You are on page 1of 22

CHƯƠNG I

NHỮNG TRI THỨC CƠ BẢN TRONG CỜ VUA

I. Nguồn gốc, lịch sử phát triển, đặc điểm tính chất và tác dụng của môn Cờ Vua.
1. Nguồn gốc môn Cờ Vua.
Cờ Vua xuất hiện ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI sau công nguyên. Cho đến nay người
ta không biết chính xác ngày tháng nào và ai là người khởi xướng ra trò chơi này, chỉ biết
rằng đây là một trò chơi phức tạp về đủ mọi phương diện: luật chơi, phong cách, chiến
lược, chiến thuật....
Thời kỳ đó ở Ấn Độ, trò chơi này có tên gọi Chatugara, có nghĩa là phù hợp với
bốn loại binh chủng của quân đội Ấn Độ thời bấy giờ: Chiến xa, Tượng xa, Kỵ binh và
Lục quân. Như vậy có thể cho rằng, Cờ Vua ra đời cùng với sự hình thành và phát triển
của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật bày binh bố trận, điều binh khiển tướng và giá trị
nguồn gốc ấy vẫn giữ nguyên trong Cờ Vua hiện đại.
2. Lịch sử phát triển môn Cờ Vua trên Thế giới.
Từ Ấn Độ trò chơi này được chuyển sang Trung Á. Ở Ả Rập nó mang tên
Satơrăng. Từ Ả Rập Satơrăng theo các cuộc chiến tranh, buôn bán du nhập vào Tây Ban
Nha, Italia rồi lan rộng ra khắp Châu Âu.
Lịch sử Cờ Vua cho thấy, mỗi một thế kỷ là một nấc thang phát triển và sáng tạo
trong môn thể thao trí tuệ này. Vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, luật chơi Cờ Vua
mới bắt đầu hình thành. Đến thế kỷ thứ XVII, luật chơi Cờ Vua được hoàn thiện cơ bản
như ngày nay.
Sang thế kỷ XVIII, hệ thống lý thuyết Cờ Vua cũng đạt đến đỉnh cao, trung tâm Cờ
Vua chuyển sang vùng Địa Trung Hải ven bờ Đại Tây Dương và đi sâu vào Châu Âu.
Pari trở thành trung tâm Cờ Vua lớn. Cũng trong thời kỳ này, Philip Xtamma đã đi vào
lịch sử môn Cờ Vua - là người đã có công nghiên cứu để hoàn thiện các ký hiệu trên bàn
cờ. Năm 1883, Uynxơn - một thợ đồng hồ người Anh đã sáng chế ra đồng hồ chuyên
dụng dùng trong thi đấu Cờ Vua.
Năm 1886, bắt đầu tổ chức giải Cờ Vua Thế giới dành cho Nam. Năm 1927, giải
vô địch dành cho Nữ mới được tổ chức. Năm 1824, Liên đoàn Cờ Vua Thế giới (FIDE)
được thành lập. Thế vận hội Olympic Cờ Vua được tổ chức năm 1927, tách biệt với các
môn thể thao khác và 2 năm tổ chức một lần.
3. Sơ lược lịch sử phát triển môn Cờ Vua ở Việt Nam.
Liên đoàn Cờ Việt Nam (tiền thân là Hội Cờ tướng Việt Nam) được thành lập ngày
14-2-1965 tại Nhà Khai trí kiến thức do bác sĩ Lê Đình Thám làm Hội trưởng. Năm 1975,
Hội Cờ giải thể. Ngày 15-12-1980, Hội Cờ được thành lập lại, lấy tên là Hội Cờ Việt
Nam do Ông Hồ Trúc làm Hội trưởng.
Ngày 5-8-1980 Bộ giáo dục đã ra văn bản số 1787/TDQS về việc chính thức đưa
Cờ Vua vào giảng dạy trong các trường phổ thông, các trường Cao đẳng, Đại học Sư
phạm và trường Đại học Thể dục thể thao trên phạm vi toàn quốc.
Tháng 10-1984, Hội Cờ Việt Nam chính thức là thành viên của Liên đoàn Cờ châu
Á. Năm 1988, Việt Nam được chính thức công nhận là thành viên của Liên đoàn Cờ Vua
1
Thế giới. Cuối năm 1991, Hội Cờ đổi tên thành Liên đoàn Cờ Việt Nam do Ông Nguyễn
Hữu Thọ làm Chủ tịch. Ngày 28-9-1997, Đại hội toàn quốc lần thứ III của Liên đoàn Cờ
Việt Nam bầu Ông Nguyễn Minh Hiển Chủ tịch.
Hàng năm, giải Cờ Vua cho các đối tượng được tổ chức rộng rải. Đỉnh cao về qui
mô phong trào là các giải Cờ Vua A1, A2, giải các đấu thủ mạnh, giải Cờ Vua cho học
sinh sinh viên được tổ chức định kỳ và giải Cờ Vua trong khuôn khổ Hội khoẻ Phù Đổng.
4. Đặc điểm, tính chất, và tác dụng môn Cờ Vua.
Cờ Vua là môn thể thao có đặc trưng là ít đòi hỏi cao về tố chất thể lực, song lại có
yêu cầu cao về sự thông minh, mưu trí, óc sáng tạo ở người chơi. Vì vậy, Cờ Vua phù hợp
với con người và có điều kiện phát triển ở Việt Nam. Chơi Cờ Vua không đòi hỏi dụng cụ,
sân bải phức tạp, tập luyện không cần nhiều người. Hình thức tập phong phú, đa dạng.
Chơi Cờ Vua có tác dụng phát triển tư duy logic, luyện trí thông minh, giáo dục
những phẩm chất tốt đẹp như: tính tổ chức kỷ luật, kiên cường, bình tĩnh, óc sáng tạo....
Chơi cờ, chính là góp phần xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống
văn hoá tinh thần của nhân nhân. Thực hiện việc trao đổi văn hoá TDTT với các nước
trên thế giới. Cờ Vua là môn giải trí tao nhã, tạo ra cảm giác sảng khoái của sự sáng tạo
và mưu trí, bởi có sự biến hoá kỳ diệu trong mổi nước cờ, mổi thế biến.
5. Các thuật ngữ trong Cờ Vua.
- Pát: Là trường hợp hòa cờ do hết nước đi. Khi một thế cờ trong đó đến lượt đi của
mình đấu thủ không thể thực hiện nước đi quân hợp lệ.
- Xuxvăng: Là tình thế bó buộc - tức là bên có lượt đi bắt buộc phải thực hiện nước
đi dẫn tới một thế cờ kém hơn.
- Temp: Là nhân tố thời gian của một nước đi. Vì vậy có nước đi lợi temp, có nước
đi thiệt temp.
- Phiankét Tượng: Là khi quân Tốt ở cột "b" hoặc cột "g" từ vị trí ban đầu dịch
chuyển lên một ô, sau đó phát triển quân Tượng của mình lên chiếm ô mà quân Tốt vừa
giải phóng.
- Chiếu vĩnh viễn: Là một đối thủ liên tục thực hiện nước chiếu Vua đối phương và
đối phương không thể chấm dứt được nước chiếu Vua.
- Chiếu Mát: Khi đối thủ đến lượt đi của mình, không thể đưa Vua của mình thoát
khỏi nước chiếu của đối phương.
- Blôc: Là sự ngăn chặn, thông thường thuật ngữ này sử dụng trọng việc ngăn chặn
Tốt tiến xuống phong cấp.
- Tốt cô lập: Là một quân Tốt đứng đơn lẻ. Hai cột bên
cạnh không có quân Tốt nào của bên mình.
- Tốt chồng: Là khi hai quân Tốt của một bên nằm trên
một cột.
- Tốt phong toả: Là hai quân Tốt của hai bên đứng đối
diện nhau và cả hai đều không di chuyển được.
- Tốt chậm tiến: Khi dãy Tốt liên hoàn nằm trên một
đường chéo, thì quân Tốt sau cùng được gọi là quân Tốt
chậm tiến khi một quân Tốt của đối phương phong toả quân Hình 1
Tốt trên nó.
2
- Tốt thông: Là quân Tốt không bị cản trở bởi Tốt đối phương trong việc tiến
xuống phong cấp.
- Chiến lược Cờ vua: Là định hướng trung tâm cơ bản của ván cờ, hoặc một giai
đoạn của ván cờ.
- Chiến thuật Cờ vua: Là tổ hợp một loạt các nước đi có định hướng nhằm giải
quyết một mục đích nào đó tại tình huống đã định trước trong diễn biến của ván cờ.
6. Các nhân tố trên bàn cờ.
- Hàng ngang: gồm 8 hàng ngang được ký hiệu từ 1 đến 8.
- Cột dọc: gồm 8 cột dọc được ký hiệu từ a đến h.
- Đường chéo là đường nối giữa các ô cùng màu nằm liền kề nhau. Ví dụ: đường
chéo a1- h8, a8 - h1....
- Tên gọi ô cờ là tên của giao điểm giữa cột dọc và hàng ngang. Ví dụ ô a3, f4...
- Trung tâm bao gồm các ô d4, d5, e4, e5
- Trung tâm mở rộng bao gồm các ô thuộc hình vuông có đỉnh c3, f3, c6, f6.
- Cánh Hậu là khu vực được giới hạn từ cột a đến cột d.
- Cánh Vua là khu vực được giới hạn từ cột e đến cột h.
- Cột nửa mở là cột chỉ có quân Tốt đối phương đứng.
- Cột mở là cột không có quân Tốt nào đứng.
7. Ký hiệu trong Cờ vua:
- Quân Vua: V - Quân Hậu: H - Quân Xe: X
- Quân Mã: M - Quân Tượng: T - Quân Tốt: không có ký hiệu
- Chiếu: + - Chiếu đôi: + + - Chiếu hết: #
- Nhập thành gần: 0 - 0 - Nhập thành xa: 0 - 0 - 0
8. Cách ghi chép trong Cờ Vua:
Có 2 cách ghi chép trong Cờ Vua: Cách ghi ngắn gọn, cách ghi đầy đủ.
- Cách ghi đầy đủ: Là ghi thứ tự nước đi, ký hiệu quân cờ cùng với vị trí xuất phát
quân cờ và vị trí nó dịch chuyển tới, ở giữa chúng có ký hiệu nước đi " - " hoặc ký hiệu
bắt quân" : ". Ví dụ: Tốt từ ô e2 đi lên ô e4 ở nước đi thứ nhất của trắng ghi là 1. e2 - e4.
Mã từ ô g1 ăn quân ở ô f3 ở nước đi thứ năm của trắng ghi là 5. Mg1: f3
- Cách ghi ngắn gọn: Là ghi thứ tự nước đi, ký hiệu quân cờ cùng với vị trí mà quân
cờ đó di chuyển tới. Trong trường hợp nhiều quân tới được vị trí đó thì cần thiết sử dụng
thêm hàng ngang hoặc cột dọc của quân cờ đó ở vị trí nó đứng để làm sáng tỏ nước đi.
Ví dụ: Tốt từ ô e2 đi lên ô e4 ở nước đi thứ nhất của Trắng ghi là 1.e4.
Quân Tượng ở ô g1 của Trắng đến được ô f3 ở nước đi thứ 12 ghi là 12.Tf3.
Hai quân Mã ở ô a1 và ô a5 của Trắng đều bắt được quân Xe ở ô b3 của Đen ở
nước đi thứ 9 ghi là 9.M1xb3 hoặc M5xb3.
Trong Cờ vua người ta qui định cách ghi biên bản như sau: Mỗi nước đi bao gồm 2
lượt đi, lượt của bên Trắng trước và lượt đi của bên Đen sau.
Ví dụ 1.e4 e5 2.Mf3 Mc6
Trong một thế cờ nào đó, mà qui định bên Đen đi trước thì sẽ ghi số thứ tự của
nước đi và nước đi của bên Đen, còn nước đi của bên Trắng được thay bằng 3 dấu chấm.
Ví dụ: 8.... Te7 9. Md4 h6
3
9. Giá trị tương đối giữa các quân.
Qua lý luận và thực tiển thi đấu Cờ vua, giá trị tương
đối của các quân được đánh giá theo thang điểm như sau:
Tốt: 1 điểm
Mã: 3 điểm
Tượng: 3 điểm
Xe: 4.5 điểm
Hậu: 9 điểm
Hình 2
Với giá trị các quân như vậy Mã, Tượng được liệt vào
loại quân nhẹ, Hậu và Xe là những quân nặng.
Không thể định giá trị cho quân Vua, vì bản thân nó
không thể đánh đổi được bởi vì khi mất Vua - bị đối
phương chiếu hết - có nghĩa là thua cuộc.
Giá trị các quân cờ định ra như thế chỉ mang tính
chất tương đối, bởi lẻ thực tế trong các ván đấu thường thấy
xuất hiện những trường hợp mà giá trị quân bị đảo lộn, thể
hiện rõ nhất là trong đòn phối hợp. Ví dụ hình 2, Trắng đi
trước phong cấp thành Xe thì thắng mà phong cấp thành
Hậu thì hoà cờ. Hình 3
II. Một số luật Cờ Vua cơ bản.
1. Bản chất và mục đích của một ván cờ:
Ván cờ được tiến hành giữa hai đấu thủ bằng cách
luân phiên nhau di chuyển các quân cờ trên một chiếc bàn
hình vuông gọi là bàn cờ. Đấu thủ cầm quân Trắng mở đầu
ván cờ. Một đấu thủ được quyền "có lượt đi" khi đấu thủ
kia đã thực hiện xong nước đi của mình.
Mục tiêu của mỗi đấu thủ là tấn công Vua đối phương
sao cho đối phương không có nước đi đúng luật nào có thể
tránh Vua khỏi bị bắt ở nước đi tiếp theo. Đối thủ đạt được
điều đó được gọi là "chiếu hết" Vua đối phương và thắng Hình 4
ván cờ, đấu thủ có Vua bị chiếu hết thua ván cờ. Nếu xuất hiện thế cờ mà không một đấu
thủ nào có thể chiếu hết được thì ván cờ kết thúc hoà.
2. Bàn cờ, quân cờ.
Bàn cờ là một hình vuông có 64 ô vuông bằng nhau, bao gồm 32 ô vuông sáng
màu và 32 ô vuông sẫm màu nằm xen kẻ nhau. Bàn cờ được đặt giữa 2 đấu thủ sao cho ô
sáng màu nằm bên phải của mỗi đấu thủ (hình 3).
Trên bàn cờ có 32 quân cờ, một đấu thủ có 16 quân màu Trắng bao gồm: 1 Vua, 1
Hoàng Hậu, 2 Xe, 2 Tượng, 2 Mã và 8 Tốt. Đấu thủ kia có 16 quân màu Đen bao gồm: 1
Vua, 1 Hoàng Hậu, 2 Xe, 2 Tượng, 2 Mã và 8 Tốt (hình 4).
Vị trí các quân Trắng: Từ trái qua phải ở hàng ngang thứ nhất: Xe, Mã, Tượng,
Hậu, Vua, Tượng, Mã, Xe và 8 quân Tốt ở hàng ngang thứ 2.
Vị trí các quân Đen: Từ trái qua phải ở hàng ngang thứ tám: Xe, Mã, Tượng, Hậu,
Vua, Tượng, Mã, Xe và 8 quân Tốt ở hàng ngang thứ 7.
4
3. Luật di chuyển quân.
Không được di chuyển một quân tới ô có quân cùng màu
đang đứng. Nếu một quân đi tới một ô cờ đang có quân đối
phương đứng thì quân đối phương bị bắt, được bỏ ra khỏi bàn
cờ và được tính là một phần của nước đi đó.
Một quân được cho là đang tấn công quân đối phương nếu
quân đó có thể thực hiện nước bắt quân tại ô cờ nêu trên.
Các quân không được phép di chuyển nếu nước đi đó để
Vua của mình ở thế bị chiếu. Hình 5
- Quân Tượng có thể đi tới bất kỳ ô cờ nào trên cùng
đường chéo với ô mà nó đang đứng (hình 5).
- Quân Xe có thể đi tới bất kỳ ô cờ nào trên cùng cột dọc
hoặc hàng ngang với ô mà nó đang đứng (hình 6).
- Quân Hậu có thể đi tới bất kỳ ô cờ nào trên cùng cột
dọc, hàng ngang, đường chéo với ô mà nó đang đứng (hình 7).
Khi thực hiện những nước đi này quân Hậu, Tượng, Xe
không được nhảy qua đầu các quân đang đứng giữa đường.
- Quân Tốt có thể tiến tới 1 hoặc 2 ô trống ngay phía
trước trên cùng cột dọc ở nước đi đầu tiên. Ở những nước đi
tiếp theo, Tốt tiến tới một ô trống ngay phía trước trên cùng cột Hình 6
dọc (hình 8).
+ Tốt đi theo đường chéo tới một ô cờ ngay phía trước nó
khi ô cờ đó đang bị quân đối phương chiếm giữ và bắt quân
này.
+ Khi Tốt đối phương từ vị trí ban đầu tiến hai ô vượt qua
ô cờ đang bị Tốt bên có lượt đi kiểm soát, thì Tốt bên có lượt
đi có thể bắt quân Tốt đó. Nước đi đó được gọi là" bắt Tốt qua
đường" và phải thực hiện ngay (hình 8).
Khi thực hiện nước bắt Tốt qua đường phải có ký hiệu:
qđ. Ví dụ: Tốt Trắng đang ở ô c5, Tốt Đen ở ô b7 đi lên ô b5 ở
nước đi thứ 15. Ở nước đi thứ 16 Trắng thực hiện nước bắt Tốt
qua đường ghi là: 16.cxb6 qđ. Hình 7
+ Khi quân Tốt tiến tới hàng ngang cuối cùng nó sẽ được
phong cấp thành Hậu hoặc Xe hoặc Tượng hoặc Mã cùng màu
ngay trong nước đi này. Sự lựa chọn để đổi quân của đấu thủ
không phụ thuộc vào các quân bị bắt trước đó. Sự đổi Tốt
thành một quân khác được gọi là "phong cấp" cho Tốt và quân
mới phong cấp có hiệu lực ngay.
Ví du: Ở nước đi thứ 20 Tốt Trắng ở ô c7 tiến xuống ô c8
"phong cấp" thành Xe ghi là: 20.c8/X.
- Quân Vua đi từ ô nó đang đứng tới một ô bất kỳ liền bên
nếu ô cờ đó không bị quân đối phương kiểm soát (hình 8).
Vua có một nước đi khác đó là nước đi nhập thành. Hình 8

5
màu, trên cùng hàng ngang, được tính chung là một nước đi
của Vua và được thực hiện như sau: Vua di chuyển ngang 2 ô
từ vị trí ban đầu sang phía Xe tham gia nhập thành, tiếp theo
Xe nói trên di chuyển nhảy qua Vua tới ô cờ bên cạnh Vua.
Ví dụ hình 9 - Trắng nhập thành xa, Đen nhập thành gần.
* Không được phép nhập thành khi:
- Vua đã di chuyển hoặc Xe phía nhập thành đã di chuyển.
- Giữa Vua và Xe định nhập thành có quân khác đang
đứng. Hình 9
- Ô Vua phải đi qua hoặc ô Vua định tới bị quân đối
phương kiểm soát.
- Quân Vua đang bị chiếu.
Quân Vua được coi là "bị chiếu" nếu như nó bị một hay
nhiều quân của đối phương tấn công, thậm chí cả khi những
quân này không thể tự di chuyển.
- Quân Mã có thể đi từ ô nó đang đứng đến một trong các
ô gần nhất nhưng không nằm trên cùng cột dọc, hàng ngang
hay đường chéo với ô nó đang đứng (hình 10).
Khi thực hiện nước đi, Mã có thể nhảy qua ô có quân
đang đứng. Hình 10
4. Thực hiện nước đi:
Các nước đi phải được thực hiện chỉ bằng một tay.
Đấu thủ có lượt đi có thể sửa một hay nhiều quân cho đúng ô của chúng, với điều
kiện phải thông báo trước ý định của mình (chẳng hạn bằng cách nói "tôi sửa quân").
Nếu một đấu thủ chạm một hay nhiều quân của mình thì đấu thủ phải di chuyển
quân bị chạm đầu tiên nếu quân đó có thể di chuyển được.
Nếu một đấu thủ chạm một hay nhiều quân của đối phương, đấu thủ phải bắt quân
chạm đầu tiên nếu quân đó có thể bắt được.
Nếu đấu thủ cố ý chạm vào Vua và Xe của mình, thì phải nhập thành về phía Xe đó
nếu nước nhập thành hợp lệ. Nếu đấu thủ cố ý chạm vào Xe trước và sau đó là Vua
của mình, đấu thủ không được phép nhập thành tại nước đi này mà phải thực hiện nước đi
với Xe.
Nếu một đấu thủ có ý định nhập thành mà chạm vào Vua hoặc chạm vào Vua và Xe
cùng một lúc nhưng nhập thành về phía này không hợp lệ thì đấu thủ phải thực hiện một
nước đi khác đúng luật bằng quân Vua của mình bao gồm cả nước nhập thành về phía
khác. Nếu Vua cũng không có nước đi hợp lệ thì đấu thủ được phép thực hiện một nước
đi khác hợp lệ.
Nếu không có quân nào trong số các quân đã chạm có thể di chuyển được hoặc bắt
được thì đấu thủ có thể thực hiện một nước đi khác hợp lệ.
Khi một quân đã được buông tay đặt trên ô cờ như một nước đi hợp lệ hoặc một
phần của nước đi hợp lệ thì sau đó quân cờ này không thể thực hiện di chuyển tới một ô
cờ khác.
6
5. Hoàn thành ván cờ.
Mục tiêu của một đấu thủ trong một ván cờ là tấn công
Vua của đối phương sao cho đối phương không có nước đi
đúng luật nào có thể tránh Vua khỏi bị bắt ở nước đi tiếp theo.
Đối thủ đạt được điều đó được gọi là đã " chiếu hết " Vua đối
phương. Vậy như thế nào gọi là nước chiếu Vua? Khi Vua bị
chiếu thì phải làm gì?
Nước chiếu Vua là nước đi đe doạ bắt Vua đối phương.
Khi Vua bị chiếu thì có thể đưa Vua thoát khỏi nước chiếu của Hình 11
đối phương bằng các cách sau:
. Di chuyển Vua tới ô cờ khác an toàn hơn.
. Dùng quân cờ khác che chắn cho Vua.
. Tiêu diệt quân đang chiếu (hình 11).
* Thắng ván cờ.
- Đấu thủ thắng ván cờ khi chiếu hết Vua đối phương
bằng một nước đi hợp lệ. Ván cờ ngay lập tức kết thúc.
Ví dụ hình 12, đến lượt đi của mình, Trắng thực hiện
nước đi 1.Mf7 chiếu hết Đen - Trắng thắng.
- Đấu thủ thắng ván cờ khi đối phương tuyên bố xin thua.
Ván cờ kết thúc ngay lúc đó. Hình 12
* Hòa cờ.
- Ván cờ hoà khi đấu thủ có lượt đi không có nước đi hợp
lệ và Vua đấu thủ đó không bị chiếu. Ván cờ kết thúc ở thế
"hết nước đi", thuật ngữ Cờ vua gọi là: ” Pat ".
Ở hình 13, đến lượt đi của mình, Trắng không có nước đi
hợp lệ, Vua Trắng không bị chiếu nên ván cờ kết thúc hoà.
- Ván cờ hoà khi xuất hiện thế cờ, trong đó không đấu thủ
nào có thể chiếu hết Vua đối phương bằng các nước đi hợp lệ.
Ví dụ hình 14, bên Đen không đủ lực lượng để chiếu hết
nên ván cờ kết thúc hoà.
- Ván cờ hoà theo sự thoả thuận của hai đấu thủ trong quá Hình 13
trình thi đấu. Ván cờ kết thúc ngay lúc đó.
- Ván cờ hoà nếu một thế cờ giống hệt sẽ xuất hiện hoặc
đã xuất hiện ba lần.
- Ván cờ hoà nếu trong 50 nước đi cuối cùng liên tiếp
nhau không có sự di chuyển Tốt và không có nước bắt quân
nào.

Hình 14

7
CHƯƠNG II
GIAI ĐOẠN KHAI CUỘC

1. Khái niệm khai cuộc: Khai cuộc là giai đoạn đầu của ván đấu, tại đây hai bên nhanh
chóng phát triển lực lượng sao cho phù hợp với ý đồ chiến lược và chiến thuật đã định
trước trong mỗi dạng thức khai cuộc.
Khai cuộc là giai đoạn mở đầu của mỗi ván cờ nên cách bố trí lực lượng trong khai
cuộc là nền tảng cho những thành công trong giai đoạn trung cuộc và tàn cuộc.
Tuy nhiên, không cần thiết phải tìm hiểu sâu vào tất cả các phương án khai cuộc
chi tiết, mà chỉ cần làm quen và nắm vững những nguyên lý và ý đồ cơ bản nhất của một
số khai cuộc cần thiết. Còn những cuốn sách đặc biệt về vấn đề khai cuộc chỉ dành cho
những vận động viên đã trải qua giai đoạn huấn luyện nào đó.
Theo quan điểm chung nhất, khai cuộc là sự tập trung huy động các quân của hai
bên tham chiến. Trong giai đoạn này, cần phải tiến Tốt lên chiếm giữ trung tâm và tạo
không gian để phát triển Tượng và Mã. Sau đó có thể nhập thành đưa Vua vào vị trí an
toàn, đưa Xe và Hậu ra chuẩn bị tham chiến. Đến đây về cơ bản thì lực lượng hai bên đã
phát triển xong.
Người chơi cờ thường tự đặt ra câu hỏi: Khai cuộc kéo dài trong bao nhiêu nước
đi? Khi nào ván cờ chuyển sang giai đoạn trung cuộc? Nếu xét mối liên hệ giữa khai cuộc
với các giai đoạn khác của ván cờ, thì việc phân chia rõ ràng không thể thực hiện được.
Giai đoạn khai cuộc thường kéo dài khoảng 10 - 15 nước đi. Cả hai bên vừa phải triển
khai thật nhanh lực lượng của mình, vừa tìm cách cản trở đối phương thực hiện ý đồ đó.
Tất cả các điều vừa trình bày ở trên đã được tổng kết thành một số nguyên tắc mà
người mới học chơi cờ phải tuân thủ để tránh xảy ra những sơ xuất ngay từ những nước
đi đầu tiên. Nếu tuân thủ triệt để những nguyên tắc này thì sẽ nhận được những thế cờ tốt,
ngay cả trong những phương án không quen thuộc.
2. Các nguyên tắc khai cuộc:
Các nguyên tắc này là những lý luận đã được đúc rút ra từ thực tiển thi đấu. Dù
ý đồ chiến lược có khác nhau như thế nào trong mỗi dạng thức khai cuộc, người chơi
cờ cần tuân thủ những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc 1: Nhanh chóng khống chế khu trung tâm.
Trong khai cuộc việc tranh dành kiểm soát khu trung
tâm đóng vai trò quan trọng. Bởi vì ở trung tâm các quân cờ có
thể phát huy tối đa sức mạnh của mình. Từ trung tâm, lực
lượng có thể huy động tới tất cả các hướng nhanh nhất. Vì vậy
trung tâm chính là điểm xuất phát để tấn công hay phòng thủ.
Trong cuộc chiến giành khu trung tâm, các Tốt đóng vai trò
đặc biệt. Tiến Tốt vào trung tâm sẽ đồn các quân đối phương
vào vị trí bất lợi, tạo điều kiện cho các quân của mình chiếm Hình 15
giữ những vị trí tích cực.
Ví dụ: 1.e4 e5 2.Mf3 f6? 3.Mf5 fe 4.Hh5+ Ve7 5. He5+ Vf7 6.Tc4+
Vg6 7.Hf5+ Vh6 8.d4+ g5 9.h4 + - (hình 15)
8
- Nguyên tắc 2: Triển khai nhanh chóng và hài hoà toàn
bộ lực lượng.
Để đảm bảo nguyên tắc này, người chơi cờ cần tiến hành
phát triển lực lượng của mình theo trình tự sau:
+ Tiến tốt cột c, d, e lên chiếm giữ và khống chế trung
tâm.
+ Phát triển các quân nhẹ (T, M )hướng về trung tâm.
+ Nhập thành đưa Vua vào vị trí an toàn.
+ Đưa các quân nặng (H, X) ra những vị trí thuận lợi để Hình 16
tham chiến.
Ví dụ: 1.e4 e5 2.Hf3 b6 3.Tc4 Mc6 4.Hf7 #
(hình 16).
- Nguyên tắc 3: Xây dựng cấu trúc Tốt vững chắc.
Tuy là quân cờ yếu nhất và kém cơ động nhất, nhưng
Tốt có ảnh hưởng rất lớn đến tính chất của thế cờ. Tốt là yếu
tố tích cực khi cơ động quân. Khi đi về phía trước, Tốt hạn
chế sự cơ động của các quân đối phương, nhất là ở trung tâm.
Vì vậy, điều quan trọng là phải bố trí Tốt như thế nào cho
hợp lý.
Ví dụ: 1.d4 c5 2.dxc5 e6 3.b4? a5 4.c3 axb5 Hình 17
5.cxb5 và 5... Hf6 - + (hình 17)
3. Phân loại khai cuộc:
Người ta chia khai cuộc ra thành 3 hệ thống: Hệ thống khai cuộc thoáng, hệ thống
khai cuộc nữa thoáng và hệ thống khai cuộc kín.
- Hệ thống khai cuộc thoáng là những khai cuộc được bắt đầu bằng nước đi 1.e4 e5
+ Gabit Vua: 1.e4 e5 2.f4
+ Khai cuộc trung tâm: 1.e4 e5 2. d4
+ Ván cờ Tâu Ban Nha: 1. e4 e5 2.Mf3 Mc6 3.Tb5
+ Ván cờ Ý: 1.e4 e5 2.Mf3 Mc6 3.Tc4 Tc5
+ Khai cuộc bốn Mã: 1.e4 e5 2.Mf3 Mc6 3.Mc3 Mf6
- Hệ thống khai cuộc nữa thoáng là những khai cuộc bắt đầu bằng nước đi 1.e4 ≠e5
+ Phòng thủ Pháp: 1.e4 e6
+ Phòng thủ Xixilia: 1.e4 c5
+ Phòng thủ Carô - Kan: 1.e4 c6
+ Phòng thủ Alêkhin: 1.e4 Mf6 2.e5 Md5
- Hệ thống khai cuộc kín là những khai cuộc được bắt đầu bằng nước đi 1.≠ e4:
+ Gabit Hậu: 1.d4 d5 2.c4
+ Phòng thủ Ấn độ cổ: 1.d4 Mf6 2.c4 g6 3.Mc3 Tg7 4.e4
+ Khai cuộc Anh: 1.c4 e5 2.Mc3 Mf6
+ Khai cuộc Rêti: 1.Mf3 d5
+ Khai cuộc Tốt cánh Hậu: 1.d4 d5 2.Mf3 Mf6

9
4. Một số sai lầm căn bản trong Cờ vua.
Ví dụ 1:
1.e4 e5
2.Tc4 d6
3.Mf3 a6
4.Mc3 Tg4
5.Mxe5 Txd1 ?? Hình 18
6.Txf7 + Ve7
7.Mxd5 # (hình 18)

Ví dụ 2:
1.h4?! e5
2.f3? Te7
3.Mc3?? Txh4+ - + (hình 19)
Hình 19

Ví dụ 3:
1.e4 Mc6
2.d4 e5
3.d5 Md4
4.c3 + - (hình 20)
Hình 20

Ví dụ 4:
1.e4 a5
2.Tc4 Mf6
3.Hf3 b6?
4.e5 + - (hình 21)

Hình 21
10
Ví dụ 5:
1.e4 c6
2.Mf3 d5
3.Mc3 dxe4
4.Mxe4 Mf6
5.He2 Mbd7
6.Md6 # (hình 22) Hình 22

Ví dụ 6
1.e4 e5
2.f4 exf4
3.Mf3 d5
4.Mc3 dxe4
5.Mxe4 Tg4
Hình 23
6.He2 Tf3
7.Mf6 # (hình 23)

11
CHƯƠNG III
GIAI ĐOẠN TRUNG CUỘC

1. Khái niệm:
Trung cuộc (còn gọi là giai đoạn giữa của ván cờ) là giai đoạn quan trọng nhất của
ván cờ. Tại đây diễn ra cuộc tranh đấu gay gắt nhất trên tất cả các mặt tâm lý, kỹ thuật
chiến thuật - chiến lược... các mưu kế và các thủ pháp quyết định để giành ưu thế buộc
đối phương phải chịu đầu hàng. Những vấn đề về lý luận trong việc xác định chất lượng
một thế cờ căn cứ vào sự tổng hợp hoạt động của các quân, sau đó tổng hợp mọi vấn đề
và cách đánh giá thế trận cuối cùng rồi mới dựa vào vị trí của các quân trên bàn cờ ở thời
điểm cụ thể để vạch ra kế hoạch chơi.
2. Các nhân tố chiến thuật trong giai đoạn trung cuộc.
Trung cuộc là giai đoạn căng thẳng nhất của ván đấu, nên các nhân tố chiến thuật
được sử dụng trong giai đoạn này cũng chính là các nhân tố chiến thuật trong ván đấu Cờ
Vua. Chiến thuật trong Cờ Vua chính là tổ hợp một loạt các nước đi có định hướng nhằm
giải quyết một mục đích nào đó tại tình huống đã được định trước trong diễn biến của ván
cờ. Các nhân tố chiến thuật trong Cờ Vua bao gồm: Tình thế bó buộc, sự đe doạ, thời
gian.
* Tình thế bó buộc.
- Khái niệm: Tình thế bó buộc là tình thế cờ mà trong đó ở một thời điểm nào đó
của ván cờ, một đấu thủ sử dụng một tổ hợp các nước đi có định hướng (kể cả thí quân)
để buộc đối phương phải trả lời bằng một loạt các nước đi bắt buộc, dù những nước đi đó
làm xấu đi tình thế hiện tại của mình.
- Ý nghĩa: Là phương tiện củng cố và phát triển ưu thế động đã có.
- Các định hướng chiến thuật trong tình hình thế bó buộc:
+ Chiếu hết Vua đối phương.
+ Đạt ưu thế hơn quân.
+ Đạt thế cờ đơn giản và thuận tiện cho mình.
+ Cứu nguy cho thế cờ dưới các dạng: Pat, chiếu vĩnh viễn, lặp lại nước đi.
- Phương tiện cho tình thế bó buộc: Đòn phối hợp, hoặc tổ hợp các nước đi “dồn
ép”: nhằm gây căng thẳng cho đối phương. Việc sử dụng tổ hợp các nước đi định hướng
như vậy gọi là: “ các đòn chiến thuật”.
- Các dạng thức của đòn chiến thuật: Thu hút, Giằng quân, Giải phóng đường, Cầu
hoà, Phong cấp, Đòn đánh đôi, Đánh lạc hướng, ...
* Sự đe doạ: Tạo ra những mối đe doạ chiến thuật.
* Thời gian trong chiến thuật: Thời gian trực tiếp (thời gian thực hiện ván đấu), và thời
gian gián tiếp (temp).
Mặc dù có rất nhiều các dạng thức đòn chiến thuật được sử dụng trong giai đoạn
trung cuộc, nhưng ở đây chúng ta chỉ đi sâu tìm hiểu về đòn phối hợp.
3. Đòn phối hợp.
- Khái niệm: Đòn phối hợp là một thế biến bó buộc có thí quân. Khái niệm này chỉ
thể hiện được bản chất, hiện tượng của nó song chưa nêu lên được các đặc tính quan

12
trọng khác. Đòn phối hợp có hai đặc tính đó là: Tính bất ngờ và đột ngột của đòn phối
hợp.
Tính bất ngờ và đột ngột của đòn phối hợp: Làm đảo lộn cuộc đấu và tương quan
giữa các quân. Bôtvinhích - cựu vô địch thế giới đã nói: "Từ những bước ban đầu người
chơi cờ phải làm quen với các giá trị thông thường của từng quân. Biết rằng Xe mạnh
hơn Mã, Tượng bằng 3 Tốt, Hậu mạnh hơn Xe. Song, có nhiều tình huống mà mối tương
quan ấy không còn hiệu lực". Để đạt những thế cờ như vậy phải biết thí quân. Laxker -
cựu vô địch thế giới đã viết: "Với lối đánh thế trận liên hoàn, anh cố gắng củng cố và sử
dụng giá trị chiến thuật, còn nhờ đòn phối hợp mà anh có thể bác bỏ giá trị giả dối của
các quân cờ. Đòn phối hợp làm gợi lên những nhận định mới và lật lại những nhận định
cũ về một thế cờ". Mặt khác, đòn phối hợp luôn có giá trị thẩm mỹ cao, và ai củng biết
rằng cái đẹp trong nghệ thuật cờ luôn biểu hiện trong các hình thức khác nhau. Việc thí
quân theo lôgic học, sẽ thua về lực lượng, thế nhưng chính nhờ sự thế quân đó mà người
ta tạo ra sự bố trí quân bất lợi cho đối phương và giành thắng lợi sau nước phản công
mãnh liệt.
- Mục đích của đòn phối hợp: Mục đích của đòn phối hợp là nhằm đạt được một
trong những mục đích sau: Thế chiếu hết, thế hoà cờ và đạt được ưu thế (ưu thế về lực
lượng quân hay ưu thế về thế trận).
Mục đích của từng dạng thức đòn phối hợp phải căn cứ vào những lý do để xuất
hiện đòn phối hợp. Đó là những đặc điểm của thế trận cho phép tiến hành thí quân, và đạt
tới mục tiêu dự kiến. Khi thực hiện một đòn phối hợp tới tận cùng thì sẽ xảy ra như thế
nào? Để trả lời câu hỏi này cần phải căn cứ vào thế trận cuối cùng của đòn phối hợp, và
thế trận cuối cùng là chủ đề của đòn phối hợp. Các quân, số lượng nước đi cũng như mối
liên quan giữa chúng trong một thế biến bó buộc được coi là phương tiện của đòn phối
hợp.
- Thành phần của đòn phối hợp: Trước khi thực hiện (tạo dựng) một đòn phối
hợp phải có đầy đủ 4 thành phần sau:
+ Lý do xuất hiện đòn phối hợp.
+ Phương tiện để thực hiện đòn phối hợp.
+ Chủ đề của đòn phối hợp.
+ Thực hiện đòn phối hợp.
4. Một số dạng thức đòn phối hợp cơ bản.
- Đòn thu hút: Là đòn phối hợp thu hút quân đối phương vào một ô cờ bất lợi, sau
đó tấn công vào quân đó.
- Đòn đánh lạc hướng: Là đòn phối hợp đánh lạc hướng quân đối phương ra khỏi
một vị trí phòng thủ hay một điểm quan trọng, sau đó mới tấn công vào điểm hay vị trí
quan trọng đó. Đòn đánh lạc hướng được chia làm 3 dạng: Đánh lạc hướng ra khỏi ô bảo
vệ, đánh lạc hướng ra khỏi đường bảo vệû, đánh lạc hướng Vua.
- Đòn thắt cổ: Là đòn phối hợp buộc các quân của đối phương khoá chặt Vua của
mình, sau đó dùng Mã chiếu hết.
- Đòn giằng quân: Là thủ pháp hữu hiệu để hạn chế sự hoạt động của quân đối
phương.
- Đòn cối xay: Đòn cối xay là đòn phối hợp được tạo dựng bởi các nước chiếu và
mở chiếu tuần tự.
13
- Đòn săn bắt quân: Là đòn đánh của đối thủ vào một quân của đối phương, chủ
yếu là Hậu vào trong một vòng vây kín sau đó dùng lực lượng đe doạ tiêu diệt quân đó.
- Đòn bắt đôi: Là đòn đánh của một quân tấn công cùng một lúc vào hai quân đối
phương (đòn chiếu đôi là một trường hợp đặc biệt của đòn bắt đôi)
- Đòn quá tải: "Quá tải" là trường hợp một quân cùng một lúc thực hiện hai nhiệm
vụ phòng thủ trở lên. Nếu đối phương tập trung đánh vào quân đó gọi là đòn quá tải.
- Đòn cắt đường: Là việc đối thủ vô hiệu hoá đối phương bằng cách ngăn cản khi
đối phương chiếm giữ một đường quan trọng nào đó trong việc phòng thủ (đó có thể là
hàng ngang, cột dọc hay đường chéo).
- Đòn phong cấp: Đòn phong cấp là đòn phối hợp được tạo dựng bởi việc sử dụng
các nước đi phong cấp của Tốt.
- Đòn cầu hoà: Là đòn phối hợp nhằm mục đích đạt được thế cờ hoà (có thể là dẫn
tới thế cờ “Pát” hoặc chiếu bất biến hoặc không đủ lực lượng chiếu hết).
- Đòn phục kích: Là loại đòn phối hợp phức tạp, nó mang tính bí mật, quân đánh
thường nấp phía sau quân mình.
- Đòn giải phóng ô: Là đòn phối hợp thực hiện gắn với việc giải phóng một ô cờ
quan trọng cho quân khác chiếm đóng (thường là Mã).
- Đòn chiếu dùng Tốt: Là đòn phối hợp dùng Tốt hoặc phối hợp Tốt với các quân
cờ khác để chiếu đối phương.
- Đòn chiếu theo kiểu Ả Rập: Chiếu theo kiểu Ả Rập là đòn phối hợp chiếu giữa
Mã và Xe.

14
CHƯƠNG IV
GIAI ĐOẠN TÀN CUỘC

1. Khái niệm:
Trong quá trình diễn biến trận đấu trên phạm vi bàn cờ, lực lượng đôi bên dần hao
mòn thể hiện ở số lượng quân trên bàn cờ giảm hẳn. Vì vậy thế trận trở nên đơn giản hơn,
ván cờ chuyển sang giai đoạn quyết định cuối cùng, đó là giai đoạn tàn cuộc. Tuỳ vào
từng thế trận ở tàn cuộc mà đấu thủ phải giải quyết 1 trong 3 nhiệm vụ:
- Nếu có ưu thế về số quân hoặc thế trận thì phải cố gắng tận dụng để dành phần
thắng.
- Nếu đối phương chiếm ưu thế, thì phải tự vệ vững vàng và dẫn ván cờ đến kết
quả cuối cùng
- Nếu phần trung cuộc không phá được thế thế cân bằng thì phải cố gắng giành ưu
thế ở giai đoạn cuối cùng này.
2. Đặc tính của tàn cuộc.
Trong tàn cuộc thường xuất hiện thêm 1 mục tiêu chiến lược là dẫn Tốt lên phong
cấp. Từ đó rất dễ khẳng định thêm các đặc điểm đặc trưng của cờ tàn. Nếu Vua không bị
đe dọa chiếu hết thì Vua có thể thoát ra khỏi nơi trú ẩn và trực tiếp tham gia vào cuộc
chiến. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong tàn cuộc. Vua củng trở thành lực lượng tấn
công và phòng thủ tích cực, có khả năng tấn công đối phương và nó thường là quân đầu
tiên qua phòng tuyến của đối phương.
Trong tàn cuộc, số lượng quân còn lại trên bàn cờ ít, nên giá trị của chúng tăng lên
rất nhiều. Nếu như ở phần trung cuộc chỉ cần tạo được ưu thế quyết định về lực lượng ở
khu vực nào đó trên bàn cờ cũng đủ để đánh thắng, thì thông thường trong cờ tàn điều
quan trọng là phải biết đẩy mạnh sự hoạt động không những của từng quân riêng biệt, mà
còn phải biết tổ chức phối hợp chặt chẻ giữa các quân. Chơi tàn cuộc đúng, tức là bảo
đảm đẩy mạnh tối đa và phối hợp chính xác sự hoạt động của các lực lượng còn lại trên
bàn cờ.
Mục tiêu chiến lược trong tàn cuộc là dẫn Tốt lên phong cấp nên giá trị quân Tốt
tăng đột ngột. Nếu ở phần trung cuộc việc hơn một quân Tốt thường chưa đóng vai trò
quyết định thì trong tàn cuộc, phần lớn các trường hợp hơn một Tốt cũng là nhân tố đủ
đảm bảo cho chiến thắng.
Thông thường ở phần giữa của ván cờ, kế hoạch tác chiến của các đấu thủ được
xác định bằng sở thích và tài tưởng tượng, thì ở tàn cuộc chủ yếu kế hoạch được đặt ra từ
đặc tính của thế trận và không phụ thuộc vào sở trường hay phong cách chơi. Mỗi đấu thủ
đều phải chọn một biện pháp như nhau, mỗi biện pháp thường là chuẩn mẩu cho từng
dạng thế tàn cuộc và chỉ có biện pháp ấy mới dẫn tới việc đạt được mục tiêu đề ra.
Vì số lượng quân trên bàn cờ ít nên tàn cuộc rất dễ phân loại và nghiên cứu. Qua
bao thế kỷ phát triển của môn cờ, hàng nghìn thế cờ tàn đã được nghiên cứu và phân tích
tỉ mỷ. Các kế hoạch chơi tốt nhất cho cả hai bên đã được vạch ra. Trong các thế trận như
vậy, việc hàng đầu là phải hiểu biết chúng.

15
Như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng: So với phần trung cuộc, trong cờ tàn
vai trò của lý thuyết, vai trò của sự hiểu biết tăng lên rất nhiều. Trong thực tế, nhiều thế
trận tàn cuộc lại là những thế cờ lôgic với lời giải duy nhất.
Trong tàn cuộc, cần phải nắm vững những đặc tính của từng thế trận, những đấu
pháp chơi cơ bản, các kế hoạch thông dụng, một số lý thuyết quan trọng. Điều cần thiết
đối với người chơi cờ là phải biết chơi thuần thục giai đoạn tàn cuộc. Thế trận hơn hẳn
nhưng nếu vận động viên chơi yếu, thiếu kỹ thuật thì vẫn có thể gặp thất bại. Một trong
những đặc điểm của vận động viên Cờ vua đẳng cấp là có kỹ năng chơi tàn cuộc rất tốt.
Thông thường, các đấu thủ ít kinh nghiệm cố tránh các thế trận đơn giản. Họ cho rằng
chơi cờ tàn tẻ nhạt, các phương án nảy sinh không phong phú bằng trung cuộc. Song quan
niệm như vậy là hoàn toàn sai lầm. Thực ra, sự tư duy và tưởng tượng trong cờ tàn rất
rộng lớn. Nếu muốn chơi tốt được tàn cuộc thì phải biết, phải am hiểu các đặc tính của cờ
tàn và phải nắm vững kỹ thuật một cách vững chắc.
3. Các nguyên tắc trong tàn cuộc.
- Nguyên tắc 1: Tối ưu hoá vị trí của Vua.
- Nguyên tắc 2: Đẩy mạnh tối đa sự hoạt động của các lực lượng còn lại trên
bàn cờ.
- Nguyên tắc 3: Tổ chức phối hợp chính xác sự hoạt động của các quân.
4. Phân loại tàn cuộc.
Dựa vào đặc tính của thế trận, tàn cuộc được chia làm 2 loại:
Tàn cuộc kỹ thuật: Khi một đấu thủ nào đó chiếm ưu thế tuyệt đối về lực lượng so
với đối phương thì tìm cách kết thúc ván cờ bằng cách chiếu hết, Vua bên yếu tìm cách
chống đỡ. Chúng ta gọi những thế tàn cuộc này là tàn cuộc kỹ thuật. Nhóm này gồm hầu
hết các thế cờ tàn đơn giản như: Vua + Hậu chống Vua, Vua + Xe chống Vua, Vua + 2
Tượng chống Vua...
Tàn cuộc chiến thuật - chiến lược: Là nhóm gồm hầu hết các thế cờ tàn mà thông
thường một đấu thủ chưa đủ sức chiếu hết đối phương ngay, cho nên phải tìm cách khác
để đánh thắng. Có thể bằng cách dẫn Tốt lên phong cấp, tạo ưu thế về lực lượng để đủ
sức chiếu hết đối phương.
5. Tàn cuộc kỹ thuật.
5.1. Chiếu hết bằng Xe:
Phương pháp chiếu là cùng với Vua dồn Vua đối
phương vào một góc hoặc cạnh bàn cờ, buộc Vua đối phương
đến lượt đi của mình phải vào thế đối mặt Vua rồi dùng Xe
chiếu hết. Điều đó được thực hiện ở hàng ngang thứ 1 hay 8
hoặc cột "a", "h". Khi hai Vua đứng đối diện nhau (đối Vua
gần), Xe có khả năng đẩy lùi Vua đối phương về cạnh bàn cờ
thêm 1 hàng nữa.
Ví dụ hình 24 - Trắng đi trước thắng.
1.Xg2 Va1 Nếu 1.Vb3 đến lượt Đen đi 1...Vc1 Trắng Hình 24
mất thế đối Vua. 2.Vb3 Vb1 3.Xg1 #

16
5.2. Chiếu hết bằng Hậu.
Hậu là quân mạnh nhất có thể cơ động được như Xe và
Tượng, nên chiếu hết bằng Hậu đơn giản hơn chiếu hết bằng
Xe. Trước hết phải đi Hậu sao cho giảm đến mức thấp nhất
các nước di chuyển của Vua đối phương. Phương pháp cụ
thể giống như chiếu hết bằng Xe nhưng cần phải lưu ý
tránh đưa Vua đối phương vào thế "Pat". Để thực hiện tốt
tàn cuộc loại này, người ta đưa ra quy tắc "bậc thang", đó
chính là đường đi của Hậu dồn Vua đối phương.
Ví dụ hình 25 - Trắng đi trước thắng.
Thực hiện: 1.Hg3+ Vf8 2.Hg5 Ve8 nếu 2.Hg6 thì Hình 25
"Pat" 3.Hg8 #.
5.3. Chiếu hết bằng hai Tượng.
Phương pháp chiếu hết bằng hai Tượng là hai Tượng
luôn luôn khống chế hai đường chéo sát cạnh nhau tạo
thành 1 hàng rào ngăn cản Vua đối phương. Sau đó, cùng
với Vua dồn Vua đối phương vào 1 góc bàn cờ và thực hiện
nước chiếu hết.
Ví dụ hình 26 - Trắng đi trước thắng.
Thực hiện: 1.Ta5 Vg1 2.Vg3 Vh1 3.Tg2+ Vg1
4.Tb6 #.
Nếu 1...Vh1 2.Vg3 Vg1 3.Tb6 + Vh1 4.Tg2 #.
5.4. Chiếu hết bằng Tượng + Mã.
Hình 26
Phương pháp chiếu hết bằng Tượng + Mã là kết hợp
Tượng, Mã với Vua dồn Vua đối phương vào góc bàn cờ có
cùng màu ô với Tượng, và chỉ như vậy mới chiếu hết Vua
đối phương. Thực tế thi đấu cho thấy rằng, trong những
trường hợp khó khăn nhất việc chiếu hết Vua bằng Tượng
+ Mã cũng chỉ thực hiện không quá 36 nước.
Ví dụ hình 27 - Trắng đi trước thắng.
Thực hiện: 1.Th3! Vg1 2.Md2 Vh1 3.Tg2 +
Vg1 4.Mf3 #
Ở trên đây là các phương pháp chiếu hết bằng Xe,
Hậu, hai Tượng, Mã + Tượng. Còn trường hợp Vua và hai
Mã chiếu Vua đối phương, lý thuyết tàn cuộc khẳng định
rằng Vua và hai Mã không thể chiếu hết được Vua nếu như
Hình 27
Vua bên yếu không chạy vào góc bàn cờ, còn nếu bên
mạnh thắng cuộc chỉ do bên yếu đi sai lầm mà thôi. Dĩ
nhiên là với một Tượng hoặc một Mã cùng với Vua không
bao giờ chiếu hết được Vua đối phương.
Khi chiếu hết bằng Tượng + Mã cần phải chú ý hoà cờ ngoài thế "Pat" là luật
50 nước đi. Vì vậy chiếu bằng Tượng + Mã không chuẩn cũng hoà cờ.
17
6. Một số tàn cuộc chiến thuật - chiến lược cơ bản.
* Vua chống Vua Tốt.
Trong dạng thế tàn cuộc loại này thì nhiệm vụ của bên mạnh hơn là thực hiện
ưu thế Tốt của mình với mục tiêu chiến lược là đưa Tốt lên phong cấp. Còn bên yếu
thì tìm cách cản trở đối phương thực hiện ý đồ đó và cố gắng đưa vào thế "Pat". Để
tìm hiểu các dạng thế tàn cuộc này, chúng ta cần nắm vững các quy tắc sau:
- Quy tắc thế đối Vua: Bên nào chiếm được thế đối
Vua thì bên đó có lợi (có lợi ở đây nghĩa là đối với bên có
Tốt sẽ thắng cuộc, đối với bên không Tốt thì hoà).
Thế đối Vua là hai Vua đứng đối diện nhau. Có nhiều
dạng đối Vua: đối Vua theo hàng ngang, cột dọc, đường
chéo; đối Vua gần, đối Vua xa. Ở đây chúng ta xét đối Vua
gần trên cột dọc. Ví dụ hình 28.
Với thế cờ này, mặc dù trắng đi trước thì kết quả vẫn
là hoà bởi vì Đen luôn chiếm được thế đối Vua. Chẳng hạn
1.Vd5 Vc8! 2.Vd6 Vd8! Đen chiếm thế đối Vua trước. Hình 28
3.c7 + Vc8 4.Vc6 và "Pat" hoà cờ.
- Qui tắc ô hiệu quả: Bên nào chiếm được ô hiệu quả
thì bên đó có lợi. Đối với bên mạnh thì có thể dẫn Tốt lên
phong cấp, bên yếu thì ngăn cản được ý đồ đó của đối phương.
Ô hiệu quả còn gọi là "ô xung yếu" là ô trước Tốt cách
một hàng ngang và hai ô bên cạnh nó. Nếu Tốt dịch chuyển
lên phía trước thì ô hiệu quả của nó cũng được tịnh tiến theo.
Ở hình 29 Tốt Trắng ở vị trí f5 thì ô hiệu quả của nó là e7, f7,
g7. Ví dụ hình 29 - Trắng đi trước thắng.
Trắng đi trước, dùng thế đối Vua chiếm ô hiệu quả.1.Vf6
chiếm thế đối Vua 1....Ve8 2.Vg7 Trắng thắng cuộc vì Hình 29
chiếm được ô hiệu quả. Nếu 1.Vg8 thì 2.Ve7 và Trắng thắng.
- Qui tắc hình vuông của Tốt: Nếu Vua đứng trong
hình vuông của Tốt thì ngăn cản được Tốt tiến xuống phong
cấp (ở đây không tính đến sự hỗ trợ của Vua). Hình vuông
của Tốt là hình vuông được tạo thành bởi các cạnh có chiều
dài là số ô cờ được tính từ vị trí đứng của Tốt đến hàng
ngang cuối cùng mà Tốt tiến xuống phong cấp. Ở hình 30
hình vuông của Tốt d5 là: Hình vuông có đỉnh d5, d8, a8, a5
và d5, d8, g8, g5.
Ở ví dụ trên, bên Trắng đi trước thì sẽ thắng. 1.d6 Vg5
Vua Đen nằm ngoài hình vuông của Tốt 2.d7 Vf7 3.d8/H+ Hình 30
Còn Đen đi trước thì hoà 1....Vg5 Vua Đen lọt vào hình vuông của Tốt d5 2.d6 Vf6
3.d7 Ve7 và hoà cờ.
Ba quy tắc trên không những chỉ áp dụng trong trường hợp Vua chống Vua Tốt,
mà nó còn được coi như những phương tiện để tiến hành các mục đích chiến lược, các
đòn chiến thuật trong tàn cuộc.

18
* Các Tốt phong toả lẫn nhau.
Với dạng thế các Tốt phong toả lẫn nhau, muốn thực
hiện phải nắm vững nguyên tắc sau: Bên nào có Tốt ở trên
cao thì bên đó có lợi và phải tấn công Tốt đối phương từ phía
sau.
Ví dụ hình 31, Trắng chiếm ưu thế nhờ Tốt Trắng ở cao
hơn Tốt Đen. Trắng đi trước sẽ thắng, còn Đen đi trước sẽ
hoà.
Trắng đi trước thắng: 1.Vf6 nếu 1.Ve6 vội vàng áp sát Hình 31
Tốt thì 1...Vc5 Và Vua Trắng bị " hất vai " dẫn đến mất Tốt.
1....Vb5 2.Ve7 Vc5 3.Ve6 Vua Đen bị " hất vai " và
Trắng thắng. Nếu 1...Vc5 thì 2.Ve6 + -
Nếu Đen đi trước sẽ bắt được Tốt Trắng, song chỉ đạt
được thế cờ hoà vì Vua Trắng chiếm được thế đối Vua.
1...Vb5 2.Vf4 Vc5 3.Ve4 Vc4 4.Ve3 Vd5 5.Vd3 hoà
* Tạo Tốt thông.
Tốt thông trong tàn cuộc chiếm một vị trí đặc biệt quan
trọng. Vậy làm thế nào để tạo ra được quân Tốt thông? Trong
trường hợp không có ưu thế Tốt, có nghĩa là khi thế trận hai
bên cân bằng nhau, muốn tạo được Tốt thông phương pháp
thông dụng và hiệu quả hơn cả là: Thí một hoặc nhiều quân Hình 32
Tốt để tạo ra được Tốt thông. Tuy số lượng Tốt sẽ giảm đi
nhưng bù lại chất lượng cao của các Tốt còn lại chính là yếu
tố quyết định. Song điều này còn phụ thuộc vào từng thế trận.
Ví dụ hình 32 - Trắng đi trước sẽ thắng cuộc.
1.b6 axb6 2.c6 bxc6 3.a6 + - . Nếu 1...cxb6 2.a6 bxa6
3.c6 + -.

19
TRẮNG ĐI TRƯỚC 1 NƯỚC CHIẾU “MAT”
Bài 1 Bài 2 Bài 3

Bài 4 Bài 5 Bài 6

Bài 7 Bài 8 Bài 9

20
TRẮNG ĐI TRƯỚC 2 NƯỚC CHIẾU “MAT”
Bài 10 Bài 11 Bài 12

Bài 13 Bài 14 Bài 15

Bài 16 Bài 17 Bài 18

21
ĐEN ĐI TRƯỚC HÒA
Bài 19 Bài 20 Bài 21

Bài 22 Bài 23 Bài 24

22

You might also like