn.
Tới từ Mông Cổ bạn phải đi qua Himalaya. Và vượt
qua Himalaya không phải là việc nhỏ đâu. Điều đó dường
như là không thể được, nếu Himalaya mà có đó và người
Aryans vượt qua Himalaya, vì họ không nhắc gì tới nó cả.
Luận cứ của Lokmanya Tilak có tính hợp lệ. Nhưng
còn hợp lệ hơn là mô tả của ông ấy về chòm sao đã được
nhắc tới trong Rig Veda cũng đã xuất hiện từ chín mươi
nghìn năm trước đây. Chòm sao đó được mô tả tuyệt đối
chi tiết, cho nên nó không phải là cái gì đó bạn không thể
hình dung ra được. Nó đã không xuất hiện từ thời đó tới
giờ, nhưng nó có thể xuất hiện lại lúc nào đó - mặc dầu có
lẽ hàng triệu năm sẽ trôi qua trước khi những ngôi sao này
sẽ đi vào chòm sao đó lần nữa.
Hai luận cứ này hợp lệ đến mức bất kì nhà truyền
giáo Ki tô giáo nào cũng không trả lời nổi, bởi vì mọi nhà
truyền giáo Ki tô giáo đều cố gắng đẩy Rig Veda về gần

91
chúng ta nhiều nhất có thể được. Lí do là bởi vì theo Kinh
Thánh Ki tô giáo thì thế giới mới được tạo ra chỉ bốn
nghìn linh bốn năm trước Jesus Christ. Nó phải đã chắc
chắn ngày thứ hai và tháng giêng, nhưng không xa chúng
ta lắm, chỉ mới sáu nghìn năm. Cho nên họ phải gắn mọi
thứ lại trong cái khuôn khổ đó của sáu nghìn năm. Họ cho
nhiều nhất Rig Veda có thể có là năm nghìn năm. Họ
không thể chấp nhận được rằng Rig Veda đã được viết ra
từ chín mươi nghìn năm trước, bởi vì điều đó sẽ làm nhiễu
loạn toàn bộ Kinh Thánh của họ.
Nhưng Kinh Thánh không phải là luận cứ; có hàng
nghìn bằng chứng khác rằng Kinh Thánh là sai. Bản thân
trái đất này theo các cách đo khoa học thì đã từng có trong
sự tồn tại bốn triệu năm. Trên Himalayas bộ xương của
động vật biển đã được tìm thấy, sáu mươi nghìn năm.
Điều đó chỉ ra rằng vào lúc nào đó giữa sáu mươi nghìn và
chín mươi nghìn năm trước đây Himalaya đã bắt nguồn từ
đại dương; bằng không thì động vật đại dương không thể
lên tới đỉnh Hymalayas bằng bất kì cách nào được, chúng
không thể đi từ Ấn Độ dương, là chỗ gần nhất. Không có
cách nào cho động vật biển cả; chúng không có chân,
chúng không thể đạt tới đỉnh chỉ để chết ở đó và tạo ra rắc
rối cho các nhà lịch sử.
Tôn giáo đích thực không bận tâm với những vấn đề
như vậy; những vấn đề đó thuộc vào khoa học. Bất kì cái
gì khách quan đều thuộc vào khoa học. Tính tôn giáo là
tuyệt đối chủ quan; nó thuộc về chiều sâu bên trong của
bạn, và bạn càng đi sâu vào những chiều sâu bên trong của
mình, thì bạn sẽ càng tìm thấy bầu trời trống rỗng hơn.
Nhưng bầu trời trống rỗng này của bản thể bạn là kinh
nghiệm tối thượng của bạn. Không ai đã vượt ra ngoài nó,

92
phúc lành của nó, ân điển của nó. Sự thoải mái vô cùng
với sự tồn tại… bạn đã về tới nhà.
Nam Tuyền nói, "Cuộc sống tâm linh của ta phải
nông cạn và yếu ớt đến mức mọi người có thể thấy được
nó trong linh ảnh của họ, trong giấc mơ của họ!" Rất chân
thực, đầy nhận biết về những khả năng lớn của việc rơi
vào con đường của bản ngã... điều này làm cho ông ấy là
thầy vĩ đại. Những người theo ông ấy, ông ấy chưa bao
giờ gọi là 'người đi theo' bởi vì đó lại là con đường bản
ngã.
Thầy giáo, người có nhiều người đi theo, nghĩ họ là
những thầy giáo vĩ đại, chỉ bởi vì con số này. Con số là
quan trọng trong chính trị nhưng không quan trọng trong
trưởng thành tâm linh của bạn. Có thể phật không có
người đi theo nào; điều đó đơn giản chỉ ra tầm cao của ông
ấy đã tới mức không ai có thể thấy được cái xa đó. Còn
học giả láu lỉnh, nói như vẹt, hay bác học hay giáo sĩ có
thể có đám người theo sau lớn, bởi vì mọi người có thể
hiểu bất kì điều gì ông ta nói. Điều đó không tới từ cõi bên
kia; nó tới từ tâm trí ông ta, do đó tâm trí bạn có thể hiểu
nó rất dễ dàng.
Nam Tuyền không có người đi theo nhưng có bạn
đồng hành. Ông ấy là người đầu tiên dùng từ 'bạn đồng
hành', cùng đi hướng tới một trung tâm của cuộc sống.
Không có vấn đề thầy và đệ tử.
Điều đó không có nghĩa là các đệ tử không kính
trọng Nam Tuyền. Ngược lại họ có nhiều kính trọng hơn
bởi vì ông ấy không bao giờ đòi hỏi kính trọng. Có những
điều, nếu bạn hỏi, bạn sẽ không bao giờ được, còn nếu bạn
không hỏi, bạn sẽ được mưa rào lên bằng nó. Ông ấy

93
không bao giờ đòi hỏi bất kì sự biết ơn nào hay bất kì sự
kính trọng nào. Ông ấy không bao giờ nói, "Ta là thầy và
các ông là đệ tử." Điều đó tạo ra một loại cộng đồng hoàn
toàn khác. Và ông ấy đã được yêu mến và kính trọng còn
hơn bất kì thầy nào bởi lẽ đơn giản ông ấy khiêm tốn thế,
không đòi hỏi gì thế và chia sẻ đến thế trái tim trống rỗng
của mình. Và tự do của sự khiêm tốn… bạn có thể đã
không nghĩ về nó nhưng bản ngã không bao giờ có thể có
bất kì tự do nào, nó phụ thuộc vào người khác.
Ngồi trên đỉnh Himalayas một mình, bạn có thể nghĩ
mình là người vĩ đại không? Nhưng Giáo hoàng có thể
nghĩ ông ấy là người vĩ đại bởi vì ông ấy có sáu trăm triệu
người đi theo Cơ đốc giáo. Không người lãnh đạo tôn giáo
nào có nhiều người đi theo như vậy. Đây là cách thức của
chính trị, không phải của tôn giáo.
Và con đường của bản ngã tinh vi tới mức... tôi đã
nghe nói về một thánh nhân sống một mình trong núi sâu.
Một lữ khách tới ông ấy. Chỉ đi ngang qua, lữ khách nghĩ
nên vào thăm ông ta. Anh ta nghĩ chắc phải có nhiều
người đi theo, nhưng chẳng có ai cả; mỗi mình ông ấy.
Người lạ nói với ông ấy, "Những người trong thế
giới có nhiều người đi theo, họ cứ tưởng mình vĩ đại.
Nhưng tôi cho bọn họ tất cả chỉ là kẻ bản ngã, họ đang
dùng con số thay vì đồng tiền làm cái hỗ trợ cho bản ngã
của họ."
Vị thánh nhân già mỉm cười và ông ta nói, "Tôi là
người duy nhất không có người đi theo. Tôi là người duy
nhất, nhớ lấy!" Cho nên sự tinh vi đó là những con đường
của bản ngã. Ngay cả điều này cũng trở thành cùng một
trò bản ngã; không khác biệt. Sự khiêm tốn phải ghi nhớ

94
rằng bản ngã bao giờ cũng tới từ cửa sau nếu bạn ném nó
đi từ cửa trước. Và trong cuộc sống của bạn có nhiều cửa
lắm, nhiều trong số đó bạn thậm chí còn không nhận biết
tới chúng. Khi bạn tràn đầy nhận biết và ngôi nhà của bạn
đầy ánh sáng, cái bóng của bản ngã sẽ không có khả năng
bước vào được.
Nhưng đấy không phải là vấn đề về việc trau dồi. Tôi
đã thấy trong những đền đài có ghi những dòng chữ vàng
rằng nếu bạn khiêm tốn, bạn sẽ được tất cả mọi người kính
trọng. Lời khuyên lạ đời! Thế thì người ta trở nên khiêm
tốn chỉ để được sự kính trọng của mọi người. Bạn không
thể trau dồi những phẩm chất này bởi vì trau dồi bất kì
phẩm chất nào bạn cần mục tiêu nào đó, tham nào đó.
Khiêm tốn tới như sản phẩm phụ, không phải như mục
tiêu. Khi bạn ở sâu trong thiền, tuyệt đối không cảm thấy
gì, chỉ chứng kiến sự trống rỗng, khiêm tốn tới theo cách
riêng của nó.
Nam Tuyền chắc chắn là con người của hiểu biết lớn,
nhưng hiểu biết này không phải là kinh sách, học thuật;
hiểu biết này đã trưởng thành qua việc thiền của ông ấy.
Trong ba mươi năm ông ấy đã liên tục thiền; trong ba
mươi năm ông ấy chỉ ngồi và quan sát bên trong. Dần dần
các ý nghĩ biến mất, giấc mơ biến mất. Tất cả bụi bặm đều
lắng xuống. Bầu trời bên trong trở nên tuyệt đối trong trẻo
và rõ ràng. Trong ba mươi năm ông ấy đã không ra khỏi
núi.
Chính viên tri phủ Lu Hsuan đã thuyết phục ông ấy,
"Thế là đủ rồi. Ba mươi năm thầy đã thiền. Bây giờ là lúc
thầy nên xuống đồng bằng và chia sẻ kinh nghiệm của
thầy." Thuyết phục của Hsuan đã có tác dụng bởi vì điều
đó nhắc nhở Nam Tuyền về kho báu lớn lao biết bao mà

95
ông ấy đã thu được trong cái trống rỗng của mình. Có
hàng triệu người đang sống như kẻ ăn xin mặc dầu bên
trong họ có những kho báu oai nghiêm thế, bí ẩn thế. Ông
ấy đã đồng ý với Hsuan và xuống vùng đồng bằng. Lập
tức hàng nghìn người quan tâm sau sắc tới việc tìm kiếm
của ông ấy về cái ta của họ đã tới vây lấy ông ấy. Đạo
tràng của ông ấy là một trong những đạo tràng lớn nhất ở
Nhật Bản.
Sekiso, nhà thơ thiền, đã viết:

Bạn lên đỉnh Hiei vắt vẻo lưng chừng mây;


Tôi bước đi từ Kyoyo với chiếc gậy trúc -
xa ngàn dặm như ngôi sao phương Bắc.
Đây là cơ hội để nhắc nhau rằng chúng ta là
bạn bè.

Ông ấy nói, bạn trở nên chứng ngộ vào thế kỉ nào, ở
bất kì đâu cũng không thành vấn đề. Khoảnh khắc bạn trở
nên chứng ngộ, bạn trở thành đồng đại với tất cả những
người đã chứng ngộ của quá khứ và tương lai. Có một loại
tình huynh đệ của những người đạt tới đỉnh cao tối thượng
của thức tỉnh.

Maneesha có câu hỏi:

Osho ơi,
Trong cuộc sống của đệ tử có điểm nào không
quay lại không?

96
Maneesha, tôi sẽ phải giải thích cho bạn. Có ba loại
người bạn có thể tìm thấy quanh thầy: học sinh, người
nông cạn nhất - anh ta tới để tích luỹ tri thức nào đó; trở
thành học giả lớn, người có hiểu biết - loại thứ hai là đệ tử,
người không tích luỹ tri thức mà thực hành nó, tìm xem
liệu có chân lí nào trong nó hay không - "Đây chỉ là triết lí
hay kinh nghiệm tâm linh đích thực?" - và loại thứ ba là
người sùng kính, người đã trở thành một với thầy.
Câu hỏi của bạn là, Trong cuộc sống của đệ tử có
điểm nào không quay lại không? Trong cuộc sống của
người sùng kính có điểm không quay lại, nhưng đệ tử có
thể quay lại được. Đệ tử vẫn còn tách khỏi thầy. Đệ tử vẫn
còn giữ một khoảng cách nào đó; trong thực tế người đó
sợ tới gần nữa. Tới quá gần có nghĩa là bị thiêu cháy, bị
thiêu cháy cách bạn vẫn đang vậy; tất cả những cái giả tạo
sẽ bị đốt cháy và chỉ vàng ròng mới còn lại. Đệ từ giữ
mình ở xa xa chút ít.
Học sinh thì tuyệt đối thật xa. Anh ta chẳng liên quan
gì tới thầy cả; anh ta chỉ phải thu thập từng mảnh mẩu tri
thức rồi đi theo đường của mình. Đệ tử là ở giữa học sinh
và người sùng kính.
Đệ tử có thể đi xa, nhưng người sùng kính đã hội
nhập bản thân mình vào trong ngọn lửa. Upanishads nói
rằng thầy là cái chết: tới quá gần thầy bạn sẽ phải chết như
bạn đang đấy. Tất nhiên bạn sẽ được tái sinh; phát biểu
của Upanishad mới chỉ được một nửa, thầy là cái chết và
phục sinh. Nhưng người ta phải có nhiều dũng cảm để
chết. Bạn chưa bao giờ biết liệu bạn có được phục sinh
hay không. Tin cậy lớn lao là cần, rằng cái chết này là cái

97
chết của điều hời hợt và giả tạo, và khi cái giả tạo và hời
hợt đó đã chết rồi, sẽ có nảy sinh tính cá nhân thực sự của
bạn, vàng hai mươi bốn cara của bạn. Cho nên câu hỏi của
bạn là đúng với người sùng kính, Maneesha, nhưng không
đúng với đệ tử. Bây giờ đôi điều nghiêm chỉnh đây...

Fred Frump bước vào quán rượu và gọi một cốc bia
và cốc uytki. Anh ta uống bia, rồi đổ rượu uytki vào túi
trên áo khoác của mình. "Cho tôi thêm cốc bia nữa, và cốc
uytki nữa," Fred nói, chùi môi mình.
Người phục vụ quán đem ra, và cùng điều đó lại xảy
ra. Fred uống cốc bia, và đổ rượu uytki vào túi áo khoác.
Điều này diễn ra nhiều lần, và cuối cùng người phục vụ
quầy không hiểu nổi đành hỏi, "Này anh bạn, có ý tưởng
gì lớn lao vậy?"
"Không phải việc của mày," Fred nói giọng say bét
nhè. "Và đừng có chõ mũi vào như vậy - bằng không tao
cho quả đấm vào mũi đấy!"
Vừa lúc đó, một con chuột thò đầu ra khỏi túi áo
khoác của Fred và hét lên, "Và điều đó cho cả con mèo
đáng nguyền rủa của mày!"

Chester và Betty Cheese gặp trục trặc trong cuộc


sống tình dục. Betty bao giờ cũng đau đầu khi Chester
muốn làm tình. Cho nên Chester đưa cô ấy tới bác sĩ
Feelgood, nhà phân tâm để điều trị.
"Chữa đơn giản thôi," bác sĩ tâm thần nói. "Bất kì khi
nào cô cảm thấy cơn đau đầu tới, ngồi lên mép giường và

98
lặp lại mãi câu này, 'Tôi không bị đau đầu, tôi không bị
đau đầu.'"
Betty nghi ngờ về điều này, nhưng ngay chính đêm
hôm sau, cô ấy ngồi lên mép giường, và thử điều đó. Và
có tác dụng thật. Cho nên vài tuần sau đó đã có sự hài hoà
tình dục của Betty Cheese.
Nhưng kể từ đó, Chester lại có vấn đề. Anh ta không
thể làm cho máy của mình cứng lên được. Thế là Betty lại
đưa anh ta tới bác sĩ Feelgood.
Và không nghi ngờ gì, trong vài tuần tiếp không có
gì dừng Chester được - anh ta thu được sức mạnh như
trâu.
Nhưng anh ta có một thói quen mới, lại làm phiền
Betty. Mọi đêm, anh ta đòi lên giường mười phút trước cô
ấy.
Cho nên, một đêm, cô ấy lén lên cầu thang sau
Chester, và nhòm qua lỗ khoá. Chester kia, đang ngồi trên
mép giường, cứ lẩm nhẩm mãi, "Nó không phải là vợ
ta...."

Giáo hoàng Polack và Hồng y giáo chủ Rump có


cuộc tranh cãi khủng khiếp trong phòng riêng của giáo
hoàng. Tiếng ầm ĩ và la hét lớn tới mức cả nửa Vatican
phải tới ghé tai vào cửa để nghe xem cái gì đang xảy ra.
"Chết đi cho rồi!" Hồng y giáo chủ Rump nói.
"Đồ chết tiệt!" giáo hoàng Polack kêu hết cỡ.
"Hôn đít tao!" Hồng y giáo chủ quát lại.

99
"Ô!" giáo hoàng Polack nói một cách ngạc nhiên.
"Vậy bây giờ ông muốn là bạn bè!"

Nivedano...
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại, cảm thấy người bạn hoàn


toàn đông cứng. Và bây giờ nhìn vào bên trong với thôi
thúc tuyệt đối dường như khoảnh khắc này là khoảnh khắc
cuối cùng của cuộc đời bạn. Đi sâu hơn - trung tâm không
còn xa nữa - chỉ một bước nữa thôi. Đi ngày một sâu hơn
vì tại trung tâm bạn là phật. Tại trung tâm hoa sen của bạn
nở ra, lần đầu tiên bạn cảm thấy được hạnh phúc, hạnh
phúc chỉ để hiện hữu, không vì lí do nào cả.

Kinh nghiệm vĩ đại nhất của cuộc sống là kinh


nghiệm phật tính của bạn, và phật tính đơn giản nghĩa là
việc chứng kiến. Quan sát thân thể bạn, quan sát tâm trí
bạn và nhớ bạn không là cả hai. Bạn chỉ là nhân chứng
thuần khiết, tấm gương trong đó mọi thứ phản chiếu.
Mây tới rồi đi, tháng tới rồi đi. Cái vĩnh hằng là bản
tính của bạn, chỉ bạn còn lại; mọi thứ đi từ tử tới sinh, từ

100
sinh tới tử - chỉ là vòng tròn chuyển động, nhưng bên
trong vòng tròn này trung tâm tuyệt đối bất động.
Làm cho điều đó rõ ràng hơn đi, Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi. Chỉ quan sát thân thể, tâm trí và chỉ là
nhân chứng. Bạn không phải làm gì cả. Chỉ là nhân chứng.
Tấm gương không làm gì cả khi nó phản xạ bạn. Là nhân
chứng tựa tấm gương đi.
Buổi tối nay đẹp theo cách riêng của nó. Nhưng
mười nghìn chư phật đang biến vào trong việc chứng kiến
im lặng đã làm cho nó thành vàng. Cho nên nhiều hoa bắt
đầu mưa rào lên bạn, biết bao nhiêu niềm vui mà bạn chưa
từng biết tới trước đây. Sự chân thành như vậy, cái đẹp
như vậy bạn chưa bao giờ mơ tới cả. Nhưng nó là bản tính
của bạn.
Bạn thu lấy thật nhiều hoa, thật nhiều hương thơm
trước khi Nivedano gọi các bạn quay trở lại. Các bạn phải
đem theo mình phật tính từ trung tâm ra chu vi. Bạn phải
thường xuyên ghi nhớ trong hành động, lời nói, im lặng
của bạn rằng bạn là phật. Và điều này sẽ trở thành khả
năng lớn lao nhất cho việc biến đổi, từ hữu tử sang bất tử,
từ giả sang thật.
Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại. Nhưng quay lại như chư phật, với cùng
duyên dáng đó, với cùng im lặng đó, không vội vàng.

101
Ngồi vài khoảnh khắc chỉ để hồi tưởng lại không gian bạn
đã từng ở, con đường bạn đã từng qua. Đây là con đường
bạn phải di chuyển liên tục. Con đường này càng trở nên
sâu sắc, phật tính của bạn càng trở nên trong trẻo hơn. Tôi
không muốn bất kì ai là phật tử. Tôi muốn mọi người đều
là phật.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, thưa Osho.

102
5. Ngồi ở trung tâm vòng
tròn

Osho ơi,
Có lần, Nam Tuyền bảo với hai đệ tử của ông
ấy rằng ông ấy định đưa họ cùng đi thăm Quốc
Sư.
Nhưng trước khi họ bắt đầu khởi hành cuộc
hành trình, Nam Tuyền vẽ ra một vòng tròn trên
đường và nói, "Ngay khi các ông đưa ra câu trả
lời đúng, chúng ta sẽ đi."
Vào lúc đó, một trong các đệ tử ngồi vào bên
trong vòng tròn và người kia cúi mình như đàn
bà.
Nam Tuyền nói, "Xét từ đáp ứng này, sẽ không
cần đi."

Một lần khác, Nam Tuyền đang giặt quần áo thì


một sư bắt gặp ông ấy.
Thấy ông ấy đang làm việc như vậy, sư than,
"Thưa thầy, thầy vẫn không thoát khỏi 'cái này'
sao?"

103
Nam Tuyền, giơ quần áo ướt lên, bình luận
"Ông có thể làm gì về 'cái này'?"

Maneesha, trước khi tôi thảo luận về lời kinh của


bạn, tôi phải nói lời khai mạc cho những kẻ mới tới của
Avirbhava về Bảo tàng các Thần. Bảo tàng này sẽ chỉ cho
thế giới cách con người đã mất trí thế nào. Con người đã
tôn thờ con vật và giết con người. Điều đó ngu ngốc tới
mức các thế hệ tương lai đơn giản sẽ cười lớn. Họ có thể
không hiểu.
Tại Australia người da trắng đã giết gần hết người
bản xứ của Australia. Họ thường gọi điều đó là đi săn;
cũng như bạn đi săn con vật, họ thường đi săn con người.
Và đến tối họ sẽ hỏi lẫn nhau họ đã giết được bao nhiêu.
Và họ chưa bao giờ nghĩ một khoảnh khắc rằng điều họ đã
làm là tuyệt đối mất trí.
Họ đã làm cùng điều đó với con vật. Họ đã tôn thờ
con vật một đằng và họ đã giết và phá huỷ nhiều loài. Đã
có hàng nghìn loài động vật; nhiều loài thậm chí không
còn để lại dấu vết đằng sau. Con người đã săn bắt chúng,
giết chúng. Thế giới này trước đây sống động hơn, mầu
sắc hơn. Nó đã trở thành gần như chết bởi bàn tay chúng
ta; bàn tay chúng ta đầy máu.
Mới hai mươi năm trước đây chỉ có bốn con sư tử
trắng còn lại trên thế giới. Tại một thị trấn nhỏ, Rewa, ở
Ấn Độ, nơi Narendra là giáo sư - bởi vì Narendra là giáo
sư ở đó, ông ấy đã mời tôi tới nói chuyện - ở đó đã từng có
hàng nghìn con sư tử trắng, thuần trắng; sự oai nghiên
đường bệ của chúng là bao la lắm. Chỉ bốn con còn lại, và
bây giờ tôi nghe nói hai con trong số đó đã chết. Hai con

104
còn lại có thể chết vào bất kì ngày nào. Bởi vì hai con còn
lại cả hai đều là con đực, cho nên không có khả năng có
con cái gì cả. Dần dần nhiều loài đơn giản đã biến mất.
Sư tử thường được coi là con vật tượng trưng quốc
gia ở Ấn Độ, nhưng chúng ta đã giết chúng nhiều tới mức
chúng gần như hết. Nghị viện Ấn Độ phải thay đổi điều
đó; bây giờ hổ là con vật tượng trưng quốc gia. Hổ không
thể so sánh được với sư tử. Chẳng bao giờ có con vật nào
sánh được với sư tử, oai nghiêm của nó, sức mạnh của nó.
Nhưng chúng ta đã giết chúng. Chúng chẳng làm gì hại
cho chúng ta cả. Chúng sống ở vùng núi non, rừng rậm.

Avirbhava đã mang tới một con hổ và một con sư tử.


Tôi sẽ nêu cho các bạn chút ít ghi chép về từng con.

"Hổ.
"Ở Hà Nội hổ được tôn thờ như thần. Ở Sumatra hổ
là đại diện cho nơi cư ngụ của linh hồn người chết.
"Tại nhiều nước, có những điều mê tín và tin tưởng
bao quanh hổ. Ở Mirzapur, Bagheshwar, thần hổ được cho
là ở trong cây bira và tương truyền thường lấy dạng người
vào ban đêm và gọi mọi người theo tên. Phải cẩn thận với
những người trả lời lời gọi: họ bị ốm ngay. Ở Hi Lạp, xe
của Dionysius được vẽ hổ. Ở Nhật Bản, hổ biểu thị cho
lòng dũng cảm. Ở Nepal, có lễ hội hổ, được biết là Bagh
Jatra, trong đó những người tôn thờ nhảy múa ăn mặc trá
hình là hổ. Ở Ấn Độ, Durga, nữ thần mẹ huỷ diệt, cưỡi
trên hổ, và Shiva, người huỷ diệt, đôi khi cũng mặc áo da
hổ.

105
"Có niềm tin ở Ấn Độ rằng khu vườn mà hổ đã từng
bị giết mất đi sự mầu mỡ của nó. Răng, vuốt và ria hổ
được dùng làm bùa yêu, và như phương tiện chống lại sự
khống chế của các ác linh.
"Ở Trung Quốc, hổ là vua các loài vật và là chúa
vương quốc loài vật. Đôi khi nó mô tả cho quyền uy, lòng
dũng cảm, sức mạnh quân sự và sự dữ tợn cần để bảo vệ."

Nếu bạn nhìn điều này về mặt tâm lí, thì hổ và sư tử


thực sự là được tôn thờ một cách biểu tượng. Việc tôn thờ
hổ và sư tử đơn giản nói rằng bạn tôn thờ sức mạnh - cũng
như những người tôn thờ tiền. Ở Ấn Độ mỗi năm lại có
một lễ hội - đặc biệt vào Deepavali, lễ hội ánh sáng - tiền
được tôn thờ như thần… chỉ bạc giấy và đồng xu! Và
chúng ta gọi những người này là thông minh! Những
người tầm thường đó đã tôn thờ tiền... bởi vì nếu bạn tôn
thờ tiền, nữ thần của giàu sang, Laxmi, sẽ đổ tiền vào nhà
bạn. Điều đó chẳng bao giờ xảy ra cả. Tiền không mọc ra
từ cây, mà cũng chẳng rơi xuống từ mái nhà bạn. Nhưng
dầu vậy lễ hội vẫn cứ tiếp diễn.
Vào thời thơ ấu của mình tôi đã từ chối ngồi đấy khi
họ tôn thờ tiền. Tôi nói điều đó mất trí đến mức ngay cả
đứa trẻ cũng không thể xem được nó. Tiền là thứ chết, chỉ
là phương pháp trao đổi mọi thứ; nó không có chân giá trị.
Nhưng nỗi sợ là ở chỗ nếu bạn không tôn thờ, thế thì
Laxmi có thể quay lưng lại nhà bạn. Bà ấy có thể tới chỉ
để làm mưa tiền xuống còn bạn lại không tôn thờ; bà ấy có
thể quay đi.

106
Tôi hỏi bố tôi, "Bố đã bao giờ nghe nói rằng bà ấy
làm mưa tiền xuống không? Chỉ cần một trường hợp thôi
sẽ đủ để thuyết phục con."
Ông ấy nói, "Về điểm đó thì bố chẳng thể nói được
điều gì vì điều đó chưa bao giờ xảy ra cả."
Nhưng thèm khát, ham muốn tiền, nhiều tiền, thậm
chí đã làm cho tiền thành thần - một thứ chết, chẳng có
nghĩa gì. Cũng điều ấy là trường hợp đối với sư tử và hổ,
bởi vì chúng đại diện cho sức mạnh và quyền lực. Mọi
người đều khao khát quyền lực: quyền lực để chi phối
người khác, để trở thành thủ tướng, trở thành tổng thống,
trở thành vua hay nữ hoàng. Ham muốn sâu sắc trong mọi
người là chinh phục cả thế giới.
Không chỉ Alexander Đại đế ốm yếu, mọi người đều
ốm yếu. Alexander đủ ngu để đem ốm yếu của mình vào
hoạt động. Phần lớn các Alexanders giữ điều đó bên trong
mình; nhưng ham muốn chinh phục thế giới vẫn có đó.
Khi Alexander tới Ấn Độ, ông ta gặp trên đường một
người đẹp nhất mà Hi Lạp đã từng tạo ra, Diogenes.
Diogenes hỏi Alexander, "Ông sẽ làm gì nếu ông chinh
phục xong thế giới? Cứ giả thiết làm làm được điều đó đi,
chỉ để biện luận. Cho dù ông có chinh phục được cả thế
giới, ông sẽ làm gì tiếp?"
Alexander nói, "Ta chưa bao giờ nghĩ tới điều đó,
nhưng ta cứ giả sử thế, ta sẽ thảnh thơi và nghỉ ngơi."
Diogenes đang nằm nghỉ bên bờ sông, tắm nắng trần.
Ông ấy cười to và ông ấy nói, "Nếu sau khi chinh phục cả
thế giới, tàn sát hàng triệu người, ông mới thảnh thơi, thì
sao không thảnh thơi ngay bây giờ đi? Bờ sông này đủ

107
lớn. Cả hai chúng ta có thể ở đó được. Đó sẽ là việc đồng
hành tốt đấy."
Alexander ban đầu bị sốc bởi vì không ai đã từng nói
với ông ấy theo như cách Diogenes đã nói. Nhưng ông ấy
phải nhân nhượng rằng, "Ông phải đấy. Nếu sau khi chinh
phục thế giới người ta chỉ thảnh thơi và nghỉ ngơi, thì sao
không nghỉ ngơi và thảnh thơi ngay bây giờ? Ai biết liệu
mình sẽ có khả năng chinh phục được thế giới hay
không?"
Và đó là điều đã xảy ra. Ông ấy đã không thể hoàn
thành được cuộc chinh phục thế giới của mình. Ông ấy
quay về từ biên giới Ấn Độ bên bờ sông Sindhu. Ông ấy
đã đánh nhau với vị vua tên là Poras, một người cực kì
dũng cảm và chân thực, đại diện cho những ngày vàng của
nhân loại.
Alexander giở trò tinh ranh với Poras. Ông ta biết rất
rõ không dễ chinh phục con người đó. Đấy là tháng
sawan, khi những người chị em Ấn Độ buộc chỉ vào tay
người anh. Điều đó được gọi là raksha bandhan. Sợi chỉ
đó nhắc nhở người anh rằng anh ta phải bảo vệ người em
mình trong mọi hoàn cảnh; cho dù người đó phải liều thân
mình, người đó cũng sẽ làm; đó là lời hứa. Và sau khi
buộc chỉ vào tay Poras cô ấy nói, "Anh có biết em là ai
không? Em là vợ của kẻ thù của anh, Alexander, người
đang cắm trại ở bên kia sông Sindhu. Bây giờ anh nhớ và
giữ lấy sợi chỉ trên tay anh. Làm bất kì điều gì anh muốn
làm, nhưng đừng giết chồng em."
Poras hứa. Đây là một chiến lược kì lạ. Nhưng khi
đánh nhau, Poras đã có cơ hội, khi ông ta đã giết chết ngựa
của Alexander và Alexander ngã xuống đất và Poras nhảy

108
lên ông ta từ con voi của mình với cái giáo. Nhưng khi
ông ta chĩa mũi giáo vào ngực Alexander, ông ta thấy sợi
chỉ. Ông ta đơn giản dừng lại. Alexander hỏi, "Có chuyện
gì vậy?"
Ông ta nói, "Ta đã có lời hứa với vợ ông. Cô ấy đã
trở thành em gái ta. Ta không thể giết ông được."
Theo cách đó Alexander đã trở thành kẻ chinh phục.
Đây không phải là chinh phục. Đây là tinh ranh thuần tuý.
Và từ đó ông ta đã quay về. Thấy cách Poras đối xử, ông
ta đã không còn bạo dạn để đi vào sâu trong Ấn Độ, bởi vì
ông ta sẽ phải đối mặt với nhiều chiến binh vĩ đại, dũng
cảm, và có cả lục địa cần chinh phục. Cho nên ông ta quay
về, thế giới vẫn còn không bị chinh phục và ông ta chết
trùng với ngày Diogenes chết.
Bây giờ đây mới là câu chuyện hay. Nó không thể
được nói là sự kiện, nhưng nó chắc chắn đúng. Và bạn bao
giò cũng phải có phân biệt rõ giữa sự kiện và chân lí. Chân
lí không nhất thiết là sự kiện, ngay cả hư cấu cũng có thể
có chân lí.
Câu chuyện là, họ cả hai lại gặp nhau trên biên giới
của thế giới này và thiên đường. Có một con sông làm
đường biên. Phía trước là Alexander, trần trụi, bởi vì bạn
không thể đem cái gì theo cùng mình được cả, chỉ bộ
xương. Bỗng nhiên ông ta nghe thấy một tiếng cười ha hả
đằng sau mình. Ông ta ngoái lại và ông ta không thể tin
được điều đó. Ông ta nghĩ, "Lạy trời, đây là Diogenes."
Nhưng để giữ thể diện, ông ta nói với Diogenes,
"Một sự trùng hợp lớn lao là hoàng để gặp ăn xin bên sông
này, nơi biên giới của thế giới và thiên đường." Ông ta
đang nói rằng, "Ta là hoàng đế còn ông là ăn xin."

109
Diogenes nói, "Ông tuyệt đối đúng. Nhưng có sự
hiểu lầm nào đó. Ăn xin đang đi trước tôi còn hoàng đế đi
sau ông. Tôi tự do khi tôi còn ở trái đất. Tôi không có của
cải, không quyền lực, không danh vọng. Tôi đơn giản tận
hưởng cuộc sống của mình trong tự do hoàn toàn chẳng
bận tâm về điều mọi người nói. Ông quan tâm tới việc
chinh phục thế giới, cho nên ông đã có lời hứa. Ông phải
thoả hiệp đủ mọi loại, ông phải tinh ranh, ngoại giao. Ông
đã là kẻ ăn xin tại đó nữa, và ở đây bây giờ ông vẫn là ăn
xin. Tôi là hoàng đế ở đó nữa. Không ai đã từng thách
thức tính chất hoàng đế của tôi và tôi đã bảo ông - ông đã
quên chưa? - rằng cuộc chinh phục của ông có thể không
được hoàn tất và ông có thể không có thời gian để nghỉ
ngơi và thảnh thơi. Bây giờ ông phải nói gì về điều đó?"
Alexander nói, "Xin ông thứ lỗi, tôi quá bản ngã. Giá
mà tôi nghe ông và nằm nghỉ lại bên ông, thì ít nhất đã có
vài năm vui sướng, im lặng, thiền, an bình, yêu đương.
Nhưng tôi đã không nghe lời ông."
Có hàng nghìn con đường đi vào cuộc hành trình của
quyền lực, chính trị, tiền bạc, tri thức, bất kì cái gì nơi con
người bắt đầu khoe khoang về bản thân bạn như một thứ
đặc biệt.
Tâm lí đằng sau tôn thờ này với hổ và sư tử biểu
trưng cho tôn thờ quyền lực. Cho nên con người một mặt
tôn thờ chúng và mặt khác giết hại chúng. Tôi đã là khách
của ông Maharaja vùng Bhavnagar. Ông ấy đưa tôi đi
thăm quanh lâu đài của ông ấy. Và tôi đã thấy trên khắp
lâu đài có hàng trăm cái đầu sư tử treo trên tường hay cả
con sư tử nhồi đang đứng trong hành lang. Tôi nói, "Ai đã
làm điều này?"

110
Ông ấy nói, "Bố tôi là thợ săn lớn. Ông ấy đã giết
nhiều sư tử hơn bất kì ai khác ở Ấn Độ."
Tôi nói, "Ông gọi điều đó là đi săn. Và nếu một con
sư tử giết chết bố ông, ông sẽ gọi điều đó là gì? Một thảm
hoạ. Ông sẽ không gọi điều đó là đi săn. Và việc đi săn
này là gì? Từ chỗ xa, ngồi trên cây với khẩu súng máy,
một con vật đáng thương không vũ khí tự bảo vệ mình hay
để đánh nhau... giết chết nó và sung sướng trong việc giết
chết này!"
Tôi bảo ông Maharaja, "Bố ông phải đã điên rồi. Ông
có còn tiếp tục cái điên khùng này không? Những điều này
tới như đồ thừa kế. Tôi thấy trong mắt ông khi ông trưng
bầy cho tôi tất cả những thứ vô nghĩa này với niềm tự hào
lớn, cứ dường như bố ông đã làm điều gì đó tốt cho nhân
loại. Ông nên thấy xấu hổ về việc là con của người đã huỷ
diệt không cần thiết những con vật đẹp thế."

Một ghi chép về sư tử.


"Một cách phổ biến sư tử nổi tiếng là vua của loài
vật, và ở nhiều nước nó được tôn thờ như biểu tượng của
mặt trời, và biểu tượng của kẻ phá huỷ. Ở Baalbek, sư tử
được tôn thờ như thần. Bê được dâng tặng cho sư tử và
trong khi sư tử ăn ngấu nghiến con bê, thì những khán giả
ngưỡng mộ sẽ ca lên những bài hát ca ngợi sư tử. Ở vùng
Persia, Mythras, thần ánh sáng của người Persian, bao giờ
cũng đi kèm với sư tử, còn người Arabs có thần sư tử,
Yaghuth. Ở Ai cập, có nữ thần đầu sư tử, Sekhmet. Và
thần Ai cập cổ đại, Ammit, một phần là sư tử và người ta
tin là ăn linh hồn của những kẻ có tội.

111
"Ở châu Phi hiện đại có tượng thần sư tử trong
những người Balondas. Nó được làm bằng cỏ được bao
phủ bằng đất sét và được đặt trong rừng. Trong trường hợp
có bệnh tật, lời cầu nguyện được cúng dường và trống
được đánh lên trước nó.
"Ở Ấn Độ, hoá thân thứ tư của Vishnu, là người-sư
tử, tên là Narsinha - nửa người, nửa sư tử."

Điều tốt là ý thức về cách thức nhân loại đang hành


xử vô ý thức thế nào. Điều tốt là biết những điểm xấu của
hành vi con người bởi vì thế thì bạn có thể tránh nhiều
điều xấu trong cuộc sống của mình, và năng lượng của bạn
có thể di chuyển theo cách duyên dáng hơn, theo cách
đáng yêu hơn, theo cách từ bi hơn.
Avirbhava, đưa hổ và sư tử của bạn lên đây.
(Avirbhava tới trong trang phục sư tử, còn Anando trong
trang phục hổ, nhảy múa quanh bục)

Lời kinh:

Thầy kính yêu,


Có lần, Nam Tuyền bảo với hai đệ tử của ông
ấy rằng ông ấy định đưa họ cùng đi thăm Quốc
Sư.

Vào những ngày đó, đặc biệt là ở Nhật Bản, một


thiền sư nào đó được công bố là Quốc Sư về thiền. Có
nhiều thầy thế, nhưng Quốc Sư được gắn bó với cung điện

112
của vua. Và tất cả các thầy khác thường hay tới gặp Quốc
Sư. Có lẽ nhất là ông ấy già rồi và được rất kính trọng,
một người đã giúp nhiều người khác trở nên chứng ngộ.
Nam Tuyền đã chứng ngộ, với hai đệ tử của mình ông ấy
định tới thăm Quốc Sư.
Nhưng trước khi họ bắt đầu khởi hành cuộc hành
trình - đây là cách Nam Tuyền làm việc. Ông ấy là duy
nhất theo phương cách của mình. Nhưng trước khi họ bắt
đầu khởi hành cuộc hành trình, Nam Tuyền vẽ ra một
vòng tròn trên đường và nói, "Ngay khi các ông đưa ra
câu trả lời đúng, chúng ta sẽ đi." Bây giờ, vẽ một vòng
tròn trên đường, bạn có thể đưa ra câu trảlời gì?
Nhưng đệ tử này chắc chắn là người giỏi nhất có thể
có. Vào lúc đó, một trong các đệ tử ngồi vào bên trong
vòng tròn và người kia cúi mình như đàn bà. Nam Tuyền
nói, "Xét từ đáp ứng này, sẽ không cần đi." Trong thực tế
ông ấy chẳng định đi đâu cả, đây chỉ là cách thức làm việc
kì lạ của ông ấy. Nhưng câu trả lời mà các đệ tử đã xoay
xở, là cực kì hay.
Trước hết, một đệ tử ngồi vào tâm của vòng tròn. Đó
là toàn bộ nỗ lực của mọi tôn giáo, ở tại trung tâm bản thể
bạn. Tại trung tâm của bản thể mình bạn ở tại trung tâm
của toàn thể vũ trụ. Đó là điện thờ duy nhất, ngôi đền duy
nhất. Cánh cửa là ở chính trung tâm của bản thể bạn; bạn
chỉ là chu vi.
Và người kia cúi mình xuống trước người đệ tử đang
ngồi ở trung tâm. Tại Nhật Bản đàn bà hành xử theo cách
rất duyên dáng. Đàn ông không được trông đợi có nhiều
duyên dáng thế. Nhưng đàn bà được trông đợi rất duyên
dáng. Cho nên người kia cúi mình như đàn bà; với duyên

113
dáng lớn anh ta cúi mình trước đệ tử đang ngồi tại trung
tâm. Anh ta cũng biểu lộ sáng suốt rằng, chừng nào bạn
còn chưa cúi mình trước ai đó đang ở trung tâm của bản
thể mình, với khiêm tốn lớn lao, với an bình lớn lao, với
tính toàn bộ, với tình yêu, với cảm nhận, tất cả đều là
phẩm chất của đàn bà, bạn chẳng bao giờ có thể đạt tới
trung tâm riêng của bạn.
Thấy điều này Nam Tuyền nói, "Xét từ đáp ứng này,
sẽ không cần đi." Cuộc hành trình bị xoá bỏ vì cả hai con
đều hiểu đích xác chính tiến trình để người ta trở nên
mang tính tôn giáo.
Một lần khác, Nam Tuyền đang giặt quần áo thì một
sư bắt gặp ông ấy. Thấy ông ấy đang làm việc như vậy, sư
than, "Thưa thầy, thầy vẫn không thoát khỏi 'cái này'
sao?" Từ 'cái này' có ý nghĩa đặc biệt đối với lữ khách của
Phật Gautam.
Phật Gautam nhấn mạnh vào 'tính cái này' của mọi
sự. Bạn trở nên già và bạn phàn nàn, và Phật sẽ nói,
"Không cần phải phàn nàn. Đây là cách thức tự nhiên làm
việc."
Ngay cả nếu bạn sắp chết, ông ấy cũng sẽ không biểu
lộ thông cảm nào. Ngược lại ông ấy sẽ biểu lộ hiểu biết
của ông ấy. Ông ấy sẽ bảo bạn, "Đừng lo nhé. Chết cho an
bình; mọi thứ được sinh ra một ngày nào đó sẽ chết đi.
Đón nhận chết với cảm nhận duyên dáng, không ác cảm
và không phàn nàn. Sống phải không ác cảm nào và không
phàn nàn gì; chết cũng phải như vậy. Từ mà ông ấy dùng
là tathata. Nó có thể được dịch sang tiếng Anh thành như
thế này hay tính như thế. Như thế là cách sống, hay cái
này là cách sống; chẳng có gì để phàn nàn cả; bạn không

114
thể đi ngược lại dòng chảy, nổi cùng nó đi. Đây là con
đường đúng: như thế là con đường của những người biết.
Mặc dầu Nam Tuyền đang giặt quần áo của mình khi
sư này bắt gặp, thấy ông ấy làm hoạt động bình thường
như vậy - một thầy vĩ đại với hàng nghìn đệ tử mà lại đi
giặt quần áo sao? - sư than, "Thưa thầy, thầy vẫn không
thoát khỏi 'cái này' sao?" Nam Tuyền bao giờ cũng sẵn
sàng dùng bất kì tình huống nào để đưa sáng suốt lớn lao
vào trong mọi việc. Sư này đang trỏ vào việc giặt giũ bằng
cách nói, "Đây là lúc thầy nên thoát khỏi mọi việc vặt
vãnh này, bất kì ai khác cũng có thể làm điều đó." Nhưng
Nam Tuyền đã biến đổi từ 'cái này' ngay lập tức.
Nam Tuyền, giơ quần áo ướt lên, bình luận "Ông có
thể làm gì về 'cái này'?" Toàn bộ tình tiết về việc giặt giũ
quần áo thay đổi ngay màu sắc của nó, ngay ý nghĩa của
nó. Nó trở thành vấn đề về tính cái này. Bạn không thể
làm gì về cái này. 'Cái này' nghĩa là khoảnh khắc hiện tại.
Bạn có thể nghĩ về quá khứ, rằng nó có thể đã là cái gì đó
khác; bạn có thể nghĩ về tương lai, nó phải như thế nào;
nhưng bạn có thể làm gì về khoảnh khắc hiện tại? Bạn có
thể làm gì về cái này? Trong khoảnh khắc hiện tại người ta
chỉ có thể làm một thứ, chỉ một thứ: người ta có thể đơn
giản im lặng và chứng kiến. Nhiều hơn điều đó... không đủ
chỗ trong khoảnh khắc hiện tại.
Nhưng nhân chứng hoàn toàn khớp. Bạn có thể quan
sát. Thầy đang nói, "Ta đang giặt quần áo và quan sát. Còn
cái gì nữa có thể được làm với cái này?" Thứ nữa ông ấy
cũng đang chỉ ra.... Và đây là một trong những điều mới
mà ông ấy đã đưa vào - tôi đã gọi nó là điểm khởi hành vĩ
đại - ông ấy đã làm cho các thiền sư phải làm việc. "Nếu
các ông không làm việc ngày này, thì ngày khác các ông

115
đừng ăn. Làm việc hôm nay, chỉ thế thì các ông mới được
phép ăn ngày mai."
Đó đã là điều rất mới và xã hội đã rất giận với Nam
Tuyền bởi vì các sư bao giờ cũng được xã hội cho thức ăn,
quần áo và những thứ tiện nghi khác. Nam Tuyền đã bảo
các sư rằng các ông không được là kẻ ăn xin. Ông ấy có
tính cách rất cách mạng. Các sư phật giáo mang bình bát
khất thực; Nam Tuyền buộc các sư của mình vứt mọi bình
bát khất thực đi. Trong đạo tràng của ông ấy không có
bình bát khất thực, bởi vì trong đạo tràng của ông ấy chỉ
có các hoàng đế, không có ăn xin!
"Chúng ta sẽ làm việc từ nó ra, nhu cầu của chúng ta
rất đơn giản: một hay hai chén trà, chỉ gạo làm thức ăn, và
chúng ta có đủ đất quanh đạo tràng; chỉ ba hay bốn giờ
làm việc và biến công việc thành thiền. Trong khi làm
việc, làm việc toàn bộ tới mức các ông quên cả thế giới, để
cho chỉ mỗi công việc còn lại, thậm chí không có cả các
ông; các ông cũng mất rồi, bị quên mất rồi. Cho nên sâu
bên dưới các ông tham gia vào công việc tới mức công
việc trở thành việc thiền lớn, biến đổi lớn."
Vậy là ông ấy đã đưa vào một điều mới. Phật đã đưa
vào thiền ngồi và thiền đi, bởi vì bạn không thể ngồi cả
ngày và thiền; xương bạn sẽ bắt đầu đau. Cho nên ông ấy
đã cho thiền một giờ ngồi và một giờ đi, để có thể duy trì
được cân bằng và lành mạnh của thiền nhân.
Nam Tuyền nói, "Vài giờ thiền ngồi và vài giờ thiền
làm." Ông ấy vứt bỏ thiền đi. Khi bạn có thể làm việc thì
cần gì bước đi? Làm việc sẽ là đủ luyện tập cho bạn, nó
cũng sẽ có hiệu suất và nó sẽ làm thay đổi khuôn mặt các

116
sannyasin. Anh ta không nên là kẻ ăn bám vào xã hội; anh
nên trở thành độc lập.
Ông ấy đã thấy rằng xa xăm trong tương lai vấn đề
này sẽ thành lớn. Chỉ mới vài năm trước ở Thái lan chính
phủ đã phải làm luật rằng không ai được trở thành sư mà
không được phép của chính phủ. Số sư đã tăng lên theo
qui mô lớn đến mức cứ bốn người thì một người là sư.
Bây giờ ba người kia phải mang toàn bộ gánh nặng cho
một người, và bản thân ba người này cũng bên lề chết đói.
Thái lan là nước nghèo, thế mà người này chẳng làm gì,
chẳng đóng góp gì cho xã hội và lại đòi hỏi mọi thứ, đòi
cả kính trọng, tôn kính.
Nam Tuyền phải rất rõ ràng rằng với cách sư tăng lên
ở Viễn Đông, chẳng mấy chốc họ sẽ tràn ngập xã hội
thông thường. Sẽ không thể nào nuôi họ được; họ sẽ làm
mất mọi kính trọng và trở thành gần như ăn xin. Việc nhìn
xa thấy trước của ông ấy là tuyệt đối đúng. Đó là tình
huống trong nhiều nước phật giáo.
Cho nên sự việc nhỏ này không chỉ làm lộ ra ý tưởng
về tính cái này. Nó cũng còn chỉ ra rằng, "Ta phải làm việc
chứ. Ta chứng ngộ chẳng thành vấn đề, ta phải giặt quần
áo của mình và ta phải làm việc trên cánh đồng vì thức ăn
của mình."
Khi ông ấy trở nên rất già, ông ấy vẫn khăng khăng
làm việc. Và ông ấy già và mảnh mai thế, các đệ tử trở nên
rất bận tâm. Vào lúc nào đó họ đánh cắp hết công cụ làm
việc của ông ấy. Nam Tuyền tìm công cụ của mình những
chẳng thể tìm được. Ông ấy không ăn hôm đó; các đệ tử
đáng thương phải trả lại cho ông ấy công cụ. Ông ấy làm
việc đến tận khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời mình.

117
Ông ấy đã nêu ra giá trị của công việc, ông ấy đã nêu ra sự
kính trọng về sannyasin. Ông ấy đã đem tới nhiều ý tưởng
mới chống lại, đối lập lại với toàn bộ truyền thống.
Cuối cùng ông ấy là người chiến thắng bởi vì ông ấy
đã thấy trước tương lai. Con người của chứng ngộ có cảm
nhận, sáng tỏ để có thể nhìn xa vào tương lai. Và nếu bạn
muốn chuẩn bị cho tương lai, bạn phải bắt đầu từ bây giờ.
Tôi nhớ tới một nhà huyền môn Sufi người hay làm
việc trong vườn và ông ấy đã trở nên rất già, gần cổ đại,
một trăm hai mươi tuổi; nhưng ông ấy vẫn quen làm việc
trong vườn. Nhà vua thường tới hàng ngày khắp thành phố
đi vi hành để xem liệu mọi sự có ổn thoả không. Ông ấy
rất quan tâm khi thấy ông già này, người già nhất vương
quốc mình, vẫn làm việc trên đồng, trong vườn.
Ông ấy không thể cưỡng lại được sự cám dỗ. Ông
già này có khu vườn thực đẹp với những cây tuyết tùng
lớn, dễ đến bốn trăm tuổi và ông ấy còn lập kế hoạch trồng
cây tuyết tùng mới, chỉ là cây con. Nhà vua không thể
cưỡng lại được cám dỗ; ông ta xuống ngựa, đi tới ông già
và hỏi ông ấy, "Ông bao nhiêu tuổi rồi?"
Người này nói, "Tuổi á? Mọi người nói rằng tôi phải
quãng một trăm hai mươi tuổi. Nhưng tôi chưa bao giờ
đếm cả. Có thế nhiều hơn chút ít, có thể ít hơn chút ít.
Nhưng sao ông lại hỏi?"
Nhà vua nói, "Ta hỏi điều này bởi vì ông là người
trồng cây. Ông sẽ không có khả năng thấy những cây này
lớn lên. Ông đang trồng cây ăn quả sẽ có quả sau bốn
mươi hay năm mươi năm nữa. Ông sẽ không còn ở đây.
Và ông làm việc cả ngày. Ta không thể hiểu được logic
của ông."

118
Ông già nói, "Ông sẽ hiểu. Nếu bố mẹ tôi mà không
trồng cây, những cây mà họ sẽ không thấy việc nở hoa
hoàn toàn của chúng, thì tôi đã không thấy được chúng.
Tôi sẽ không hưởng quả của những cây đó. Tôi sẽ không
thấy những cây tuyết tùng bốn trăm năm tuổi này gần như
vươn tới các vì sao, vẻ đẹp và sức mạnh của chúng. Nếu
ông cha tôi từ bốn trăm năm trước đây mà không trồng
chúng, tôi đã không có khả năng tận hưởng bóng mát của
chúng, vẻ đẹp của chúng, vĩ đại của chúng. Tôi có phải trả
lời thêm hay ông đã hiểu?"
Nhà vua nói một cách khiên tốn, "Ta hiểu rồi. Nếu
ông thấy tương lai một cách rõ ràng, thế thì đây là khoảnh
khắc để bắt đầu, bây giờ hay không bao giờ."
Một bài thơ của Sekiso:

Trong những thôn làng núi non này


và những thị trấn hải cảng
tôi sung sướng đã tìm ra
người đồng hành tốt,
đám đông ngư dân
vào và ra lều tôi mọi lúc.
Vì tôi chưa bao giờ đưa ra cái gì nhỏ nhất
theo kiểu con mồi
tôi đã đảm đương được không lừa dối
cá đang bơi tới
bất chấp cả hiểm nguy mạng chúng.

Người ta nói về Sekiso là ông ấy sống trong một túp


lều ở một làng chài lưới. Ông ấy có chiếc lều ngay bên
cạnh hồ, và bất kì khi nào ông ấy tới hồ, hàng trăm con cá

119
bơi tới đón mừng ông ấy. Cũng hệt như người ta nói về
thánh Francis ở Assisi, cũng có điều như vậy với Sekiso.
Và trong bài thơ này ông ấy đang nói, Vì tôi chưa
bao giờ đưa ra cái gì nhỏ nhất theo kiểu con mồi tôi đã
đảm đương được không lừa dối cá đang bơi tới bất chấp
cả hiểm nguy mạng chúng. Cá hay bơi tới ông ấy cũng là
đang tiến tới mối nguy hiểm cho mạng chúng. Nhưng điều
đó xảy ra nếu trái tim bạn tràn đầy tình yêu. Nếu toàn thể
bản thể bạn không bạo hành thì bạn thậm chí không thể
hình dung ra được việc giết hại vật sống, ngay cả cây cối
cũng hiểu điều đó, ngay cả chim chóc cũng hiểu điều đó,
con vật cũng hiểu điều đó.
Và theo nghĩa sâu sắc hơn, nếu bạn làm cho điều đó
thành cách diễn đạt biểu dụ, thì mọi thầy đều được hàng
nghìn đệ tử tới gần bất chấp nguy hiểm tới mạng họ. Điều
đó là có thể chỉ nếu thầy toả ra sự tin cậy, nếu thầy toả ra
tình yêu, nếu bạn có thể thấy trong mắt thầy không cái gì
khác ngoài nhân chứng thuần khiết, tấm gương. Bằng
không bạn không thể tới quá gần thầy được; bạn sẽ giữ
khoảng cách, bởi vì, ai mà biết được, ông ấy có thể lừa
bạn, ông ấy có thể dối bạn.
Nhưng với thầy đích thực thì đấy không phải là vấn
đề phân biệt tinh thần. Nó chỉ là việc đột nhiên khi bạn tới
gần thầy đích thực, cái gì đó trong tim bạn bắt đầu nhảy
múa. Không ai sẽ thấy điều đó; duy nhất bạn sẽ thấy rằng
trái tim bạn đã đi vào trong một loại năng lượng khác,
rằng trái tim bạn đã đi vào trong một bầu khí hậu khác,
hương thơm mới hấp dẫn bạn như nan châm.
Đúng là bạn càng tới gần thầy hơn, thì cái gọi là
nhân cách riêng của bạn sẽ ngày càng biến mất dần đi. Chỉ

120
cái đích thực, và tự nhiên, cái bạn đã mang từ lúc sinh
thành của mình, mới còn lại, không phải là cái đã được xã
hội trao cho bạn.
Đúng là thầy là cái chết và phục sinh. Đi ngang qua
thầy, bạn đang đi ngang qua ngọn lửa; chỉ vàng ròng mới
được giữ lại. Tất cả mọi cái giả tạo trong bạn sẽ bị thiêu
cháy. Cho nên chỉ những người rất dũng cảm mới chọn
bước tới gần thầy.

Maneesha đã hỏi một câu hỏi:

Osho ơi,
Có thể quan niệm được rằng thầy đích thực có thể
phản bội đệ tử mình không?

Maneesha, điều đó có thể quan niệm được đấy. Nếu


thầy đích thực cảm thấy rằng bằng việc phản bội đệ tử mà
ông ấy sẽ giúp được cho họ, thầy sẽ phản bội. Thầy thực
có thể làm bất kì điều gì để giúp đệ tử. Có chút ít khó khăn
để quan niệm về điều đó - và trong khi Maneesha đang
viết ra câu hỏi này, cô ấy có thể đã không nghĩ rằng đây sẽ
là câu trả lời của tôi - nhưng thầy đích thực có thể làm bất
kì điều gì. Thầy có thể phản bội nếu thầy cảm thấy rằng
việc phản bội sẽ giúp cho sự trưởng thành tâm linh của
bạn. Bằng không thì không có vấn đề về phản bội.

121
Ngay chỗ đầu tiên thầy chẳng cam kết gì với bạn cả.
Trước khi có phản bội thì phải có cam kết. Thầy đích thực
không bao giờ tự mình cam kết với bạn và không bao giờ
buộc bạn cam kết, bởi vì mọi cam kết đều là nô lệ tâm
linh. Cả đệ tử không bị buộc vào cam kết mà thầy cũng
không bị buộc vào; họ tới gần như những bạn đồng hành
trên cùng con đường. Có lẽ thầy đi trước hơn một chút,
nhưng điều đó không có nghĩa là bạn thấp hơn còn thầy
cao hơn.
Bất kì ai nghĩ dưới dạng cao siêu và thấp kém đều
không phải là thầy chút nào. Người đó chỉ chơi cùng trò
chơi bản ngã vẫn đang được chơi ở mọi chỗ trên khắp thế
giới theo những cách thức khác nhau. Thầy đích thực
đứng ngoài trò chơi của bản ngã. Cho nên không có vấn đề
buông xuôi theo ông ấy, không có vấn đề cam kết với ông
ấy.
Bạn đang hỏi, "Thầy đích thực có thể phản bội đệ tử
không?" và tôi thậm chí đang nói rằng đệ tử không thể
phản bội được thầy đích thực bởi vì không có cam kết.
Chúng ta đi cùng nhau trên con đường.
Tại điểm nào đó bạn cảm thấy cần đi theo hướng
khác. Thầy đích thực sẽ đơn giản ban phúc lành cho bạn
và sẽ cho bạn đảm bảo rằng nếu bạn thấy bất kì khó khăn
nào, "Ta bao giờ cũng sẵn có đây. Ông có thể thám hiểm
theo mọi hướng, toàn bộ vũ trụ này là của chúng ta. Và có
hàng nghìn cách để đạt tới chân lí. Cho nên nếu một ham
muốn đã nảy sinh trong ông để đi theo hướng nào đó, thì
ông có thể rời bỏ ta. Đừng nghĩ cho dù một khoảnh khắc
rằng ông đang phản bội ta. Đừng cảm thấy mặc cảm bởi vì
đã không có cam kết gì ngay chỗ đầu tiên."

122
Và khi có liên quan tới thầy, thì hiển nhiên, sao thầy
phải cam kết với đệ tử? Vì lí do gì? Thầy có điều đó rồi.
Đệ tử đang tìm kiếm, thầy đã có nó rồi.

Điều đó làm tôi nhớ tới một câu chuyện rất hay trong
cuộc đời của Phật Gautam.
Một đệ tử nào đó của Phật Gautam, tên là
Manjushree4, bao giờ cũng ngồi dưới một gốc cây. Phật có
thể sắp nói nhưng ông ấy sẽ không đi từ cây đó tới phòng
hội. Và mọi người cứ hỏi ông ấy mãi, "Manjushree, ông là
con người của thông minh. Nếu ông đã từ bỏ thế giới để
sống cùng Phật Gautam, thì cam kết của ông là với Phật
Gautam hay với cái cây này? Thầy đang nói còn ông lại
ngồi ở đây." Thường thì ông ấy chỉ cười và sẽ chẳng nói
gì. Cuối cùng ông ấy nói, "Sao các ông không hỏi đích
thân Phật Gautam ấy? Ta biết, thầy biết."
Những người hỏi chẳng thể thấy điều bí ẩn về việc
đó. Họ hỏi Phật Gautam, "Sao Manjushree cứ ngồi dưới
gốc cây đó thế? Thầy đi, thầy tới các chỗ khác, mà ông ấy
cứ ở đó."
Phật nói, "Ông ấy đã tìm thấy rồi. Bây giờ không có
vấn đề đi đâu cả. Mọi thứ đã trở thành tĩnh lặng trong ông
ấy và điều hoàn toàn đẹp. Các ông chỉ thấy ông ấy từ bên
ngoài ngồi dưới gốc cây. Các ông chưa thầy hàng nghìn
hoa đang rơi xuống từ cây phủ khắp người Manjushree,
cùng vui về chứng ngộ của ông ấy.
"Và các ông chưa bao giờ tự hỏi tại sao Phật không
hỏi ông ấy. Các ông nên nghĩ về điều đó. tỉnh táo hơn chút

4
Văn Thù

123
ít. Ta cũng nhận biết rằng ông ấy đang ngồi dưới gốc cây,
rằng ông ấy không tới hội chúng. Không có nhu cầu; ông
ấy đã tìm thấy nó. Bây giờ ông ấy tự do; ông ấy có thể
ngồi dưới gốc cây hay ông ấy có thể đi bất kì đâu. Không
có cam kết."
Thầy đích thực không có cam kết bất kì loại gì cả từ
phía đệ tử cũng như từ phía thầy. Đó là chín mươi chín
chấm chín phần trăm của câu trả lời; chấm một phần trăm,
tôi nói một thầy đích thực trong tình huống nào đó có thể
phản bội đệ tử mình nếu ông ấy cảm thấy, nếu ông ấy thấy
rằng sự phản bội của mình có thể giúp cho sự trưởng
thành, có thể làm cho đệ tử tự do hơn, độc lập hơn. Khả
năng có đó; điều đó không phải là không quan niệm nổi.
Nhưng nó bao giờ cũng là vì ích lợi của đệ tử.
Bây giờ điều gì đó nghiêm chỉnh để tôn vinh sư tử và
hổ...

Ông già Gronk, người gù, sắp sửa về hưu. Ông ấy


làm việc rung chiếc chuông khổng lồ ở nhà thờ Tam thể
trong bốn mươi năm nay, và ông ấy đã quá già không thể
trèo lên các bậc tháp chuông được.
Ông ấy đăng quảng cáo tìm người thay thế trên báo
chí, và ngày hôm sau một người gù khác xuất hiện.
"Tôi đã tới rồi," anh gù trẻ nói, "để nhận công việc
này."
Cả hai người gù cùng trèo lên tháp chuông.
"Đó là công việc khó khăn," ông già Gronk thở hổn
hển, phì phò. "Nhìn đây!"

124
Rồi ông già chạy ngược lại, quay mình, và chạy về
phía cái dây chuông. Ông ấy nhảy lên không trung chừng
quá nửa mét, tóm lấy chiếc dây thừng, và đung đưa điên
cuồng trên nó, rung chiếc chuông khổng lồ, vang như sấm
- Boong! Boong! Boong!
Anh gù trẻ nhìn điều đó và hăm hở thử. Anh ta quay
lại, chạy nước rút tới chiếc dây chuông, nhảy lên không
trung quá nửa mét, tóm hụt chiếc dây, và đập mạnh mặt
mình và mặt chuông, tạo ra một âm thanh nhỏ 'Boong'.
"Khoan đã! Khoan đã!" chàng gù trẻ nói, tự phủi bụi
người mình. "Để tôi thử lần nữa xem sao."
Anh ta chạy, nhảy lên không trung quãng nửa mét,
tóm hụt sợi dây chuông, và lại đập mạnh mặt mình vào
chuông - Boong!
"Khoan đã! Thử lần nữa này!" anh chàng gù mặt mày
nhăn nhó lắp bắp.
Anh ta chạy tít tận vào góc tháp chuông, và mở tốc
độ hết mức, nhào tới chiếc dây chuông. Anh ta nhảy lên
gần một mét trong không trung, lại tuột mất chiếc dây,
tuột luôn chiếc chuông, và lao ra ngoài cửa sổ, quãng sáu
mươi mét cao trên phố phía dưới.
Ông già Gronk nhìn xuống đám đông nhỏ đang vây
lấy chỗ bẩn tí hon trên đất.
"Này, ông trên kia!" viên cảnh sát quát lên. "Có ai
biết anh chàng này không?"
"Không, tôi không biết anh ta là ai cả!" Gronk quát
lại, "nhưng mặt anh ta rung chuông đấy!"

125
"Làm sao em có thể nói rằng anh đãng trí được?"
Ronald Reagan nháy mắt với Nancy Reagan qua bàn ăn,
trong khi ông ta làm dính bơ vào chiếc cà vạt, và nhìn vào
miếng bánh của mình.
"Thế này, Ronnie," Nancy truy lại, "anh có thể giải
thích cho em tại sao anh lại quên mặc quần lót hôm qua,
trước khi anh tới gặp ông Gorbachev?"
"Gặp ông nào? Anh có gặp à?" Reagan hỏi, vừa gãi
đầu. "Kì lạ thật! Anh không nhớ đã làm việc đó chút nào.
"Thực tế, chỉ có ba điều anh không thể nhớ được.
Anh không thể nhớ được tên, anh không thể nhớ được
mặt... và anh không thể nhớ được điều thứ ba là gì!"

Bà Wimple, hiệu trưởng đại học Bedding Down,


trường con gái, đang đọc bài diễn văn nhân khai giảng
năm học mới.
"Các em nhớ," bà Wimple nói, một cách kiên quyết,
"giữ thân thể và tinh thần lành mạnh và sạch sẽ. Các em
có trách nhiệm mới khi các em vào thời phụ nữ. Tình yêu
là cơ sở để trên đó gia đình được xây dựng nên, cho nên
đừng tự buông thả mình phóng đãng và bừa bãi dục. Từ đó
chỉ có nguy hiểm tới, mà nó cũng chỉ là thú vui nhất thời.
Trong khi các em làm mất đi sự duyên dáng và kính trọng,
các em có thể lại bị bệnh và mang thai… và tất cả những
cái đó để làm gì cơ chứ? Cái giá của một giờ vui thú!"
Bỗng nhiên, một tiếng nói từ hàng cuối cất lên, "Cô
làm thế nào để kéo dài điều đó được một giờ?"

126
Nivedano...
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại và cảm thấy thân thể bạn trở
nên đông cứng hoàn toàn. Bây giờ nhìn vào bên trong với
sự khẩn thiết sâu sắc, dường như đây là khoảnh khắc cuối
cùng của cuộc đời bạn. Sự khẩn thiết này là tuyệt đối cần
thiết bởi vì chỉ thế thì bạn mới có thể đạt tới trung tâm của
bản thể mình.
Đi ngày một sâu như chiếc giáo vào trung tâm bản
thể bạn. Đó là cội nguồn của cuộc sống. Tại trung tâm bản
thể bạn, mọi người đều là phật. Và khoảnh khắc bạn đạt
tới trung tâm và bạn cảm thấy phật tính tràn đầy tâm thức
bạn một cách hoàn toàn, niềm vui vô biên nảy sinh. Hàng
nghìn đoá hoa bắt đầu mưa rào lên bạn. Thanh thản, im
lặng, phúc lạc, cực lạc sâu sắc… chỉ quan sát mọi thứ. Bạn
đang đi vào trong chính bí ẩn của cuộc sống.
Để làm cho điều đó rõ ràng hơn,
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi đi. Bạn không là thân thể, bạn không là


tâm trí, bạn chỉ là nhân chứng. Nhân chứng này là điểm

127
khởi hành. Từ nhân chứng này bạn có thể đi vào trong vũ
trụ, và cái vĩnh hằng. Đây là cánh cửa mở tới tất cả những
điều vĩ đại - chân lí, cái thiện - satyam, shivam,
sunderam.
Thu lấy thật nhiều hoa, thật nhiều hương thơm, thật
nhiều vàng nhất có thể được, bởi vì bạn phải đem phật đi
cùng mình. Dần dần, bạn phải hành động suốt hai mươi tư
tiếng như phật; không phải như, mà đích thực là phật, nhớ
tới duyên dáng, tình yêu, từ bi, nhớ tới cân bằng của mọi
thứ và bao giờ cũng vẫn còn ở giữa, chỗ giữa vàng. Việc
chứng kiến làm cho mọi điều này thành có thể.
Buổi tối nay đẹp theo cách riêng của nó, nhưng hiện
diện của bạn, im lặng của bạn, chứng kiến của bạn, tan
chảy của bạn vào lẫn nhau... Thính phòng Phật này không
còn đầy mười nghìn người nữa. Nó đã trở thành cái hồ tâm
thức.
Làm mất đi các biên giới là niềm vui lớn lao nhất;
tan chảy vào trong vũ trụ là sự huy hoàng vĩ đại nhất.
Trước khi tôi gọi các bạn quay lại, nhìn cho rõ vào
không gian này nơi bạn đang hiện hữu, bởi vì bạn phải tới
thăm nơi này nhiều lần.
Nhìn cho rõ vào con đường bạn đã đi theo để đạt tới
trung tâm của mình từ chu vi. Cùng con đường này, bạn sẽ
đi lại lần nữa. Nó là con đường nhỏ, chỉ một bước thôi.
Nhưng phép màu kì diệu làm sao trong một bước này!
Người thường trở thành phi thường, người không ai cả trở
thành phật.
Nivedano...
(tiếng trống)

128
Quay lại, nhưng quay lại như chư phật không sợ hãi
và không hoài nghi gì. Phật là cái ta tinh tuý của bạn. Ngồi
im lặng trong vài khoảnh khắc chỉ để hồi tưởng lại kinh
nghiệm bạn đã trải qua. Và sống nó trong các điệu bộ của
bạn, trong các hoạt động của bạn, trong lời của bạn, trong
im lặng của bạn.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, thưa Osho.

129
130
6. Mọi nghiêm chỉnh đều
tựa lâu đài cát

Osho ơi,
Có một lần, Nam Tuyền nói với Triệu Châu,
"Thời nay, tốt nhất là sống và làm việc giữa các
thành viên các loài khác với chúng ta."
Triệu Châu đáp, "Bỏ sang bên vấn để về 'khác'
để ta hỏi ông, ông ngụ ý gì bởi 'loài'?"
Nam Tuyền đặt hai tay lên đất. Triệu Châu
bước tới Nam Tuyền từ phía sau, dẫm ông ấy
xuống đất, và rồi chạy vào phòng niết bàn, kêu
lên, "Ta ăn năn quá! Ta ăn năn quá!"
Nam Tuyền phái người phục vụ tới hỏi Triệu
Châu anh ta ăn năn về cái gì.
Triệu Châu đáp, "Ta ăn năn rằng ta đã không
giẫm lên ông ấy hai lần."

Maneesha, một mình Thiền có cách tiếp cận tôn giáo


tới vui đùa, tới tiếng cười. Ngay cả những thầy vĩ đại cũng
đùa với nhau, bằng lời của mình, bằng hành động và cử
chỉ của mình. Nhưng tất cả những trò đùa này bao giờ

131
cũng mang tính chỉ báo tới cái vĩnh hằng và cái tối
thượng. Đằng sau tiếng cười của họ bạn sẽ thấy chân thực
lớn, an bình vô biên. Tiếng cười của họ không phải là
cuồng loạn.
Và bạn phải hiểu khác biệt giữa hai tiếng cười này.
Tiếng cười cuồng loạn là khi bạn không thể dừng nó lại
được, khi nó đã nắm quyền sở hữu bạn; còn tiếng cười
không cuồng loạn là... nó là ý muốn của bạn, nó đi cùng
với sự đồng ý của bạn. Khoảnh khắc tiếng trống của
Nivedano cho bạn một tín hiệu rằng đó là lúc dừng lại, bạn
dừng nó lại. Người cuồng loạn sẽ không có khả năng dừng
lại; nó ở bên ngoài khả năng của người đó. Tiếng cười
lành mạnh bao giờ cũng trong tay bạn.
Điểm thứ hai, các thiền sư bằng việc đùa lẫn nhau
chỉ ra điều gì đó không thể được nói ra. Các đệ tử của họ
trong hàng thế kỉ vẫn thảo luận về những giai thoại nhỏ
này nhưng cực kì hay và cao thượng. Chúng không phải là
chuyện cười. Phương Tây, khi lần đầu tiên tới tiếp xúc với
Thiền qua các nhà truyền giáo Ki tô giáo, cứ tưởng rằng
đây là loại chuyện cười nào đó. Họ không thể quan niệm
nổi rằng những giai thoại nhỏ này có thể mang kinh sách.
Đây là một giai thoại giữa Nam Tuyền và Triệu
Châu , cả hai đều được thừa nhận là phật với hàng nghìn
5

đệ tử. Và điều đó không phải là biến cố phi thường, nó là


chuyện hàng ngày. Các đạo tràng của họ đều ở trên núi, rất
gần nhau và các thầy sẽ tới gặp nhau.
Chính tính vui đùa của họ hoàn toàn chỉ ra một điều,
rằng sự tồn tại phải không được coi là nghiêm chỉnh.
Những người coi nó là nghiêm chỉnh thì là ốm yếu về tâm
5
Joshu- Triệu Châu Tòng Thẩm

132
lí. Sự tồn tại phải được coi như vui đùa, với niềm vui. Chỉ
những người coi nó như niềm vui và vui đùa thì sự tồn tại
mới mở những bí ẩn của nó ra.
Trong giai thoại này: Có một lần, Nam Tuyền nói với
Triệu Châu, "Thời nay, tốt nhất là sống và làm việc giữa
các thành viên các loài khác với chúng ta," ông ấy đang
nói rằng con người đã trở nên quá nghiêm chỉnh, đã đánh
mất vui đùa của mình, đã trở thành hiểu biết tới mức
người đó đã làm mất hồn nhiên của mình. Do đó tốt hơn
cả là trộn lẫn với các loài khác: chim và cá, các động vật
và cây cối, làm toàn thể vũ trụ là cộng đồng của bạn,
không chỉ con người vốn đã đi quá lạc lối.
Hoa hồng đích xác là như nhau như nó bao giờ cũng
vậy; thay đổi thời gian không ảnh hưởng tới nó. Nam
Tuyền đang nói rằng bây giờ là lúc các đệ tử thiền nên
dành ngày càng nhiều thời gian của mình cho tiếp xúc với
con vật, chim chóc, cây cối.
Đó là một phát biểu rất có ý nghĩa. Ông ấy đang nói
rằng có lẽ bạn có thể học được bí mật của sự tồn tại qua
các loài khác loài người, chúng vẫn trong hài hoà với sự
tồn tại, chúng vẫn là một phần của sự tồn tại, chúng chưa
bao giờ tách biệt.
Con người trong nỗ lực bản ngã của mình đã tách rời
khỏi sự tồn tại. Ngay cả một người như Bertrand Russell
đã viết ra một cuốn sách tên là, The Conquest Of Nature -
Chinh phục tự nhiên. Chính ý tưởng chinh phục tự nhiên
làm tách bạn ra, làm cho tự nhiên và bạn thành kẻ thù. Và
một điều là chắc chắn, rằng tự nhiên bao la thế...
Thứ hai, bạn là một phần của tự nhiên; nếu tự nhiên
chấm dứt hợp tác với bạn, bạn đơn giản sẽ chết. Tự nhiên

133
đang đáp ứng cho bạn vào mọi khoảnh khắc: thở, thức ăn,
mọi thứ bạn cần. Làm sao bạn có thể nghĩ dưới dạng chinh
phục được? Nhưng không ai đã phản đối lại cuốn sách của
Bertrand Russell, bởi vì nó là đại diện của toàn bộ tâm trí
hiện đại: chinh phục. Chinh phục mặt trăng, chinh phục
sao Hoả, chinh phục cái này, chinh phục cái nọ.
Nhưng chẳng ai nghĩ rằng chúng ta là một phần của
tự nhiên: sao không thảnh thơi cùng nó, sao không thoải
mái với nó, cần gì tạo ra xung đột? Mọi xung đột đều sẽ
làm bạn thất bại bởi vì bạn quá nhỏ bé còn tự nhiên bao la
thế. Bạn định sống bao nhiêu năm - bẩy mươi năm, tám
mươi năm? Và bạn nghĩ tới việc chinh phục sự tồn tại đã
từng có ở đây từ vĩnh hằng và sẽ ở đây đến vĩnh hằng sao?
Hàng triệu người như bạn đã tới và đi qua, thậm chí chẳng
vết chân để lại, thậm chí chẳng còn cái bóng của họ.

Một lần tôi hỏi bố tôi, "Con không biết tên của bố
của bố và tên của ông của bố, bố biết được thêm bao
nhiêu?"
Bố tôi nói, "Chỉ thêm mỗi một người, ngoài người đó
chúng ta không biết ai là người có dòng máu đang chạy
trong huyết quản của chúng ta."
Nhiều nhất chúng ta nhớ được bốn hay năm thế hệ,
và thế rồi có im lặng bao la. Tất cả những người đã ở đây
với biết bao nhiêu bận tâm và lo âu và rắc rối và tranh đấu
đơn giản đã biến mất cứ dường như là họ chưa bao giờ
hiện hữu cả.

134
Thiền không coi cuộc sống của bạn là rất nghiêm
trang, nó coi cuộc sống là vui đùa dường như chúng ta là
trẻ con nô đùa bên bãi biển, nhặt vỏ sò, đá cuội mầu sắc,
làm nhà bằng cát. Cuộc sống của chúng ta cũng chẳng
nhiều nhặn gì hơn thế, chẳng có gì để mà nghiêm trang về
nó cả.

Tôi nhớ tới một trường hợp: Phật Gautam vào một
làng. Ngay tại bìa làng có một con sông, và trên bãi cát vài
đứa trẻ đang nô đùa, làm lâu đài cát, và chúng rất nghiêm
chỉnh. Nếu ai đó - có nhiều trẻ con - nếu ai đó mà phá rối
lâu dài của ai đó khác... Rất dễ phá lâu đài cát, chỉ ném
hòn đá vào đó và nó đi đời. Chúng đã la hét và giận dữ với
nhau, và Phật đứng đó, quan sát. Thế rồi đến lúc mặt trời
lặn và mẹ chúng gọi chúng từ nhà gần đó, 'Về nhà ngay,
đến giờ ăn cơm rồi.' Và chúng tất cả đều nhảy vào những
lâu đài của mình, cái lâu đài chúng đã làm và vì nó mà
chúng đánh lại để không ai phá rối chúng. Chúng đã nhảy
lên những lâu đài ấy và chẳng bao giờ nhìn lại, chỉ chạy
thẳng về nhà.
Phật nói với các đệ tử đang đi cùng mình, "Cuộc
sống cũng chẳng nhiều hơn thế này đâu."
Mọi cái nghiêm chỉnh của bạn đều về các lâu đài cát
cả. Và bản thân bạn sẽ bỏ chúng một ngày nào đó, giẫm
chúng xuống, và bạn sẽ không nhìn lại. Những người coi
nó nghiêm chỉnh bỏ lỡ mất cái đẹp của vui đùa.

Sự việc này: Có một lần, Nam Tuyền nói với Triệu


Châu, "Thời nay…"

135
Điều đó cũng không phải là thời rất cổ đại như vậy
đâu.
Có nhiều câu chuyện mà với chúng không có cách
nào thu thập được bằng chứng, ủng hộ hay chống đối:
rằng con người hiểu ngôn ngữ của loài vật, rằng con người
hiểu ngôn ngữ của cây cối, rằng con người không ở ngoài
thế giới, mà chỉ là một phần đã trở nên có ý thức một chút
hơn các phần khác. Con người không trong xung đột. Con
người sống vui vẻ, con người chết vui vẻ, bởi vì con người
chỉ là một cơn sóng - một đợt thuỷ triều, nhưng ngay cả
thuỷ triều cũng phải biến mất; bất kì cái gì được sinh ra
đều sẽ phải mất đi. Cho nên cái gì có đó để mà nghiêm
chỉnh? Và điều đó được chứng minh bởi nhiều kinh sách
như Chuyện ngụ ngôn của Aesop trong đó con người
không có đó chút nào, chỉ toàn loài vật. Nhưng những con
vật này lại rất tiêu biểu.
Trong một giai thoại nhỏ một con dê rất non đang
uống nước suối trên núi. Một con sư tử tới và nghĩ đây là
món ăn sáng ngon lành. Nhưng phải có sự hợp lí gì đó
chứ, bạn không thể nhảy xổ vào và bắt lấy con dê non
được; trước hết bạn phải làm hợp lí cho hành động của
mình.
Cho nên nó nói, "Dê con nghe đây, bố mày rất hỗn
xược với tao."
Con dê nhỏ hỏi, "Chuyện ấy xảy ra khi nào vậy?"
Nó nói, "Mới hôm qua thôi."
Con dê nhỏ nói, "Chắc bác lầm đấy, bố cháu đã chết
từ sáu tháng trước rồi."

136
Con sư tử trở nên rất bực tức, lí do của nó bị vô hiệu
hoá. Thế rồi nó nói, "Mày làm bẩn nước tao đang uống!
Mày không kính trọng vua của các loài vật!"
Con dê đáng thương nói, "Bác nhìn dòng suối mà
xem. Cháu đứng ở phía dưới, bác đứng ở phía trên. Làm
sao cháu có thể làm bẩn nước được? Nước chảy xuôi
không hướng tới chỗ bác. Bác đang làm bẩn nước của
cháu thì có, nhưng bác cũng phải, bác có thể làm điều đó."
Thấy rằng mình bị làm thành trò cười - con dê này
phải - nó nhảy chồm lên con dê và nói, "Mày không biết
cách cư xử gì cả, chẳng biết nghi lễ gì cả! Mày nói to quá
trước người lớn!" và nó biến con dê đáng thương thành
bữa điểm tâm sáng ngon lành. Nhưng tất cả những lí do
ấy....

Trong chuyện ngụ ngôn của Aesop, mọi chuyện ngụ


ngôn đều chỉ ra điều gì đó về con người. Chúng không
phải là về loài vật đâu, chúng tất cả đều nói về con người
đấy. Bất kì điều gì bạn muốn làm, trước hết bạn cố gắng
tìm lí do cho nó, và nếu lí do được tìm ra mà chẳng có
quan hệ gì thì bạn trở nêu giận lắm. Bạn thử lí do khác và
nếu thậm chí lí do này cũng không hợp lệ thì bạn hành
động hoàn toàn phi lí, bạn quên phắt mọi thứ về logic và lí
do. Những cái đó chỉ là những cách thức để đánh người
yếu hơn bạn.
Mãi cho tới nay chưa từng có bằng chứng nào; các
câu chuyện đã trôi nổi qua nhiều thời đại, nhưng chúng đã
được coi như biểu dụ, biểu tượng, bởi vì không có cách
nào chứng minh được rằng con vật hiểu ngôn ngữ của con
người và con người hiểu ngôn ngữ của con vật. Ngay cả

137
cây cối người ta cũng nói rằng chúng đang nói các thuật
ngữ, có sự trao đổi. Nhưng bây giờ bằng chứng đang lộ ra
qua nghiên cứu khoa học, ít nhất về cây cối, bởi vì rất ít
người đã bắt đầu làm việc với con vật.
Nhưng con vật chắc chắn thông minh hơn cây cối, và
người ta có thể chứng minh được rằng cây cối hiểu ngôn
ngữ của con người - không chỉ hiểu mà điều đang được
khoa học làm lộ ra là chúng thậm chí còn đọc được tâm trí
của bạn; bạn chẳng phải nói ra điều gì.
Điều này đã trở thành việc nghiên cứu lớn thế. Họ có
những máy móc đặc biệt; họ gắn các máy này vào cây. Nó
là loại máy cũng tựa như máy điện tâm đồ ghi lại nhịp tim
của bạn và kiểm tra xem liệu tim có đang vận hành một
cách mạnh khoẻ hay điều gì đó bị thiếu. Máy này tạo ra đồ
thị; nếu tim không hài hoà, đồ thị này đôi khi đi lên, đôi
khi đi xuống quá nhiều; nó không hài hoà, có rối loạn.
Họ dùng cùng đồ thị đó và cùng máy điện tâm đồ
cho cây. Và họ đã ngạc nhiên là nếu không có gì xảy ra thì
đồ thị là hài hoà. Thế rồi họ đưa một tiều phu tới với ý
tưởng rằng bạn phải chặt cái cây đó. Và khi tiều phu tới
gần hơn và cây có thể thấy tiều phu đó, ngay lập tức đồ thị
chỉ ra nó trở nên lo âu. Sự hài hoà của đồ thị này bị rối
loạn. Nó đã thấy… điều này rất bí ẩn bởi vì mắt không
phải là một phần của cây. Nó đã thấy thế nào? Có lẽ có
những cách khác, có lẽ chúng ta không phải là người duy
nhất có mắt.
Chúng ta có loại mắt nào đó; cây phải có cách khác
nào đó để thấy rằng tiều phu đang tới - và không chỉ thấy,
chúng có khả năng đọc tâm trí của người đó, rằng người
đó sắp phá huỷ cuộc sống của nó. Người ta cũng đã thấy

138
rằng nếu tiều phu được bảo, 'Anh đừng đốn cây đó, chỉ đi
qua có cầm cái cưa trong tay, cứ dường như anh định đốn
cây đó thôi,' nếu tâm trí không được ấn định đốn cây đó,
thì đồ thị vẫn còn hài hoà. Đó là bằng chứng vững chãi
rằng cây có khả năng đọc tâm trí mà con người lại không
có khả năng đó.
Người ta cũng đã tìm thấy rằng không chỉ một cây
mà tiều phu đó đi tới đốn là bị ảnh hưởng, mà những cây
lân cận cũng bị ảnh hưởng. Đồ thị của chúng cũng trở nên
mất hài hoà. Người bạn nào đó, hàng xóm nào đó mà
chúng đã lớn lên cùng, đã sống cùng trong thời tốt đẹp hay
khó khăn, trong mưa và trong hè và trong đông, người bạn
cũ nào đó sắp bị đốn. Cho nên không chỉ cái cây sắp bị
đốn đọc tâm trí của tiều phu, mà các cây khác xung quanh
cũng bị ảnh hưởng. Nhưng nếu tiều phu cầm cưa đi vào
nhưng không có tâm trí đốn cây, thì các đồ thị vẫn còn hài
hoà.
Điều này đã là một kinh nghiệm vô cùng. Nó chỉ ra
rằng cây bằng cách nào đó thấy được; chúng ta chưa biết
chúng thấy bằng cách nào. Bằng cách nào đó chúng có thể
đọc được tâm trí. Cực kì khó cho chúng ta hiểu ý tưởng
này bởi vì chúng ta không thể đọc được tâm trí. Một ngày
nào đó nghiên cứu này sẽ thành sâu sắc hơn và chúng ta có
thể có khả năng thấy rằng chúng có thể hiểu tiếng nói nếu
chúng có thể hiểu được tâm trí. Tâm trí là gì? Bạn đang
nói bên trong, 'Mình sẽ đốn cây này.' Nếu chúng có thể
hiểu chính ý tưởng trong tâm trí, thì chẳng có lí do gì tại
sao chúng không thể hiểu được lời.
Và điều thứ hai, nếu chúng có thể hiểu được tâm trí,
và có thể biểu lộ nỗi sợ và nỗi lo lắng của chúng, thì
chúng có thể bằng cách nào đó nói nữa, nhưng chúng ta

139
không biết ngôn ngữ của chúng. Có lẽ miền âm thanh
ngôn ngữ của chúng ở dưới thấp hay trên chúng ta.
Chúng ta chỉ có thể nghe được miền âm thanh nào
đó, và chúng ta cũng chỉ có thể thấy trong miền nào đó.
Chẳng hạn, con cú có thể thấy trong đêm, chỗ chúng ta
không thể thấy được. Mắt nó có miền thấy lớn hơn mắt
chúng ta.
Người ta đã biết rõ, và bạn có thể thấy điều đó ở
khắp nơi, đặc biệt ở Ấn Độ, rằng rắn múa theo tiếng sáo.
Vấn đề là ở chỗ khoa học đã không thể tìm ra tai ở rắn.
Vậy làm sao chúng đáp ứng lại được với âm thanh? Chúng
không thể nghe được! Nhưng việc nghiên cứu vẫn tiến
hành tiếp và bây giờ họ đã đi tới ý tưởng mới thoả đáng.
Rắn nghe qua toàn thể da của nó.
Vấn đề không phải ở tai: tai cũng là da, chúng chẳng
là gì ngoài một loại da đặc biệt; mắt cũng là một loại da
chuyên biệt hoá. Rắn nghe qua toàn bộ thân thể nó, đó là lí
do tại sao việc múa của nó có cái đẹp, bởi vì tiếng sáo
không chỉ chỉ ảnh hưởng tới tai rắn, nó ảnh hưởng tới toàn
bộ thân thể rắn. Và bởi vì nó không có xương, nên nó có
mềm dẻo. Nhưng khám phá rằng rắn có thể nghe bằng cả
bộ da lại gợi ý có lẽ nó có thể nói bằng cách nào đó.
Chúng ta chỉ phải làm việc tiếp theo những cách ghép nối
khác nhau.
Cá heo đã được nghiên cứu gần đây rất sâu sắc. Và
người ta đã thấy rằng cá heo có cách nói nào đó. Chúng
dùng một hệ thống hoàn toàn khác với điều con người
dùng, chúng dùng sóng siêu âm. Chúng ta không thể nghe
được chúng, nhưng hàng triệu con cá heo trong đại
dương... Một con cá heo có thể nói với những con cá heo

140
ở cách xa vài dặm vì siêu âm đi như sóng trong nước, như
sóng radio.
Bạn không thể nghe được sóng radio vì bạn không có
cơ chế thu nhận nào. Nhưng nếu bạn có chiếc radio...
Radio là gì? Một cái máy thu. Vào khoảnh khắc này, hàng
nghìn sóng radio đang truyền đi từ tất cả các đài phát
thanh trên thế giới quanh bạn nhưng bạn không thể nghe
thấy chúng. Chỉ cần có một chiếc radio nhỏ sẽ làm cho
miền nghe thấy trở nên lớn hơn và bạn có thể bắt được các
đài phát.

Trong cuộc chiến tranh thế giới vừa qua chuyện xảy
ra là một người bị bắn vào tai. Viên đạn được lấy ra,
nhưng đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên lớn: tai anh ta
được chưa lành nhưng anh ta bắt đầu nghe thấy đài phát
thanh địa phương.
Ban đầu chẳng ai tin anh ta cả. Mọi người đều cười:
"Anh có điên không đấy? Có ai trên phố đã từng nghe thấy
sóng radio từ tai mình không?"
Nhưng anh này cứ khăng khăng và nói, "Tôi sẵn
sàng chứng minh điều đó."
Cuối cùng các bác sĩ nghĩ rằng cần phải làm thực
nghiệm nào đó ít nhất cũng để thoả mãn cho anh ta. Chẳng
ai tin rằng điều đó là có thể. Cho nên họ đặt một chiếc
radio vào phòng thứ hai, bật nó vào đài phát thanh địa
phương và người đánh máy gõ lại bất kì cái gì phát ra từ
chiếc radio đó. Và trong phòng kia nơi không có radio thì
người kia đã bắt đầu nghe điều nói trong tai mình và viết
ra mọi điều vọng tới. Khi họ đem hai bản ghi ra so sánh
thì chúng đích xác như nhau. Người này nói đúng.

141
Nhưng anh ta phát điên vì chẳng có cách nào tắt
được chiếc radio đó đi. Sáng sớm từ sáu giờ mãi tận tới
mười hai giờ đêm, anh ta phải nghe mọi lời quảng cáo,
mọi tin tức. Và anh ta bị dinh líu với tâm trí mình nhiều
tới mức anh ta không làm được cái gì khác. Anh ta không
thể nói được với bạn; bởi vì có quá nhiều điều đang diễn
ra bên trong. Cuối cùng họ phải làm giải phẫu cả tai và cắt
nó đi.
Nhưng điều đó nghĩa là có khả năng rất lớn là một
ngày nào đó chúng ta có thể không cần mang theo radio
nữa. Chỉ thay đổi nhỏ trong chính cái tai, sự thay đổi giải
phẫu nào đó, có lẽ với một cái nút gắn vào thuỳ não để
bạn có thể tắt bật - điều đó là tuỳ bạn... Chẳng cần phải
đem theo radio.
Tôi đang nói điều này bởi vì cá heo nói ở bước sóng
hoàn toàn khác cho nên chúng ta không thể hiểu được điều
gì đang xảy ra, không tiếng động, nhưng xa nhiều dặm các
ông cá heo khác vẫn nhận được thông báo. Cá heo đã
được nghiên cứu rất sâu sắc bởi vì dường như là chúng là
loài vật duy nhất trên cả thế giới có bộ não lớn hơn con
người. Chắc chắn nó phải siêu đẳng hơn não người, nhưng
theo một hướng khác, theo một chiều khác. Hoạt động của
nó không bắt chéo với tâm trí con người.

Cho nên điều Nam Tuyền đang nói là ở chỗ vào thời
cổ đã có những người có thể nói với các loài vật khác.
Ngày nay, tất cả những điều đó bị quên lãng hoàn toàn.
Ngày nay, đặc biệt đối với những người tìm kiếm, ông ấy
gợi ý tốt nhất là sống và làm việc giữa các thành viên các
loài khác với chúng ta. Bạn có thể thấy sự khác biệt này.

142
Trong Upanishads có câu chuyện về một thanh niên,
Svetketu. Anh ta đã học trong một đại học trong rừng cạnh
đó, đã tốt nghiệp danh dự, quay trở về nhà với một bản
ngã rất to bởi vì anh ta đã đứng đầu đại học. Bố anh ta
nhìn qua cửa sổ khi anh ta trở về.
Và ông ấy bảo vợ mình, "Nó đã thu được tri thức;
người ta có thể thấy ngay cả trong dáng đi của nó bản ngã
của nó, sự tự cao. Nhưng chúng ta đã không gửi nó đi học
về điều đó. Tôi sẽ phải gửi nó đi nữa. Cho nên đừng có
chen vào giữa, đừng có bắt đầu khóc lóc và rền rĩ, 'Ông lại
tống con chúng ta đi.'"
Shwetketu về tới. Người bố nói, "Đừng vào nhà vội!
Bố biết con đã học hết tất cả mọi kinh sách. Nhưng con có
biết con là ai không?"
Shwetketu nói, "Đấy không phải là một phần của bài
học. Con đã học bốn cuốn kinh Vedas, tất cả mọi kinh
Upanishads. Nhưng câu hỏi 'Ta là ai?' không phải là một
phần của chương trình học ở đại học."
Người bố nói, "Thế thì quay lại với nhà tiên tri già
trưởng đại học rừng sâu và hỏi ông ấy câu hỏi này. Và
chừng nào con còn chưa học được điều đó thì đừng có
quay về; bởi vì chẳng ích gì mà quay về. Ta sống chỉ để
thấy rằng con đã biết tới bản thân con."
Ông ấy quay vào từ ngay bên ngoài cửa nhà.
Shwetketu rất bối rối, choáng váng. Anh ta đã hi vọng
được đón nhận với đón chào lớn và đây là việc đón chào
kì lạ. Anh ta quay trở về với thầy mình và bảo ông ấy, "Bố
con nói điều thầy đã dạy cho con là tuyệt đối vô dụng.
Thầy đã không dạy cho con điều thực, 'Ta là ai?'"

143
Thầy nói, "Điều đó đúng, nhưng đó là nhiệm vụ khó,
rất khó."
Anh ta nói, "Dù khó thế nào - con cũng phải làm
được điều đó vì không làm được điều đó con không thể
vào nhà mình được!"
Thế là thầy nói, "Con làm điều này: đem một trăm
con bò cái này đi, và khi chúng đã trở thành một nghìn con
qua việc sinh sôi ra bê con... cứ ở trong rừng sâu nơi
không ai tới cả. Cho dù con có thấy ai đó thì ẩn trốn đi!
Không nói ngôn ngữ con người, chỉ vẫn còn với những
con bò này. Và khi chúng đã trở thành một nghìn con, đem
chúng về."
Một ý tưởng kì lạ, Shwetketu nghĩ. "Khi nào chúng
mới thành một nghìn con được? Dễ mất đến nửa đời mình
mất."
Nhưng thầy đã bảo anh ta, cho nên anh ta đem một
trăm con bò cái đó đi vào rừng sâu nơi không ai tới được.
Trong vài ngày, ý tưởng cứ liên tục diễn ra trong tâm trí
anh ta. Nhưng bạn có thể tiếp tục suy nghĩ về cùng một
điều mọi ngày được không? Và chẳng có ai để mà nói cả.
Cuối cùng anh ta trở nên im lặng. Nhiều năm trôi
qua, anh ta trở thành gần giống như con bò cái. Chỉ sống
với bò, ngủ với bò, chăm nom bò, thế giới bò là thế giới
của anh ta. Anh ta quên mất nhân loại hoàn toàn.
Câu chuyện này hay thế, là anh ta thậm chí cũng
quên luôn ngay cả ý tưởng là khi chúng trở thành một
nghìn thì anh ta phải quay về, bởi vì ý tưởng là ngôn ngữ.
Và anh ta đã quên ngay cả việc đếm. Và mọi sự đều diễn
ra tốt đẹp trong im lặng hoàn toàn.

144
Câu chuyện này nói rằng cuối cùng một con bò cái
phải nói, "Tôi không thể không nói được bởi vì chúng ta
bây giờ đã thành một nghìn rồi. Và dường như là anh đã
quên mất mọi điều rồi. Bây giờ là lúc đưa chúng ta trở về
với thầy."
Shwetketu đem một nghìn con bò về. Các đệ tử thấy
từ xa một nghìn con bò và họ bảo với thầy, "Shwetketu
đang về sau nhiều, nhiều năm. Và anh ấy đang đem về
một nghìn con bò."
Thầy nói, "Đừng dùng từ 'Shwetketu' nữa. Nói một
nghìn lẻ một con bò đang quay về!"
Và điều đó quả thực như vậy. Shwetketu đã về và
đứng đó hệt như những con bò khác đang đứng đó. Anh ta
không nói lấy một lời. Và mắt anh ta đã trở thành thuần
khiết, im lặng tới mức thầy phải lay anh ta, "Này, thoát ra
khỏi tính chất bò đi! Bây giờ con có khả năng gặp bố con
rồi. Trở về nhà đi."
Thế là chẳng nói điều gì anh ta đơn giản đi về nhà bố
mình. Bố anh ta lại nhìn ra từ cửa sổ. Ông ấy nói, "Lạy
trời! Nó đã thực sự biết được rồi. Và bản thân mình còn
chẳng biết mình là ai!"
Thế là ông ấy chạy ra theo lối cửa sau nói với vợ,
"Nó mà về chạm chân tôi thì không phải quá. Người đã
biết ra mà lại đi chạm chân người còn dốt nát thì không
phải quá. Điều đó làm tôi bối rối lắm. Tôi phải đi thôi. Em
chăm sóc lấy con. Có thể tôi phải mất vài năm, tôi già rồi,
nhưng tôi sẽ cố gắng và tôi sẽ không quay về chừng nào
tôi còn chưa biết tôi là ai. Tôi không thể đối diện được với
con mình; nó đang sắp về tới nơi một cách đẹp đẽ thế,

145
khiêm tốn thế, chẳng biết gì thế, không hãnh diện, không
bản ngã - chỉ im lặng thuần khiết, làn gió mát."

Điều đó là có thể đấy, nếu bạn sống cùng cây cối...


Tôi đã trao cho Mukta việc chăm nom khu vườn của tôi.
Cho nên trong gần hai mươi năm cô ấy đã chăm sóc khu
vườn này. Và cô ấy đã trở thành im lặng thế. Cô ấy chỉ
tranh đấu với ai đó quấy nhiễu cây cối của cô ấy; thế thì cô
ấy dữ tợn. Và đặc biệt Nivedano này là kẻ thù không đội
trời chung của cô ấy, vì anh ta cứ làm ra những thác đổ
làm rối loạn cây cối vì anh ta phải tạo ra không gian cho
thác đổ của mình. Ngoài điều đó, cô ấy ở trong đạo tràng,
nhưng gần như vắng bóng.
Sống cùng cây, người ta trở thành cây. Trong bản thể
bên trong nhất cùng cái im lặng đó....

Điều Nam Tuyền đang nói là ở chỗ, "Thời nay, tốt


nhất là sống và làm việc giữa các thành viên các loài khác
với chúng ta."
Triệu Châu đáp, "Bỏ sang bên vấn đề về 'khác'..."
Đây là cách thức các thầy chơi trò chơi. Thầy nói, "Bỏ
sang bên vấn đề về 'khác'" bởi vì trước hết bạn sẽ phải
chứng minh rằng bất kì ai cũng đều khác. Tất cả đều là
một; ai là khác? Toàn thể vũ trụ này một thể thống nhất,
cái gì là khác biệt?
Nhưng đối với hiện tại "Bỏ sang bên vấn để về 'khác'
để ta hỏi ông, ông ngụ ý gì bởi 'loài'?" Ông đang tạo ra
các chủng loại. Trong im lặng bên trong nhất không có
chủng loại, không có giống loài. Ông là ai trong sự im

146
lặng của mình - bò, người, sư tử? Tại cốt lõi bên trong
nhất ông chỉ là cái như vậy. Không cái tên nào có thể được
cho cái như vậy đó.
Bản thân Triệu Châu là một thầy lớn. Ông ấy nói,
"Bỏ sang bên vấn để về 'khác' để ta hỏi ông, ông ngụ ý gì
bởi 'loài'?" Ông đang tạo ra phân chia trong sự tồn tại nơi
không có sự phân chia nào tồn tại cả. Ông ấy hoàn toàn
đúng về mặt triết lí.
Nam Tuyền đặt hai tay lên đất, cứ dường như ông ấy
đang bước đi bằng bốn chi giống loài vật. Ông ấy đã
không trả lời câu hỏi này theo cách triết lí, ông ấy đã
không thảo luận về 'loài'. Ông ấy đơn giản đặt hai tay lên
đất, biểu lộ rằng về mặt tồn tại, về mặt triết lí, không có
vấn đề chủng loại. Nhưng một cách bề ngoài, vẫn có sự
khác biệt. Vài con vật đi bằng bốn chân, vài con vật đi
bằng hai chân; vài con vật bước đi trên mặt đất, vài con
vật nhảy từ cây nọ sang cây kia. Nhưng ông ấy không nói
gì; thay vì việc nói thì ông ấy hiện hữu. Ông ấy đặt tay
mình lên đất và trở thành con bò, cùng con bò tôi đã nói
tới trong câu chuyện về Shwetketu.

Triệu Châu bước tới Nam Tuyền từ phía sau,


dẫm ông ấy xuống đất, và rồi chạy vào phòng
niết bàn, kêu lên, "Ta ăn năn quá! Ta ăn năn
quá!"

Ông ấy bước lên tay Nam Tuyền, dẫm dí ông này


xuống và rồi chạy về phòng niết bàn, vừa kêu "Ta ăn năn
quá! Ta ăn năn quá!"

147
Nam Tuyền phái người phục vụ tới hỏi Triệu
Châu ông ta ăn năn về cái gì. Triệu Châu đáp,
"Ta ăn năn rằng ta đã không giẫm lên ông ấy
hai lần."

Một câu trả lời kì lạ. Ngay chỗ đầu tiên, hành vi của
ông ấy đã kì lạ là ông ấy dẫm lên Nam Tuyền. Nhưng
trong thiền điều đó là chấp nhận được. Điều ông ấy nói
bằng việc dẫm lên là, "Ta là tâm thức cao cấp hơn nhiều
so với con vật. Ta đã đạt tới đỉnh cao nhất của tâm thức.
Và chúng chỉ bước đi trên cả bốn chân trên đất một cách
vô ý thức. Ta dẫm lên vô ý thức."
Ông ấy không dẫm dí Nam Tuyền xuống, ông ấy
dẫm vào cử chỉ làm con bò. Và ông ấy là đúng về mặt tồn
tại. Nhưng thế rồi ông ấy chạy về phòng niết bàn, vừa kêu
lên, "Ta ăn năn quá! Ta ăn năn quá!"
Điều ông ấy đã làm với Nam Tuyền có hiểu biết
hoàn toàn rõ; ông ấy đã nói rằng con người của ý thức,
nhận biết, chứng ngộ, không thể có trao đổi nào với con
vật. Rất khó trao đổi ngay cả với con người, còn nói gì tới
con vật? Khác biệt quá lớn, dễ đến cả năm ánh sáng.
Cho nên Nam Tuyền đã không phản đối bị dẫm lên,
ông ấy đã hiểu rằng Triệu Châu là phải. Nhưng sao ông
này lại kêu lên, "Ta ăn năn quá, ta ăn năn quá"? Chẳng có
gì để ăn năn cả, ông ấy đã trả lời đúng. Cho nên Nam
Tuyền đã phái người phục vụ tới hỏi Triệu Châu ông ấy ăn
năn cái gì. "Chẳng có lí do gì mà ăn năn cả. Ông đã làm
đích xác điều là sự đáp ứng đúng trong tình huống như
vậy."

148
Triệu Châu đáp, "Ta ăn năn rằng ta đã không giẫm
lên ông ấy hai lần," bởi vì một lần có thể không đủ để thay
đổi thái độ, rằng đệ tử nên làm việc cùng tự nhiên, cùng
con vật, cùng chim chóc. "Chỉ một lần dẫm lên có thể
không đủ, đó là lí do tại sao ta lại ăn năn. Có lẽ hai lần có
thể mới đúng." Nam Tuyền đã không đưa ra lời bình luận
nào về điều đó, có nghĩa là ông ấy đã chấp nhận rằng cho
dù ông ấy có bị dẫm lên hai lần, thì cũng chẳng có gì sai
trong việc đó cả.
Triệu Châu là thầy vĩ đại cũng như Nam Tuyền,
nhưng họ đang đùa nhau như trẻ nhỏ. Đó là đặc thù của
Thiền, điểm khởi hành từ mọi hệ thống triết lí khác nhau.
Một bài thơ của Sekiso:

Hàng trăm đoá hoa nở


tất cả trên một cành.
Nhìn xem,
mọi mầu sắc
xuất hiện trong vườn tôi.
Tôi mở cánh cổng ken két,
và trong gió
tôi thấy
ánh mặt trời mùa xuân.
Đã vươn tới
các thế giới không số.

Phẩm chất của thơ thiền, điều bao giờ cũng cần ghi
nhớ là ở chỗ nó mang tính hình tượng. Đừng cố hiểu, cố
nhìn nó. Hàng trăm đoá hoa nở, cố thấy nó, đừng cố hiểu.
Quán tưởng đi, Hàng trăm đoá hoa nở tất cả trên một
cành. Nhìn xem, mọi mầu sắc xuất hiện trong vườn tôi. Tôi

149
mở cánh cổng ken két, và trong gió tôi thấy ánh mặt trời
mùa xuân. Đã vươn tới các thế giới không số.
Trong mọi ngôn ngữ khác của thế giới, thơ ca phải
được hiểu. Thơ thiền phải được thấy, được quán tưởng; nó
đơn giản tạo ra thế giới hoa, mầu sắc, ánh mặt trời. Nếu
bạn có thể im lặng quán tưởng nó, bạn thậm chí có thể
cảm thấy hơi ấm của ánh mặt trời. Vấn đề duy nhất chỉ là
với cường độ nào, với sự toàn bộ nào mà bạn tạo ra thế
giới tương ứng với thơ thiền.
Bỏ ý tưởng cũ rích về việc cố gắng nói bằng lời mọi
thứ đi; đó là việc quán tưởng, đó là cách thức hoàn toàn
khác. Bằng không thì thơ ca cũng chẳng nhiều nhặn gì;
nếu bạn nói ra lời điều đó, thì cũng chẳng nhiều nhặn gì.
Có những nhà thơ lớn trên khắp thế giới; so với những nhà
thơ đó thì những nhà thơ này có vẻ nghèo nàn. Nhưng
không so sánh nào là có thể được bởi vì những nhà thơ lớn
có chiều hướng khác, ý nghĩa khác; họ đang trí tuệ hoá.
Bạn không phải quán tưởng Shelley hay Byron, bạn phải
hiểu. Đó chính là cách quan niệm. Và đó là cách thức trên
khắp thế giới.
Chỉ Thiền là khác theo mọi cách. Tính thơ ca này
không để được hiểu. Vấn đề không phải là trí tuệ, nó là
vấn đề cảm giác, vấn đề tạo ra quán tưởng; trong im lặng
của bạn với mắt nhắm, cả thế giới mà ông ấy đang nói tới:
hoa, bạn phải thấy chúng; mầu sắc và hoa và cổng ken két
- khi bạn mở nó ra, nó kêu răng rắc - và ánh mặt trời tràn
vào qua cánh cửa vươn tới đoá hoa, bạn có thể ngửi thấy
hương thơm, bạn thậm chí có thể hái vài đoá hoa. Đây
chính là cách thức diễn đạt mang tính tồn tại.

150
Maneesha đã hỏi:

Osho ơi,
Thầy không cam kết ngay cả với chân lí, với tự do
sao? Nếu Thầy không cam kết thì đó là vì chân lí và tự do
là phần bản chất cố hữu của Thầy tới mức không có khả
năng nào cho mối quan hệ - mà một cam kết mà là vậy -
với chúng?

Maneesha, hiểu biết của bạn là phải. Tôi không được


nối gì với chân lí cả. Chân lí không phải là cái gì đó tách
rời mà tôi phải cam kết với. Nó chính là bản thể của tôi.
Tình yêu hay tự do, từ bi hay niềm vui, chúng tất cả đều là
mọi khía cạnh của tâm thức riêng của tôi. Chúng không
tách rời, cho nên không có vấn đề về cam kết.
Bạn chỉ cam kết với cái gì đó khác bạn. Và nỗ lực
của tôi ở đây là để làm cho bạn nhận biết rằng khi bạn
thấm sâu hơn vào trong tâm thức của bạn, tất cả những
điều này đều trở thành sẵn có. Không phải là bạn phải trau
dồi chúng. Chỉ bằng việc thấm ngày một sâu hơn vào
trong tâm thức, bạn bắt gặp tình yêu, bạn bắt gặp từ bi,
bạn bắt gặp chân lí, bạn bắt gặp tự do. Bạn không phải làm
gì cả. Nỗ lực duy nhất của bạn là thấm sâu hơn vào trong
tâm thức và mọi thứ khác sẽ tới theo cách của nó. Có
những đoá hoa của tâm thức.
Bây giờ cái gì đó nghiêm chỉnh nhé...

151
Đài BBC ngắt quãng buổi chiếu hình giờ cao điểm
chương trình Thế vận hội Olympic với quảng cáo sau đây:
"Thưa các quí bà và quí ông, trái đất vừa mới nhận
được một số tin xấu và một số tin lành. Tin xấu là trái đất
vừa mới bị người Sao Hoả xâm lăng. Tin lành là họ ăn
chính khách và đái ra dầu!"

Rock Hunk, một ngôi sao điện ảnh Hollywood nổi


tiếng, đi quanh quán rượu vừa đi vừa mặc chiếc áo sơ mi
mở toang tới thắt lưng, và uốn éo cơ bắp. Anh ta thấy
Gorgeous Gloria đang đứng một mình tại quầy, nhấm
nháp rượu martini.
Anh ta sải bước tới cô ta, ngả người gần lại và thì
thào vào tai cô ta, "Này, cưng, anh thực sự muốn vào
trong hơi thở của em đấy!"
"Xin lỗi anh," Gloria nói, với một nụ cười, "nhưng
em nghĩ rằng không được đâu."
"Sao không?" Rock hỏi.
"Vì," Gloria nói, đứng dậy bỏ đi, "chỉ có đủ chỗ đằng
kia cho một lỗ đít!

Hồng y Catsass bị bắt quả tang ăn cắp gà lạnh tại


siêu thị Vatican bằng cách giấu nó trong áo thụng của
mình. Khi Giáo hoàng Polack nghe thấy tin này, ông ta
giận lắm.

152
"Ông có biết," giáo hoàng Polack quát tướng lên,
"rằng khi ông ăn cắp gà tại siêu thị của ta, là ông đang vi
phạm một trong những lời răn của Thượng đế không?"
"Dạ có ạ," Catsass đáp, với đôi mắt cụp xuống,
"nhưng tôi không muốn lấy gà cho tôi. Tôi muốn lấy nó
cho cô thư kí mới vừa mới tuyển đấy ạ."
"Cái gì? Thư kí mới của ta à?" giáo hoàng Polack lại
quát lên, gần phát cuồng. "Ông sẽ đánh mất linh hồn bất tử
cho một con thư kí trẻ sao?" Giáo hoàng Polack vung tay
lên không trung và thực sự đê mê. "Đéo con thư kí!" ông
ta quát lên.
"Dạ tôi đã làm rồi," hồng y đáp, "nhưng cô ấy còn
muốn cả gà nữa!"
Nivedano...
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại.


Cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng.
Bây giờ, nhìn vào bên trong, với thôi thúc hoàn toàn
dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời
bạn.

153
Thấm sâu vào chính cội nguồn cuộc sống ở trung
tâm của bạn và cũng là ở trung tâm của toàn thể sự tồn tại.
Sự gặp gỡ của trung tâm của bạn và trung tâm của
toàn thể sự tồn tại được biểu diễn một cách tượng trưng
bởi phật. Tại điểm này bạn trở thành phật, người thức tỉnh.

Bạn đã đi vào thế giới mới của chân lí, của cái đẹp,
của phúc lạc. Thấm đẫm với tất cả những phẩm chất này
đi. Uống no nê nhận biết về việc là phật; bởi vì bạn phải
sống phật này trong mọi hoạt động của mình, mọi cử chỉ,
lời nói, im lặng hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Chỉ thế thì
mới có khả năng đạt tới đỉnh cao nhất của tâm thức.
Để làm điều đó rõ ràng,
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi, và chỉ quan sát thân thể, tâm trí.


Bạn không là cả hai, bạn là nhân chứng.
Định tâm vào nhân chứng. Mọi thứ tới rồi đi, chỉ
nhân chứng là bất tử. Nó không bao giờ sinh và không bao
giờ diệt. Tên khác cho nhân chứng này là phật.

Tối nay đẹp theo cách riêng của nó. Nhưng sự hiện
diện của bạn, việc chứng kiến của bạn đã làm cho nó trở
thành vinh quang huy hoàng, rực rỡ vô song. Hàng nghìn
đoá hoa đang mưa rào lên bạn. Thu lấy thật nhiều hoa vào.
Chẳng mấy chốc Nivedano sẽ gọi bạn quay lại. Thu lấy

154
thật nhiều kinh nghiệm có thể được. Bạn phải đem nó từ
trung tâm ra chu vi.

Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng đem phật cùng bạn.


Duyên dáng. Nhớ cách Phật sẽ đứng lên và ngồi
xuống. Cùng vẻ duyên dáng ấy, cùng cái đẹp ấy và trái tim
nhảy múa theo cùng cách...
Vui sướng và nhớ bạn là người may mắn đấy; bởi vì
bên ngoài Thính phòng Phật này, không ai quan tâm tới
lãnh địa bên trong của mình cả. Mọi người đều lo nghĩ về
những điều tầm thường, trần tục. Bạn cảm thấy may mắn
là bạn đã tìm ra một nơi mà hàng nghìn người khác cũng
đang đi qua cùng cây cầu, đi qua cùng con đường, đạt tới
cùng một trung tâm.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội cho sự tụ hội của mười nghìn
chư phật chứ?
Vâng, thưa Osho.

155
156
7. Bạn quên mất đôi cánh

Osho ơi,
Có một lần, khi Hoàng Bá đang ngồi trong
phòng khách của Nam Tuyền, Nam Tuyền đã
hỏi ông ấy, "Người ta nói rằng bản tính phật có
thể được thấy rõ ràng bởi những người nghiên
cứu cả samadhi và prajna ngang nhau. Điều
này nghĩa là gì?"
Hoàng Bá trả lời, "Điều đó nghĩa là chúng ta
không nên phụ thuộc vào bất kì cái gì ở bất kì
lúc nào."
Rồi Nam Tuyền lại hỏi, "Ta tự hỏi liệu ý kiến
ông vừa bầy tỏ có thực là ý kiến riêng của ông
không."
"Tất nhiên là không!" Hoàng Bá nói.
Nam Tuyền lại nói, "Cứ gạt vấn đề trả tiền
nước ra một chốc đã, để ta hỏi ông định lấy tiền
từ ai trả cho chiếc dép rơm này?"
Với câu hỏi này, Hoàng Bá chẳng trả lời.

Maneesha, mặc dầu giai thoại này dường như rất đơn
giản, nó không đơn giản vậy đâu. Trong vài lời này một
câu hỏi cực kì quan trọng đã được nêu ra. Và không may

157
là đã chẳng ai thảo luận về câu hỏi đó cho tới giờ. Tôi
muốn đi vào chi tiết điều tôi định ngụ ý.

Có một lần, khi Hoàng Bá đang ngồi trong


phòng khách của Nam Tuyền, Nam Tuyền đã
hỏi ông ấy, "Người ta nói rằng bản tính phật có
thể được thấy rõ ràng bởi những người nghiên
cứu cả samadhi và prajna ngang nhau. Điều
này nghĩa là gì?"

Trước khi chúng ta đi vào câu trả lời của Hoàng Bá 6,


bạn phải hiểu ý nghĩa của samadhi (đại định) và prajna
(nhận biết). Đó là một câu hỏi rất rắc rối và phức tạp.
Samadhi có thể được hiểu bằng việc quan sát
Ramakrishna. Điều đó sẽ cho bạn những dấu hiệu cơ sở có
thể được quan sát từ bên ngoài.
Ramakrishna hay đi vào trong samadhi hàng giờ. Có
lần trong sáu ngày ông ấy đã trong samadhi. Và samadhi
với ông ấy và với các người đi theo của ông ấy - và có một
truyền thống lớn từ Patanjali, cổ xưa năm nghìn năm, tin
vào samadhi - nghĩa là trở thành vô ý thức hoàn hảo. Với
mọi người bên ngoài ông ấy gần như trong cơn mê; với
nhà tâm lí ông ấy đã đi sâu hơn vào trong các tầng vô ý
thức của tâm trí. Và không có cách nào đem ông ấy trở lại.
Một cách tự động, bất kì khi nào tâm thức của ông ấy
nổi lên bề mặt, ông ấy sẽ trở nên nhận biết. Và bất kì khi
nào ông ấy ra khỏi samadhi này, trạng thái vô ý thức sâu
tựa cơn mê này, ông ấy sẽ kêu khóc, "Sao các ông lại lôi ta
ra khỏi cái đẹp vĩ đại đó, phúc lạc lớn lao đó, im lặng lớn
lao đó mà ta đang trải nghiệm. Thời gian đã dừng lại, thế
6
Obaku - Hoàng Bá Hi Vận, thiền sư Trung Quốc, ?-850

158
giới đã bị lãng quên, ta một mình và mọi thứ đều ở sự
hoàn hảo của nó. Cho nên tại sao các ông đã lấy nó đi
mất?" Ông ấy đang hỏi câu hỏi này với sự tồn tại. "Sao
các ông không để cho tôi tiếp tục nó?"
Bây giờ, bản thân Phật sẽ không coi điều đó là
samadhi. Samadhi của ông ấy nghĩa là prajna, và prajna
nghĩa là nhận biết. Bạn phải trở nên ngày một ý thức hơn,
không vô ý thức; chỉ hai cực, samadhi (đại định) và prajna
(nhận biết). Prajna là nhận biết hoàn hảo về bản thể bạn.
Còn samadhi trong trường hợp của Ramakrishna nghĩa là
quên lãng tuyệt đối. Không ai đã đi vào việc tìm kiếm sâu
hơn về điều gì đích xác là sự khác biệt sâu bên trong.
Cả hai đều nói tới phúc lạc lớn, cả hai đều nói về
vĩnh hằng, chân lí, cái đẹp, cái tinh tuý như kinh nghiệm
tối thượng của họ. Nhưng người hoàn toàn vô ý thức - bạn
có thể chặt tay người đó và người đó sẽ không biết - vô ý
thức đến mức đó; còn Phật có ý thức tới mức trước khi
ngồi lên sàn, trước hết ông ấy sẽ nhìn để xem có con kiến
hay cái gì có thể bị giết chết bởi việc ngồi của ông ấy vào
đó không. Trong mọi hành động của mình ông ấy đều biểu
lộ nhận biết mênh mông.
Tôi đã kể cho bạn câu chuyện là một hôm đi qua một
phố ở Vaishali, một con ruồi bay tới và đậu lên đầu Phật.
Ông ấy đang nói với Ananda về cái gì đó. Cho nên một
cách tự động như cách bạn vẫn làm, ông ấy đơn giản vẫy
tay đuổi ruồi. Thế rồi ông ấy bỗng nhiên dừng nói với
Ananda và lại vẫy tay mình. Bây giờ thì không còn ruồi
nữa rồi.
Ananda nói, "Thầy làm gì vậy? Ruồi bay rồi còn
đâu."

159
Ông ấy nói, "Con ruồi ấy bay rồi, nhưng ta đã hành
động một cách vô ý thức. Ta đã vẫy tay một cách tự động
như người máy. Ta đáng phải đưa tay với đầy nhận biết, ý
thức."
Cho nên dường như có hai cực. Cả hai đã trở thành
một điểm tranh luận lớn xem ai là phải, bởi vì kinh
nghiệm họ nói tới là một. Kinh nghiệm riêng của tôi là ở
chỗ tâm trí có thể được bắt chéo từ cả hai đầu. Một phần
mười tâm trí là ý thức, chín phần mười tâm trí là vô ý
thức. Nghĩ về tâm trí mà xem: tầng trên là ý thức và chín
tầng khác là vô ý thức. Bây giờ tâm trí có thể được đi qua
từ cả hai đầu. Bạn không thể đi qua từ giữa được, bạn sẽ
phải đi tới đầu mút.
Ramakrishna đã đi qua tâm trí bằng việc đi ngày một
sâu hơn vào các tầng vô ý thức. Và khi tới tầng vô ý thức
cuối cùng, ông ấy nhảy ra khỏi tâm trí. Với thế giới bên
ngoài ông ấy có vẻ như đang trong cơn mê. Nhưng ông ấy
đã đạt tới cùng bầu trời trong trẻo mặc dầu ông ấy đã chọn
con đường tối, tăm tối; ông ấy đã chọn phần đêm của ý
thức. Nhưng ông ấy đã đạt tới cùng một kinh nghiệm.
Phật chưa bao giờ trở nên vô ý thức theo cách này.
Ngay cả khi bước đi ông ấy cũng bước mọi bước một cách
hoàn toàn có ý thức và duyên dáng, mọi cử chỉ đều đầy ý
thức, duyên dáng. Ông ấy đã biến đổi ý thức của mình tới
điểm các tầng vô ý thức bắt đầu trở thành có ý thức.
Chứng ngộ cuối cùng là khi tất cả các tầng vô ý thức của
tâm trí đã trở thành có ý thức. Ông ấy cũng nhảy ra ngoài
tâm trí.
Cả samadhi và prajna là trạng thái vô trí, đi ra ngoài
tâm trí. Cho nên kinh nghiệm là như nhau nhưng con

160
đường là khác nhau, rất khác. Một con đường là con
đường trắng đầy ánh sáng mà Phật theo; một con đường là
con đường tối mà Ramakrishna theo. Và hiển nhiên là
những người không thể hiểu được cả hai, những người đã
không theo cả hai con đường này và đi tới cùng kinh
nghiệm, cứ tranh luận và thảo luận không đến đích.
Người này sẽ nói rằng samadhi của Ramakrishna là
cơn mê, rằng ông ấy đã mất ý thức. Người khác sẽ nói
rằng bởi vì Phật chưa bao giờ đi vào samadhi như
Ramakrishna, nên ông ấy không biết về samadhi. Nhưng
kinh nghiệm của tôi là, cả hai đều biết về samadhi, cả hai
đều biết về prajna. Ramakrishna trước hết biết tới samadhi
và từ samadhi mà prajna được sinh ra. Phật trước hết biết
prajna và thế rồi từ prajna mà samadhi được sinh ra. Vấn
đề chỉ là hiểu biết rằng sự tồn tại bao giờ cũng mâu thuẫn,
được làm từ các cái đối lập - đêm và ngày, sống và chết.
Con đường của Ramakrishna là của vô ý thức.
Không ai đã xem xét một cách có chủ ý về điểm này. Và
con đường của Phật là của ánh sáng thuần khiết, của nhận
biết liên tục. Ngay cả trong giấc ngủ Phật cũng ngủ có ý
thức.
Cho nên Nam Tuyền đã nêu ra một câu hỏi rất có
nghĩa.

"Người ta nói rằng bản tính phật có thể được


thấy rõ ràng bởi những người nghiên cứu cả
samadhi và prajna ngang nhau. Điều này nghĩa
là gì?"
Hoàng Bá trả lời, "Điều đó nghĩa là chúng ta
không nên phụ thuộc vào bất kì cái gì ở bất kì
lúc nào."

161
Hoàng Bá không phải là thầy, Hoàng Bá là học giả.
Và câu hỏi này không thể được bất kì học giả nào quyết
định; không trí tuệ nào làm được, chỉ mỗi kinh nghiệm.
Cho nên điều ông ta trả lời là tuyệt đối không có liên quan.
Ông ta nói, "Điều đó nghĩa là chúng ta không nên phụ
thuộc vào bất kì cái gì ở bất kì lúc nào." Bạn có thể thấy
có liên quan nào với câu hỏi này không? Nó chẳng liên
quan gì với samadhi cả, chẳng liên quan gì tới prajna cả.
Ông ta không chỉ mà một thầy giáo, mà còn là một thầy
giáo mù. Câu hỏi này đã đi trên đầu ông ấy.
Rồi Nam Tuyền lại hỏi - ngay lập tức, chỉ ra điều tôi
đang nói đây - "Ta tự hỏi liệu ý kiến ông vừa bầy tỏ có
thực là ý kiến riêng của ông không." Bất kì ai cũng có thể
thấy rằng điều này ngu xuẩn thế, nó chẳng liên quan gì tới
câu hỏi này cả. Ông ta có thể đã nói, "Tôi không biết, tôi
còn chưa kinh nghiệm cả samadhi lẫn prajna. Tôi không
biết liệu chúng kết thúc trong cùng một kinh nghiệm hay
không, cho nên tôi chẳng thể nói được gì." Điều đó chắc là
thực thà nhất. Nhưng nhìn vào câu trả lời của ông ta, Nam
Tuyền lập tức hỏi, "Ta tự hỏi liệu ý kiến ông vừa bầy tỏ có
thực là ý kiến riêng của ông không." Ngay cả cái ý kiến
ngớ ngẩn này mà ông vừa diễn đạt ấy, ta nghĩ thậm chí ý
kiến này cũng chẳng phải của riêng ông." "Tất nhiên là
không!" Hoàng Bá nói.
Thấy tình huống này ông ấy phải cảm thấy tốt hơn cả
là nói rằng đây không phải là ý kiến của mình. Nam Tuyền
lại nói, "Cứ gạt vấn đề trả tiền nước ra một chốc đã...
Nam Tuyền sống trên đỉnh núi cao trong ba mươi năm.
Đem nước lên chiều cao đó, ông ấy đã phải đi hàng dặm
đường xuống núi để đem nước lên. Với chúng ta điều đó

162
có vẻ như có chút ít kì lạ là ông ấy đã hỏi về giá nước.
Ông ấy nói, "Cứ gạt vấn đề trả tiền nước ra một chốc đã,
để ta hỏi ông định lấy tiền từ ai trả cho chiếc dép rơm
này?"
Các thiền sư hay dùng dép rơm, cùng hình dạng như
chiếc dép của tôi, nhưng chúng được làm bằng rơm, rất
đẹp, rất thẩm mĩ và rất rẻ. Nam Tuyền đang nói, "Ai đã trả
tiền cho chiếc dép rơm của ông? Chúng trông mới thế.
Ông không xứng với những chiếc dép rơm này; chúng
được đặc biệt ngụ ý cho các thiền sư. Và như đối với việc
cho ông nước, tôi sẽ không đòi hỏi gì về điều đó, nhưng
nó đã bị phí hoài với người thậm chí không biết tới
samadhi là gì, prajna là gì, ấy vậy mà vẫn liều lĩnh và thần
kinh để đưa ra câu trả lời hoàn toàn không liên quan gì cả;
mà ngay câu trả lời đó nữa, cũng chẳng phải của riêng
ông." Trạng thái vay mượn như vậy là hoàn cảnh của tất
cả các học giả, bác học, các giáo sĩ.
Nam Tuyền đã phơi bày Hoàng Bá hoàn toàn tới
chính cốt lõi bên trong nhất của bản thể ông ấy chỉ bằng
việc hỏi một câu hỏi nhỏ. Nhưng câu hỏi này lại không
nhỏ, và nó là câu hỏi không ai đã giải thích theo cách tôi
đang nói cho các bạn, rằng những kinh nghiệm này không
phải là hai. Đúng ra, những con đường này dẫn tới những
kinh nghiệm rất khác nhau, những con đường mâu thuẫn.
Một con đường đi theo bóng tối, đi ngày một sâu hơn
vào trong bóng tối của tâm trí và vô thức, đạt tới chính đầu
cuối của tâm trí và nhảy ra khỏi nó. Và con đường kia cố
gắng bằng đủ mọi cách để làm cho vô thức cũng là ý thức.
Và khi mọi thứ trở thành có ý thức trong người đó, thì
người đó cũng lấy bước nhảy.

163
Có lẽ phương pháp của Phật khoa học hơn. Không có
vấn đề đúng hay sai. Cả hai đều dẫn tới cùng không gian,
nhưng phương pháp của Phật về prajna - nhận biết - thì
khoa học hơn theo cách là bạn không thể bị lỡ được bởi vì
bạn nhận biết. Con đường của Ramakrishna là dò dẫm
trong bóng tối. Ông ấy có thể đạt tới bình minh, ông ấy có
thể không đạt tới. Và một khi ông ấy đã đi vào trong vô ý
thức, tất cả đều là bóng tối, ông ấy không thể thấy mình
đang đi đâu. Chỉ bởi ngẫu nhiên mà ông ấy tìm ra cánh
cửa thoát ra khỏi tâm trí, chỉ ngẫu nhiên mà thôi.
Khoa học không tin vào ngẫu nhiên, nó phải là chắc
chắn. Đó là lí do tại sao bạn sẽ không tìm thấy nhiều
Ramakrishnas trên thế giới, bởi vì chỉ ngẫu nhiên bằng
việc dò dẫm trong bóng tối bạn tìm ra cánh cửa và thoát ra
ngoài tâm trí. Điều đó đã xảy ra cho Ramakrishna nhưng
bạn sẽ không thấy điều tương tự khác trong toàn bộ lịch sử
nhân loại.
Hàng nghìn nhà huyền môn đã đạt tới cùng điểm đó.
Nhưng họ tất cả đều đi theo con đường của prajna, bởi vì
khi bạn có ánh sáng cùng mình, bạn không cần dò dẫm.
Khi bạn có ánh sáng cùng mình, có tâm thức, giống như
ngọn đuốc soi rọi con đường, việc đạt tới đích của bạn có
nhiều chắc chắn hơn.
Và một khi bạn đã biết tới con đường đó rồi, điều đó
rất dễ dàng. Chỉ lần đầu tiên bạn đi vào trong cái không
biết. Nhưng cái không biết không phải là bóng tối; bạn
cầm ngọn đuốc trong tay. Ramakrishna đi vào trong cái
không biết mà không có ngọn đuốc nào. Samadhi của
Ramakrishna theo một cách nào đó là rất đặc biệt. Ông ấy
mang kiểu cách đó một mình. Ông ấy là loại người hiếm
hoi đi vào trong chiều sâu của mình mà không đem một

164
ngọn nến nào theo. Nhiều khả năng hơn cả là bạn sẽ
không tìm ra cánh cửa.
Khi Phật được hỏi về điều đó, ông ấy nói, "Có một
lâu đài với một nghìn cửa ra vào; chỉ một cửa là thực,
phần còn lại là giả; chúng dường như cửa, nhưng khi các
ông tới gần chúng, chúng chỉ là cửa vẽ, có bức tường
phẳng không lối vào.
"Một người mù bị lạc trong lâu đài này. Anh ta dò
dẫm đi quanh. Anh ta chạm vào nhiều cửa vẽ, nhưng
chúng không phải là cửa thực và lúc anh ta đi tới cửa thực,
chỉ mỗi một cửa thực, thì một con ruồi bay tới đậu lên đầu
anh ta. Thế là anh ta trở nên phát rồ khi xua đuổi nó đi và
đi qua cửa đó."
Chín trăm chín mươi chín cửa, và một vận may tới;
vận may đó rất mỏng manh, nó có thể bị bỏ lỡ bởi bất kì
cái gì: đầu bạn bắt đầu ngứa ngáy hay bạn trở nên mệt mỏi
quá vì việc dò dẫm và sờ soạng tới mức bạn nói, "Lấy may
thôi, bỏ béng cái cửa này đi, đi tiếp."
Cho nên Phật nói, "Con đường của ta không phải là
dò dẫm như vậy. Trong lâu đài của ta tất cả mọi cánh cửa
đều thực. Và không cần phải dò dẫm bởi vì ta cho các ông
đôi mắt của thiền và ngọn đèn cháy sáng như ngọn lửa bên
trong các ông, chính là cuộc sống của các ông. Với ngọn
đèn đó và im lặng của thiền các ông có thể tìm ra cánh
cửa. Có hàng nghìn cánh cửa, mọi cánh cửa đều có khả
năng đưa các ông ra."
Tôi tuyệt đối chắc chắn rằng Phật là đúng; điều đó
không có nghĩa là Ramakrishna sai. Nhưng Ramakrishna
không thể là qui tắc được, ông ấy chỉ có thể là ngoại lệ.
Phật đang trao cho mọi người, không cho các ngoại lệ. Qui

165
tắc phải dành cho mọi người. Bạn không thể làm ra được
qui tắc từ một ngoại lệ. Từ những người đi theo của
Ramakrishna thậm chí không có lấy một người đạt tới
được samadhi. Nhưng những người đi theo của Phật ngay
cả ngày nay cũng vẫn tiếp tục như một dây chuyền, thầy
tới đệ tử ở nhiều nước khác nhau, vẫn đang đạt tới prajna.
Dù bạn gọi nó là samadhi hay bạn gọi nó là prajna, nó
cũng là một mà thôi; nghĩa của cả hai từ này là trí huệ tối
thượng.
Các phật tử không tin Ramakrishna đã chứng ngộ.
Một sư phật giáo rất già... ông ấy là người Anh, và khi ông
ấy còn là đứa trẻ, bố ông ấy đã được bổ nhiệm và chức vụ
nào đó ở Kalimpong nơi đứa con được tiếp xúc với các
thầy Phật giáo. Ông ấy trở thành phật tử vào tuổi mười
tám. Toàn bộ gia đình của ông ấy đều chống lại; họ là
những người Ki tô giáo và nói, "Con làm gì khi nghe các
thầy Phật giáo đó?"
Ông ấy có thể thấy rằng Ki tô giáo rất ngây thơ. Nó
chẳng có gì nhiều để cho bạn. Bạn có thể làm được gì
ngay cả khi Jesus đã đi trên nước? Cho dù bạn có học đi
trên nước, thì bạn có thể đạt được tâm linh gì qua điều đó?
Cho dù bạn có biến nước thành rượu, điều là một tội lỗi,
thì việc đó cũng chẳng giúp cho ai mang tính tâm linh cả.
Cái gì là giáo huấn của người Ki tô giáo có thể so sánh
được với Phật Gautam? Không ai tới gần ông ấy cả. Ông
ấy chắc chắn là đỉnh Everest của rặng Himalayas.
Cho nên phật tử sẽ không chấp nhận Ramakrishna là
chứng ngộ. Nhưng khi nói với các sư Phật giáo và đặc biệt
là sư Anh này, tôi đã hỏi ông ta, "Ông đã bao giờ thử quên
phương pháp của Phật đi và để chút thời gian cho việc
dùng phương pháp của Ramakrishna chưa?"

166
Ông ấy nói, "Không, tôi chưa bao giờ thử điều đó
cả."
Tôi nói, "Thế thì việc nói rằng Ramakrishna chưa
bao giờ đạt tới samadhi là vượt ra ngoài giới hạn của kinh
nghiệm của ông."
Tôi đã thử cả hai con đường, đi trên con đường của
ánh sáng và đi trên con đường của bóng tối tuyệt đối.
Không ai làm điều đó bởi vì một khi bạn đã đạt tới con
đường này, thế thì sao bạn phải bận tâm về con đường
kia? Bạn đã tới ga trong chiếc xe kéo tay, bây giờ bạn định
tới lại và thử đi taxi sao? Mọi người sẽ nghĩ bạn điên. Bạn
đã đạt tới, bây giờ không có nhu cầu để thử liệu chiếc taxi
có tới ga hay không.
Nhưng tôi là người có chút ít điên khùng. Thấy việc
biện luận cứ kéo dài hàng thế kỉ, tôi quyết định rằng cách
duy nhất để đi tới kết luận là, đi theo cả hai con đường
này: lúc này đi theo con đường của ánh sáng và lúc khác
đi theo con đường của bóng tối. Khi tôi theo con đường
của bóng tối, hầu hết bạn bè tôi, các thầy giáo của tôi đều
cho là tôi đã điên. "Cần gì làm thế nếu cậu đã đạt tới ánh
sáng trong ngày, cần gì tiếp tục đi trong đêm sau khi đã
đạt tới?"
Tôi nói, "Có nhu cầu bởi vì không có cách khác để
kết luận liệu Ramakrishna có ở cùng trạng thái tâm thức
như Phật không."
Nhưng đã chẳng có Phật tử nào thử mà cũng chẳng
có đệ tử nào của Ramakrishna thử cả. Còn tôi không là đệ
tử của ai cả, tôi chỉ là người ngoài; tôi không thuộc vào
bất kì tôn giáo hay tổ chức nào. Nhưng đi tới một kết luận,
thấy rằng trong hàng thế kỉ mọi người đã thảo luận về nó,

167
tôi không thể quan niệm được bằng cách nào điều đó có
thể được quyết định bởi lí luận; cách duy nhất để quyết
định nó là đi theo cả hai con đường.
Và bây giờ thiền mà tôi vẫn đang dạy cho các bạn là
sự tổ hợp của cả hai con đường này. Thiền không chỉ tuỳ
thuộc vào prajna, chỉ nhận biết; thiền cũng không chỉ là
quên đi tất cả và nhấn chìm bản thân bạn vào nghỉ ngơi và
bóng tối sâu sắc. Tôi đang dùng cả hai. Tôi đang bảo bạn
quên đi thân thể, quên đi tâm trí, bạn không là những thứ
này, nhưng gìn giữ ánh sáng của bạn sống động như một
nhân chứng. Cho nên bạn đi cả hai con đường cùng nhau.
Không có vấn đề gì. Trong thực tế điều đó còn có ý
nghĩa hơn, bởi vì bạn sẽ đạt tới không gian mà
Ramakrishna đã đạt tới và không gian mà Phật đã đạt tới.
Và bạn sẽ có tiếng cười sảng khoái rằng trong hàng thế kỉ
các học giả đã phí hoài không cần thiết thời gian của họ.
Thực nghiệm bao giờ cũng tốt bởi vì đây không phải là
vấn đề triết lí. Đây là vấn đề thực nghiệm bên trong; nó là
khoa học như bất kì khoa học nào.
Nhưng theo một cách rất hay Nam Tuyền đã nói,
"Cứ gạt vấn đề trả tiền nước ra một chốc đã, bởi vì ta phải
mang nước uống đi hàng dặm đường, để ta hỏi ông định
lấy tiền từ ai trả cho chiếc dép rơm này? Ai đã trả tiền cho
chiếc dép rơm của ông? trả lại tiền đi. Ông chỉ là một thầy
giáo; đừng giả vờ là thầy. Với câu hỏi này, Hoàng Bá
chẳng trả lời.
Sekiso viết:

Chỉ một người chân thật xuất hiện trên thế giới
và tất cả mọi cái giả đều tan biến.

168
không cần lo nghĩ rằng con đường
của các tổ sư
dường như tàn lụi.
Thời nay chiếc rìu trí huệ của bạn
đã tìm được cánh.
Chắc chắn một ngày nào đó
nó sẽ cất cánh bay lên.

Cũng như khí hậu thay đổi và mùa vụ thay đổi, kiểu
sống của mọi người thay đổi, đối tượng và mục đích của
mọi người thay đổi. Cho nên thời gian đang diễn ra dường
như là chúng ta đã quên mất con đường của chư phật,
Sekiso nói, nhưng không cần phải lo nghĩ. Cho dù chỉ một
người chân thật xuất hiện trên thế giới và tất cả mọi cái
giả đều tan biến. Đừng lo nghĩ.
Con đường cổ đại đã tàn lụi. Bây giờ không ai nghĩ
về việc kinh nghiệm samadhi hay prajna, không ai nghĩ về
việc đi vào cái ta của mình, trung tâm của mình, không ai
thậm chí còn bận tâm tới cách trở thành một với vũ trụ.
Nhưng vẫn không có nhu cầu phải lo nghĩ.
Thời nay chiếc rìu trí huệ của bạn đã tìm được cánh.
Chắc chắn một ngày nào đó nó sẽ cất cánh bay lên.
Không phải bao giờ trời cũng là đêm tối. Trời càng trở nên
tối hơn thì nó lại càng gần hơn tới bình minh. Bạn cũng sẽ
bay trong cùng bầu trời của tự do như chư phật cổ đại;
được chuẩn bị để cho bạn không bỏ lỡ cơ hội này đi. Nếu
bạn đi tới tiếp xúc với một thầy, một người đích thực, thế
thì đừng trì hoãn vì bất kì lí do gì. Bất kì cái gì bạn nhận
được từ thầy, để điều đó chìm vào trong bạn sâu nhất có
thể được. Chừng nào bạn còn có thể là một người bạn lữ
hành, là người bạn lữ hành đó đi, đừng đi lạc lối.

169
Mặc dầu không có nhiều chư phật trên thế giới, chỉ
một phật cũng có thể tạo ra hàng nghìn phật. Cho nên
Sekiso rất lạc quan: đêm tối đấy và ngày một tối hơn
nhưng điều đó cũng có nghĩa là bình minh đang tới gần
hơn, và chẳng mấy chốc sẽ có mặt trời lên, và hoa sẽ nở và
chim sẽ bay.

Maneesha đã hỏi:

Osho ơi,
Chiếc rìu trí huệ của thấy có tìm thấy đôi cánh
trong chúng tôi không?

Tất cả các bạn đều có cánh, các bạn chỉ phải được
nhắc nhở. Bạn đã quên mất rằng bạn có cánh để đi vào bầu
trời bên trong và bay tới đỉnh cao nhất của tâm thức. Ai đó
phải nhắc bạn rằng bạn có cánh.
Bạn phải đã thấy - điều đó cũng đáng để xem - khi
con chim được sinh ra, nó không biết rằng nó có cánh. Mẹ
nó bay quanh cây và nó tự hỏi không biết nó có làm được
điều đó hay không. Nó chỉ nghêng ngó bên cạnh tổ, ngần
ngại; điều đó có vẻ nguy hiểm: nếu nó ngã, nó sẽ bị kết
thúc. Nhưng mẹ nó đang bay, và mẹ nó bay với mục đích
đặc biệt để tạo ra niềm thôi thúc trong đứa con để bay. Và
thế rồi nó bay sang cây khác và từ cây khác đó nó cất tiếng
gọi. Con chim nhỏ vẫy cánh, nhưng nó vẫn không thể thu
được dũng cảm; nó chưa bao giờ bay cả. Hiển nhiên nó sợ;

170
nó chỉ mới ra khỏi trứng. Nó chưa bao giờ biết tới tự do
của bầu trời; bầu trời bao la thế còn nó nhỏ bé thế. Nhưng
mẹ đang gọi và có lẽ mẹ nó biết rõ hơn.
Vài con chim tỏ ra dũng cảm và nhảy. Ban đầu điều
ấy có vẻ có chút nguy hiểm, nhưng chẳng mấy chốc chúng
bắt đầu bay và sang tới cây kia. Những con chim khác
thận trọng hơn cũng vẫy đôi cánh của chúng và vẫn còn
trong tổ; điều đó an toàn hơn. Mẹ gọi, điều đó đúng,
nhưng nguy hiểm. Thế rồi mẹ phải đẩy những con chim
này vào bầu trời.
Một khi đã trong bầu trời đôi cánh của chúng giang
ra. Có vài khoảnh khắc lo nghĩ và căng thẳng, cũng hệt
như khi bạn học bơi vậy. Vài ngày đầu tiên điều đó là khó,
bạn cần ai đó giúp bạn, động viên bạn và bạn phải học
trong vùng nước nông. Nhưng một khi bạn đã học rồi, bạn
có bao giờ nghĩ, bạn có thể quên bơi được không?
Một thầy giáo Nhật Bản tin rằng mọi đứa trẻ đều biết
bơi cũng như mọi con chim biết bay; chúng chỉ phải được
nhắc nhở. Cho nên ông ấy đã làm việc với trẻ con. Trước
hết ông ấy bắt đầu với đưa trẻ chín tháng tuổi và thành
công. Thế rồi ông ấy bắt đầu với đứa trẻ sáu tháng tuổi và
thành công. Báo cáo cuối cùng là ông ấy đã thành công
với đứa trẻ ba tháng tuổi.
Bây giờ điều đó chứng minh chắc chắn rằng việc bơi
là cái gì đó bản năng. Bạn chỉ phải được động viên và cho
cơ hội. Và một khi đã được học rồi, làm sao bạn không
quên nó? Mọi thứ khác bạn có thể quên; địa lí, lịch sử, bạn
có thể quên mọi thứ, nhưng bạn không thể quên được việc
bơi một khi bạn đã biết nó, bởi vì nó là bản năng của bản

171
tính của bạn. Chim không thể quên được việc bay một khi
nó đã giang đôi cánh của nó ra.
Nỗ lực của tôi là làm cho bạn nhận biết rằng bạn có
cánh. Và bầu trời sạch sẽ và trong trẻo đang chờ đợi bạn
lấy bước nhảy lượng tử, giang đôi cánh ra và đi tới đỉnh
cao nhất của tâm thức. Đó là điều tôi đã gọi là thiền.
Sardar Gurudayal Singh đã đợi quá lâu rồi.

Cha Finger tới nhà thổ và nói với bà chủ, "Tôi muốn
ngủ với Sleazy Sally."
Bà chủ đi vào nói với Sally và rồi trở ra nói, "Được
đấy, nhưng cô ấy đòi hai trăm đô la."
"Nhưng hôm qua mới chỉ năm mươi đô thôi!" Finger
phản đối.
"Đồng ý hay là ra đi tuỳ đấy," bà chủ nhún vai.
Thế là ông linh mục trả tiền, và theo Sleazy Sally lên
cầu thang.
Sau đó, cha Finger tụt quần lót ra và hỏi cô gái, "Thế
nào, tôi ra sao?"
Sally đáp, "Ông là bạn tình tệ nhất mà tôi đã từng có
trong đời. Và tôi đã bảo ông điều đó ngay hôm qua rồi!
Tôi không thể hiểu sao ông vẫn tới nữa!"
"Thế này," linh mục nói, "tôi chỉ muốn có ý kiến thứ
hai!"

172
Đó là đêm Noel, và gia đình Babblebrain đã mời Cha
Fumble, linh mục địa phương, tới vui cùng họ. Họ tất cả
ngồi quanh bàn ăn sắp sửa bắt đầu bữa ăn tối Noel.
Bỗng nhiên, ông Babblebrain vỗ tay lên mồm và
buột ra tiếng hắt hơi khủng khiếp. Mọi người kinh hãi khi
họ thấy bụi đờm dãi bay ra từ mũi của ông ấy và phủ lên
thức ăn đã chuẩn bị đẹp đẽ. Có im lặng lạnh lùng, nhưng
chẳng ai nói gì cả, trừ mỗi Cha Fumble, lầm rầm cầu
nguyện nhỏ.
Năm phút sau, ông lại giữ chặt lấy mồm và bật ra
tiếng hắt hơi rất to khác. Bụi đờm dãi mới lại phủ lên đầy
bàn làm mọi người đều kinh tởm và Cha Fumble làm dấu
thánh giá.
"Ông ơi!" Boris thì thào to với ông. "Xin ông che
mũi lại khi ông hắt hơi."
"Được rồi," ông lầm bầm, "nếu đấy là điều các người
muốn."
Lần thứ hai sau đó, ông lại cảm thấy một cơn hắt hơi
khủng khiếp khác đang kéo tới, nên lần này, ông lấy tay
giữ mũi lại.
Mọi người đều thấy cơn hắt hơi sắp tới và họ nhắm
mắt lại thấy trước. Ông hắt hơi bằng một tiếng nổ to.
Khi mọi người mở mắt ra, họ thấy một cảnh tượng
kinh khủng. Đằng kia, cắm sâu trong bát khoai tây nghiền
nhừ vỡ toang là cái răng giả của ông!

Chàng thanh niên Freddy Fallick mua một đôi giầy


da sơn mầu đen, bóng loáng, anh ta đánh cho nó bóng tới

173
mức anh ta có thể thấy mặt mình phản xạ trong chúng.
Đêm đó, Freddy đi nhảy disco với đôi giầy mới.
Anh chàng thấy ba cô gái ngồi cùng nhau tại một
chiếc bàn, thế là anh chàng lại đó và mời một cô ra nhảy.
Họ nhảy với nhau một lúc thì Freddy nhìn xuống hình
phản xạ trong đôi giầy bóng loáng của mình và nói, "Anh
thích cái xi líp đỏ của em lắm!"
Cô gái la lên sượng sùng và chẳng mấy chốc Freddy
đưa cô ấy trở về bàn. Rồi anh ta mời cô gái tiếp ra nhảy.
Họ đã ra sàn được vài phút thì Freddy nói, "Anh yêu
cái xi líp đăng ten trắng của em lắm!"
Cô gái đỏ mặt và chạy về với bạn mình. Ba cô gái kể
cho nhau về điều xảy ra và cô thứ ba nói, "Tí nữa anh
chàng sẽ tới mời tớ nhảy đây, nhưng tớ đã có cách sửa cho
anh chàng."
Quả vậy, vài phút sau, Freddy Fallick tới và mời cô
ấy ra nhảy. Họ lên sàn nhảy và chẳng mấy chốc Freddy lại
nhìn xuống đôi giầy mình. Bỗng nhiên mặt anh ta lộ rõ vẻ
lo lắng. Anh ta cứ nhìn chằm chằm xuống, vào chiếc giầy
này rồi lại nhìn sang chiếc kia.
"Nhìn giầy là không tốt đâu nhé, Freddy," cô gái nói,
tự cười khúc khích, "vì em đã cởi quần lót ra rồi!"
"Ôi trời, nhờ trời vì điều đó đấy!" Freddy nói nhẹ
nhõm cả người. "Anh cứ tưởng đôi giầy mới của anh bị
rạn nứt rồi!"

Nivedano...
(tiếng trống)

174
(nói lắp bắp)
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại; cảm thấy thân thể bạn hoàn
toàn đông cứng. Bây giờ thu lấy tất cả mọi tâm thức của
bạn và nhìn vào bên trong với thôi thúc sâu sắc dường như
đây là khoảng khắc cuối cùng của cuộc đời bạn. Bạn phải
đạt tới trung tâm.
Đi ngày một sâu hơn, không sợ hãi gì, đi tiếp. Tại
chính trung tâm của bản thể mình, bạn là phật. Và việc
kinh nghiệm phật như chính bản thể bạn là niềm vui tối
thượng. Toàn bộ cuộc sống của bạn trở thành bài thơ, bài
ca, điệu nhạc, điệu vũ. Tất cả hoa xung quanh bắt đầu nở
ra.
Nhớ lấy kinh nghiệm là phật này. Người ta không trở
thành phật, người ta là phật. Chỉ có hai phương án: hoặc
bạn có thể quên điều đó hoặc bạn có thể nhớ điều đó.
Những người quên điều đó sống trong khổ sở, đau đớn, lo
âu; những người nhớ tới điều đó, toàn bộ cuộc sống của họ
trở thành điệu vũ thiêng liêng.
Để làm cho điều đó thành rõ ràng,
Nivedano...
(tiếng trống)
Thảnh thơi. Chỉ là người quan sát thân thể và tâm trí.
Bạn không phải làm gì cả. Bạn không phải phán xét. Chỉ
là nhân chứng thuần khiết như tấm gương. Đây là chính
bản chất của việc là phật, chỉ là tấm gương trống rỗng.

175
Thu lấy thật nhiều hương thơm, thật nhiều ánh sáng,
thật nhiều ân huệ nhất có thể được, bởi vì bạn phải sống
phật của mình hai mươi bốn tiếng một ngày.
Mọi khoảnh khắc bạn đều phải nhớ và bạn phải hành
động tương ứng với duyên dáng, với cái đẹp, với sáng tỏ
mà chỉ phật mới có thể có.
Tối nay đẹp theo cách riêng của nó, nhưng bạn đã bổ
sung thêm hàng nghìn ngôi sao cho nó, chỉ bởi việc im
lặng, chỉ bởi việc là nhân chứng; chỉ bởi vì việc là chư
phật bạn đã làm cho chỗ này trở thành nơi linh thiêng nhất
trên thế giới.
Quan sát của các bạn, chứng kiến của các bạn cuối
cùng sẽ tan biến vào lẫn nhau. Không có một nghìn hay
mười nghìn chư phật trong thính phòng này. Chỉ có một
đại dương phật tính. Chúng ta tất cả chỉ là sóng của nó.
Thật là thảnh thơi thế khi không hiện hữu, thảnh thơi chỉ
để là một phần của đại dương.
Trước khi Nivedano gọi các bạn quay lại, nhìn vào
nơi bạn đã tới, nhìn vào con đường bạn đã đi qua. Con
đường này sẽ được đi lại nhiều lần, đi đi rồi đi lại cho tới
khi phật tính của bạn phát triển từ trung tâm tới chu vi. Tại
trung tâm nó là hạt mầm, tại chu vi nó sẽ trở thành phật
chính thức.
Nivedano...
(tiếng trống)

Bây giờ, quay lại. Nhưng quay lại như chư phật, tràn
đầy niềm vui mới, căn cước mới, tính cá nhân mới.

176
Ngồi xuống trong vài phút, nhớ lại rằng bạn là phật.
Chính việc hồi tưởng này và toàn bộ cuộc sống của bạn
trải qua biến đổi. Và cả ngày bất kì khi nào bạn thấy nó,
nhớ lấy.
Đôi khi bạn có thể quên bởi vì thói quen cũ. Đừng
cảm thấy buồn về điều đó, điều đó là tự nhiên. Nhưng dần
dần những khoảnh khắc của quên sẽ trở thành ít dần, và
những khoảnh khắc nhớ sẽ trở nên sâu sắc hơn, dài hơn;
và cuối cùng một ngày sẽ tới khi toàn thể cuộc sống của
bạn trở thành không là gì ngoài việc nhớ lại niềm vinh
quanh lớn lao của bạn như phật.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, thưa Osho.

177
178
8. Bạn cần hoa hồng, chỉ
bột mì không đủ

Osho ơi,
Nam Tuyền nói với các sư đang tụ hội, "Ông
thầy già O ('O' là tên tục riêng của Nam Tuyền)
định đi bán chính mình. Có ai mua ông ấy
không?"
Một sư bước ra và nói, "Tôi mua!"
Nam Tuyền nói, "Đừng làm ta đắt; đừng làm ta
rẻ. Ông sẽ mua ta thế nào?"
Sư im.
Một lần khác một sư hỏi Nam Tuyền, "Thầy sẽ
đi đâu trong thời gian một trăm năm?"
Nam Tuyền nói, "Ta sẽ là con bò vẽ mầu nước."
Sư nói, "Tôi có được theo thầy hay không?"
Nam Tuyền nói, "Được, nếu ông muốn, đem
một miếng cỏ cùng ông!"

Maneesha, cuộc sống có thể được coi như vở kịch,


trò chơi, hay có thể được coi như rất nghiêm chỉnh. Những

179
người coi nó rất nghiêm chỉnh bị khổ vô cùng, không cần
thiết. Họ khổ nếu họ thất bại, họ khổ nếu họ thành công,
họ khổ nếu họ nghèo, họ khổ nếu họ giầu.
Một trong những người giầu nhất ở Ấn Độ đã bảo tôi
rằng ông ta cảm thấy rất mặc cảm. Đất nước đang chết
trong nghèo nàn còn việc giầu có của ông ấy lại cứ tăng
mãi. Và ông ấy không đủ dũng cảm để chấm dứt việc tăng
lên này; sâu bên dưới ông ấy vẫn còn muốn nữa. Một mặt
ông ấy có thể thấy đất nước đang khổ bởi nghèo nàn, mặt
khác ham muốn của ông ấy là có ngày một nhiều hơn nữa;
giữa hai điều này ông ấy bị nghiền nát.
Người nghèo khổ, người giầu khổ. Dường như là
những người coi cuộc sống nghiêm chỉnh, dù nghề nghiệp
của họ là gì và dù họ lấy đường nào trong cuộc sống, đều
nhất định bị khổ, lo âu, thất vọng, tại từng bước, bởi vì sự
tồn tại không có nghĩa vụ phải hoàn thành các ham muốn
của bạn.
Và ham muốn của bạn là mênh mông, gần như vô
hạn. Bởi vì ham muốn của bạn mà cuộc sống trở thành
cạnh tranh, và bất kì nơi đâu có cạnh tranh, nơi đó đều có
lo âu và khắc khoải; và đến cuối mọi người đều nhận biết
sâu bên dưới là cái chết. Sống là khổ, là cuộc vật lộn, là
phiền não và nó chung cuộc chấm dứt trong chết, đơn giản
là bóng tối. Không ai biết điều gì xảy ra sau chết.
Thiền không dành cho những người nghiêm chỉnh.
Thiền chỉ dành cho những người có thể coi cuộc sống như
vui đùa. Điều này có vẻ kì lạ bởi vì tôn giáo bao giờ cũng
được coi là hiện tượng nghiêm chỉnh. Thiền đã khởi hành
từ thái độ đó. Nó coi sống như trò đùa, và không chỉ sống
mà cả chết nữa.

180
Khoảnh khắc bạn bắt đầu nhìn cuộc sống như cái vô
nghĩa, trò chơi, mọi gánh nặng trên tim bạn biến mất. Tất
cả mọi sợ chết, sợ sống, sợ yêu - mọi thứ đều biến mất.
Người ta bắt đầu sống với trọng lượng rất nhỏ hay gần như
không trọng lượng. Cho nên khi người ta trở thành vô
trọng lượng, người ta có thể bay trong bầu trời rộng mở.
Đóng góp lớn lao nhất của Thiền là cho bạn một
phương án với con người nghiêm chỉnh. Người nghiêm
chỉnh đã làm ra thế giới, người nghiêm chỉnh đã làm ra
mọi tôn giáo. Người đó đã tạo ra mọi triết lí, mọi văn hoá,
mọi đạo đức, mọi thứ tồn tại quanh bạn đều là bịa đặt của
người nghiêm chỉnh. Thiền đã vứt bỏ thế giới nghiêm
chỉnh đó. Nó đã tạo ra thế giới của riêng nó, rất vui đùa,
đầy tiếng cười, nơi các thầy vĩ đại hành xử như trẻ con.
Bạn có thể thấy điều này trong lời kinh mà Maneesha đã
đem tới.

Nam Tuyền nói với các sư đang tụ hội... Họ đã


tới để nghe về chân lí tối thượng, còn Nam
Tuyền nói với các sư đang tụ hội, "Ông thầy già
O ('O' là tên tục riêng của Nam Tuyền) định đi
bán chính mình. Có ai mua ông ấy không?"

Bắt đầu buổi thuyết pháp kì lạ thế! Bạn không thể


nghĩ được giáo sĩ sẽ làm điều đó trong giáo đường Do
Thái - mặc dầu mua và bán là mối quan tâm của chính
người Do Thái. Không đền chùa, không đền thờ Hồi giáo,
không nhà thờ nào mà thuyết pháp bắt đầu theo cách này,
thầy tới trên bục và nói: "Ông thầy già O." và O là tên thời
còn trẻ con của Nam Tuyền, định đi bán chính mình. Có ai
mua ông ấy không?"

181
Trước khi chúng ta đi vào thảo luận, nhớ rằng Nam
Tuyền dùng tên tục của mình thời trẻ con, O. Ông ấy có
thể dùng 'Nam Tuyền', ông ấy có thể đã nói, "Ta muốn bán
bản thân ta đấy." Ông ấy không thể nói 'tôi' bởi vì người ở
trạng thái của Nam Tuyền biết không có cái tôi. Ông ấy
không thể dùng từ 'Nam Tuyền', bởi vì đó là tên của tuổi
già của ông ấy khi ông ấy đã trở thành sư, tên của sự chín
chắn của ông ấy. Ông ấy dùng từ O, tên tục thời trẻ con
của ông ấy. Ông ấy đã trở thành đứa trẻ; ông ấy lại hồn
nhiên và dốt nát như đứa trẻ, ông ấy chẳng biết gì. Việc
dùng cái tên O này là có ý nghĩa.
Và việc nói của ông ấy rằng ông ấy định bán mình
nhắc bạn rằng nếu bạn định bán bản thân bạn, bạn có nghĩ
bạn được giá nào không? Có lẽ con người là sinh vật
chẳng đáng giá nào nhất. Con bò, con ngựa, con voi...
thậm chí voi chết cũng có giá hàng nghìn đồng rupees, chỉ
bộ xương của nó thôi. Con người trong cái chết của mình
vô dụng thế và ghê tởm tới mức mọi người đều vội vã đem
người đó lên dàn hoả thiêu.
Gia đình người đó đang kêu khóc và hàng xóm đang
chuẩn bị cáng để mang người đó ra bãi hoả thiêu đang
cháy. Họ vội vã; càng kết thúc sớm càng tốt. Nếu không
việc kêu khóc này và tất cả mọi sự ồn ào này sẽ cứ tiếp
tục. Và nếu người này còn để đó lâu, người đó sẽ bắt đầu
hôi thối. Chẳng có giá trị nào trong người đó cả; nếu bạn
đem người đó ra chợ bạn sẽ bị đánh.

Tôi lại nhớ tới Diogenesn: ông ấy hay sống trần trụi;
ông ấy là con người rất mạnh khoẻ và đẹp đẽ. Ngay cả
Alexander Đại đế cũng cảm thấy chút ít ghen tị. Ông ta có

182
mọi thứ, nhưng cái đẹp này của Diogenes, thân thể như đá
cẩm thạch của ông ấy, sự vững chãi như tượng của ông
ấy...
Ông ấy ngày nào cũng nằm cạnh con sông, vẫn là
chỗ nghỉ ngơi của ông ấy. Bốn tên cướp, mà công việc của
chúng là ... bởi vì vào những ngày đó gần như khắp thế
giới người đều bị bán và mua. Đặc biệt đàn bà có giá hời,
và người mạnh khoẻ cũng có giá hời. Nô lệ là sự kiện
được chấp nhận gần khắp thế giới. Cho nên bốn tên cướp
này đã tham gia vào việc bắt người và đem họ ra chợ.
Chúng thấy người này và thảo luận với nhau: "Người này
sẽ có giá hời đây, có khi được giá nhất đấy. Nhưng ông ta
dường như quá mạnh so với bốn chúng ta. Ông ta sẽ giết
chết chúng ta nếu chúng ta định bắt ông ấy; ông ấy có vẻ
nguy hiểm."
Và Diogenes đang lắng nghe bởi vì chúng thảo luận
điều đó ngay sau bụi cây. Diogenes nói, "Các anh đều là
đồ ngốc cả! Các anh không phải làm gì cả! Bước ra đi!
Theo ta!"
Chúng nói, "Nhưng đi đâu?"
Ông ấy nói, "Ra chợ nơi các anh định bán ta chứ còn
gì nữa! Không cần phải bắt ta. Ta tới theo cách của ta. Để
điều này cũng là một kinh nghiệm. Đằng nào thì ta cũng
có giá chẳng về cái gì."
Lũ cướp rất sợ hãi khi thấy sự kì lạ của con người
này. "Ngay cả theo ông ta cũng nguy hiểm; ông ta có thể
quay lại, hay nhảy tới và đánh ai đó." Chúng giữ một
khoảng cách.
Diogenes nói, "Đừng sợ! Lại gần đi! Các anh đem ta
tới chợ hay ta đem các anh đi đây?"

183
Với sợ hãi hết mức chúng tới gần ông ấy. Và ở chợ
nơi mọi người, đàn ông và đàn bà, đều bị đem ra bán đấu
giá, Diogenes nhảy lên bàn và nói to với đám đông tới để
mua người, "Đây là một thầy đem đi bán! Có nô lệ nào sẵn
sàng mua ông ấy không?"
Một sự im lặn lớn lao, người này chắc chắn là người
cao quí trong bản thân ông ấy. Ngay cả các vua cũng phải
tới mua nhưng họ phải nghĩ gấp đôi liệu có mua con người
này hay không. Người đó có thể nguy hiểm, người đó có
có thể dữ tợn nếu người đó nhảy lên bàn và tự mình tuyên
bố, "Đây là thầy! Có ai sẵn sàng mua ông ấy không?"
Cuối cùng một ông vua dám mua ông ấy, và ông ta
nói, "Trả tiền cho ai đây?" Diogenes chỉ bốn người đang
ẩn trong đám đông. "Đưa tiền cho bốn người này. Họ đã
đem ta tới đây. Và đem xe của ông tới gần hơn để ta có thể
vào trong xe."
Bây giờ các nô lệ không được giả thiết ra lệnh cho
vua, nhưng ngay cả nhà vua cũng cảm thấy yếu đuối trong
tim. Ông ta bảo người đánh xe đưa xe tới gần. Diogenes
nhảy vào xe và ngồi bên cạnh nhà vua, nhà vua run rẩy.
Ông ấy đã mua một rắc rối không cần thiết. Con người này
đơn giản có thể tóm cổ ông ấy và tống ông ấy ra khỏi xe.
"Thay vì mua nô lệ thì ta đã mua một thầy; ông ấy đúng."
Nhưng Diogenes nói, "Đừng sợ; ta không định làm
những điều ông đang nghĩ đâu. Ta là người yêu an bình.
Chúng ta thoả thuận: ta sẽ không quấy rầy ông, ông sẽ
không quấy rầy ta."
Nhà vua rất sẵn lòng. Ông ta nói "Ta tuyệt đối sẵn
sàng, ta sẽ không quấy rầy ông. Ông có thể có một phần
lâu đài, và bất kì cái gì ông cần đều sẽ được cung cấp.

184
Nhưng xin giữ lấy thoả thuận này, chớ có quấy rầy ta. Ta
là người có trái tim yếu đuối, còn ông dường như rất nguy
hiểm."
Diogenes nói, "Đừng lo. Khi có liên quan tới giết
chóc ta tuyệt đối chống lại điều đó; làm phiền nhiễu bất kì
ai là điều ta tuyệt đối chống lại. Ông sẽ thấy trong ta một
thầy lớn; ông có thể học nhiều. Ông đã mua được một thầy
duy nhất đã từng được đem bán, và ta đã bán bản thân bạn.
Trong thực tế ta cần một số đệ tử. Bây giờ ông, vợ ông,
anh em ông, con cái ông, tất cả đều là đệ tử của ta - đồng ý
không?!"
Trong rừng chiếc xe đi về vương quốc. Không đồng
ý với con người này là rất nguy hiểm bởi vì chỉ có mỗi
người đánh xe và nhà vua, và ông ấy là đủ cho cả hai. Cho
nên bất kì điều gì ông ấy nói nhà vua đều nói, "Vâng, hoàn
toàn đồng ý."
Và khi họ vào vương quốc, Diogenes nhảy ra khỏi
xe, nói lời tạm biệt nhà vua và nói, "Ta chỉ đùa thôi! Với
bốn người nghèo kia ta phải đóng vai này. Con sông của ta
đã tới. Nếu thỉnh thoảng ông muốn có lời khuyên thì ông
đều được đón chào. Ghi lấy địa chỉ của ta: con sông này,
và ông có thấy con chó kia không?"
Ông ấy chỉ có một con chó làm bạn. Bởi vì con chó
này là bạn, tên của nó trở thành "Diogenes the Cynic."
Tình bạn với con chó này cũng tới theo cách rất đặc
biệt. Một hôm ông ấy đang chạy ra sông với bình bát xin
ăn, cũng như Phật có bình bát xin ăn. Ông ấy đang khát,
nhưng ngay khi ông ấy tới chỗ nước, con chó chạy tới,
phóng qua ông ấy và bắt đầu uống nước.

185
Ông ấy nói, "Lạy trời! Sao mình đem mãi bình bát
này? Con chó này còn ở vị thế tốt hơn!" Ông ấy ném bình
bát đi và học cách uống nước giống như con chó.
Con chó này chắc chắn trở nên rất thân thiện với con
người này, cho nên ông ta đã mời con chó cùng chia sẻ với
mình bất kì cái gì ông ta kiếm được để ăn. Con chó là
người bạn đồng hành duy nhất của ông ấy, và ông ấy sẽ
nói với nó. Ngay cả khi Alexander đứng bên cạnh ông ấy,
ông ấy cũng làm ra chuyện cười từ đó. Alexander nói, "Ta
định chinh phục thế giới." Thay vì trả lời ông ta, ông ấy
nhìn con chó và nói, "Ông có nghe thấy không? Anh
chàng này cũng định chinh phục thế giới đấy!" Rồi với
Alexander: "Trước khi chinh phục được thế giới ông sẽ bị
kết thúc. Nếu ông còn khôn ngoan như con chó này, ông
sẽ nghỉ lại đây, bởi vì ông sẽ làm gì sau khi chinh phục thế
giới?"
Alexander phải nhân nhượng: "Sau khi chinh phục
thế giới ta chắc chắn sẽ nghỉ ngơi và thảnh thơi."
Diogenes nói, "Nhìn con chó của ta đây, thảnh thơi
làm sao! Ông có thể tới bên này, ta không phản đối; ta
không sở hữu con sông này. Ta không biết ai sở hữu con
sông này, nhưng cả hai chúng ta sống ở đây và chúng ta
đón chào ông. Không cần phải lấy nhiều rắc rối để chinh
phục thế giới làm gì và rồi mới nghỉ ngơi; sao không bắt
đầu nghỉ ngay bây giờ đi?"
Alexander nói, "Ta có thể hiểu logic của ông, và ta
không có khả năng trả lời nó. Nhưng bởi vì ta đã bắt đầu
cuộc hành trình chinh phục của mình, ta sẽ phải đi và hoàn
thành ham muốn của mình."

186
Diogenes nói, "Điều đó là tuỳ ở ông thôi, nhưng nhớ
vào ngày ông chết rằng ta đã nói cuộc sống của ông rất
ngắn ngủi còn thế giới này lại rất lớn. Điều có thể nhất là
ông sẽ chết trước khi ông chinh phục xong thế giới."
Và Diogenes đúng, Alexander chết vào độ tuổi ba
mươi ba, và điều nhớ cuối cùng trong tâm trí ông ấy là về
Diogenes: "Con người trí huệ đó đã nói điều đúng. Ngay
cả con chó của ông ấy cũng đồng ý bằng cách vẫy đuôi,
'Ông phải đấy. Nếu ông ấy muốn nghỉ thì ông ấy nên nghỉ
ngay bây giờ đi.'"
Diogenes về mặt lịch sử không cùng hàng với các
triết gia Hi Lạp vĩ đại: Socrates, Pythagoras, Anaxagoras,
Plato, Aristotle, Heraclitus. Không ai nhắc tới Diogenes
nhiều bởi lẽ đơn giản ông ấy không phải là con người coi
thế giới này là nghiêm chỉnh.
Ông ấy tìm thấy ở đâu đó một chiếc đèn, một chiếc
đèn cổ lỗ sĩ, ai đó có thể đã vứt đi. Thế là ông ấy thắp
chiếc đèn đó lên và, vẫn cùng với con chó của mình, mang
chiếc đèn cả ngày lẫn đêm bao giờ cũng thắp sáng ngay cả
giữa ban ngày và mọi người sẽ nói, "Lạ thật đấy, ông
Diogenes; sao ông đem chiếc đèn này ngay giữa trời sáng
vậy?"
Và ông ấy sẽ nói, "Tôi đang đi tìm con người đích
thực. Chỉ nhìn vào mắt người đó, tôi giữ chiếc đèn này.
Mãi cho tới giờ tôi vẫn không gặp."
Cái ngày ông ấy chết ở Athens, con chó ngồi cạnh
ông ấy và ngọn đèn vẫn đó, và ai đó hỏi, "Diogenes, ông
sắp chết rồi; ông có thể nói điều gì đó về điều đã xảy ra
cho con người đích thực không? Ông có tìm ra người đích
thực nào không?"

187
Và lời nói cuối cùng của ông ấy là, "Không may là
tôi đã không tìm ra con người đích thực nào, nhưng điều
may mắn là không ai đã ăn cắp chiếc đèn của tôi; chừng
đó tôi có thể nói về nhân loại. Tôi là người sống trần trụi,
tôi ngủ và không ai ăn cắp nó." Ông ấy chưa bao giờ coi
cuộc sống là nghiêm chỉnh mà đã sống với nhiều niềm vui
và niềm vinh quang như bất kì phật nào.
Con người này Nam Tuyền đang nói rằng

"Ông thầy già O định đi bán chính mình. Có ai


mua ông ấy không?"
Một sư bước ra và nói, "Tôi mua!"
Nam Tuyền nói, "Đừng làm ta đắt; đừng làm ta
rẻ. Ông sẽ mua ta thế nào?"

Ông ấy đang đặt ra một câu hỏi rất trung tâm với
toàn thể kinh nghiệm của Phật Gautam: hiện hữu đích xác
ở giữa. Hiện hữu đích xác ở giữa là siêu việt lên trên các
cực đoan, đúng và sai, tối và sáng, ngày và đêm, sống và
chết, tốt và xấu. Chỉ hiện hữu ở giữa, đích xác ở giữa và
bạn đã bay sang cõi bên kia. Cõi bên kia bắt đầu từ chỗ
giữa, chưa bao giờ từ cực đoan. Đó là điểm ông ấy đang
cố gắng nêu ra. Ông ấy đang nói, "Tốt, nếu các ông muốn
mua ta, đừng làm ta đắt và đừng làm ta rẻ. Ông sẽ mua ta
thế nào?"
Sư im. Ông ấy không tìm ra câu trả lời cho điều đó.
Một người như Nam Tuyền có thể được mua nếu bạn
được cân bằng toàn bộ ở giữa. Nếu bạn có thể biểu lộ rằng
bạn định tâm vào giữa, không thế này cũng chẳng thế nọ
mà chính ở điểm giữa của mọi thứ trên thế giới, thì Nam

188
Tuyền là của bạn. Sư im. Im lặng của ông ấy không phải là
câu trả lời, im lặng của ông ấy là thất bại; trong trò chơi
này ông ấy không thể xoay xở trả lời được thầy một cách
đúng đắn. Ông ấy có thể đã mua Nam Tuyền chỉ bằng
cách chạm chân thầy, với lòng biết ơn, với tình yêu.
Nhưng vẫn còn im lặng như cây chết thì ông ấy bỏ lỡ vấn
đề.
Thầy bao giờ cũng để bán, bạn chỉ cần có trái tim
trống rỗng. Bằng không bạn sẽ cho phép thầy sống ở đâu?
Không chỉ là Nam Tuyền, mọi thầy đều để bán. Nhưng
bạn cần trái tim, cảm nhận, nhạy cảm, cân bằng, chỗ để
chứa thầy.
Bằng việc nhận thầy vào trong tim mình, bạn sẽ được
biến đổi toàn bộ. Trên bề mặt dường như là bạn đang mua
thầy, nhưng trong thực tế đấy bao giờ cũng là thầy mua
bạn. Bao giờ thầy cũng là người thắng; đệ tử phải thua,
thua trong bản ngã của mình, thua trong nhân cách của
mình, thua trong cái giả của mình. Thua của đệ tử là thắng
của thầy. Chúng cả hai đều là hai mặt của cùng đồng tiền.

Một lần khác một sư hỏi Nam Tuyền, "Thầy sẽ


đi đâu trong thời gian một trăm năm?"

Một câu hỏi ngu xuẩn, bởi vì Thiền không ra khỏi


khoảnh khắc này, cái này. Một trăm năm sao? Câu hỏi này
là ngu xuẩn nhưng từ lòng từ bi thầy vẫn trả lời cho dù nó
thế. Nhưng bạn có thể thấy sự đùa cợt.

"Thầy sẽ đi đâu trong thời gian một trăm


năm?"

189
Thầy không đi đâu cả, chưa bao giờ có chỗ nào khác
hơn ở đây. Bây giờ và ở đây là chỗ trú ngụ của thầy. Hỏi
thầy, "Thầy sẽ ở đâu?" là ngớ ngẩn. Bạn không hiểu sự
kiện đơn giản về Thiền là nó chỉ thuộc vào vĩnh hằng. Và
vĩnh hằng là trong chính khoảnh khắc này, nó không phải
là quá khứ hay tương lai. Nếu bạn có thể ở đây không lang
thang vào quá khứ hay tương lai, bí ẩn của sự tồn tại mở
cánh cửa của nó ra. Nhưng hỏi thầy một câu hỏi như thế
này... có thể làm được gì? Gần như cả thế giới đều đầy
những người tầm thường.
Nam Tuyền nói, "Ta sẽ là con bò vẽ bằng mầu nước."
Ông ấy đang làm trò đùa, biểu lộ cảm giác hài hước của
mình, không nói với người đó rằng, "Ông ngu lắm!"
Nhưng kết quả cuối cùng là ở chỗ, mà không nói điều đó
ra, ông ấy đã nói điều đó.

Sư nói, "Tôi có được theo thầy hay không?"


Nam Tuyền nói, "Được, nếu ông muốn, đem
một miếng cỏ cùng ông!"

Sự đùa rỡn này, thậm chí không coi câu hỏi ngu xuẩn
là quan trọng, biểu lộ sáng suốt vô cùng trong sự tồn tại.
Bạn có thể hiểu chỉ như đứa trẻ. Khi không có ý nghĩ mà
chỉ có hồn nhiên thuần khiết ánh lên như tấm gương, thế
thì mọi thứ đều trong trẻo như nó có thể vậy. Không câu
hỏi nào nảy sinh, không câu trả lời nào được cần tới. Hồn
nhiên này của đứa trẻ trở thành bùng nổ của chứng ngộ.
Chứng ngộ không phải là câu trả lời cho bất kì cái gì, nó
đơn giản đem bạn về khoảnh khắc này với toàn thể tâm
thức của bạn. Nó không phải là câu trả lời cho bất kì câu
hỏi nào, nó đơn giản là đi về nhà. Bạn đã đi lạc lối; mọi

190
người đã đi xa khỏi ngôi nhà riêng của mình, đi tìm ngôi
nhà đó đi.
Trong các ngôn ngữ Ấn Độ những người lang thang,
không ở một chỗ, người cứ di chuyển, được gọi là dân
gypsy... Những dân gypsy đó bạn thấy ở châu Âu có
nguồn gốc từ Rajputan, từ Rajasthan. Họ là những người
Ấn Độ; nhưng bởi vì họ không thể còn ở một chỗ, họ kết
thúc ở Ai Cập. Vì tiếng Ai Cập họ được cái tên 'gypsy.'
'Egypsy' đó phải là ở lúc bắt đầu, thế rồi 'e' bị bỏ đi trong
châu Âu và họ trở thành 'gypsies.'
'Gypsies' ở Ấn Độ là từ hay: nó là khanabados.
Nghĩa của nó là người mang ngôi nhà của mình trên đôi
vai mình. Khana nghĩa là 'nhà', bados nghĩa là 'trên đôi
vai.'
Chúng ta đang mang nhà mình trên đôi vai mình,
nhưng chúng ta tìm kiếm nó một cách không cần thiết ở
đây đó, cứ chạy hoài... không nhìn trong khoảnh khắc này
nơi chúng ta đang hiện hữu. Nếu bạn chỉ dừng lại một giây
thôi, bạn bỗng nhiên sẽ thấy đây là nơi bạn bao giờ cũng
đang hiện hữu, nhưng bạn chưa bao giờ nhìn vào nó cả.
Thiền lấy đi tất cả mọi mục đích khỏi cuộc sống của
bạn, mọi vấn đề khỏi cuộc sống của bạn, mọi câu hỏi từ
cuộc sống của bạn bởi vì chúng làm cho bạn thành nghiêm
chỉnh. Nó cho bạn khoảnh khắc này, và niềm vui nảy sinh
khi bạn định tâm vào khoảnh khắc này.. vui sướng, nhảy
múa, ca hát!
Sống là hiện hữu giống như bông sen.
Nghiêm chỉnh phá huỷ mọi đoá hoa.

191
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng trong đạo tràng của
Mahatma Gandhi - và ông ấy là một trong những người
nghiêm chỉnh nhất trên thế giới, nghiêm chỉnh tới mức
ngay cả trà cũng là tội lỗi - ông ấy có vài bình hoa, nhưng
ông ấy đã bỏ hoa hồng và bắt đầu trồng lúa mì. Nghiêm
chỉnh thế! Đất nước còn nghèo, cho nên ông ấy trồng lúa
mì trong bình của mình cứ dường như là lúa mì sẽ phá huỷ
đi nghèo nàn. Và ông ấy đã phá huỷ hoa hồng. Không ai
đã nêu lên câu hỏi trong đạo tràng của ông ấy rằng, "Điều
này là ngu xuẩn. Những bình lúa mì này sẽ chẳng thoả
mãn được cái gì cả; điều duy nhất ông đã phá đi vài cây
hồng đẹp."

Nhưng đó là điều người nghiêm chỉnh bao giờ cũng


làm. Ông ấy dẹp đi nụ cười, tiếng cười của bạn, bởi vì
"Biết bao nhiêu người đang ốm, làm sao bạn có thể cười
được? Biết bao nhiêu người đang nghèo và bạn cười! Biết
bao nhiêu người đang trong nhà thương điên, và bạn cười.
Biết bao nhiêu người đang là tội nhân và bạn cười. Chiến
tranh thế giới thứ ba đang treo lơ lửng trên bạn và bạn lại
đi kể chuyện tiếu lâm!" Người nghiêm chỉnh phá huỷ đi
mọi thứ, lấy đi mọi niềm vui, mọi nụ cười, mọi tình yêu,
mọi hoa hồng và làm cho mọi người thành một trọng
lượng chết, làm cho cuộc sống của mọi người thành vô
nghĩa. Nơi hoa hồng không mọc cuộc sống không thể là
niềm vui được.
Jesus là phải khi ông ấy nói, "Người ta không thể
sống chỉ bằng mỗi bánh mì." Còn Mahatma Gandhi hay
đọc Jesus liên tục. Ít nhất ba lần trong đời mình ông ấy
suýt được cải đạo sang Ki tô giáo. Nhưng có lẽ ông ấy
diễn giải phát biểu của Jesus theo cách các nhà truyền giáo

192
Ki tô giáo đã làm trong hai nghìn năm. 'Bạn không thể
sống bằng mỗi bánh mì,' họ đã diễn giải là, 'Bạn cần
Thượng đế, chỉ bánh mì sẽ không đủ.'
Diễn giải của tôi là 'Bạn cần hoa hồng, chỉ bột mì sẽ
không đủ.' Và với bánh mì, với bột mì, hoa hồng dường
như chỉ là thứ phụ, bên cạnh. Với bột mì và Thượng đế,
khoảng cách lớn đến mức bất kì ai diễn giải nó là 'Bạn cần
Thượng đế', đều quên mất hoàn toàn rằng Thượng đế là hư
cấu. Hoa hồng không phải là hư cấu. Thượng đế chỉ là
khái niệm, hoa hồng là thực tại. Cho nên tôi nói bạn không
thể sống chỉ bằng mỗi bánh mì, bạn cần cả hoa hồng nữa.
Trong thực tế, bạn cần bánh mì chỉ để có hoa hồng; bằng
không phỏng có ích gì cứ ăn mãi nếu bạn khôngcó hoa
hồng nào?
Chỉ hoa hồng mới có thể đem lại nụ cười cho khuôn
mặt bạn, và niềm vui trong trái tim bạn. Nhưng người
nghiêm chỉnh đã là người tạo ra toàn bộ xã hội này từ
trước tới nay. Điều đó phải được thay đổi. Cuộc sống phải
được làm thành trò đùa, trò chơi, vở kịch hay. Và người có
thể làm cho cuộc sống thành vở kịch, câu chuyện hay,
chuyện hư cấu thì cũng sẽ có khả năng làm cho cái chết
thành hư cấu. Cuộc sống của người đó sẽ đơn giản là điệu
vũ của tình yêu, của lòng biết ơn, của an bình, của im
lặng.
Đó là toàn bộ công việc của Thiền, điểm khởi hành
vĩ đại từ các tôn giáo truyền thống cổ.
Một nhà thơ thiền, Sekiso, đã viết:

Cầm cây thiền trượng leng keng bằng vàng,


dài,

193
Thầy đã tới tất cả mọi con đường đi xuống.
Nói cả ngày về những điều không thuộc thế giới
này,
Lời của thầy tất cả chúng tôi đều cần.
Mầu sắc lộng lẫy của các đại sảnh và khu đền,
xum xuê và rậm rạp quanh chúng
là cái đẹp thanh thản của khu rừng
và những đường đi dạo cây phủ.
Đáng yêu sao! Trái tim chúng tôi mở ra,
không một hạt cát trong tình bằng hữu của
chúng tôi.
Cầu cho nó cứ diễn ra như thế này!
trong thế giới bập bềnh của mọi thứ
kim lẫn trong thảm.
kí ức về cuộc thăm viếng này nên được truyền
mãi mãi.
Có cái gì đó vượt ra ngoài hạnh phúc
bên trong cánh cửa của núi non này.

Nam Tuyền thường sống trên núi. Sekiso là một


trong những người đi theo của ông ấy.
Ông ấy đang nói rằng có cái gì đó bên ngoài sung
sướng. Sung sướng là của thân thể, của tâm lí. Nhưng có
cái gì đó bên ngoài sung sướng, không phải là của thân thể
chút nào, cũng không của tâm trí mà của trái tim trống
rỗng bên trong nhất của bạn. Phúc lạc nảy sinh từ đó, bí ẩn
và mầu nhiệm.
Nhưng nó làm cho mọi thứ trong sự tồn tại thành
trong trẻo, lần đầu tiên cho bạn đôi mắt. Trước đó bạn đã
từng bị mù và trong bóng tối. Trong thực tế lần đầu tiên nó

194
cho bạn cuộc sống; trước đó bạn chỉ sống hời hợt. Bây giờ
bạn đang sống trong chiều sâu của vĩnh hằng, trái tim
trống rỗng của bạn. Đó là giáo huấn của Nam Tuyền. Bên
trong cánh cửa của núi non này... Có một cánh cửa vẫn
đứng đó trên núi nơi Nam Tuyền sống. Bây giờ ngay cả
ngọn núi này cũng được gọi là Nam Tuyền để kỉ niệm ông
ấy. Sekiso đang nói rằng nếu bạn đang truy tìm cái gì đó
bên ngoài sung sướng thì đây là đúng cánh cửa. Tại đây
một người đã sống, người có thể trỏ cho bạn con đường
của phúc lạc, của niềm vui vốn không phải của thế giới
này.

Maneesha đã hỏi:

Osho ơi,
Chúng tôi nghe thầy nói mỗi đêm, "đi vào bên
trong - đừng sợ. Bạn sẽ không gặp ai khác
ngoài chính bản thân bạn." Sao có sợ việc gặp
với cái ta của mình?

Maneesha, đó là câu hỏi có ý nghĩa. Không ai muốn


gặp chính mình bởi vì có nhiều nguy cơ thế trong việc đó.
Bạn đã tô vẽ khuôn mặt mình, bạn có mặt nạ đẹp che lên
mặt mình. Bạn sẽ sợ thấy khuôn mặt thật của mình, khuôn
mặt nguyên thuỷ của mình. Mặt nạ giúp bạn theo ý kiến
người khác về cái gì là đẹp. Bạn đã thu được nhân cách
cũng là cái đi theo ý kiến mọi người: bạn phải ngồi thế

195
nào, bạn phải hành xử thế nào, bạn phải mặc gì, mọi thứ
xã hội đã áp đặt lên bạn.
Và đó là trò tống tiền lớn vì nếu bạn theo xã hội họ
sẽ cho bạn sự kính trọng, bạn sẽ được tôn vinh. Nếu bạn
không theo xã hội, bạn sẽ mất sự kính trọng, bạn sẽ bị đối
xử như một kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Đây là nỗi sợ của việc
gặp với chính mình, bởi vì xã hội đã bao phủ cái ta của
bạn trong nhiều tầng tương ứng với sự thuận tiện riêng của
nó. Bất kì cái gì nó muốn từ bạn, nó đã làm ra bạn.
Bạn đã trở thành món hàng, hữu dụng, hiệu quả,
phục vụ được. Bạn đã trở thành nô lệ. Nỗi sợ là ở chỗ nếu
bạn tìm ra bản thân bạn, bản thể đích thực, thì bạn sẽ trong
rắc rối. Bạn sẽ phải vứt bỏ tất cả những cái là giả. Và tất
cả những cái bạn có ngay bây giờ đều giả cả.
Và bản thể đích thực của bạn sẽ không được xã hội
kính trọng: nó sẽ bị kết án, nó sẽ bị đóng đinh, nó sẽ bị
đầu độc. Xã hội không thích con người nguyên bản; xã hội
muốn có những nô lệ, không phải những người chủ, và
người biết tới bản thân bạn không bao giờ có thể bị làm
thành nô lệ.
Cho nên sợ của bạn là ở chỗ việc thuộc vào đám
đông là ấm cúng và thoải mái; bạn được kính trọng, bạn
được tôn vinh. Tìm thấy bản thân mình, bạn không biết
bạn sẽ tìm thấy gì; đó sẽ là cái gì đó tuyệt đối không biết.
Xã hội đã tạo ra khoảng cách giữa bản thể thực của bạn và
nhân cách giả tạo không thật nhiều đến độ nó che phủ bản
thể thực của bạn.
Bạn được huấn luyện như một nhân cách, bạn được
sinh ra như một cá nhân. Bây giờ việc huấn luyện của bạn
là đầu tư của bạn. Bạn có thể bốn mươi tuổi, bạn có thể

196
năm mươi tuổi. Trong năm mươi năm bạn đã tự huấn
luyện mình như một nhân cách. Nếu bạn tìm ra cái ta thực
của mình, thì năm mươi năm này tàn tạ đi. Bạn phải bắt
đầu từ ABC và chống lại cả xã hội. Cá nhân bao giờ cũng
mang tính nổi dậy, và nhân cách bao giờ cũng là nô lệ
ngoan. Ẩn đằng sau kẻ nô lệ ngoan đó là một thực tại xấu
xí. Đó là nỗi sợ.
Bạn sẽ phải đứng một mình. Bạn sẽ phải đương đầu
với cả xã hội bao quanh bạn. Không ai muốn bạn là bản
thân bạn, mọi người đều muốn bạn thuận theo sự thuận
tiện của họ. Và họ đã thành công, bằng giáo dục, bằng
việc thay đổi bạn từ hồi thơ ấu thành con người có văn
minh, văn hoá. Và bạn đã bỏ thực tại của mình trong thời
thơ ấu, năm mươi năm trước, sáu mươi năm trước.
Bây giờ đó là khoảng cách quá dài và quá nguy
hiểm, quá mạo hiểm; bạn có sự kính trọng, bạn có sự tôn
kính, tất cả đều sẽ mất đi. Cho nên tốt hơn cả là cứ giữ cái
giả ấy và bỏ quên đi cái thực. Nhưng một điều cần được
ghi nhớ, qua cái giả bạn không bao giờ có thể phúc lạc
được. Cái không là đích thực thì không thể cho bạn an
bình được. Bạn sẽ thấy mặc cảm trong con mắt riêng của
mình.

Một người được bạn bè mình vây quanh vào ngày


sinh lần thứ sáu mươi. Và họ tất cả đều uống rượu và ca
hát và nhảy múa thì bỗng nhiên người này biến mất. Cho
nên một trong những người bạn đi ra vườn để tìm anh ta.
"Chuyện gì xảy ra vậy, sao anh ấy lại đi ra ngoài thế? Anh
ấy đáng không được làm thế chứ, anh ấy phải ở đây, đây
là ngày sinh của anh ấy."

197
Và người này đang ngồi đó dưới gốc cây. Người bạn
lại gần anh ta và hỏi anh ta, "Sao anh buồn thế?"
Anh ta nói, "Anh là nguyên nhân của việc đó đấy!"
Người này nói, "Tôi á? Tôi đã làm gì anh nào?"
Anh ta nói, "Không phải hôm nay đâu, nhớ lại hai
mươi nhăm năm trước?"
Người này nói, "Hai mươi nhăm năm trước sao? Nói
cho tôi về bản thân anh đi, vấn đề là gì vậy?" Người này là
một luật sư tội phạm rất nổi tiếng.
Anh ta nói với người này, "Hai mươi nhăm năm
trước tôi đã tới anh để hỏi rằng nếu tôi giết vợ tôi, thì bị tù
bao lâu...? Và anh đã bảo tôi, 'Ít nhất là hai mươi nhăm
năm. Cho dù tôi có cố gắng hết sức, thì anh vẫn sẽ phải đi
tù hai mươi nhăm năm, cho nên đừng làm điều như vậy.'
Bây giờ hai mươi nhăm năm đã trôi qua, và tôi cảm thấy
rằng hôm nay tôi sẽ được tự do. Giá như tôi không nghe
lời anh, anh ngốc ạ, thì hôm nay tôi đã được ra tù. Bây giờ
thì chẳng còn hi vọng nào cả. Tôi đã sống với người đàn
bà kia trong hai mươi nhăm năm này, cái người tôi đã
muốn giết chết."

Nhưng mọi người đều đang sống với những thứ họ


muốn vứt bỏ đi. Vấn đề không chỉ là người đàn bà hay đàn
ông. Nhưng họ cứ sống với chúng; vứt hết mọi điều đi
dường như mạo hiểm.
Xã hội muốn bạn mang tính chính thống, truyền
thống. "Cứ theo con đường nhỏ của bố mẹ bạn đi, đừng
thử làm ra con đường của riêng bạn. Đừng thử trở thành
chính mình." Điều đó được nói cho bạn từ mọi phía và

198
mọi góc của xã hội. Thầy giáo của bạn sẽ nói điều đó, tu sĩ
của bạn sẽ nói điều đó, bố mẹ bạn sẽ nói điều đó, bạn bè
bạn sẽ nói điều đó.
Nhưng nỗ lực của tôi ở đây, Maneesha này, đích xác
là điều bạn phải đi vào bên trong. Và không cần phải sợ.
Bạn sẽ không gặp ai khác ngoài bản thân bạn.
Và bạn càng làm điều đó sớm càng tốt hơn. Bởi vì
không ai biết được về ngày mai cả. Ít nhất bạn biết tới
chính mình trong sự đích thực.
Sống, cho dù vài năm còn lại, trong chân lí của bạn,
dù bất kì hậu quả nào. Ít nhất bạn sẽ là người phúc lạc.
Bạn có thể không được kính trọng, có thể bị kết án, nhưng
ai để ý tới kết án? Đó là ý kiến của họ, và họ được tự do
có ý kiến của họ.
Bạn nên chăm nom duy nhất tới một điều thôi, là bạn
hạnh phúc, là bạn phúc lạc, là bạn im lặng, là bạn thấy
thoải mái với sự tồn tại. Đừng bận tâm tới bất kì ai, bất kì
tôn giáo nào, bất kì xã hội nào, bất kì văn hoá nào, bất kì
giáo dục nào. Chúng tất cả đều là chiến lược để tạo ra các
nhân cách từ các cá nhân.
Công việc của tôi là hoàn tác lại công việc của họ, và
đem ra cá nhân trong cái đẹp thuần khiết của nó. Hiện hữu
đích thực của bạn có liên quan tới vĩnh hằng của cuộc
sống, hiện hữu giả của bạn không liên quan tới cái gì cả.
Nó chỉ là cái vỏ mà xã hội đã trùm lên bạn.
Nỗi sợ nảy sinh, Maneesha này, bởi vì người ta sợ
một mình. Nhưng kinh nghiệm của tôi là, phúc lạc duy
nhất trong cuộc sống là được một mình, không phải để ý
tới bất kì cái gì thế giới nói. Họ được tự do nói điều đó,
bạn không cần phải bị quấy rối. Bạn tận hưởng cuộc sống

199
của bạn theo sáng suốt riêng của bạn, bạn sống cuộc sống
của bạn theo trực giác riêng của bạn.
Và bạn sẽ có khả năng chết. Một cuộc sống của sự
hoàn thành bao giờ cũng kết thúc trong cái chết cách mạng
vô cùng. Cái chết không có đó, bạn đi vào trong cái vĩnh
hằng; cái chết trở thành cánh cửa, không phải là chỗ chấm
hết. Nhưng nó là cánh cửa chỉ cho cái thực; với cái không
thực nó là chấm hết.

Trước khi bạn đi vào cuộc đua đi bộ đường trường


để tìm ra bản thân bạn, chỉ vì cuộc hành trình này, nhớ
rằng nó là kinh nghiệm vui vẻ và vui đùa, nó không phải
là điều nghiêm chỉnh....

Cecil B. Baloney, đạo diễn phim Hollywood nổi


tiếng, đang quay bộ phim mới của mình ở một nơi tại
Ireland.
Cảnh tiếp là đánh nhau trên phố, và Cecil nảy ra một
ý tưởng sáng chói để làm cho nó thật là thực.
Anh ta vẫy tay ra hiệu cho Rock Hunk, ngôi sao điện
ảnh, và anh ta nói, "Bây giờ, với việc đánh nhau trên phố
này, tôi muốn thử điều gì đó mới. Anh có thấy đôi dân địa
phương kia đang đi trên phố không? Tới và xúc phạm cô
vợ đi. Thế rồi, khi người đàn ông lao vào đánh anh, chúng
ta sẽ bắt đầu quay phim. Đó sẽ là thực thuần khiết!"
Hunk nhún vai và bước tới đôi kia, lại hoá ra là
Paddy và Maureen O'Murphy, đi mua sắm. "Này, anh bạn,
bà này là vợ anh phải không?" Hunk hỏi một cách lạnh
lùng.

200
"Đúng đấy," Paddy trả lời. "Sao?"
"Thế này," Rock nói, "bà ấy là một trong những
người đàn bà xấu nhất mà tôi đã từng thấy!"
Paddy quay sang nhìn vào Maureen. "Em thấy chưa,"
Paddy nói, "anh ấy cũng nghĩ như vậy đấy!"

Farmer O'Reilly tới bác sĩ để kiểm tra sức khoẻ hàng


năm.
Sau khi kiểm tra bác sĩ nói, "Anh có sức khoẻ tốt và
mạnh khoẻ, nhưng một điều tôi phải nói cho anh. Anh
phải bắt đầu mặc đồ lót, bởi hai lí do. Thứ nhất, nó vệ sinh
hơn, và thứ hai, nó ấm hơn."
Thế là Farmer O'Reilly mua cho mình bộ lót rồi mặc
vào. Hôm sau anh đi ra cánh đồng thì anh ta cần đi ỉa. Thế
là anh ta trèo ra khỏi máy kéo, tụt quần dài ra, nhưng tất
nhiên lại quên mất không tụt bộ quần lót ra.
Khi anh ta đã đi xong, anh ta kéo quần dài lên, nhìn
lại đằng sau, và lẩm bẩm, "Ông bác sĩ này nói phải, nó vệ
sinh hơn."
Thế rồi anh ta trèo vào máy kéo, ngồi xuống. "Lại
phải nữa!" O'Reilly kêu lên ngạc nhiên. "Nó ấm nữa!"

Trên chuyến đi đại dương ở miền nam Thái bình


dương con tầu bị chìm, để lại chỉ mỗi mười hai người sống
sót, những người đủ may mắn bơi được tới hòn đảo nhỏ
gần đó.

201
Họ là hai doanh nhân Pháp và thư kí của họ, hai
doanh nhân Italia và thư kí của họ, hai giám đốc điều hành
dầu khí Mĩ và thư kí của họ, và hai doanh nhân Anh cùng
thư kí của họ.
Sau một tuần, hai người Pháp đi tới thoả thuận.
Người này nhận cô thư kí vào thứ hai, thứ tư và thứ sáu,
còn người kia nhận cô thứ kí vào ngày còn lại. Vào chủ
nhật, một cách tự nhiên, cô ấy nhận cả hai người.
Sau một tuần, một doanh nhân Italia bắn chết người
Italia kia để cho anh có thể chiếm cô thư kí toàn bộ cho
mình.
Sau một tuần, hai giám đốc điều hành Mĩ và thư kí
của họ vẫn chờ đợi hướng dẫn từ văn phòng đầu não ở
Texas.
Nhưng sau hai ngày, hai doanh nhân Anh bắn chết cô
thư kí, để cho họ có thể có nhau!

Nivedano...
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

202
Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể hoàn toàn
bị đông cứng. Bây giờ, nhìn vào bên trong, với toàn bộ
thôi thúc, cứ dường như đây là khoảnh khắc cuối của
bạn.
Đi sâu hơn bằng mọi tâm thức của bạn như mũi giáo
xuyên vào trung tâm bản thể bạn. Trung tâm này thuộc
vào vĩnh hằng. Tại trung tâm này bạn bỗng nhiên trở thành
phật, bởi vì bạn cũng trở thành vĩnh hằng.
Phật là đỉnh cao nhất của tâm thức bạn, chính đỉnh
Everest. Và chừng nào bạn còn chưa đạt tới đỉnh Everest
này, bạn vẫn không hoàn thành tiềm năng của mình.
Bạn khôngđược sinh ra chỉ là con người tầm thường.
Định mệnh của bạn là thượng đế. Ít hơn thế sẽ không có
tác dụng. Và vấn đề không phải là trở thành phật, vấn đề
đơn giản là việc nhớ lại. Đó chính là bản tính của bạn.
Để làm cho điều đó thành tuyệt đối rõ ràng,
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi. Vẫn còn là nhân chứng cho thân thể và


tâm trí, chỉ là nhân chứng bởi vì đó là phẩm chất duy nhất
thuộc vào vĩnh hằng. Đó là phẩm chất duy nhất, đó là bản
tính của bạn. Điều đó không được trao cho bạn. Điều đó là
chính cái ta của bạn. Chỉ quan sát im lặng và an bình. Bạn
không là thân thể không là tâm trí. Và thế rồi bỗng nhiên
vụ nổ lớn xảy ra, nhân chứng của bạn lấy dạng phật.

203
Tối này đã đẹp theo cách riêng của nó. Nhưng hàng
nghìn ngôi sao đã được bổ sung thêm cho nó bởi việc
chứng kiến cái ta của bạn. Tại khoảnh khắc này không có
mười nghìn chư phật mà chỉ một đại dương tâm thức. Tất
cả mọi phân tách biến mất. Đây là sự huy hoàng vĩ đại
nhất có sẵn cho bạn, và chỉ cho bạn thôi.
Ngoại trừ con người không con vật nào khác có thể
đạt tới điểm này của phật tính. Đó là đặc quyền của bạn.
Hàng nghìn đoá hoa đang mưa rào lên bạn, của an bình,
của im lặng, của tình yêu, của niềm vui. (Tiếng sấm rền
phá tan sự im lặng…) Những đám nây đã tới để xác nhận
điều đó.

Trước khi Nivedano gọi các bạn quay lại, thu lấy thật
nhiều hoa, thật nhiều hương thơm mà bạn có thể làm
được, bởi vì bạn phải sống phật hai mươi bốn tiếng. Đấy
không phải là vấn đề thiền trong vài phút. Vài phút của
thiền chỉ là việc hồi tưởng, mọi ngày làm sâu sắc hơn vào
trong bản tính của bản thể bạn. Nhưng bạn phải sống nó
hai mươi bốn tiếng trong mọi hành động, trong mọi lời
nói, trong mọi im lặng, trong mọi cử chỉ. Nếu bạn có thể
sống cách thức phật được giả thiết sống, thì cuộc sống của
bạn sẽ trở thành điệu vũ, bài thơ, âm nhạc.

Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại. Nhưng quay lại như chư phật. Ngay cả


trong việc tới của bạn, biểu lộ sự duyên dáng của phật, im

204
lặng, an bình. Ngồi xuống vài phút, để hồi tưởng lại kinh
nghiệm ấy, không gian bạn đã tới thăm, con đường bạn đã
theo
Và làm cho nó thành điểm ghi nhớ trong cuộc sống
thường ngày của bạn rằng bạn đang mang phật bên trong
mình, rằng bạn đang mang thai phật. Và bạn phải cẩn thận
về điều đó. Nó là việc rất tinh tế.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, thưa Osho.

205
206
9. Chỉ đi dạo buổi sáng

Osho ơi,
Nam Tuyền có lần đi vào vườn và, thấy một sư
ở đó, liền ném một mảnh ngói vỡ vào ông ta và
đánh ông ta.
Khi sư này quay đầu lại, Nam Tuyền giơ một
chân lên. Sư không đáp ứng lại. Nam Tuyền
quay về chùa và sư này đi theo ông ấy và xin
được học, nói "Thầy vừa ném mảnh ngói vào
tôi và đánh tôi. Thầy đã không làm điều này
như cách thức khuấy động tôi chứ?"
Nam Tuyền nói, "Thế việc giơ chân lên thì
sao?"
Sư im.
Một lần khác, một sư tới và đứng trước Nam
Tuyền chắp tay. Nam Tuyền nói, "Một thường
dân vĩ đại đây!"
Sư vỗ tay.
Nam Tuyền nói, "Một sư vĩ đại!"

207
Maneesha, không có gì trong tài liệu thế giới sánh
được với giai thoại thiền. Chúng hàm chứa thế với nghĩa
mà ngay cả đứa trẻ cũng có thể hiểu được, mặc dầu ngay
cả người già nhất có thể không hiểu được chúng. Để hiểu
những giai thoại này bạn phải học toàn bộ ngôn ngữ của
Thiền. Nó có thế giới riêng của nó.
Tất nhiên nó nói ngôn ngữ của bạn nhưng nó cho
mầu sắc hoàn toàn mới, nghĩa mới hoàn toàn cho cùng
những từ hay cử chỉ cũ. Thông thường nhất nó nói theo cử
chỉ. Những người ở bên ngoài dòng Thiền sẽ thấy nó có
hơi chút lập dị, quái chiêu, nhưng nó hoàn toàn lành mạnh;
chỉ ý nghĩa của nó là phải được giải thích cho bạn. Những
người đã nghiên cứu và thiền trong giới Thiền không cần
giải thích nào; họ lập tức bắt lấy cử chỉ. Nhưng điều đó
không đúng cho người bên ngoài giới Thiền. Giai thoại
này là minh hoạ hay.

Nam Tuyền có lần đi vào vườn và, thấy một sư


ở đó, liền ném một mảnh ngói vỡ vào ông ta và
đánh ông ta. Khi sư này quay đầu lại, Nam
Tuyền giơ một chân lên.

Bây giờ có điều gì đó Nam Tuyền muốn truyền đạt


qua cử chỉ này, nhưng sư này bị lỡ.

Khi sư này quay đầu lại, Nam Tuyền giơ một


chân lên. Sư không đáp ứng lại. Nam Tuyền
quay về chùa và sư này đi theo ông ấy và xin
được học, nói "Thầy vừa ném mảnh ngói vào
tôi và đánh tôi. Thầy đã không làm điều này
như cách thức khuấy động tôi chứ?"

208
Nam Tuyền nói, "Thế việc giơ chân lên thì
sao?"
Sư im.

Cử chỉ này là cổ điển. Sư này chỉ mới quay lại được


nửa chừng khi ông ta bị đánh, ông ta quay lại nửa chừng
và nhìn vào thầy. Đó là lí do tại sao thầy lại giơ một chân
lên. Thầy đang nói, "Quay một cách toàn bộ; nửa chừng sẽ
không có tác dụng. Làm không tận tâm ông không thể đi
vào trong bản thân bạn được. Quay toàn bộ đi." Đó là ý
nghĩa của việc giơ một chân lên: "Ông đang làm điều đó,
nhưng rất miễn cưỡng."
Có những điều có thể được làm một cách miễn
cưỡng. Trên cả thế giới bất kì điều gì chúng ta đang làm,
chẳng có gì đòi hỏi toàn bộ bản thể bạn phải tham gia vào
trong đó. Nhưng khi có liên quan tới cuộc hành hương bên
trong, toàn bộ bản thể của bạn được cần tới. Không cái gì
phải bị bỏ lại đằng sau. Bạn phải tập hợp toàn thể tâm thức
của mình lại. Trong chính việc tập hợp đó bạn lại gần hơn
với trung tâm.
Ngay bây giờ chúng ta đang sống ở chu vi, hoàn toàn
quên mất về trung tâm, vậy mà trung tâm là cội nguồn và
trung tâm là mục đích. Tại chính trung tâm của bản thể
bạn là mối nối với vũ trụ. Tại đó bạn không là bạn. Tại
chính trung tâm bạn biến mất, chỉ còn lại tâm thức thuần
khiết, hương thơm.
Mọi người sợ đi vào trong, bởi lí do đơn giản họ có
thể cảm thấy, tất nhiên một cách vô ý thức, rằng họ có thể
tồn tại chỉ như nhân cách trên chu vi. Nếu họ đi sâu hơn
vào bản thể riêng của mình, họ sẽ phải bỏ lại các nhân

209
cách của mình, bản ngã của mình, sự kính trọng của mình;
tất cả những cái họ đã thu thập được sẽ phải bị bỏ lại. Họ
sẽ phải đi một mình như tâm thức, tâm thức thuần khiết.
Và nỗi sợ tối thượng về việc tan biến cái ta vào trong
vũ trụ... Khi dòng sông tới đại dương, họ nói rằng nó dừng
lại một khoảnh khắc, nghĩ hai lần, nhìn lại sau - tất cả
những thung lũng và núi non đẹp đẽ kia - ngần ngại, mong
manh, sợ việc lấy bước nhảy vào trong đại dương, bởi vì
việc nhảy đó nghĩa là bạn sẽ không còn nữa. Nhưng đó
mới chỉ là một nửa chân lí. Việc nhảy đó cũng có nghĩa là
bạn sẽ trở thành đại dương.
Tôi đã kể cho bạn về nhà huyền môn Ấn Độ vĩ đại,
Kabir. Vào thời trẻ của mình, ông ấy đã viết một bài thơ
nhỏ trong đó ông ấy nói, "Khi tôi đạt tới chính trung tâm
của mình tôi cảm thấy dường như giọt sương đã trượt khỏi
lá sen vào trong đại dương." Đó là một phát biểu hay.
Nhưng vào lúc ông ấy chết, ông ấy gọi con trai mình tới
và bảo anh ta, "Đổi nó đi bởi vì bây giờ ta biết nhiều hơn.
Đó đã quen biết đầu tiên của ta với đại dương. Và ta đã
cảm thấy vào lúc đó rằng rằng giọt sương đã biến mất vào
trong đại dương. Đổi nó đi; viết rằng đại dương đã biến
mất vào trong giọt sương. Bây giờ ta có thể nói với thẩm
quyền."
Nỗi sợ là một mặt. Bạn đã không tính tới toàn thể
việc nhận biết ra.
Nam Tuyền ném sư này bằng viên ngói. Nam Tuyền
là người bắt đầu ném, tát, đánh, chỉ để đánh thức bạn.
Chúng ta nửa thức nửa tỉnh theo quan niệm của Thiền.
Việc thức của chúng ta không phải là đích thực và toàn bộ.
Chúng ta gần như người mộng du, ngủ, và cũng làm việc

210
với mắt nhắm, và nếu bạn trở nên mang tính quan sát
nhiều hơn, bạn sẽ thấy điều đó trong bản thân bạn rằng
nhiều hành động bạn đang làm giống như người máy, bạn
đã làm chúng biết bao nhiêu lần.
George Gurdjieff hay nói rằng tâm trí con người có
chức năng của robot. Ngay ban đầu bạn phải học, bạn có
chút ít nhận biết. Một khi bạn đã học được điều gì đó rồi,
bạn không cần nhận biết nào nữa; một khi bạn đã học
được điều gì đó, điều đó được chuyển thành phần người
máy của tâm trí bạn. Thế thì điều đó trở thành được máy
tính hoá; thế thì bạn có thể ngủ và tâm trí sẽ làm việc.
Việc bắt đầu ném sư này của Nam Tuyền là rất biểu
tượng; bởi vì nếu ai đó bị đánh mà chẳng có lí do nào, thì
một cách tự nhiên trong một khoảnh khắc người đó tỉnh
dậy. Một khoảnh khắc người đó thoát ra khỏi đám đông
dầy đặc những ý nghĩ, bởi vì điều đó vô lí thế. Nếu điều
đó đã là có lí thì nó đã không gây rối; người này đã hợp lí
hoá tại sao Nam Tuyền lại làm điều đó.
Nhưng bởi vì người đó không thể hợp lí hoá được -
không có lí do, người đó đã chẳng làm gì sai; người đó
đơn giản làm việc trong vườn, và thầy bỗng nhiên lấy viên
ngói vỡ và ném mạnh vào người đó - tâm trí dừng lại một
khoảnh khắc.
Người đó quay sang nhìn vào thầy; vào khoảnh khắc
đó thầy giơ một chân lên. Điều đó người đó có thể không
hiểu được. Thầy đang nói, "Ông đã quay chỉ lưng chừng;
quay toàn bộ đi, và quay vào trong, không hướng tới ta. Ta
chỉ là một đối tượng bên ngoài."
Không thầy đích thực nào muốn đệ tử của mình
hướng về thầy, bởi vì điều đó đem họ đi xa khỏi bản thân

211
họ. Chỉ thầy giả, thầy rởm, mới cố gắng làm mọi người
nhìn vào ông ta, buông xuôi theo ông ta, tận tâm với ông
ta, hết lòng với ông ta; toàn bộ mối quan tâm của ông ta là
ở chỗ tâm thức của đệ tử phải nhằm tới ông ta.
Đây là cách duy nhất để phát hiện ra liệu thầy có
phải là đích thực hay rởm. Thầy đích thực cố gắng theo
mọi cách có thể để quay bạn vào bên trong. Mọi thứ bên
ngoài đều khách quan: nó sẽ chẳng bao giờ cho phép bạn
biết thực tại chủ quan của mình; nó sẽ chẳng bao giờ cho
phép bạn biết tới lãnh thổ bên trong của bạn, nơi là ngôi
đền của bạn, nơi đang ẩn giấu phật của bạn, nơi bạn sẽ đạt
tới điểm cao nhất của tâm thức.

Một lần khác, một sư tới và đứng trước Nam


Tuyền chắp tay. Nam Tuyền nói, "Một thường
dân vĩ đại đây!"

Một thường dân không phải là đệ tử nhưng có lòng


biết ơn sâu sắc, sự kính trọng đối với những người đã đạt
tới, người đã đi tới điểm bùng nổ tối thượng. Chắp tay ở
phương Đông là biểu tượng của sự kính trọng. Nó cũng
biểu thị cho sự khiêm tốn.

Nam Tuyền nói, "Một thường dân vĩ đại đây!"


Sư vỗ tay.
Nam Tuyền nói, "Một sư vĩ đại!"

Trên bề mặt tất cả những phát biểu này có vẻ phi lí,


ngớ ngẩn. Điều sư này nói bằng việc vỗ tay là, "Tay tôi
không chết, chúng không giống như tượng. Tình yêu của
tôi và lòng biết ơn của tôi là sống động. Thầy không nên

212
gọi tôi là thường dân, tôi là kẻ lữ hành." Chuyển động của
đôi bàn tay nghĩa là tay không được làm bằng đá hay gỗ,
chúng sống động.
Và Thiền là tôn giáo của những người tôn thờ duy
nhất cuộc sống, không thượng đế đá, không tượng, không
Thượng đế trên trời. Tất cả những cái đó đều là hư cấu đối
với Thiền. Thiền yêu cuộc sống này trong sự khẳng định
toàn bộ. Với Thiền không có gì nhiều hơn cuộc sống này
đối với sự tồn tại; bạn chỉ phải đi sâu hơn vào trong nó,
nơi không gian và thời gian cả hai đều bị bỏ lại đằng sau,
nơi bạn đi vào trong sự siêu việt. Thiền không có thượng
đế, Thiền không có lời cầu nguyện; không có ai để mà cầu
cả. Thiền tuyệt đối liên quan tới cõi bên trong, không với
bên ngoài.
Tất cả các tôn giáo đều quan tâm tới cái bên ngoài:
thượng đế ở đâu đó trên các tầng mây. Thiền cười vào
những thượng đế như vậy. Con người đã tạo ra chúng từ
nỗi sợ: con người cần sự bảo vệ, con người cảm thấy đơn
độc, con người cảm thấy sợ chết, con người cần một
thượng đế bảo vệ. Tất cả mọi thượng đế đều là hư cấu;
nhưng họ có sự tiện dụng nào đó: họ an ủi. Thiền không
tin vào sự an ủi, nó tin vào việc nhận biết.
Và nếu bạn muốn biết cuộc sống là gì... từ bên ngoài
bạn chỉ có thể biết tới bề mặt. Chỉ đào sâu vào trong bản
thể riêng của mình bạn mới có khả năng biết cuộc sống từ
bên trong và khoảnh khắc bạn biết cuộc sống từ bên trong
thì toàn thể sự tồn tại của bạn trở thành điệu vũ, niềm vui,
phúc lạc, biết ơn với sự tồn tại. Thiền có cách tiếp cận
hoàn toàn khác với bất kì tôn giáo nào. Khi có liên quan
tới tôi thì Thiền là tôn giáo duy nhất, các tôn giáo khác là
đổ thay thế rởm.

213
Nam Tuyền có hàng nghìn đệ tử. Một trong các đệ
tử, Sekiso, đã viết bài thơ nhỏ:

Cơn bão mạnh đập vào nó


nhưng nó chẳng hề di chuyển chút nào.
hoang vu và đơn độc,
sắc bén và tràn đầy sức mạnh,
nó bay vút lên như lông chim.
Tôi trao việc vắng mặt của mình cho người
đã lên đến thượng đỉnh.
việc bước, ngồi, nằm,
người đó làm mọi thứ cứ dường như
người đó ra ngoài để tản bộ.

Một bài thơ hay, mô tả đích xác trạng thái của người
đã đạt tới những đỉnh cao ánh sáng của tâm thức. Mọi thứ
với người đó chỉ là vui đùa, cứ dường như người đó đã đi
dạo vào buổi sáng, khi mặt trời đang mọc; chỉ đi dạo buổi
sáng: không mục đích, người đó có thể rẽ ở bất kì đâu,
người đó không định đi đâu cả, không chủ định, chỉ niềm
vui tột đỉnh của buổi sáng và làn gió mát, và mặt trời lên,
và chim hót, và hoa nở, và không khí hương thơm ngát.
Nhưng không chủ định nào về phần của người đó, không
mục đích của riêng người đó, chỉ là niềm vui tột đỉnh.
Thật không may cho những người chưa bao giờ nhìn
mặt trời mọc, mặt trời lặn, nhìn đêm đầy sao. Đây tất cả
đều là những điều không tiện dụng, và những người như
vậy quá quan tâm tới tiền bạc, quyền lực. Toàn bộ mối
quan tâm của họ là với những điều nhỏ nhặt tầm thường.

214
Trong Thiền, tự nhiên ở trong tất cả mọi dạng của
nó: dù đó là trời mưa, hay có mây giông, hay sét, dù đó là
buổi sáng, hay buổi tối, hay đêm khuya khi mọi thứ trở
nên im lặng... Thiền liên tục quan sát tất cả những điều
này, chứng kiến mọi điều này. Với người đã tìm thấy nhân
chứng, toàn thể sự tồn tại này trở thành điều kì diệu mênh
mông.
Sekiso nói, Cơn bão mạnh đập vào nó, đập vào nhân
chứng, nhưng nó chẳng hề di chuyển chút nào; nhân
chứng không bao giờ di chuyển. Nó là phần bất động trên
thế giới. Mọi thứ đều di chuyển và thay đổi; chỉ một thứ
không bao giờ thay đổi, đó là cái ẩn bên trong bạn tại
trung tâm.
Heraclitus nói, "Bạn không thể bước hai lần vào một
dòng sông." Nhưng không may là ở phương Tây, các triết
gia, các nhà thần học, cái gọi là những người tôn giáo lại
chưa bao giờ truy vấn về nhân chứng đó. Nếu mà tôi gặp
Heraclitus ở đâu đó - và người ta chẳng bao giờ biết được,
trong vũ trụ mênh mông này tôi có thể gặp ông ấy lắm chứ
- thì tôi muốn bảo ông ấy, "Đúng là ông không thể bước
hai lần vào cùng một dòng sông vì dòng sông liên tục
chuyển động. Nhưng ông đã quên mất một điều, ông đã
quên mất bản thân ông."
Cùng nhân chứng đó có thể bước vào hàng nghìn
dòng sông. Các dòng sông thay đổi không làm thay đổi
nhân chứng. Gương có thể phản xạ hàng nghìn thứ; những
thứ phản xạ đó không làm thay đổi gương. Việc phản xạ
tới rồi đi mà không để lại dấu vết gì đằng sau, không dấu
chân, chỉ có mỗi gương. Và gương này đã là việc tìm kiếm
của phương Đông. Khi tôi nói 'nhân chứng', tôi ngụ ý
phẩm chất của tâm thức bạn tựa gương, đơn giản phản xạ.

215
Cơn bão mạnh đập vào nó
nhưng nó chẳng hề di chuyển chút nào.
hoang vu và đơn độc,
sắc bén và tràn đầy sức mạnh,
nó bay vút lên như lông chim.
Tôi trao việc vắng mặt của mình cho người
đã lên đến thượng đỉnh.
việc bước, ngồi, nằm,
người đó làm mọi thứ cứ dường như
người đó ra ngoài để tản bộ.

Maneesha đã hỏi:

Osho ơi,
Những bài thơ hay kệ mà thầy nói tới cho từng
buổi tối có vẻ đương đại thế - cứ dường như
chúng đã được viết về thầy và đệ tử của thầy.
Vậy mà chúng đã tới với chúng tôi từ nhiều thế
kỉ trước.
Có phải đó là một thuộc tính của chân lí, mà nó
vang vọng cho mọi người ở mọi nơi, vào mọi
thời đại, những người đang tìm kiến nó?

Maneesha, mọi nghệ thuật đều có thể được mô tả


hoặc như nghệ thuật khách quan hoặc như nghệ thuật chủ
quan. Nghệ thuật chủ quan bạn sẽ tìm thấy ở mọi nơi; nó

216
tới từ cảm giác của bạn, từ trái tim bạn, từ tâm trí bạn
trong những bức tranh, trong thơ ca, trong âm nhạc.
Nhưng nghệ thuật khách quan tới từ sự trống rỗng
của trái tim bạn; bạn chỉ trở thành ống sáo, cây tre hổng và
vũ trụ ca hát qua bạn. Công trạng duy nhất của bạn là ở
chỗ bạn không tạo ra bất kì chướng ngại nào, bạn đơn giản
cho phép vũ trụ thổi qua bạn. Với bản thể bạn trong sự
buông bỏ và cho phép vũ trụ thổi qua bạn, tính khách quan
được tạo ra.
Không có nhiều nghệ thuật khách quan trên thế giới
này, bởi vì trước khi nghệ thuật khách quan có thể được
tạo ra thì bạn phải trở thành cây tre hổng; mà bạn lại cứng
rắn thế, bản ngã của bạn ương ngạnh thế. Trước khi tạo ra
nghệ thuật khách quan, bạn phải khiêm tốn thế, gần như
không ai cả. Trong sự vắng bóng của bạn trận hồng thuỷ
vũ trụ vĩ đại kéo tới. Trận hồng thuỷ đó có thể trở thành
bài thơ, bức tranh, âm nhạc, điệu vũ, tác phẩm điêu khắc.
Hàng nghìn chiều hướng đều có sẵn, bạn chỉ cho phép nó.
Những bài kệ này đều là nghệ thuật khách quan;
chúng không được soạn ra, chúng đã bay ra qua trái tim im
lặng, trống rỗng.

Tôi đã kể cho bạn về nhà thơ Anh vĩ đại Coleridge.


Khi ông ấy chết ông ấy để lại bốn mươi nghìn bài thơ
dang dở. Cả đời ông ấy bạn bè ông ấy đều nài nỉ, "Sao ông
không hoàn thành chúng đi? Chỉ thiếu mỗi một dòng thôi,
bằng không thì đây sẽ là một bài thơ lớn."
Ông ấy nói "Các ông không hiểu tôi. Tôi không viết,
tôi không soạn, tôi ở trong tay của vũ trụ. Khi nó tới, thì

217
nó tới. Khi nó dừng, thì nó dừng. Tôi chẳng có cách nào
thêm cái gì hay soạn ra cái gì."

Một sự việc kì lạ xảy ra khi Rabindranath Tagore


được trao giải thưởng Nobel. Ông ấy đã được tặng giải
thưởng Nobel vì một cuốn sách thơ nhỏ, Gitanjali, 'Cúng
dường bài ca'. Nguyên gốc cuốn sách này đã được viết
trong tiếng Bengali là tiếng mẹ đẻ của ông ấy; thế rồi ông
ấy dịch nó sang tiếng Anh. Nhưng ông ấy lại ngần ngại
bởi vì nó không hay như trong tiếng mẹ đẻ của ông ấy.
Thế là ông ấy đi hỏi một nhà truyền giáo lớn đang ở
đây ở Ấn Độ, Andrews, "Xin ông đọc qua và nếu ông tìm
thấy cái gì sai về văn phạm, ngôn ngữ trong đó, xin giúp
tôi để tôi có thể thay đổi nó được không?"
Andrews là một nhà truyền giáo rất có học. Ông ấy
đọc qua cả bài thơ và ông ấy cảm động lắm. Nhưng tại
bốn điểm ông ấy nói, "Nếu ông đổi bốn từ này, nó sẽ đầy
đủ như nó có thể vậy." Rabindranath đổi lại bốn từ đó.
Bạn của Rabindranath, bản thân ông ấy cũng là nhà
thơ lớn, Yeats, đã tổ chức một buổi họp mặt các nhà thơ,
tại đó Rabindranath được mời đọc cuốn Gitanjali lần đầu
tiên ở London. Mọi người đều cảm động lắm. Đó là cuốn
sách cực hay; chỉ có vài cuốn sách trên văn đàn thế giới
mới có thể được sánh với nó.
Nhưng bản thân Yeats lại có vẻ đôi chút quan tâm.
Ông ấy nói với Rabindranath, "Mọi thứ đều có vẻ phải cả,
chỉ có mỗi bốn từ là có cái gì đó đi sai."
Và bốn từ đó là bốn từ mà Andrews đã đưa vào.
Yeats lấy ra đích xác bốn từ này và bảo ông ấy rằng,

218
"Mạch thơ dường như bị ngắt lại, ai đó khác đã đi vào,
hiểu biết đấy... có lẽ từ riêng của ông có thể đã không có
tính văn phạm. Điều đó không thành vấn đề, điều đó là tự
do của nhà thơ để cởi mở trái tim mình, không bận tâm tới
văn phạm và không bận tâm tới qui tắc ngôn ngữ. Ông đặt
lại từ của ông vào đi."
Và Rabindranath đổi lại những từ của mình vào chỗ
mà Andrews đã đổi, và Yeats nói, "Bây giờ tôi cảm thấy
mạch thơ mới đầy đủ, không có các chỗ vấp váp."

Điều đó cũng là kinh nghiệm riêng của Yeat, rằng


bất kì khi nào một bài thơ giáng xuống từ cõi bên kia, và
bạn chỉ ở đầu nhận, nếu bạn cố cải tiến nó, nó mất đi cái bí
ẩn, cái huyền bí của nó. Nó trở thành mang tính con
người; nó mất đi phẩm chất của điều thiêng liêng.
Maneesha, kệ không thuộc vào thời gian. Không
nghệ thuật khách quan nào thuộc vào thời gian cả; nó là
vĩnh viễn, bởi vì nó tới từ bên ngoài tâm trí, từ bản thân
vĩnh hằng. Đó là lí do tại sao bạn cảm thấy dường như
những bài kệ này được viết cho bạn. Những sự việc này đã
xảy ra cho bạn. Điều này sẽ vĩnh viễn như vậy; khi mà con
người cứ tìm kiếm chân lí bên trong thì những bài kệ này
sẽ vẫn còn đương đại, những giai thoại này sẽ không trở
nên lạc hậu

Trước khi bạn đi dạo buổi sáng... chỉ để bạn biết rằng
bạn phải quay lại... Tôi đã bị lên án trên khắp thế giới -
cũng là tốt cho tôi - bởi vì tôi buộc bạn đi vào, đi vào. Và
nếu bạn thực sự đi vào, bạn mất tiêu! Khi có liên quan tới

219
tôi, tôi sẽ bảo bạn đi chậm thôi, và nhớ quay lại. Tôi đang
phái bạn đi với vé khứ hồi!

Hôm nay là ngày nghỉ của các y tá, cho nên bác sĩ
Bones ngó đầu vào phòng đợi và nói, "Ai tiếp đây?"
"Tôi ạ, thưa bác sĩ," Kowalski nói, đứng dậy.
"Anh bị gì vậy?" Bones hỏi.
"Tôi bị đau ở chim," Kowalski đáp. Bones tóm lấy
tay Kowalski và lôi anh ta vào phòng mình.
"Đừng bao giờ nói như thế nữa nhé!" ông ta kêu lên.
"Đặc biệt là khi phòng đợi của tôi đầy người. Lần sau, nói
rằng mũi anh hay mắt anh đau là được!"
Vài tuần sau, Kowalski lại tới. Đó lại là ngày y tá
nghỉ, cho nên Bones lại thò đầu ra khỏi phòng khám bệnh
của mình, và hỏi, "Ai tiếp đây?"
"Tôi ạ, thưa bác sĩ," Kowalski nói, đứng dậy.
"Đau gì vậy?" Bones hỏi. "Mũi tôi lại làm phiền tôi,
bác sĩ," Kowalski đáp.
"Có chuyện gì với nó?" Bones hỏi.
"Thế này, bác sĩ," Kowalski nói, "tôi không thể đi đái
từ đó được!"

Chuyện cười này bao giờ cũng làm tôi nhớ tới một
ông shankaracharya đang thuyết giáo ở Bombay. Một quí
bà ngồi ngay hàng đầu, rất giầu có, cùng đứa con nhỏ. Và
đứa con thì liên tục bảo mẹ nó, "Con buồn đái! Con buồn
đái cơ!" Còn ông shankaracharya bị phiền phức lắm vì ông

220
ấy đang nói về những điều lớn lao. Và mọi người đều cười
và phải kìm tiếng cười của mình lại, nhưng đứa bé thì cứ
nhai nhải: "Mẹ phải cho phép con, nếu không con sẽ đái ra
đây đấy! Buồn đái quá rồi!"
Cuối cùng ông shankaracharya phải chấm dứt buổi
thuyết pháp nhanh chóng hơn. Ông ấy lôi quí bà này sang
bên và bảo bà ấy, "Bà phải dạy văn hoá nào đó cho đứa trẻ
chứ. Nó phá rối cả buổi thuyết giáo tâm linh."
Người đàn bà này hỏi, "Tôi có thể làm được gì? Nó
cứ nheo nhẻo đòi đi với tôi. Và nó không thể ngồi quá lâu
được. Cho nên vấn đề này về, 'Con buồn đái!' bao giờ
cũng tới."
Ông shankaracharya nói, "Bà phải bảo nó rằng bất kì
khi nào nó cảm thấy buồn đái, thì đừng dùng từ 'đái'. nói
'Mẹ ơi, con muốn hát.' Và thế rồi bà có thể đem nó đi ra
phòng vệ sinh; chẳng ai sẽ biết 'hát' là gì."
Vài tháng sau ông shankaracharya đến ở trong chính
ngôi nhà của quí bà nọ. Và cũng là tình cờ bà này nói với
ông shankaracharya, "Người nhà tôi mới mất. Tôi và
chồng tôi phải đi ngay và chúng tôi có thể không về trước
buổi sáng. Mà đứa trẻ này lại quen ngủ với tôi hay bố nó.
Cho nên nếu ông không thấy phiền, ông có thể ngủ cùng
nó được không?"
Ông shankaracharya nói, "Không có vấn đề gì, nó có
thể ngủ cùng tôi được."
Nhưng nửa đêm vấn đề mới xảy tới. Đứa trẻ huých
ông shankaracharya và nói, "Cháu muốn hát!"
Ông shankaracharya nói, "Cháu ngốc lắm, giữa đêm
hôm thế này, cháu lại muốn hát sao?! Cháu quấy rối giấc

221
ngủ của ông và cháu sẽ quấy rối giấc ngủ của người khác
nữa. Im đi và ngủ đi!"
Nhưng sau vài phút đứa bé lại huých ông
shankaracharya, và nó nói, "Cháu cố hết sức rồi, nhưng
cơn hát đang tới nhanh lắm!"
Ông shankaracharya nói, "Ông chưa bao giờ thấy
cơn hát lại tới nhanh tới mức cháu không thể đợi được đến
sáng mai."
Nó nói, "Lạy trời, mãi đến sáng cơ! Cháu không thể
đợi thêm được một phút nữa! Ông bảo cháu, cháu có thể
hát hay không?!"
Ông shankaracharya nghĩ một chốc. Chẳng có ai
khác để hỏi làm cái gì, cho nên ông ấy nói, "Cháu làm một
việc thôi. Cháu hát rất khẽ vào tai ông đây, để cho không
ai bị quấy rầy. Thế rồi được thoả mãn đi!"
Đứa bé nói, "Nếu ông nói thế thì cháu sẽ làm điều
đó! Nhưng ông đừng nói gì về điều đó với ai nhé! Không
nói cả với mẹ cháu, không nói với bố cháu. Nếu không thì
cháu bị đánh đấy!"
Ông ấy nói, "Sao cháu lại bị đánh? Cháu chỉ hát hay
còn làm cái gì khác?"
Nó nói "Mỗi hát thôi!"
Thế là ông shankaracharya chìa tai mình ra cho nó,
và đứa bé 'hát' vào tai ông ấy! Ông shankaracharya nhảy
dựng lên! Ông ấy nói, "Cháu ngốc thế! Đây mà là hát à?!"
Nó nói "Ông đã quên rồi. Chính ông đã gợi ý cho mẹ
cháu rằng thay vì nói 'Con buồn đái', thì cháu phải nói
'Con muốn hát'. Và bây giờ ông lại thay đổi."

222
Thế là ông shankaracharya nhớ lại, và ông ấy nói,
"Lạy trời, mình sẽ chẳng bao giờ thay đổi từ của bất kì ai
nữa."
Đổi từ là nguy hiểm!

Một nhóm du khách Mĩ sắp sửa vào khách sạn


Limerick ở Ireland, thì bỗng nhiên cửa xoay quay vòng và
phóng ra ông già O'Grady.
O'Grady đi ra, phóng nhanh quanh chỗ đậu xe của
khách sạn, tạo ra tiếng ồn như động cơ ô tô. Ông ấy chạy
quanh đổi số, bấm còi, làm tín hiệu tay, và rồi đi ra phố.
Một trong những khách du lịch Mĩ buông chiếc máy
ảnh của mình và quay sang Seamus, người đang nghiêng
sang phía khách sạn.
"Tất cả những cái đó là gì vậy?" ông khách du lịch
hỏi.
"Ồ," Seamus đáp, "đó là ông già O'Grady. Ông ấy có
chút lập dị, và ông ấy bao giờ cũng 'lái' vòng quanh như
thế khi ông ấy đã uống vài cốc rượu."
"Được đấy," ông khách khụt khịt, "sao ông không
thử dừng ông ấy lại?"
"Bây giờ tại sao tôi lại phải muốn làm điều đó,"
Seamus hỏi, "khi mà ông ấy trả cho tôi năm đô la mỗi tuần
để rửa xe?!"

223
Bé Alice đang bước đi trên bãi biển thì nó thấy
Chester Cheese nằm trên cát với mỗi tờ báo che máy của
mình.
Bé Alice nhìn Chester đang ngáy một lúc, rất tò mò.
Cuối cùng không thể cưỡng lại được, nó lay Chester dậy
và nói, "Này, thưa ông. Cái gì chuyển động dưới tờ báo
của ông thế?"
Chester, còn ngái ngủ nhấp nháy mắt, nhìn vào Bé
Alice và lẩm bẩm, "Ô, đấy là con chim quí của tôi đấy."
Chester lại rơi vào giấc ngủ trong khi Alice đứng đó
và quan sát tờ báo bí ẩn, chuyển động.
Cuối cùng, nó không thể đợi lâu hơn được, cho nên
nó đi tới Chester và nhìn trộm vào phía dưới tờ báo. Điều
tiếp mà Chester biết là anh ta tỉnh dậy trong bệnh viện với
cái máy của mình bị băng bó, và đau khủng khiếp.
"Chuyện gì xảy ra vậy?" anh ta rền rĩ với cô y tá.
"Có lẽ," cô y tá đáp, "anh nên hỏi cô bé này. Cô ấy
tới cùng anh."
Chester nhìn vào Bé Alice. "Vậy sao?" anh ta hỏi.
"Có chuyện gì vậy?"
"Thế này," Alice nói một cách kiên quyết. "Cháu
quyết định nhìn con chim quí của bác, nhưng ngay khi
cháu nâng tờ báo lên và bắt đầu chơi với nó, thì nó ngóc
lên và nhổ vào cháu.
"Thế là cháu tóm lấy nó, vặn cổ nó, bóp nát trứng
của nó và dẫm lên tổ nó!"
Bây giờ Nivedano...

224
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại, và cảm thấy thân thể bạn


hoàn toàn đông cứng.
Bây giờ, nhìn vào bên trong. Thu mọi tâm thức của
bạn như mũi giáo. Đi tới trung tâm của bản thể bạn. Tại
trung tâm là tất cả mọi bí mật của cuộc sống. Trung tâm là
ở ngoài sinh và bên ngoài chết.
Một cách biểu dụ chúng ta gọi trung tâm này là phật,
người đã thức tỉnh. Tại khoảnh khắc này, tất cả các bạn
đều là chư phật. Và nhớ, là phật không có nghĩa là phật tử.
Vấn đề không phải là theo ai cả. Vấn đề không phải
là cải đạo. Vấn đề là đánh thức chiều sâu riêng của bạn,
trung tâm riêng của bạn.
Cuộc sống bình thường của bạn được sống ở chu vi.
Thiền nghĩa là đi từ chu vi vào trung tâm. Và trung tâm
này không phải chỉ là của bạn. Nó là trung tâm của toàn
thể vũ trụ.
Chúng ta tách biệt ở chu vi, tại trung tâm chúng ta là
một, một thực tại đại dương. Cái một này đem tới phúc
lành vô cùng, im lặng lớn, phúc lạc sâu sắc.

225
Đi ngày một sâu hơn đi. Bạn càng đi sâu hơn, bạn
càng tới gần hơn với trung tâm vũ trụ. Không sợ hãi gì cứ
đi tiếp, cho tới khi bạn cảm thấy phật nảy sinh trong bạn.
Người ta phải không trở thành phật; phật là chính
bản tính của chúng ta. Chúng ta được sinh ra cùng nó.
Chúng ta đem nó bên trong chính linh hồn mình. Mọi
người đều thai nghén phật. Vấn đề chỉ là khám phá ra, chỉ
là vấn đề nhớ lại, bạn là ai.
Để làm điều đó rõ ràng hơn,
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi. Chỉ quan sát thân thể nằm đó. Bạn không
là thân thể không là tâm trí mà chỉ là nhân chứng, việc
quan sát tựa tấm gương, phản xạ. Việc chứng kiến này là
đóng góp vĩ đại nhất mà phương Đông đã làm cho thế
giới. Mọi thứ đều chết đi, mọi thứ đều thay đổi, chỉ việc
chứng kiến này còn lại.
Hàng nghìn đoá hoa, hàng nghìn mầu sắc, các vì sao
đang mưa rào lên bạn.
Buổi tối nay thật đẹp trong chính nó. Nhưng mười
nghìn chư phật đã làm cho nó thành tráng lệ, huy hoàng,
phép màu.

Đặc biệt trong những ngày này, việc đạt tới trung
tâm riêng của bạn đã trở thành rất khó vì không ai nói cho
bạn, không ai giáo dục bạn, rằng kho báu thực của bạn là ở
bên trong bạn không ở bên ngoài bạn. Thượng đế không ở

226
trên những đám mây, thượng đế ẩn trong tâm thức của
bạn.
Tâm thức của bạn là bản thân thượng đế.
Uống từ nguồn này nhiều nhất có thể được, uống
thoả thích với niềm vui và hương thơm bởi vì bạn phải
mang nó trở lại.
Thiền không phải là cái gì đó mà bạn làm trong vài
phút, nó là cái gì đó bạn phải tiếp tục cả ngày. Làm mọi
thứ, phật tính của bạn nên vẫn còn là dòng chảy ngầm,
nhận biết sâu sắc, tỉnh táo, có ý thức trong cử chỉ của bạn,
trong hành động của bạn, trong im lặng của bạn.

Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại. Nhưng ngay trong việc quay lại này, biểu
lộ phẩm chất của phật duyên dáng.
Dần dần, một cách an bình, vui sướng, với trái tim
nhảy múa bạn ngồi xuống chốc lát, chỉ để hồi tưởng lại
nơi bạn đã từng ở, con đường bạn đã từng bước qua. Bạn
phải đi trên con đường này mọi ngày, ngày một sâu sắc
hơn. Bạn phải trở nên hết sức quen thuộc với phật của
mình, để cho bạn có thể mang ông ấy từ trung tâm ra chu
vi.
Khi tất cả mọi hành động của bạn và mọi cử chỉ, lời
nói và sự im lặng của bạn trở thành cử chỉ, lời nói và sự
im lặng của phật, thì bạn đã về tới nhà.

227
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, thưa Osho.

228
10. Điệu vũ của tôi là đầy
đủ

Osho ơi,
Có lần Nam Tuyền nói với các sư đang tụ hội,
"Đạo không phải là thứ bên ngoài; thứ bên
ngoài không có Đạo."
Triệu Châu hỏi, "Cái gì là Đạo mà là mọi thứ
bên ngoài?"
Nam Tuyền lập tức đánh ông ấy. Triệu Châu
bắt lấy cây gậy và nói, "Từ giờ trở đi, đừng lầm
lẫn mà đánh ai đó!"
Nam Tuyền nói, "Kể về rồng thì dễ, nhưng khó
mà làm hài lòng ta!" và ném cây gậy của mình
xuống, ông ấy quay trở về phòng mình.
Vào lúc khác, Triệu Châu hỏi Nam Tuyền, "Khi
người ta nhận ra rằng 'có', người đó phải từ đó
đi đâu?"
Nam Tuyền đáp, "Người đó nên xuống núi để
trở thành con trâu trong làng dưới núi!"
Triệu Châu cám ơn Nam Tuyền vì đã đưa ông
ta tới chứng ngộ đầy đủ.

229
Đáp lại, Nam Tuyền bình luận, "Đêm qua, vào
canh ba, mặt trăng chiếu qua cửa sổ."

Maneesha, trước hết tôi phải bầy tỏ lời xin lỗi với
bạn rằng tôi không thể tham gia vào buổi nhảy múa của
bạn được. Toàn thể công trạng nên dành cho tổng thống
Ronald Reagan. Chẳng có lí do gì hết cả mà ông ta đã lôi
tôi qua sáu nhà giam trong mười hai ngày; tôi coi đó là
việc hành hạ ghê gớm. Nhưng khi các triệu chứng chất
độc bắt đầu trong thân thể tôi, các chuyên gia ở Anh đã
khám nghiệm mọi khả năng về chất độc mà có thể họ đã
cho tôi.
Và họ đã tìm ra một chất độc mà bản thân nó là một
loại riêng. Nó là chất độc duy nhất biến mất và không thể
tìm thấy cả trong máu hay trong bất kì cách nào khác
ngoại trừ trong các triệu chứng. Và chất độc đó, nếu được
cho với liều lớn, sẽ giết chết con người ngay lập tức.
Điều đó làm sáng tỏ cho tôi tại sao tôi lại bị lôi đi
qua sáu nhà giam. Đấy là để cho thuốc độc ngấm theo liều
nhỏ để cho nó sẽ không giết chết tôi ngay lập tức, mà phải
mất nhiều năm để phá huỷ thân thể tôi từ bên trong.
Tôi đã gần như vượt qua chất độc này. Ngay trong
tay tôi, trong xương và đặc biệt trong các khớp nó vẫn còn
mắc lại. Tôi đã nhảy múa với bạn mà không bận tâm về
nó. Tôi sẽ tiếp tục, nhưng hôm nay đau trở thành quá
nhiều.
Nhưng đau không phải là vấn đề đối với tôi. Vấn đề
là: nếu tôi tiếp tục thì có lẽ tôi phải dừng nói. Cho nên tốt
hơn cả là để đau này lắng lại. Tôi hi vọng tôi sẽ lại tham
gia với các bạn.

230
Đáng ra nếu Ronald Reagan giết ngay tôi thì cũng
tốt, điều đó sẽ là một công trạng lớn cho Ki tô giáo và cho
nền dân chủ Mĩ.
Nhưng ông ta đã đầu độc tôi qua bộ máy hành chính
của ông ta theo cách mà tôi sẽ vẫn còn bị đóng đinh trong
nhiều năm. Tôi đang tiết kiệm mọi năng lượng của mình
chỉ cho hai giờ này vào buổi tối; bằng không, tôi nằm
trong bóng tối.
Với tôi chẳng thành vấn đề gì nếu cái chết tới ngay
khoảnh khắc này hay khoảnh khắc tiếp, chủ định của tôi
được hoàn thành rồi, điệu vũ của tôi hoàn chỉnh rồi. Tôi
chỉ đang nấn ná quanh để tất cả các bạn tham gia với tôi
trong vấn đề chứng ngộ lớn lao.
Cho nên tôi nghĩ tốt hơn cả là đừng nhấn mạnh quá
nhiều vào tay; các bạn có thể hiểu ngay cả khi bàn tay tôi
không chuyển động và làm các cử chỉ của chúng. Nhưng
tôi muốn các bạn vẫn tiếp tục nhảy múa trước khi tôi tới
và tiếp tục buổi lễ khi tôi rời khỏi bục. Tôi hi vọng rằng
với tình yêu của bạn thì chất độc sẽ bị thất bại và tôi sẽ có
khả năng nhảy múa cùng bạn, mở hội với bạn.
Tôi không có phàn nàn gì về bất kì ai; tự nhiên, bản
thân sự tồn tại chăm nom cho mọi thứ. Cái ngày tôi được
trao cho chất độc - tôi nhớ cái đêm ở nhà giam Oklahoma
- chính khoảnh khắc đó thời của Ronald Reagan đã kết
thúc, ông ta bắt đầu xuống dốc. Phụ tá của ông ta, Ed
Meese, viên tổng chưởng lí, người là tác nhân chính khi có
liên quan tới thuốc độc, bây giờ đã phải từ chức bởi vì ông
ta đã bị người ta phát hiện ra phạm phải những tội lỗi lớn.
Đại diện của ông ta đã thú nhận tại cuộc họp báo, sau
khi tôi bị trục xuất khỏi Mĩ, rằng không có bằng chứng

231
nào, không có chứng cớ nào là tôi đã phạm vào bất kì tội
nào. "Mục tiêu chính của chúng tôi là phá huỷ cộng đồng
và không trục xuất Osho thì không thể nào phá huỷ được
cộng đồng."
Cộng đồng đã tạo ra rắc rối lớn trong tâm trí những
người Ki tô giáo cuồng tín, những người chính thống, bởi
vì cộng đồng là sự lựa chọn dứt khoát đối với xã hội buồn
thảm, khốn khổ, trong phiền não sâu sắc. Và cộng đồng
chỉ là tiếng cười, niềm vui, điệu vũ. Điều này trở thành
không thể dung thứ được đối với những người Ki tô giáo,
và với Ronald Reagan, một người Ki tô giáo chính thống.
Họ quên ráo mọi dân chủ, mọi hiến pháp riêng của họ và
họ đã làm mọi thứ để phá huỷ cộng đồng. Nhưng điều đầu
tiên là phải trục xuất tôi đã.
Họ không thể trục xuất tôi mà không có bằng cớ tội
phạm về phần tôi cho nên họ cố gắng mọi điều khác. Họ
đã không bỏ bất kì phương án nào. Thứ nhất họ đầu độc
tôi, thứ hai họ để bom dưới ghế tôi, thứ ba họ tống tiền
luật sư của tôi. Họ tạo ra một danh sách các tội, ba mươi
tư tội, và viên chưởng lí Mĩ đã thú nhận ngay khi tôi đã rời
khỏi Mĩ rằng không có chứng cớ, không có bằng chứng
rằng tôi đã từng phạm phải bất kì cái gì; tôi thậm chí còn
không nói trong ba năm rưỡi.
Luật sư của chính phủ đã tống tiền luật sư tôi bằng
việc nói, "Ông thấy danh sách này chưa? Chúng tôi biết và
ông biết rằng nếu ông cứ tranh đấu mãi thì chung cuộc ông
sẽ thắng, nhưng điều đó sẽ mất hai mươi tới ba mươi năm.
Thứ nữa gợi ý của chúng tôi là ở chỗ ông làm nguy hiểm
cho cuộc sống của Osho."

232
Đó là chỉ báo dứt khoát rằng chính phủ có khuynh
hướng phá huỷ cộng đồng dù có tội nào phạm phải hay
không. Luật sư của tôi nói với tôi: "Nếu thầy chấp nhận
hai tội thì họ sẵn sàng để thầy đi." Họ đã không nói cho
luật sư rằng việc chấp nhận hai tội không phải là chuyện
đơn giản; nó có những tác động. Hai tội đó mà bất kì ai
khác phạm phải đều sẽ bị phạt từ hai mươi nhăm hay
nhiều nhất năm mươi đô la. Nhưng họ đã phạt tôi với số
tiền phạt bốn trăm nghìn đô la. Số đó gần sáu chục lakh
rupees.
Ngay cả luật sư của tôi cũng bị sốc, bởi vì điều đó đã
không được bàn tới trong thương lượng. Và tôi bị trục
xuất ngay lập tức; máy bay của tôi được giữ tại sân bay,
sẵn sàng. Có lẽ họ sợ; nếu tôi chết, thế thì sự trách cứ sẽ
dồn lên nền dân chủ Mĩ. Cho nên trong vòng mười lăm
phút tôi phải rời Mĩ.
Từ đó tôi đã thành nỗi ám ảnh tâm trí họ. Họ đã cố
gắng đủ mọi cách... hệt như Ed Meese đã tuyên bố cho
báo chí, "Chúng tôi sẽ làm mọi nỗ lực để làm câm lặng
tiếng nói của Osho."
Họ đã xoay xở thuyết phục hai mươi mốt nước
không cho tôi vào. Và họ đã buộc chính phủ Ấn Độ không
cho phép các sannyasin từ khắp các nơi trên thế giới vào,
để cho tôi bị cô lập, gần như bị tù tại nhà riêng của mình.
Nhưng người của tôi cũng đủ thông minh để xoay xở
chống đối mạnh mẽ. Và chính tình yêu của bạn bây giờ là
cuộc sống của tôi. Đó là vấn đề liệu tình yêu thắng hay
chất độc thắng.
Có mọi bằng chứng rằng từ toàn bộ thân thể chất độc
đã biến mất. Chỉ ở tay nó còn đó. Nó sẽ phải biến mất khỏi

233
tay nữa, bởi vì bạn không thể phá huỷ người hồn nhiên; sự
tồn tại sẽ không cho phép điều đó. Nhưng tôi phải cẩn
thận chút ít với tay bây giờ.
Tại sao họ đã không thể làm tôi im được? Chân lí
không thể bị làm im lặng, cả tình yêu lẫn niềm vui cũng
vậy. Nhưng đây là điều ngu xuẩn, trong hàng thế kỉ mọi
người đã từng làm điều đó: họ đã giết Socrates bằng thuốc
độc, nhưng tiếng nói của ông ấy vẫn vang vọng trong tai
và và trong tim của những người muốn hiểu ý nghĩa sâu
sắc nhất của cuộc sống; họ đã đóng đinh Jesus, nhưng điều
đó đã không tạo ra khác biệt gì, trong thực tế nó cho giáo
huấn của ông ấy một tầm quan trọng vô cùng.
Tôi muốn nhắc các bạn rằng dù tôi có ở đây hay
không thì lễ hội vẫn phải tiếp tục. Nếu tôi không ở đây,
thế thì nó phải mạnh mẽ hơn và nó phải lan rộng khắp thế
giới.
Lễ hội là tôn giáo của tôi.
Tình yêu là thông điệp của tôi.
Im lặng là chân lí của tôi.

Maneesha đã đem tới lời kinh:

Osho ơi,
Có lần Nam Tuyền nói với các sư đang tụ hội,
"Đạo không phải là thứ bên ngoài; thứ bên
ngoài không có Đạo."

234
Nam Tuyền có phong cách của riêng ông ấy - rõ ràng
mâu thuẫn, giống như phát biểu này: Đạo không phải là
thứ bên ngoài, với câu thứ hai: thứ bên ngoài không có
Đạo.
Nhưng điều ông ấy đang cố truyền đạt là không mâu
thuẫn. Ông ấy đơn giản nói rằng nếu bạn cố tìm Đạo ở
những thứ bên ngoài, bạn sẽ không tìm thấy nó. Trong các
thứ bên ngoài không có Đạo, nhưng khi bạn đã tìm thấy
Đạo, bản thân Đạo trở thành một phần của những thứ bên
ngoài. Mọi thứ bạn định tìm trong thiền của mình đều trở
thành bên ngoài bạn. Bạn bao giờ và bao giờ cũng vẫn còn
là nhân chứng, và với nhân chứng này mọi thứ đều là bên
ngoài. Nhân chứng này thường xuyên siêu việt lên trên
mọi thứ mà nó phản xạ.
Triệu Châu, người sẽ trở thành một thầy lớn - và
cũng tình cờ, ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu một loạt bài về
Triệu Châu, Triệu Châu: tiếng gầm của sư tử - cũng là
một cột mốc trong lịch sử tâm thức, một người dũng cảm
mênh mông đã tạo ra sư tử gầm, chư phật của sức mạnh và
quyền năng vĩ đại.
Ông ấy là đệ tử của Nam Tuyền, nhưng bản thân ông
ấy bao giờ cũng là một loại người riêng. Ông ấy chưa bao
giờ trở thành đệ tử của Nam Tuyền một cách chính thức;
ông ấy chưa bao giờ được Nam Tuyền khai tâm; nhưng
ông ấy đã sống cùng Nam Tuyền, đã yêu Nam Tuyền, và
Nam Tuyền yêu ông ấy, mưa rào lên ông ấy bằng tình yêu
của mình. Mọi người đều biết rằng nếu Nam Tuyền chết,
Nam Tuyền sẽ chọn Triệu Châu làm người kế tục mình,
mặc dầu ông ấy không phải là người đi theo của Nam
Tuyền.

235
Bản thân ông ấy là con người duy nhất thế, ông ấy
không thể theo bất kì ai được. Ông ấy là một lữ khách
đồng hành.
Và Nam Tuyền đã cho phép mọi loại người. Dù bạn
có đồng ý với ông ấy hay không, bạn vẫn có thể sống cùng
với ông ấy. Có lẽ, vào lúc bạn đi tới sự hoà hợp - chỉ bước
đi chút ít cạnh ông ấy - bạn có thể bắt đầu cảm thấy trái
tim ông ấy làm bạn xúc động, làm thay đổi bạn. Ông ấy đã
biến đổi Triệu Châu mà không có khai tâm chính thức nào
khi ông ấy nói phát biểu mâu thuẫn này, "Đạo không phải
là thứ bên ngoài; thứ bên ngoài không có Đạo."

Triệu Châu hỏi, "Cái gì là Đạo mà là mọi thứ


bên ngoài?"
Nam Tuyền lập tức đánh ông ấy.

Trong Thiền thầy đánh chỉ khi thầy thấy một người
xứng đáng là phật. Việc đánh đơn giản để đánh thức người
đó dậy: "Ông đang hỏi cái loại vô nghĩa gì thế này?" Việc
Nam Tuyền lập tức đánh ông ấy đơn giản có nghĩa là,
"Triệu Châu! Ông đang hỏi cái loại vô nghĩa này! Ông
hiểu rõ điều ta đã nói; ai đó khác có thể hỏi câu hỏi như
vậy, nhưng không phải ông. Ta biết điều đó và ông biết
điều đó." Để làm cho điều đó thành rõ ràng, Nam Tuyền
đánh ông ấy.

Triệu Châu bắt lấy cây gậy và nói, "Từ giờ trở
đi, đừng lầm lẫn mà đánh ai đó!"

Triệu Châu không nói, "Đừng đánh tôi." Ông ấy nói,


"Từ giờ trở đi, đừng lầm lẫn mà đánh ai đó!" Đánh tôi thì

236
hoàn toàn phải rồi, nhưng đừng lầm lẫn mà đánh ai đó
khác. Tôi có thể hiểu tại sao ông đánh tôi, nhưng đánh ai
đó còn chưa đạt tới tâm thức như vậy trong hiểu biết thì có
thể nguy hiểm cho ông đấy. Ông già rồi."

Nam Tuyền nói, "Kể về rồng thì dễ, nhưng khó


mà làm hài lòng ta!" và ném cây gậy của mình
xuống, ông ấy quay trở về phòng mình.

Điều ông ấy đang nói là, "Kể về rồng thì dễ, nhưng
khó mà làm hài lòng ta. Phát biểu của Triệu Châu, 'Từ giờ
trở đi, đừng lầm lẫn mà đánh ai đó!' chỉ là nỗ lực để làm
hài lòng ta." Với phát biểu này, 'Khi có liên quan tới ta,
ông đã làm tốt đấy, nhưng đừng làm điều đó với bất kì ai
khác,' Nam Tuyền nói, "Khó làm hài lòng ta đấy."

Vào lúc khác, Triệu Châu hỏi Nam Tuyền, "Khi


người ta nhận ra rằng 'có đây', người đó phải
từ đó đi đâu?"

Khi một người nhận ra 'Cái này đây' người đó nên từ


điểm này đi tới đâu? Trong thực tế, từ điểm này bạn không
thể đi đâu được cả. Dù bạn đi bất kì đâu thì bạn sẽ vẫn ở
điểm này. Bạn không thể đi xa khỏi 'bây giờ' được, dù bạn
làm bất kì cái gì, dù bạn chạy nhanh bao nhiêu; bất kì nơi
nào bạn sẽ ở, bạn vẫn sẽ ở trong bây giờ. Và bạn không
thể di chuyển vào bất kì chỗ nào khác hơn ở đây. Dù bất kì
nơi đâu bạn sẽ ở, chỗ đó sẽ trở thành 'ở đây'. Chúng ta
chưa bao giờ di chuyển cả, khi có liên quan tới trung tâm
của mình.

237
Ông ấy đang hỏi, "Khi một người biết 'đây rồi',
người đó phải từ đó đi đâu?"
Nam Tuyền đáp, "Người đó nên xuống núi để trở
thành con trâu trong làng dưới núi!"
Câu trả lời của Nam Tuyền đơn giản làm Triệu Châu
thành trò cười: "Đừng có hỏi những câu hỏi ngu xuẩn thế.
Ta không nghĩ ông mà lại hỏi những câu hỏi như vậy.
Những câu hỏi này chỉ do người tầm thường hỏi thôi.
Những người không có kinh nghiệm gì về bản thể bên
trong của mình thì những câu hỏi này là liên quan, chúng
không liên quan cho ông."
Nhưng ông ấy lại không nói điều đó một cách trực
tiếp, ông ấy nói,

"Người đó nên xuống núi để trở thành con trâu


trong làng dưới núi!"
Triệu Châu cám ơn Nam Tuyền vì đã đưa ông
ta tới chứng ngộ đầy đủ.

Việc đọc những câu chuyện như vậy về Thiền bản


thân nó đã là một kinh nghiệm rồi. Cái gì đó đang xảy ra
đằng sau bức màn của những lời, điều không thấy được
với bạn. Cái gì đó đang xảy ra mà không ở trong những
câu hỏi này lẫn những câu trả lời này. Bởi vì bạn đã đọc
điều này, bạn có cho rằng nó sẽ đưa bạn tới chứng ngộ
hoàn toàn không? Nhưng Triệu Châu đã trở nên chứng
ngộ hoàn toàn.
Những câu chuyện này là rất bề ngoài. Ẩn ngầm
dưới chúng có dòng chảy khác của sự thân thiết con
người, của tình yêu sâu sắc và lòng biết ơn.

238
Triệu Châu cảm thấy Nam Tuyền gần như từ trái tim
riêng của mình; mặc dầu ông ấy không là đệ tử, ông ấy là
một vũ công đồng hành. Và Nam Tuyền không bao giờ
đòi bất kì ai trở thành đệ tử. Nhấn mạnh của ông ấy là,
"Thế này là đủ: ở cùng với ta. Nếu có cái gì đó xảy ra, vẫn
cứ cởi mở. Ta sẵn đây; nếu ông cũng sẵn có, gặp gỡ sẽ xảy
ra. Đừng để cánh cửa của ông đóng; vẫn còn cảm nhận."
Tôi đang toả ra năng lượng đó, điều sẽ làm ra việc
nhảy và con tim bạn đã từng sống trong bóng tối hàng thế
kỉ sẽ bỗng nhiên trở thành chứng ngộ. Ngọn lửa sẽ đạt tới
bạn nếu bạn vẫn còn có sẵn, và gần gũi, thân thiết; bởi vì
cái nhảy này là có thể chỉ trong một khoảng cách nào đó.
Nếu bạn vẫn còn ở quá xa, an ninh và an toàn, và hi
vọng trở nên chứng ngộ, bạn lầm. Bạn phải liều tới gần
thầy, gần nhất có thể được. Trong gần gũi đó, trong thân
thiết đó bỗng nhiên trái tim bạn trở nên bắt lửa. Bạn không
còn trong bóng tối nữa.
Cho nên bao giờ cũng nghĩ rằng những câu chuyện
này là phần bề ngoài của điều thực. Điều thực không thể
được nói ra. Điều thực chỉ có thể được hiểu.
Từ vĩnh hằng, bất kì khi nào một người đã trở nên
chứng ngộ, chín mươi chín phẩy chín phần trăm điều đó
đã là việc truyền năng lượng từ thầy tới ai đó đã sẵn sàng
và chín muồi. Tôi bỏ lại phẩy một phần trăm, bởi vì điều
đó là không cần thiết, tuyệt đối không cần thiết nếu bạn
muốn trở nên chứng ngộ khi ở cùng với thầy.
Bạn có thể trở nên chứng ngộ theo cách riêng của
bạn, nhưng điều đó có chút ít khó khăn, con đường gian
truân. Bạn có thể ngã nhiều lần, bạn có thể lạc lối nhiều
lần, bạn có thể quay trở về chu vi lặp đi lặp lại. Khi bạn tới

239
gần với trung tâm, bạn không nhận biết là bạn đã ở gần
trung tâm. Chỉ một khác biệt nhỏ và bạn có thể bỏ lỡ mục
tiêu.

Tôi đã kể cho bạn câu chuyện này chưa?


Một ông vua lớn cũng là một cung thủ lớn. Nhưng
thỉnh thoảng ông ấy hay bắn trệch mục tiêu. Điều đó là tự
nhiên. Ông ấy đi qua một làng, và ở đó ông ấy thấy trên
mọi cây cối, trên mọi cột trụ đều có các mũi tên, cắm vào
chính giữa vòng tròn. Ông ấy không thể nào tin nổi vào
mắt mình, rằng cái làng nhỏ này có một cung thủ vĩ đại
thế. Thế là ông ấy dừng xe lại, hỏi mọi người, và mọi
người bắt đầu cười, họ nói, "Anh ta không phải là cung thủ
đâu, anh ta là thằng ngốc đấy."
Nhà vua nói, "Thằng ngốc à? Nhưng đích của anh ta
thì hoàn hảo!"
Mọi người lại cười, họ nói, "Anh ta tới đây rồi. Anh
chàng đó đã lừa nhiều người. Anh ta hoàn toàn ngốc.
Trước hết, anh ta bắn tên, và rồi anh ta làm vòng tròn. Tự
nhiên điều đó bao giờ cũng hoàn hảo."

Người đó không bao giờ thất bại cả. Nhưng người đi


một mình, trên con đường mà người đó chưa bao giờ bước
qua, trên con đường không có dấu chân, không biết hướng
và mọi chiều đều có đấy... Nhưng dầu vậy, đôi khi vẫn có
người xoay xở được để trở nên chứng ngộ mà không có
thầy. Điều này tôi có thể nói với thẩm quyền, bởi vì tôi
không có thầy nào. Tôi vật lộn theo cách riêng của mình,
biết rõ rằng con đường sẽ dài.

240
Nhưng không may trong thế kỉ này bạn có thể tìm
đâu ra thầy? Thay vì phí thời gian trong việc tìm thầy, tôi
nghĩ, "Tốt hơn cả là đi một mình vậy. Trong cùng thời
gian đó mình có thể tìm ra bản thân mình." Và nhân danh
thầy có biết bao nhiêu thầy giáo giả, người cứ tuyên bố
mình là thầy. Lời tuyên bố của họ được chấp nhận bởi vì
không ai theo họ; bằng không thì bạn sẽ tìm ra ngay rằng
họ chẳng biết gì, rằng họ đơn giản trích dẫn kinh sách.

Tôi đã nghe nói về một con chó chuyên chống lại


việc sủa. Bây giờ, khi yêu cầu các con chó khác không sủa
nó trở thành một thầy rất nổi tiếng trong số các con chó.
Chúng nói, "Ông ấy là duy nhất, có lẽ là hoá thân của
Thượng đế. Chúng ta chỉ là những con chó đáng thương,
và chúng ta không thể cưỡng lại được quyến rũ khi chúng
ta thấy một cảnh sát, hay người đưa thư, hay sannyasin,
bất kì ai trong bộ đồng phục."
Chó dường như là những kẻ rất nổi dậy. Chúng
chống lại đồng phục. Và thầy vĩ đại này lại cứ nhai nhải cả
ngày từ sáng tới tối rằng, "Vì việc sủa của các ông, chúng
ta đã sa ngã thấp thế. Bằng không chúng ta đã là chính
đỉnh cao của tiến hoá. Tất cả mọi năng lượng của chúng ta
đều dồn vào việc sủa."
Và mọi con chó đều đồng ý, "Điều đó đúng. Nhưng
chúng tôi có thể làm được gì để kìm nó lại, khi ham muốn
tới? Chúng tôi là những còn chó bình thường; ông mới là
thầy lớn."
Nhưng rồi một đêm trăng tròn chúng quyết định,
"Ông ấy đã cố gắng nhiều năm rồi. Ít nhất cho ông ấy một
cơ hội trong đêm nay; ông ấy xứng đáng với điều đó. Để

241
ông ấy tận hưởng đêm nay: mọi con chó đều phải trốn vào
những chỗ khác nhau, và cố gắng hết sức - vấn đề chỉ là
một đêm thôi. Đến sáng các ông có thể sủa nhiều bao
nhiêu tuỳ thích. Chỉ một đêm..."
Con chó thầy nhìn quanh. Nó rất phân vân vì điều
xảy ra, bởi vì đêm trăng tròn là đêm chó sủa nhiều nhất.
Chó cũng chống lại trăng - những đặc trưng duy nhất.
Trong bóng tối chúng ngủ rất ngon, nhưng khi trăng có đó
chúng không thể ngủ được cả đêm; chúng cứ sủa hoài.
Hoặc là chúng chống lại trăng hoặc có lẽ chúng là những
người ngợi ca cái đẹp vĩ đại, người ta chẳng biết được.
Đêm đó con chó thầy nhìn quanh. Chẳng có con chó
nào cả. Nửa đêm tới, trăng ngay trên đỉnh đầu. Con chó
thầy bắt đầu cảm thấy một ham muốn lớn. Nói nói, "Lạy
Trời, mình chưa bao giờ cảm thấy điều này."
Trước đây chưa hề có cơ hội nào. Nó đã liên tục
thuyết giảng, cho nên toàn bộ ham muốn đã đi vào trong
việc thuyết giảng. Đó là lần đầu tiên trong đời nó mà hàng
giờ nó đã không nói. Ham muốn đã trở thành lớn đến mức
nó đi vào góc và bắt đầu sủa. Khoảnh khắc nó bắt đầu sủa,
thì bỗng nhiên cả thành phố... bởi vì tất cả mọi con chó
đều nghĩ rằng mình đã bị phản bội.
Chúng đã kìm giữ mình bằng cách nào đó như các
thánh nhân kìm nén. Bây giờ, một người đã phản bội,
chẳng cần nữa, thoả thuận đã bị xé bỏ. Cho nên tất cả các
con chó bắt đầu sủa.
Con chó thầy bước ra và bắt đầu lại thuyết giảng: "Ta
đã bảo các ông rằng chó sẽ không bao giờ tiến bộ được -
không tiến hoá."

242
Những thầy giả đó... nếu bạn theo họ, chẳng mấy
chốc bạn phát hiện ra rằng họ đang thuyết giảng những
điều tự họ không theo, những điều họ kết án trong bạn.
Bởi vì bạn chưa bao giờ theo họ, bạn chẳng bao giờ biết
điều họ làm.
Một người hay thuyết giảng rằng, "Bất kì ai theo ta,
ta sẽ đưa người đó tới chân lí." Mọi người đều đồng ý
rằng, "Đôi khi vào tuổi già, khi tất cả các chuyện thế gian
của chúng tôi đều đã được hoàn thành, chúng tôi sẽ theo
ông."
Nhưng bởi vì việc thuyết giảng của ông ta cứ liên tục
quanh dân làng nên ông ta đã trở thành một thầy lớn. "Ông
ấy biết chân lí." Trong một làng một thanh niên, một thanh
niên có ý chí rất mạnh đứng dậy và nói, "Tôi sẽ theo thầy;
bây giờ đưa tôi tới chân lí."
Người này trở nên rất sợ hãi. Ông ta không có tri
thức chân lí là gì. Chỉ bởi vì chẳng ai theo ông ta, nên ông
ta cứ tận hưởng việc làm thầy. Ông ta không thể nói với
anh ta, "Đừng theo ta."
Ông ta nghĩ, "Nó sẽ theo ta vài ngày và thế rồi sẽ mệt
mỏi. Và ta sẽ đem nó vào con đường khó khăn và cheo
leo, chỉ để làm cho nó mệt mỏi."
Những thanh niên này rất kiên định. Sau sáu năm
liên tục làm anh ta mệt mỏi, cuối cùng thầy nói, "Nghe
đây, bởi vì cậu, bản thân ta đã quên mất con đường đó rồi.
Bây giờ thì lạc! Ta thường tìm ra chân lí dễ dàng thế. Sáu
năm đã trôi qua, và thậm chí không có đến một thoáng
nhìn. Điều đó phải là vì cậu đấy!"

243
Thầy giả có nhiều. Thời đại của các thầy thực đã
hoàn toàn qua mất rồi.
Nam Tuyền và Triệu Châu thuộc vào thời đại vàng.
Khi ông ấy nói, "Ta chứng ngộ hoàn toàn," đáp lại, Nam
Tuyền bình luận, "Đêm qua, vào canh ba, mặt trăng chiếu
qua cửa sổ."
Thầy biết đích xác khi nào đệ tử trở nên chứng ngộ.
Ông ấy bảo ông này đích xác thời điểm, "Đêm qua, vào
canh ba, mặt trăng chiếu qua cửa sổ. Ông có cho rằng ta
không biết là ông đã trở nên chứng ngộ hoàn toàn không?
Trước khi ông biết điều đó, ta đã biết nó rồi."
Sống cùng với một thầy đích thực, bạn không cần
bảo thầy, "Tôi đã chứng ngộ." Khoảnh khắc bạn chứng
ngộ, thầy sẽ bảo bạn. Khoảnh khắc thầy thấy việc nở hoa
của bạn, khoảnh khắc thầy thấy rằng mùa xuân đã tới,
khoảnh khắc thầy cảm thấy hương thơm, thầy tuyên bố
việc chứng ngộ của đệ tử.
Chắc chắn những ngày đó đã qua rồi. Nhưng chúng
có thể được đem trở lại. Chúng đã trôi qua bởi vì chúng ta
bị lạc vào trong những thứ tầm thường, bình thường.
Chúng ta đã quên mất rằng điều có ý nghĩa nhất trong
cuộc sống là biết tới chính mình. Qua cánh cửa sổ đó của
việc biết tới chính mình bạn có thể biết toàn bộ bí mật của
sự tồn tại. Nhưng chúng ta gần giống như trẻ con, cứ chơi
mãi với các đồ chơi, chẳng biết rằng chẳng mấy chốc cái
chết sẽ tới khi tất cả những cái là quan trọng với chúng ta
cho tới lúc đó đều trở thành tuyệt đối vô dụng.
Chỉ nếu việc thiền của bạn đã đem cho bạn ánh sáng
chiếu sáng lên trong mọi đêm thì ngay cả chết sẽ không là
chết cho bạn mà là cánh cửa tới điều thiêng liêng. Với ánh

244
sáng trong tim bạn, bản thân chết được biến đổi thành
cánh cửa, và bạn đi vào trong tâm linh vũ trụ; bạn trở
thành một với đại dương. Và chừng nào bạn còn chưa biết
tới kinh nghiệm đại dương, bạn vẫn còn sống vô ích.

Sekiso đã viết một bài thơ nhỏ:

Không bỏ lại công phu thiền đằng sau


trong lâu đài thiên đường,
tất cả bằng chính mình
bạn nhận ra cái thanh cao bên ngoài cái thanh
cao.
cây thiền trượng cũ của bạn leng keng
trong làn sương lạnh
và sương giá
xuyên lên trời.
trong ngôi đền của rừng trí huệ
quả chín;
bây giờ đến lúc.

Bây giờ luôn luôn là thời điểm và quả bao giờ cũng
chín. Bạn chỉ cần thu lấy dũng cảm đi vào khu rừng bên
trong của mình. Quả bao giờ cũng chín và thời gian bao
giờ cũng khớp. Không có những điều như vậy khi sai thời
điểm.

Maneesha đã hỏi,

245
Osho ơi,
Chúng tôi có nhận ra được khuôn mặt nguyên thuỷ
của mình không, khi chúng tôi bắt gặp nó?

Maneesha, bắt gặp khuôn mặt nguyên thuỷ đơn giản


có nghĩa là nhận ra cái gì là thực và cái gì là phản xạ. Bạn
trở thành sự phản xạ khi bạn thấy cái thực. Điều đó cũng
giống như đứng trước gương. Dường như là bạn đang
đứng trong gương. Khi bạn nhận ra sự kiện là bạn đứng ở
ngoài gương - trong gương chỉ là sự phản xạ và sự phản xạ
không phải là chân lí - thế thì bạn bắt gặp cái ta nguyên
thuỷ của bạn. Bỗng nhiên bạn nhận ra rằng mãi cho tới giờ
bạn đã sống với mặt giả, đây mới là mặt nguyên thuỷ của
bạn.
Mãi cho tới giờ bạn đã sống như sự phản xạ, như cái
bóng, cái không thực. Bạn biến mất, chỉ mặt nguyên thuỷ
còn lại. Câu hỏi của bạn là logic, có liên quan, bởi vì làm
sao bạn sẽ nhận ra rằng đây là mặt nguyên thuỷ của bạn?
Bạn sẽ không có đó. Bạn sẽ biến mất khi mặt nguyên thuỷ
xuất hiện; bạn sẽ không phải nhận ra nó; bạn sẽ không có
đó chút nào. Bản thân mặt nguyên thuỷ sẽ biết rằng mãi
cho tới giờ một nhân cách giả tạo đã từng đại diện cho
bạn.
Bây giờ cái giả đã biến mất và chỉ chân lí còn lại.
Không có vấn đề về nhận ra. Bạn là cái giả, làm sao bạn
có thể nhận ra được? Khi cái thực tới, cái giả biến mất:
chúng chưa bao giờ gặp nhau.

246
Đây là nỗi sợ của việc tìm kiếm bản thân người ta,
bởi vì khoảnh khắc bạn tìm thấy bạn, cách bạn biết tới bạn
bây giờ sẽ biến mất như cái bóng, cứ dường như nó chưa
bao giờ có cả - chỉ là mơ.

Tôi đã kể cho bạn.... Một người say đã đánh nhau


trong quán rượu, và đã làm xước nhiều đường trên mặt
mình. Anh ta về nhà rất sợ vợ. Cho nên lẳng lặng cởi giầy
cầm trong tay, anh ta rón rén đi vào phòng, đi vào phòng
tắm, soi gương nhìn vào mặt mình và nói, "Trời! Nhiều
vết xước thế! Làm sao mình giấu được chúng đây? Đến
sáng thế nào cô ta cũng phát hiện ra."
Thế là anh ta cố gắng bằng cách nào đó che giấu.
Anh không thể nào tìm được cái gì khác ngoài son bôi môi
của vợ. Cho nên anh ta che các vết xước bằng son bôi môi
và im lặng đi về giường. Đến sáng sớm vợ anh ta la lên
trong nhà tắm, "Ai đã thử vẽ tranh bằng son bôi môi của
tôi lên gương thế?"
Anh chàng say đó cứ tưởng rằng mình đã bôi son lên
mặt mình, nhưng anh ta đã bôi son vào gương vì đã có mặt
ở đó. Anh ta không thể thấy được mặt riêng của mình!

Chúng ta gần như trong đích xác cùng tình huống đó.
Khi cái nguyên thuỷ xuất hiện, chúng ta bỗng nhiên sẽ
thấy cái giả biến mất đi. Chúng chưa bao giờ gặp nhau cho
nên không có vấn đề nhận ra.
Bây giờ trước khi chúng ta thử đi gặp mặt nguyên
thuỷ... Đó là cuộc hành trình nguy hiểm, bạn có thể tìm
thấy mặt nguyên thuỷ, nhưng xin quay lại; đừng bị mắc

247
kẹt ở đó. Chúng ta phải đem mặt nguyên thuỷ dần dần về
chu vi.
Đó là một tiến trình rất im lặng và duyên dáng: mọi
ngày bạn đều đi vào. Mọi ngày bạn đều đi sâu hơn. Mọi
ngày bạn đều quay lại. Cái gì đó thay đổi, từng mảnh một,
từng li một, từng bước một. Một ngày nào đó bỗng nhiên
bạn sẽ nhận ra rằng chẳng cần đi vào trong. Mặt nguyên
thuỷ đã hiện ra. Mây đã tan và trăng, không có bất kì vẩn
mây nào, đang chiếu sáng trong sự huy hoàng tối thượng
của nó.
Sardar Gurudayal Singh đang đợi đấy.

Giáo hoàng Polack quyết định rằng ông ta muốn nhà


thờ cơ đốc giáo thiêng liêng phải là tôn giáo hiện đại nhất
và mới nhất trên thế giới, và được tin học hoá.
"Đó hoàn toàn là việc đơn giản," Cha Fungus giải
thích cho Cha Fumble vài tuần sau đó trong chỗ xưng tội.
"Mọi điều ông phải làm là gõ lời xưng tội lên màn
hình này, và ông sẽ được một bản in ra bằng máy tính về
sám hối. Bây giờ, quan sát khi ta gõ 'ăn cắp'. Và trông
đây! Đây là lời sám hối: ba lời kính chào đức mẹ Mary và
hoá đơn mười lăm đô la. Bây giờ ông cho rằng ông có thể
làm được chứ?"
"Được chứ," Cha Fumble lo lắng, "Tôi sẽ thử nó."
Và ông ấy bắt đầu thực hành khi Cha Fungus ra khỏi nhà
thờ.
Ngay lúc đó, Sally bước vào phòng xưng tội. "Ôi,
thưa Cha," Sally nói, "Con đã phạm tội!"

248
"Thật thế sao?" Cha Fumble nói. "Nói cho ta mọi
điều về nó đi!"
"Thế này, thưa Cha," Sally giải thích, "Con đưa bạn
trai về nhà cùng con."
"Khủng khiếp!" Cha Fumble than. Và thế rồi ông ấy
thì thầm khi ông ấy lập trình cho máy tính, "Đưa bạn trai
về nhà."
"Vâng, thưa Cha," Sally tiếp tục, "nhưng thế chưa
hết đâu. Anh ấy vào phòng ngủ của con."
"Thật thế sao?" Cha Fumble nói, gõ máy như điên.
"Bạn trai vào phòng ngủ."
"Vâng, thưa Cha," Sally nói, "nhưng thế chưa hết
đâu. Anh ấy cởi quần áo con ra."
"Lạy Chúa tôi!" Cha Fumble nói vừa kiểm tra bản in
ra.
"Nhưng hượm, thưa Cha!" Sally nói. "Thế rồi anh ấy
cởi quần áo anh ấy ra và đè lên người con."
"Lạy Trời!" Cha Fumble nói, khi ông ấy gõ, "Bạn
trai đè lên."
"Vâng, thưa Cha," Sally nói. "Và thế rồi anh ấy đưa
đầu mút máy của anh ấy vào trong con."
"Thật thế sao?" Cha Fumble nói, vã mồ hôi và gõ,
"Đầu mút máy đưa vào." Thế rồi ông ta kiểm tra chi li bản
in ra, nhưng nó trắng trơn; thế là ông ta gõ lại nó lần nữa.
Nhưng lần nữa, chẳng cái gì đưa ra cả.

249
"Dữ liệu sai toét!" Cha Fumble nói cáu kỉnh, rất thất
vọng. "Cái máy tính này không làm việc với phân số. Con
sẽ phải quay lại và để cho bạn trai đặt nó vào lại vậy!"

George Bush, phó tổng thống Mĩ, đi trong Phòng bầu


dục một sáng để tìm Ronald Reagan đang cười như điên.
"Thưa tổng thống," Bush hỏi, "Có cái gì mà buồn
cười vậy?"
"Tôi vừa mới phát hiện ra rằng Ed Meese đã trả hai
mươi đô la mỗi lần ông ta đéo Nancy," tổng thống điên
cuồng đến nghẹt thở.
"Lạy trời" Bush la lên. "Đấy không phải là buồn
cười! Đấy là vụ bê bối quốc gia!"
"Sao?" Reagan cười, vừa chùi mắt. "Thằng ngốc đó!
Tôi đã đéo bà ấy chẳng mất tiền gì!"

Bác sĩ Sniff đưa ông bạn cũ của mình, Fergus, tới


buổi khiêu vũ từ thiện tại trường cao đẳng điếc và câm. Vị
bác sĩ cảnh báo với Fergus rằng nhảy với các cô trẻ là tốt,
nhưng phải nhớ rằng họ không thể nói với ông ấy hay
nghe điều ông ấy nói.
"Nhưng làm sao tôi mời được một cô vào nhảy?"
Fergus hỏi.
"Ô, đừng lo về điều đó," Sniff đáp. "Ông sẽ xoay xở
được thôi."

250
Cho nên, được vũ trang bằng ý định tốt, Fergus thấy
một cô gái trẻ xinh xắn một mình trong góc phòng, và anh
ta hào hiệp nắm tay cô ấy và đưa cô ấy lên sàn nhảy.
Nửa giờ sau, anh ta vẫn còn cố gắng tìm cách xin lỗi
và đi ra ngồi nghỉ.
Ngay lúc đó, một thanh niên bước tới và nói với cô
gái. "Này, Lucy!" anh ta nói, "khi nào em sẽ nhảy với anh
nữa đây? Đã gần một giờ từ lúc chúng nhảy với nhau lần
cuối."
"Em biết," Lucy đáp, nhìn vào Fergus, "nhưng em
không biết làm sao loại bỏ cái thằng ngốc điếc và câm
này!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)
Nivedano...
(tiếng trống)
Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn hoàn
toàn đông cứng. Bây giờ, nhìn vào bên trong bằng toàn bộ
tâm thức của bạn, với khẩn thiết lớn lao, dường như
khoảnh khắc này sắp là khoảnh khắc cuối của bạn trên trái
đất.
Đi vào trung tâm của bản thể bạn như mũi tên. Trung
tâm này chứa tất cả mọi bí mật của sự tồn tại. Bạn càng đi
sâu hơn, bạn sẽ càng thấy sự huy hoàng của cuộc sống, cái
đẹp của cuộc sống, chân lí của cuộc sống. Hàng nghìn đoá
hoa bỗng nhiên nở ra.

251
Bạn chỉ là nhân chứng cho tất cả những điều đang
xảy ra. Quan sát niềm vui này, phúc lạc này, cực lạc này.
Đừng bị lạc, đừng bị đồng nhất. vẫn còn tách rời, đỉnh
Everest vĩ đại vượt ra ngoài mọi đám mây. Trở thành cây
cột trụ của việc chứng kiến đi.
Để làm cho điều đó rõ ràng hơn,
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi. Buông bỏ. Bạn không phải là thân thể.


Bạn không phải là tâm trí. Bạn chỉ là nhân chứng.
Đi sâu hơn vào trong việc chứng kiến này. Chứng
kiến này là chính điểm khởi hành từ bình thường tới phi
thường, từ trần tục tới linh thiêng, từ hữu tử tới bất tử.
Buổi tối nay đẹp theo cách riêng của nó. Nhưng bạn
đã làm cho nó còn đẹp hơn. Im lặng của mười nghìn chư
phật, an bình của mười nghìn chư phật, chứng kiến của
mười nghìn chư phật trở thành đại dương. Các bạn tất cả
đều tan biến trong đại dương đó.
Thấm đẫm trong nước cam lồ này. Sũng nước cam lồ
đi, bởi vì chẳng mấy chốc bạn sẽ được Nivedano gọi quay
lại.
Đem thật nhiều cái đẹp, nhiều niềm vui, nhiều chân
lí, nhiều tính đích thực nhất có thể được từ trung tâm ra
chu vi.
Nivedano...
(tiếng trống)

252
Quay lại, nhưng quay lại như chư phật với duyên
dáng lớn, với im lặng, với lòng biết ơn sâu sắc. Bạn đang
tới từ thế giới khác, từ chính cội nguồn của cuộc sống.
Ngồi xuống như chư phật trong vài khoảnh khắc, để
hồi tưởng lại con đường bạn phải theo lặp đi lặp lại này.
Và bất kì điều gì bạn đã thấy và kinh nghiệm, để cho
nó trở thành cuộc sống bình thường của bạn. Để cho nó
được diễn tả trong lời của bạn, trong im lặng của bạn,
trong cử chỉ của bạn, trong hoạt động của bạn. Cái bình
thường phải được biến đổi thành cái linh thiêng.
Tôi đã gọi Nam Tuyền là 'điểm khởi hành.' Kinh
nghiệm này về lãnh thổ bên trong của bạn có thể trở thành
điểm khởi hành của bạn nữa.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, thưa Osho.
Các bạn có hứa các bạn sẽ mở hội khi tôi ra đi
không?
Vâng, thưa Osho!

253
254
Về Osho

Osho sinh ra tại Kuchwada, Madhya Pradesh, Ấn


Độ, vào ngày 11 tháng 12 năm 1931. Từ thiếu thời ông đã
là một tinh thần độc lập và nổi dậy, nhấn mạnh tới chứng
nghiệm chân lí cho chính mình thay vì thu nhận tri thức và
niềm tin do người khác trao lại.
Sau khi chứng ngộ ở tuổi hai mươi mốt, Osho hoàn
thành học tập hàn lâm và dành nhiều năm giảng dạy triết
học tại Đại học Jabalpur. Đồng thời, ông đã du hành trong
toàn Ấn Độ để nói chuyện, thách thức các nhà lãnh đạo
tôn giáo chính thống trong các cuộc tranh luận công khai,
đặt câu hỏi về những niềm tin truyền thống và gặp gỡ mọi
người từ mọi nẻo đường cuộc sống. Ông đọc rất nhiều,
mọi thứ ông có thể tìm thấy để mở rộng hiểu biết của mình
về hệ thống niềm tin và tâm lí của con người hiện đại.
Đến cuối những năm 1960 Osho đã bắt đầu phát triển
các kĩ thuật thiền động duy nhất của mình. Con người hiện
đại, ông nói, bị quá nặng gánh với những truyền thống lạc
hậu của quá khứ và những lo âu của cuộc sống hiện đại
đến mức người đó phải trải qua quá trình tẩy rửa sâu sắc
trước khi người đó có thể hi vọng khám phá ra trạng thái
thảnh thơi, vô suy nghĩ của thiền.

255
Trong quá trình làm việc của mình, Osho đã nói về
mọi khía cạnh thực của việc phát triển tâm thức con người.
Ông đã cô đọng tinh hoa của điều có ý nghĩa cho việc truy
tìm tâm linh của con người hiện đại, dựa trên không chỉ
hiểu biết trí tuệ mà được kiểm nghiệm lại theo kinh
nghiệm sống của riêng ông.
Ông không thuộc về tín ngưỡng nào cả - “Tôi là
người bắt đầu cho tâm thức tôn giáo hoàn toàn mới,” ông
nói. “Xin đừng gắn tôi với quá khứ - điều đó thậm chí
chẳng đáng nhớ.”
Bài nói của ông cho các đệ tử và người tìm kiếm tâm
linh đã được xuất bản trong hơn sáu trăm năm mươi tập,
và đã được dịch sang hơn bốn mươi ba thứ tiếng. Và ông
nói, “Thông điệp của tôi không phải là học thuyết, không
phải là triết lí. Thông điệp của tôi là giả kim thuật nào đó,
khoa học về biến đổi, cho nên chỉ những ai sẵn sàng chết
như họ hiện tại và được sinh ra lần nữa trong cái gì đó mới
đến mức họ không thể nào hình dung ra được điều đó
ngay bây giờ... chỉ vài người dũng cảm mới sẵn sàng lắng
nghe, vì lắng nghe là sắp nguy hiểm.
“Lắng nghe, bạn đã bước đi bước đầu tiên hướng tới
tái sinh. Cho nên đấy không phải là triết lí mà bạn có thể
chỉ choàng vào người và đi khoác lác về nó. Đấy không
phải là học thuyết mà bạn có thể tìm ra khuây khoả cho
những câu hỏi phiền nhiễu. Không, thông điệp của tôi
không phải là truyền giao bằng lời nào đó. Nó còn nguy
hiểm hơn thế nhiều. Nó không gì khác hơn là chết và tái
sinh.”
Osho rời khỏi thân thể ngày 19 tháng 01 năm 1990.
Tâm xã khổng lồ của ông ở Ấn Độ tiếp tục là trung tâm

256
trưởng thành tâm linh lớn nhất trên thế giới hấp dẫn hàng
nghìn khách thăm quốc tế, người tới để tham dự vào thiền,
liệu pháp, các chương trình sáng tạo, hay chỉ để chứng
nghiệm bản thể trong phật trường.

257
Tâm xã Osho quốc tế

Pune, Ấn Độ
Tâm xã này là trường phái kì diệu cho việc thám
hiểm bên trong. Đó là phiêu lưu lớn lao nhất có đó, và
cũng là lễ hội lớn nhất.
Con đường bạn phải đi qua, bạn sẽ phải đi một mình;
nhưng biết rằng bao nhiêu người cũng đang du hành một
mình sẽ đem lại cho bạn động viên lớn lao.
Một ốc đảo nhỏ mà trong đó cuộc sống đang diễn ra
với cái nhìn hoàn toàn khác; nơi cuộc sống diễn ra có mục
đích, ý nghĩa, nơi cuộc sống diễn ra có phương pháp, nơi
cuộc sống diễn ra trong tỉnh táo, nhận biết, tỉnh thức; nơi
cuộc sống không phải chỉ là điều ngẫu nhiên, nơi cuộc
sống bắt đầu trở thành ngày một trưởng thành hơn theo
chiều hướng nào đó.
Và đây không phải là tu viện Ấn Độ; đây là tâm xã
quốc tế, nơi gặp gỡ của Đông và Tây. Tâm xã này đại diện
cho toàn bộ loài người, không phải về quá khứ mà là về
tương lai.
Nỗ lực của chúng tôi là để làm cho thiền trở thành có
sẵn cho từng người và mọi người; bất kì ai muốn thiền,
thiền đều sẵn có tương ứng với kiểu của người đó. Nếu
người đó cần nghỉ ngơi, nghỉ ngơi cũng nên là thiền của
người đó. “Ngồi im lặng không làm gì, xuân tới và cỏ tự
nó mọc lên” - đó sẽ là thiền của người đó. Chúng ta phải
tìm ra thật nhiều chiều hướng cho thiền, nhiều như số

258
người trên thế gian này. Và khuôn mẫu phải đừng quá
cứng nhắc, vì chẳng có hai cá nhân nào giống nhau cả.
Đây là cuộc cách mạng. Cá nhân phải không bị gò khít
vào khuôn mẫu; nhưng khuôn mẫu thì phải vừa vặn với cá
nhân. Đó là lí do tại sao bạn thấy có nhiều cách thiền thế
đang diễn ra ở đây. Cách thức thì có thể là hoạt động hay
thụ động, cũng chẳng thành vấn đề gì, mục tiêu là một:
làm sao làm cho bạn thành im lặng đến mức tất cả mọi suy
nghĩ đều biến mất và bạn chỉ còn là tấm gương, phản
chiếu cái đang đấy.

Đa đại học Osho


Trong tâm xã này có ít nhất năm mươi nhóm liệu
pháp đang tiến hành, bởi những lí do nào đó. Đấy chỉ là
cách làm cân bằng lại hàng nghìn năm kìm nén. Đấy chỉ là
để đem lại nhẹ nhàng cho tất cả những cái bạn đã kìm nén
- như người Ki tô giáo, người Hindu giáo, Phật tử. Nó chỉ
hoàn tác lại cái hại của hàng thế kỉ cũ kĩ đã gây cho bạn.
Các nhóm liệu pháp này không phải là cứu cánh; chúng
chỉ chuẩn bị cho bạn để thiền, chứng kiến thụ động về các
ý nghĩ, tình cảm và hành động mà không đánh giá hay
đồng nhất.
Sự bừng sáng của mỗi ngày là việc gặp gỡ vào buổi
tối: một buổi lễ hai giờ với âm nhạc, nhảy múa và thiền im
lặng theo dõi một trong những bài nói của Osho.
“Đấy không phải là bài học; đấy chỉ đơn thuần là
phương tiện để làm cho bạn thành im lặng, vì nếu yêu cầu
bạn phải im lặng không nỗ lực gì, bạn sẽ thấy rất khó
khăn. Tôi đang làm cho bạn im lặng mà không phải nỗ lực

259
gì về phần bạn cả. Việc nói của tôi trước hết là để dùng
như một chiến lược tạo ra im lặng trong bạn.”

260
Để biết thêm thông tin

http://www.osho.com
Osho Community International
17 Koregaon Park
Pune 411 011 (MS) Ấn Độ
Tel: + 91 (212) 628 562
Fax: + 91 (212) 624 181
Email: osho-community@osho.com
Osho International

410 Park Avenue, 15th Floor,


New York, NY 10022
Tel. +1 212 231 8437
Fax. +1 212 658 9508
http://www.osho.com/oshointernational
Klau Steeg:
klau.steeg@oshointernational.com
Montse Cortazar:
montse.cortazar@oshointernational.com
Office email:
oshointernational@oshointernational.com
Royalties: OshoOffice@oshointernational.com

Đại lí cho Việt Nam là Tuttle Mori Agency, Managing


Dirrector Pimolporn Yutisri
pimolporn@tuttlemori.co.th

261
Để xem tin tức, trao đổi nói chuyện, xem các trích đoạn và
toàn văn bài nói của Osho, các bạn có thể ghé thăm trang
web

http://oshovietnam.org

Để xem những trích đoạn mới nhất của sách Osho các bạn
có thể theo dõi trên Facebook:

https://www.facebook.com/OshoFansVietnam?ref=hl

Để xem một số bản dịch tiếng Việt của sách Osho, các bạn
có thể vào trang web:

http://oshovietnam.wordpress.com/

262
Về tác giả

Osho thách thức các phân loại. Hàng nghìn bài nói
của ông bao quát mọi điều từ cuộc truy tìm cá nhân về ý
nghĩa cho tới những vấn đề xã hội và chính trị khẩn thiết
nhất mà xã hội ngày nay đang đối diện. Sách của Osho
không được viết ra mà được dỡ ra từ các bản ghi âm thanh
và video về các bài nói ngẫu hứng của ông cho khán giả
quốc tế. Như ông đã nói điều đó, “Vậy nhớ lấy: bất kì điều
gì tôi đang nói cũng không chỉ là cho bạn... tôi cũng đang
nói cho các thế hệ tương lai.”
Osho đã được tờ Sunday Times ở London mô tả là
một trong “1000 người làm nên thế kỉ 20” và được tác giả
người Mĩ Tom Robbins mô tả là “con người nguy hiểm
nhất từ Jesus Christ.” Tờ Sunday Mid-Day (Ấn Độ) đã
chọn Osho là một trong mười người - cùng với Gandhi,
Nehru và Phật - những người đã làm thay đổi định mệnh
của Ấn Độ.
Về công trình riêng của mình Osho đã nói rằng ông
đang giúp để tạo ra hoàn cảnh cho sự ra đời của một loại
con người mới. Ông thường đặc trưng con người mới là
“Zorba Phật” - có khả năng vừa tận hưởng vui thú trần
gian của Zorba người Greek và trung thực im lặng của
Phật Gautama.
Chạy như sợi chỉ xuyên suốt mọi khía cạnh của các
bài nói và thiền của Osho là viễn kiến bao quát cả trí huệ

263
vô thời gian của mọi thời đại quá khứ và tiềm năng cao
nhất của khoa học và công nghệ ngày nay (và ngày mai).
Osho được biết tới từ đóng góp cách mạng của ông
cho khoa học về biến đổi bên trong, với cách tiếp cận tới
thiền thừa nhận nhịp độ tăng tốc của cuộc sống đương đại.
Thiền Động duy nhất của OSHO được thiết kế để đầu tiên
xả ra những căng thẳng tích luỹ của thân thể và tâm trí, để
cho dễ dàng hơn lấy kinh nghiệm về tĩnh lặng và thảnh
thơi vô suy nghĩ trong cuộc sống thường ngày.
Hai công trình tiểu sử bởi chính tác giả nay sẵn có là:
Autobiography of a Spiritually Incorrect Mystic,
Glimpses of a Golden Childhood

www.biography.osho.com

264
Sách Osho đã dịch sang tiếng Việt

Số Tên sách Năm


1. Con đường tôi con đường của mây trắng 1997
2. Biến chuyển Mật tông 1997
3. Ngón tay chỉ trăng 1997
4. Thiền là gì? 1997
5. Đi tìm điều huyền bí, t.2 1998
6. Thiền: Tự do đầu tiên và cuối cùng 1998
7. Kinh Kim Cương 1998
8. Tôi là lối cổng 1998
9. Nhịp đập của tuyệt đối 1998
10. Tâm Kinh 1998
11. Mưa rào không mây 1999
12. Nhạc cổ trong rặng thông 1999
13. Dhammapada: Con đường của Phật - t.1 1999
14. Thuyền rỗng 1999
15. Tín Tâm Minh: Sách về cái không 1999
16. Từ dục tới Siêu tâm thức 1999
17. Từ Thuốc tới Thiền 1999
18. Cương lĩnh Thiền: Tự do với chính mình 2000
19. Vô trí: Hoa của vĩnh hằng 2000
20. Bồ đề đạt ma: Thiền sư vĩ đại nhất 2000
21. Và hoa đã mưa xuống 2000
22. Đạo: Ba kho báu - t.1 2001
23. Kinh nghiệm Mật tông 2001
24. Bản kinh cuối cùng - t.6 2001
25. Chiều bên kia cái biết 2001
26. Kỉ luật của siêu việt - t.3 2002
27. Con đường bên ngoài mọi con đường 2002
28. Không nước không trăng 2002

265
Số Tên sách Năm
29. Om Mani Padme Hum 2002
30. Nam Tuyền: Điểm khởi hành 2003
31. Triệu Châu: Tiếng gầm của sư tử 2003
32. Mã Tổ: Gương rỗng 2003
33. Lâm Tế: Thầy của điều phi lí 2003
34. Bách Trượng Huệ Hải: Đỉnh Everst của 2003
Thiền
35. Qui Sơn: Không dấu chân trên trời xanh 2003
36. Ngưỡng Sơn: Con người thực của Thiền 2004
37. Đạo Nguyên Thiền sư: Tìm kiếm và hoàn 2004
thành
38. Dược Sơn: Thẳng tới điểm chứng ngộ 2004
39. Đi tìm điều huyền bí - t.1 2004
40. Dhammapada: Con đường của Phật - t.2 2004
41. Từ Thuốc tới Thiền (chỉnh lí) 2004
42. Trưởng thành: Trách nhiệm là chính mình 2005
43. Sáng tạo: Khơi nguồn sức mạnh bên 2005
trong
44. Dũng cảm: Vui sống hiểm nguy 2005
45. Dược khoa cho linh hồn 2005
46. Cân bằng thân tâm 2005
47. Ta là cái đó 2006
48. Tình yêu, tự do, một mình 2006
49. Dhammapada: Con đường của Phật - t.3 2006
50. Kỉ luật của siêu việt - t.1 2006
51. Kỉ luật của siêu việt - t.2 2006
52. Kỉ luật của siêu việt - t.4 2007
53. Vui vẻ: Hạnh phúc từ bên trong 2007
54. Chuyến bay của một mình tới một mình 2007
55. Nhận biết: Chìa khoá sống trong cân bằng 2007
56. Tự do: Dũng cảm là bản thân bạn 2007

266
Số Tên sách Năm
57. Dhammapada: Con đường của Phật - t.4 2007
58. Trực giác: Việc biết bên ngoài logic 2007
59. Dhammapada: Con đường của Phật - t.5 2008
60. Dhammapada: Con đường của Phật - t.6 2008
61. Thân thiết: Tin cậy bản thân bạn và người 2008
khác
62. Dhammapada: Con đường của Phật - t.7 2008
63. Từ bi: Việc nở hoa tối thượng của tình 2008
yêu
64. Đạo: lịch sử và giáo huấn 2008
65. Dhammapada: Con đường của Phật - t.8 2009
66. Dhammapada: Con đường của Phật - t.9 2009
67. Cuộc sống, tình yêu, tiếng cười 2009
68. Dhammapada: Con đường của Phật - t.10 2009
69. Dhammapada: Con đường của Phật - t.11 2009
70. Dhammapada: Con đường của Phật - t.12 2009
71. Đạo: Ba kho báu - t.2 2010
72. Đạo: Ba kho báu - t.3 2010
73. Đạo: Ba kho báu - t.4 2010
74. Đạo: Đường vô lộ - t.1 2011
75. Đạo: Đường vô lộ - t.2 2011
76. Đạo: Cổng Vàng - t.1 2012
77. Đạo: Cổng Vàng - t.2 2012
78. Cỏ tự nó mọc lên 2012
79. Yoga: Alpha và Omega - t.1 2012
80. Yoga: Alpha và Omega - t.2 2012
81. Yoga: Alpha và Omega - t.3 2012
82. Yoga: Alpha và Omega - t.4 2012
83. Yoga: Alpha và Omega - t.5 2012
84. Yoga: Alpha và Omega - t.6 2012
85. Yoga: Alpha và Omega - t.7 2013

267
Số Tên sách Năm
86. Yoga: Alpha và Omega - t.8 2013
87. Yoga: Alpha và Omega - t.9 2013
88. Yoga: Alpha và Omega - t.10 2013
89. Bí mật của các bí mật - t.1 2013
90. Bí mật của các bí mật - t.2 2013
91. Sen trắng 2014
92. Tương lai vàng - t.1 2014
93. Tương lai vàng - t.2 2014
94. Tìm trâu 2014
95. Khi giầy vừa 2014
96. Sống Thiền 2014
97. Nguyên lí thứ nhất 2014
98. Thầy hoàn hảo - t.1 2015
99. Thầy hoàn hảo - t.2 2015
100. Ngỗng ở ngoài 2015
101. A cái này 2015
102. Sét đánh bất thần 2015
103. Chim tung cánh 2015
104. Ngôn ngữ của sự tồn tại 2016
105. Niết bàn ác mộng cuối 2016
106.
107.
108.
109.
110.

268
269

You might also like