You are on page 1of 3

Cơ sở mà Hồ Chí Minh khẳng định:

1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội


Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp cận với
những tư tưởng cơ bản về giải phóng dân tộc mà còn tiếp cận cả hệ tư tưởng
mang đậm tính khoa học và nhân văn về một chế độ mà ở đó sự phát triển của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người-chế độ cộng sản
chủ nghĩa. Xã hội cộng sản chủ nghĩa gồm hai giai đoạn: Giai đoạn thấp là
chủ nghĩa xã hội; giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản. Hai giai đoạn ấy giống
nhau ở chỗ: Sức sản xuất đã phát triển cao; nền tảng kinh tế thì tư liệu sản
xuất đều là của chung,không có giai cấp áp bức bóc lột. Hai giai đoạn ấy khác
nhau ở chỗ: Chủ nghĩa xã hội còn chút vết tích của xã hội cũ. Xã hội cộng sản
thì hoàn toàn không còn vết tích của xã hội cũ.
Như vậy, theo Hồ chí Minh, xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu của xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Tuy vẫn còn tồn dư của xã hôi cũ nhưng xã hội chủ
nghĩa không còn áp bức bóc lột, xã hội do nhân dân lao động làm chủ, con người
được sống no ấm, hạnh phúc,tự do, quyền lời cá nhân và tập thể vừa thống nhất,
vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.

2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan.
Học thuyết hình thái kinh tế của C.Mác khẳng định sự phát triển của loài
người là phát triển lịch sử-tự nhiên. Theo quá trình này “Sự sụp đỗ của giai cấp
tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau.” . Vận dụng học
thuyết ấy của C.Mác, Hồ Chí Minh cho rằng: “Cách sản xuất và sức sản xuất
phát triển và biến đổi mãi, do đó mà tư tưởng của người, chế độ xã hội, v.v., cũng
phát triển và biến đổi. Chúng ta đều biết từ đời xưa đến đời nay, cách sản xuất từ
chỗ dùng cành cây, búa đá phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử.
Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thuỷ đến chế độ nô lệ, đến chế
độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người
đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển
và tiến bộ đó không ai ngǎn cản được.”
Kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lenin, vào năm 1953, Hồ Chí Minh
nhận thấy rằng: nhìn chung xã hội loại người đã phải trải qua các chế dộ cộng sản
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa rồi tiến lên xã hội
chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa nhưng lộ trình này thì lại không bắt buộc. Có thể
trải qua theo hai cách: giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản như Liên xô và có
thể bỏ qua giai đoạn này như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam.
Do vậy, tiến lên xã hội chủ nghĩa là một quy luật tất yếu,tuân theo quy luật
khách quan. Trước hết là quy luật sản xuất vật chất,song thì tùy theo bối cảnh
thời gian mà phương thức tiến lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi quốc gia thì khác nhau.
Có nước sẽ từ giai đoạn tư bản chủ nghĩa đi thẳng lên xã hội chủ nghĩa, có nước
sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi đã đánh đổ đế quốc và phong kiến.
Đối với Việt Nam, sau hàng nghìn năm dưới ách thống trị của phong kiến,
thực dân đã có rất nhiều hướng cứu dân, cứu nước được thực hiện nhưng không
đạt đươc hiệu quả. Chỉ có chủ nghĩa xã hội là con dường duy nhất, con đường
của nguồn gốc tự do,bình đẵng, bác ái,xóa bỏ những bức tường dài ngăn cản con
người đoàn kết yêu thương nhau. Con đường ấy vừa là tất yếu của lịch sử, vừa
đáp ứng được khát vọng của những lực lượng tiến bộ trong xã hội trong quá trình
đấu tranh tự giải phóng mình.

3. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa.


Thứ nhất, về chính trị: xã hội chủ nghĩa là xã hội do nhân dân làm chủ.
Trong xã hội chủ nghĩa, đại vị cao nhất là nhân dân. Nhà nước là của dân,
do dân, vì dân. Mọi quyền lợi quyền hạn thuộc về nhân dân và mọi hoạt động
xây dựng, bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân.
Những tư tưởng cơ bản về dặc trưng chính trị không chỉ cho thấy tính cao cả
của Hồ Chí Minh mà còn cho thấy nhận thức sâu sắc về sức mạnh, địa vị và
vai trò của nhân dân.
Thứ hai, về kinh tế: Xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển dựa
trên các lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản nên
nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội cũng sẽ phát triển cao hơn nền kinh tế của tư
bản chủ nghĩa, đó là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: xã hội chủ nghĩa có trình
độ phát triển cao về văn hóa và đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong
các quan hệ xã hội.
Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức của xã hội chủ nghĩa thể hiện ở việc:
không còn sự bóc lột, con người được đảm bảo đối xử công bằng, tôn trọng,
bình đẳng và các dân tộc luôn gắn kết với nhau.
Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, là tiền đề để tiến tới một xã hội hòa bình, đoàn kết,
ấm no, tự do, bình đẳng, bác ái, làm cho mọi người và vì mọi người, không
còn nạn phân biệt chủng tộc,không thể ngăn cản những người lao động yêu
thương nhau.
Chủ nghĩa xã hội đảm bảo tính công bằng và hợp lí trong các quan hệ xã hội.
Thứ tư, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là công trình
tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội tư bản chủ nghĩa thì cuộc đấu tranh của
người lao động luôn diễn ra quyết liệt nhằm thủ tiêu chế độ người bóc lột
người. Trong xã hội chủ nghĩa- chế độ là của nhân dân, do dân làm chủ. Lợi
ích của nhân dân sẽ quyết định lợi ích của chế độ xã hội, quyết định tốc độ
xây dựng và sự vững mạnh của chế độ xã hội.

Nguồn:
1.https://moet.gov.vn/content/vanban/Lists/VBDH/Attachments/2730/GT%20h
%E1%BB%8Dc%20ph%E1%BA%A7n%20T%C6%B0%20t
%C6%B0%E1%BB%9Fng%20HCM%20(C)%20Tr71-Tr140.pdf
2. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý
luận chính trị), NXB chính trị quốc gia sự thật.

You might also like