You are on page 1of 11

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG

BÀI TIỂU LUẬN

MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

SVTH: NGHIÊM NGỌC LIÊN


MSSV: 1970051025
LỚP: 20LTK0501

Năm 2021-2022

1
MỤC LỤC:

LỜI MỞ ĐẦU (trang 3)

I. Sự biến đổi về quy mô và kết cấu gia đình. (trang 3-5)

II. Sự biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình. (trang 5-8)

III. Sự biến đổi trong các mối quan hệ gia đình. (trang 8-11)

IV. Kết luận. (trang 11)

2
Anh/chị trình bày những biến đổi cơ bản của gia đình Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ trong xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Lời mở đầu

Gia đình là môi trường quen thuộc đối với tất cả mọi người khi bất cứ cá nhân
nào cũng đều trực tiếp tham gia vào quá trình tạo lập, xây dựng gia đình. Mỗi một
gia đình được coi là một tế bào của xã hội, bao gồm nhiều lĩnh vực phong phú
nhưng cũng rất phức tạp, đầy mâu thuẫn và biến động. Do đó, gia đình là vấn đề
trọng yếu mà các dân tộc trong mọi thời đại đều dành sự quan tâm sâu sắc đến. Đất
nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa mà thực chất là chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh nghiệp vụ và quản lý kinh tế xã hội. Và cùng với sự phát
triển về các mặt khác của xã hội, các vấn đề mới cũng đã nảy sinh, trong đó vấn đề
gia đình với nhiều biến đổi phức tạp,bên cạnh những biến đổi tích cực thì gia đình
Việt Nam ngày nay đang phải đối mặtvới nhiều vấn đề mang tính tiêu cực do chịu
sự chi phối lớn từ nền kinh tế, chính trị,văn hóa, xã hội của đất nước. Đề tài thảo
luận với mục đích làm sáng tỏ sự biến đổi của gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam được trình bày như sau.

I. Sự biến đổi về quy mô và kết cấu gia đình.

Gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là “gia đình quá độ” trong bước
chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại.
Trong quá trình này, sự giải thể của cấu trúc gia đình truyền thống và sự hình thành
hình thái mới là một tất yếu. Gia đình đơn hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang trở

3
nên rất phổ biến ở các đô thị và cả ở nông thôn - thay thế cho kiểu gia đình truyền
thống từng giữ vai trò chủ đạo trước đây.

Quy mô gia đình ngày nay tồn tại theo xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số
thành viên trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể
tồn tại đến ba, bốn thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà thì hiện nay, quy mô
gia đình ngày càng được thu nhỏ lại. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ
cùng sống chung: cha mẹ - con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như
trước,mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con, cá biệt còn số ít gia đình đơn thân, nhưng
phổ biến nhất vẫn là loại gia đình hạt nhân quy mô nhỏ.

Mỗi thành viên trong gia đình đều muốn được có khoảng không gian riêng, thoải
mái để làm những gì mình thích, không phải bận tâm đến sự nhận xét của người
khác. Do có công ăn việc làm ổn định, con cái đến tuổi kết hôn cũng không phải
phụ thuộc kinh tế nhiều vào cha mẹ, từ đó sẽ nảy sinh ra nhu cầu ở riêng cho thuận
tiện về sinh hoạt. Mặt khác, việc duy trì gia đình truyền thống sẽ kìm hãm sự tự do,
làm cho cái tôi, cá tính riêng, năng lực của con người không có cơ hội phát triển,
dẫn đến sự thiếu hụt về lực lượng nhân tài cho đất nước trong thời buổi công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Quy mô gia đình Việt Nam ngày càng được thu nhỏ, đáp
ứng những nhu cầu và điều kiện thời đại mới đặt ra: Sự bình đẳng nam- nữ được đề
cao hơn, cuộc sống riêng tư của con người được tôn trọng hơn, tránh được những
mâu thuẫn trong đời sống gia đình truyền thống. Sự biến đổi của quy mô gia đình
cho thấy chính nó đang làm chức năng tích cực thay đổi chính bản thân gia đình và
đây là thay đổi hệ thống xã hội làm cho xã hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn
với tình hình mới, thời đại mới.

Gia đình Việt Nam hiện đại có sự thay đổi về kết cấu so với gia đình ở thời kì
phong kiến, người đàn ông làm trụ cột gia đình và có quyền quyết định toàn bộ các
công việc quan trọng trong gia đình, trong khi đó người phụ nữ phải nghe theo
chồng họ không hề có quyền đưa ra quyết định. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, kết cấu gia đình thay đổi ở thời kì này sự bình đẳng giới giữa nam và nữ
được nâng lên nhiều so với thời kỳ trước, người phụ nữ được giải phóng khỏi
những “xiềng xích vô hình” của xã hội cũ. Một minh chứng rõ ràng đó là chế độ
4
hôn nhân một vợ một chồng thay vì đàn ông năm thê bảy thiếp. Vậy nên quyền
quyết định trong gia đình sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Họ ngày càng
được đối xử bình đẳng hơn và có nhiều điều kiện để phát triển, nâng cao vị thế xã
hội của mình; vai trò của họ trong cuộc sống, trong sản xuất,... ngày càng trở nên
quan trọng hơn, gánh nặng gia đình cũng dần được chia sẻ từ hai phía. Bình đẳng
giới nói riêng và bình đẳng nói chung được tôn trọng làm cho mỗi người được tự
do phát triển mà không phải chịu nhiều ràng buộc bởi các định kiến xã hội truyền
thống.

II. Sự biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình.
- Chức năng tái sản xuất ra con người:

Với những thành tựu của y học hiện đại, hiện nay việc sinh đẻ được các gia đình
tiến hành một cách chủ động, tự giác khi xác định số lượng con cái và thời điểm
sinh con. Hơn nữa, việc sinh con còn chịu sự điều chỉnh bởi chính sách xã hội của
Nhà nước tùy theo tình hình dân số và nhu cầu về sức lao động của xã hội. Ở nước
ta, từ những năm 70 và 80 của thế kỷ XX, Nhà nước đã tuyên truyền phổ biến và áp
dụng rộng rãi các phương tiện và biện pháp kỹ thuật tránh thai và tiến hành kiểm
soát dân số thông qua Cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, khuyến khích mỗi cặp
vợ chồng chỉ nên có từ 1 đến 2 con. Sang thập niên đầu thế kỷ XXI, dân số Việt
Nam đang chuyển sang giai đoạn giá hóa. Để đảm bảo lợi ích của gia đình và sự
phát triển bền vững của xã hội, thông điệp mới trong kế hoạch hóa gia đình là mỗi
cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con.

Nếu như trước kia, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán và nhu cầu sản xuất nông
nghiệp trong gia đình Việt Nam truyền thống nhu cầu về con cái thể hiện trên ba
phương diện: phải có con, càng đông con càng tốt và nhất thiết phải có con trai nối
dõi thì ngày nay, nhu cầu ấy đã có những thay đổi căn bản: thể hiện ở việc giảm
mức sinh của phụ nữ, giảm số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có
con trai của các cặp vợ chồng. Trong gia đình hiện đại, sự bền vững của hôn nhân
phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố tâm lý, tình cảm, kinh tế, chứ không phải chỉ là
các yếu tố có con hay không có con, có con trai hay không có con trai như gia đình
truyền thống.
5
- Sự biến đổi chức năng kinh tế, tổ chức tiêu dùng:

Vai trò gia đình trong tổ chức lao động ở các vùng nông thôn ngày càng bị hạn
chế trong những điều kiện dân số ngày càng đông, đất đai canh tác ngày càng bị thu
hẹp. Hiện trạng dư lao động ngày càng nhiều đã đẩy một tỷ lệ lớn những người
trong độ tuổi lao động đi tìm kiếm công việc ở bên ngoài, đi tới các khu công
nghiệp hay ra thành phố. Ở thành phố Hà Nội hiện nay, ước tính có khoảng 80-
85.000 phụ nữ từ các vùng nông thôn ra làm nghề giúp việc gia đình. Từ đó, gia
đình dần mất đi vai trò của đơn vị sản xuất và vai trò là đơn vị tiêu dùng ngày càng
thể hiện rõ ràng hơn sự biến đổi chức năng kinh tế của gia đình đã dẫn tới sự thay
đổi các chức năng khác của gia đình. Khi bước sang xã hội công nghiệp hiện đại,
gia đình có thay đổi nhanh chóng. Gia đình không còn thực hiện nhiều chức năng
như trước nữa, mà có sự chuyển giao bớt các chức năng của gia đình cho các thể
chế khác. Gia đình mất đi nhiều chức năng và các thành viên của gia đình tham gia
vào tất cả những chức năng của gia đình, nhưng với tư cách cá nhân không phải với
tư cách thành viên gia đình. Một đặc điểm nổi bật trong biến đổi gia đình ở các xã
hội công nghiệp hóa là sản xuất tách rời khỏi nhà ở các thành viên gia đình rời nhà
đi làm để kiếm thu nhập mua các hàng hóa mà trước kia gia đình có thể sản xuất
được.

Chức năng kinh tế của gia đình ở mỗi chế độ xã hội đều có nội dung khác nhau.
Trong xã hội phong kiến mỗi gia đình là một đơn vị kinh tế, còn hiện nay gia đình
không còn là một đơn vị kinh tế nữa, mà chức năng kinh tế chủ yếu của gia đình là
tổ chức đời sống của mọi thành viên trong gia đình thỏa mãn những nhu cầu về vật
chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình, với nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường thì kinh tế gia đình chiếm một tỷ trọng đáng kể
và có vai trò quan trọng đối với đời sống gia đình, do vậy đây cũng là một chức
năng chủ yếu của gia đình.

- Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa).

Trong xã hội Việt Nam truyền thống, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã
hội thì ngày nay giáo dục xã hội bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những

6
mục tiêu, những yêu cầu của giáo dục xã hội cho giáo dục gia đình. Điểm tương
đồng giữa giáo dục gia đình truyền thống và giáo dục của xã hội mới là tiếp tục
nhấn mạnh sự hy sinh của cá nhân cho cộng đồng.

Chức năng giáo dục của gia đình là chức năng xã hội quan trọng của gia đình nhằm
tạo ra người con hiếu thảo, người công dân có ích cho xã hội bởi gia đình là trường
học đầu tiên, cha mẹ là những người thầy cô giáo đầu tiên trong cuộc đời mỗi con
người. Do đó nội dung của giáo dục gia đình cũng phải toàn diện bao gồm cả tri
thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống, ý thức cộng đồng, cách cư xử…

Sự phát triển của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử luôn có những tác động tới
các yếu tố xã hội khác. Đối với việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình, có
thể thấy sự khác biệt rõ rệt giữa giai đoạn hiện nay và giai đoạn phong kiến khi
trình độ kinh tế-xã hội có sự khác biệt đáng kể. Nền kinh tế thị trường đã tạo cơ hội
cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình có điều kiện tích lũy, làm giàu và tự do đầu tư vào
các hoạt động theo nhu cầu nhờ đó chức năng giáo dục của gia đình được cải thiện
đáng kể. Trong gia đình con trai và con gái đều được tới trường học tập và được
chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết cho việc thực hiện giáo dục tại gia đình.

Sự phát triển của khoa học, công nghệ tạo điều kiện để con người có cơ hội tiếp
xúc với các ứng dụng mới. Sự phổ biến internet, điện thoại di động… đã có những
tác động không nhỏ tới việc giáo dục nói chung và giáo dục tại gia đình nói
riêng..Điều này đã giúp việc thực hiện chức năng giáo dục ngày càng mở rộng, việc
học tập và thiết bị kết nối dễ dàng hơn.

Về mặt chính trị, sự ổn định của môi trường chính trị là một yếu tố góp phần phát
triển mọi mặt của giáo dục.

Về ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, sự tác động của phong tục tập quán có những
ảnh hưởng nhất định đối với đời sống. Trong thời kỳ phong kiến, do ảnh hưởng sâu
đậm của tư tưởng Nho giáo nên trong gia đình sự giáo dục thường được thực hiện
bởi người đàn ông – người giữ vai trò gia trưởng. Điều này đã hạn chế sự hiểu biết
của mỗi cá nhân đối với các vấn đề xã hội bên ngoài gia đình. Ngày nay, với việc
tăng cường quyền bình đẳng giới, trong gia đình và ngoài xã hội người phụ nữ

7
được tôn trọng và được trao quyền nhiều hơn cả trong giáo dục con cái. Việc pháp
luật ghi nhận trách nhiệm giáo dục con cái là của cha mẹ và quyền lợi của trẻ em
trong gia đình là cơ sở pháp lý đảm bảo việc thực hiện chức năng giáo dục của gia
đình. Các quy định trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ chăm
sóc và giáo dục trẻ em, Luật Giáo dục…cho thấy mối quan hệ giữa gia đình và
pháp luật về việc giáo dục mỗi cá nhân – công dân. Nói cách khác, việc thực hiện
các quy định của pháp luật về giáo dục trong gia đình cũng chính là một trong các
cách nhằm thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.

- Sự biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm:

Trong số các giá trị đạo đức, tâm lý, tình cảm của gia đình, giá trị chung thủy là
giá trị rất được coi trọng trong quan hệ hôn nhân và gia đình được người dân đánh
giá cao nhất, sau đó là đến các giá trị tình yêu thương, bình đẳng, có con, chia sẻ
việc nhà, hòa hợp, có thu nhập. Đồng thời, nghiên cứu cho thấy hiện tượng bảo lưu
những tiêu chuẩn kép khắt khe với phụ nữ và xu hướng vị tha hơn cho nam giới
trong vấn đề chung thủy. Điều này cho thấy, chung thủy vẫn là thước đo phẩm giá
của người phụ nữ khi họ được kỳ vọng là nhân tố giữ gìn cho sự êm ấm, tốt đẹp của
gia đình và xã hội.

Hiện nay, các gia đình ngày càng nhận thức cao về tầm quan trọng của trách nhiệm,
chia sẻ trong đời sống gia đình. Đó là việc chia sẻ những mối quan tâm, lắng nghe
tâm tư, suy nghĩ của các thành viên trong gia đình. Các gia đình có mức độ hiện đại
hóa càng cao mang nhiều đặc điểm hiện đại như sống ở đô thị, có việc làm, có học
vấn cao, mức sống cao, các khu vực kinh tế phát triển hơn thì các giá trị chia sẻ và
trân trọng càng được các cặp vợ chồng thể hiện rõ. Tuy nhiên thực tế cho thấy,
người phụ nữ vẫn chưa bình đẳng thực sự với nam giới thể hiện trong tỷ lệ được
người chồng chia sẻ, lắng nghe tâm tư và chia sẻ suy nghĩ.

III. Sự biến đổi trong các mối quan hệ gia đình.


- Sự biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng:

Trong thực tế, hôn nhân và gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với những thách
thức, biến đổi lớn. Dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện

8
đại, toàn cầu hóa… các gia đình phải gánh chịu nhiều mặt trái như: quan hệ vợ
chồng - gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình, quan hệ tình dục
trước hôn nhân và ngoài hôn nhân, chung sống không kết hôn. Đồng thời, xuất hiện
nhiều bi kịch, thảm án gia đình, người già neo đơn, trẻ em sống ích kỷ, bạo hành
trong gia đình, xâm hại tình dục…Ví dụ: Cha đẻ hãm hiếp, cưỡng bức con ruột có
thai. Hệ lụy là giá trị truyền thống trong gia đình bị coi nhẹ, gia đình truyền thống
bị phá vỡ, lung lay và hiện tượng gia tăng dân số hộ gia đình đơn thân, độc thân,
kết hôn đồng tính, sinh con ngoài giá thú…Ngoài ra, sức ép từ cuộc sống hiện đại
(công việc căng thẳng, không ổn định, di chuyển nhiều…) cũng khiến cho hôn
nhân trở nên khó khăn với nhiều người trong xã hội. Ví dụ: Có những người bận
kiếm tiền đến nỗi không thiết tha gì đến việc lấy vợ, lấy chồng. Trong gia đình
truyền thống người chồng là trụ cột của gia đình, mọi quyền lực trong gia đình đều
thuộc về người đàn ông. Người chồng là chủ sở hữu tài sản của gia đình người
quyết định các công việc quan trọng của gia đình như: đất đai, nhà cửa, cưới xin…
v.v.
Trong gia đình Việt Nam hiện đại, ngoài mô hình người đàn ông - người chồng làm
chủ gia đình ra thì còn có ít nhất hai mô hình khác cùng tồn tại. Đó là mô hình
người phụ nữ - người vợ làm chủ gia đình và mô hình cả hai vợ chồng cùng làm
chủ gia đình. Người chủ gia đình được quan niệm là người có phẩm chất, năng lực
và đóng góp vượt trội được các thành viên trong gia đình coi trọng. Ngoài ra, mô
hình người chủ gia đình phải là người làm ra được tài chính tức là kiếm được nhiều
tiền cho thấy một đòi hỏi mới về phẩm chất của người lãnh đạo gia đình trong bối
cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế.

- Sự biến đổi giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình:

Những biến đổi trong mối quan hệ vợ chồng hiện nay dẫn đến mâu thuẫn và đấu
tranh giữa các giá trị chuẩn mực văn hóa truyền thống với các giá trị chuẩn mực
văn hóa hiện đại. Quá trình đó đòi hỏi phải xác lập những giá trị chuẩn mực văn
hóa mới trong quan hệ vợ chồng phù hợp với sự phát triển kinh tế, pháp luật, đạo
đức trong xã hội mới để xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc,
bảo đảm sự kết hợp hài hòa lợi ích giữa cá nhân, gia đình và xã hội.

9
Trong gia đình truyền thống, cha mẹ có uy quyền tuyệt đối với con cái và con cái
phải có bổn phận phục tùng uy quyền của cha mẹ. Trong mối quan hệ giữa cha mẹ
và con cái người ta ít đề cập tới trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái nhưng lại
nhấn mạnh tới bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Nguyên nhân sâu xa của hiện
tượng này bắt nguồn từ quan niệm đạo Hiếu truyền thống, quan niệm này đòi hỏi
con cái phải thành kính và phụng dưỡng cha mẹ. Trong khi đó, với quan niệm “trời
sinh voi thì trời sinh cỏ”, cha mẹ có thể sinh nhiều con cái nhưng trách nhiệm,
nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục không phải lúc nào cũng đi cùng. Thậm chí, không ít
gia đình, trẻ em bị “đánh cắp” tuổi thơ, phải lao động nặng nhọc, phải gánh nặng
các bổn phận và trách nhiệm, phải có “hiếu” đối với cha mẹ.

Trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái hiện nay, có một xu hướng đảo ngược
so với truyền thống. Nếu như trong gia đình truyền thống mối quan hệ giữa cha mẹ
và con cái được nhấn mạnh theo nguyên tắc: quyền của cha mẹ và bổn phận của trẻ
em, thì trong gia đình hiện nay nguyên tắc đó được nhấn mạnh theo chiều hướng
ngược lại, đó là: quyền của trẻ em và bổn phận của cha mẹ. Hiện nay, vai trò giáo
dục và kiểm soát con cái của cha mẹ trong gia đình ngày càng mờ nhạt, hiện tượng
này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân đặc biệt do ảnh hưởng của văn hóa phương
Tây và sự tác động của chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước nên quyền trẻ
em được coi trọng mà trong gia đình thì cha mẹ phải là người đầu tiên gương mẫu
thực hiện quyền đó.

Việc công nhận quyền trẻ em đã làm thay đổi căn bản những giá trị, chuẩn mực văn
hóa trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Như vậy, có thể thấy không phải
cha mẹ hiện nay muốn từ bỏ quyền kiểm soát trẻ em mà chính là do thời đại mới đã
không chấp nhận để cha mẹ kiểm soát trẻ em theo các chuẩn mực truyền thống. Đó
là sự khủng hoảng của thiết chế gia đình trong việc kiểm soát trẻ em hiện nay.
Đánh giá một cách khách quan công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế thị trường đã
tác động toàn diện đến gia đình hiện nay.

Vấn đề đặt ra trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là cần phải củng cố chức
năng giáo dục của gia đình xây dựng mối quan hệ mới giữa cha mẹ và con cái trên
cơ sở tiếp thu những giá trị chuẩn mực văn hóa mới, đồng thời kế thừa những giá
10
trị tốt đẹp của gia đình truyền thống, cần tạo cho trẻ em môi trường điều kiện để
phát triển nhân cách, năng lực nhưng cũng phải quan tâm đến giáo dục gia đình
giúp trẻ em nhận thức được những giá trị chuẩn mực truyền thống, đặc biệt phải
sống có trách nhiệm đối với gia đình, cộng đồng và xã hội.

IV. Kết luận.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới tác động của nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan: sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức xu thế toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước về gia đình..., gia đình Việt Nam đã có sự biến đổi
tương đối toàn diện về quy mô, kết cấu, các chức năng cũng như quan hệ gia đình.
Ngược lại, sự biến đổi của gia đình cũng tạo ra động lực mới thúc đẩy sự phát triển
của xã hội. Quy mô gia đình Việt Nam ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ hơn so
với trước kia, số thành viên trong gia đình ít đi đáp ứng nhu cầu và điều kiện mới
của thời đại mới đặt ra. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chức năng của
gia đình có sự biến đổi về các mặt: tái sản xuất ra con người, kinh tế và tổ chức tiêu
dùng, giáo dục (xã hội hoá) và thoả mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm. Bên
cạnh đó, các mối quan hệ trong gia đình cũng có sự biến đổi lớn. Từ những sự thay
đổi ấy Đảng và nhà nước ta đã có những phương hướng cơ bản để xây dựng và
phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩ xã hội.

-HẾT-

Tài liệu kham khảo:

1. GS.TS. Hoàng Chí Bảo (2021).Giáo trình “Chủ nghĩa xã hội khoa học”(dànhcho bậc đại học hệ
không chuyên lý luận chính trị), NXB Chính trị Quốc gia sựthật, Hà Nội.
2. Trần Thị Minh Thi, “Những biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay và một sốkhuyến nghị chính
sách”, Tạp chí Cộng sản ngày 10 tháng 06 năm 2020
3. Phan Thuận (2018). “Chức năng gia đình và sự biến đổi từ tiếp cận lý thuyếtcấu trúc chức năng”,
Tổng cục dân số - kế hoạch hóa gia đình, số 7-2018

11

You might also like