Professional Documents
Culture Documents
20190213 - Dược Động Học - buổi 1 2 - bài 1 - Ái
20190213 - Dược Động Học - buổi 1 2 - bài 1 - Ái
Pharmacodynamics
What the drug does to the body
Pharmacokinetics
What the body does to the drugs
Dược Động Học (Pharmacokinetics)
Dược động học là môn học nghiên cứu động học của các quá
trình hấp thu, phân bố, chuyển hóa và thải trừ thuốc xảy ra
trong cơ thể.
Dược Động Học - ADME
Định nghĩa:
TDM: xác định nồng độ thuốc trong huyết tương, sử dụng thuốc an toàn và hiệu quả
Khi nào cần theo dõi nồng độ thuốc trong trị liệu:
• Bệnh nhân có đáp ứng tốt với trị liệu không
• Có dấu hiệu độc tính thuốc không
• Việc đo nồng độ thuốc trong máu có giúp ích gì cho việc tiên đoán độc tính và hiệu quả của
thuốc không
• Việc đo nồng độ thuốc trong máu thường không áp dụng cho hầu hết các thuốc. Trong hầu
hết các trường hợp đáp ứng lâm sàng là thông số quan trọng hơn (điện tâm đồ, thời gian
đông máu, đường huyết…)
• Chỉ áp dụng TDM trong một số trường hợp quan trọng:
- Thuốc có khoảng trị liệu hẹp
- Các thuốc khó theo dõi đáp ứng lâm sàng
- Các thuốc có mối tương quan tốt giữa nồng độ thuốc trong huyết tương và tác động của
thuốc
Theo dõi nồng độ thuốc trong trị liệu (TDM)
Khoảng trị liệu của một số thuốc
*Các thuốc có khoảng trị liệu (cửa sổ trị liệu) hẹp, ví dụ: aminoglycoside, phenytoin,
theophylline, acid valproic, vancomycin…, cần thực hiện TDM để đảm bảo hiệu quả và an toàn
trong sử dụng thuốc
Theo dõi nồng độ thuốc trong máu (TDM)
Trong một số trường hợp, TDM không thực sự mang lại lợi ích trong điều trị:
- Các thuốc có khoảng trị liệu rộng
- Các thuốc chỉ dùng trong cấp cứu mà không sử dụng trong thời gian dài.
• Ví dụ: mặc dù aminoglycoside, vancomycin gây độc tai, độc thận nhưng các độc tính
nghiêm trọng này thường xảy ra sau vài ngày dùng thuốc. Các độc tính cấp của
phenytoin là mất điều hòa (thất điều), rung giật nhãn cầu thì không quá nghiêm trọng.
- Trong cấp cứu, liều khởi phát nên được lựa chọn dựa trên liều cao nhất đã biết cho hiệu quả trị
liệu mà độc tính chấp nhận được, không dựa trên TDM. Liều khởi đầu không nhất thiết phải là
liều duy trì, sau cấp cứu, liều duy trì có thể được điều chỉnh dựa trên TDM.
Hạn chế sử dụng các thuốc có khoảng trị liệu hẹp nếu không thực sự cần thiết:
- Một số bằng chứng cho thấy việc phối hợp thêm aminoglycoside với các kháng sinh khác trong
điều trị nhiễm khuẩn máu hoặc sốt giảm bạch cầu không mang lại hiệu quả tốt hơn nhưng lại
làm tăng độc tính trên thận rõ rệt → sử dụng beta lactam đơn thuần không phối hợp
- Sử dụng valproic acid thay vì sử dụng phenytoin trong điều trị động kinh
- Sử dụng corticosteroid thay vì sử dụng theophylline trong điều trị hen suyễn
- Các loại thuốc có khối lượng phân tử nhỏ, thân dầu như nitroglycerin và fentanyl thường được
sử dụng ở dạng đặt dưới lưỡi hay đặt trong má để hạn chế sự phân hủy thuốc trong đường tiêu
hóa và hạn chế hiệu ứng vượt qua lần đầu nếu sử dụng bằng đường uống.
- Các loại thuốc protein thường được dùng bằng đường tiêm vì chúng rất dễ bị phân hủy trong
ống tiêu hóa. Ví dụ, erythropoietin và somatrophin được tiêm bắp, và insulin được tiêm dưới da
hoặc tiêm bắp.
- Tiêm dưới da giải phóng thuốc tương đối chậm từ vị trí tiêm, tiêm tĩnh mạch giải phóng thuốc
ngay lập tức vào huyết tương. Điều kiện bệnh lý như bỏng sẽ làm tăng tính thấm của thuốc qua
da so với da còn nguyên vẹn bình thường.
Sự hấp thu thuốc ảnh hưởng đến tác động của thuốc
- Mức độ hấp thu thuốc sẽ ảnh hưởng đến nồng độ thuốc trong huyết tương và tại đích tác
động, do đó ảnh hưởng đến tác động của thuốc
- Thuốc có thể được bào chế dưới dạng chế phẩm làm chậm sự hấp thu thuốc, mục đích là để
kéo dài tác động của thuốc.
- Ví dụ: các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc làm giãn phế quản, thuốc điều trị tăng huyết
áp thường được bào chế ở dạng hấp thu chậm nhưng có tác động kéo dài
- Ngược lại, các thuốc giảm đau, gây ngủ dùng đường uống thường là dạng hấp thu nhanh.
- Một số thuốc không cần hấp thu vào tuần hoàn, ví dụ kháng kí sinh trùng hoặc kháng sinh
dùng điều trị tại chỗ trong ống tiêu hóa
Quá trình hấp thu thuốc dùng đường uống
Quá trình hấp thu thuốc dùng đường uống
- Diện tích dưới đường cong nồng độ thuốc trong huyết tương theo thời gian AUC (area under
the curve) phản ánh tổng lượng thuốc đi vào tuần hoàn hệ thống.
- AUC có thể dùng để so sánh sinh khả dụng của hai dạng bào chế. F được xác định bằng cách
so sánh diện tích dưới đường cong của chế phẩm dạng uống và chế phẩm dạng tiêm tĩnh
mạch.
Sự hấp thu thuốc ảnh hưởng đến tác động của thuốc
Quá trình hấp thu thuốc dùng đường uống
Quá trình hấp thu thuốc dùng đường uống
(A), the rate of drug absorption is greater than the rate of elimination so there is an increase in
the plasma drug concentration
(B), the rate of absorption equals the rate of elimination
(C), elimination predominates and absorption is nearly complete
*Quá trình thải trừ tuân theo hàm bậc một
Tính toán các thông số dược động
lnC2 − lnC1
slope = = −K
t2 − t1
0,693
T1/2 =
K
liều
V=
K x AUC
(*giả sử F = 1)
Clt = V x K
Trong đó:
• C1, C2 là nồng độ thuốc trong huyết tương
trong pha thải trừ tương ứng với thời điểm T1,
T2 (xem hình)
• K là hằng số tốc độ thải trừ
• T1/2 là thời gian bán thải
• Clt là độ thanh thải tổng
• AUC là diện tích dưới đường cong nồng độ
theo thời gian
• V là thể tích phân bố
Nồng độ thuốc theo thời gian khi dùng nhiều liều
• Sau khi dùng nhiều liều liên tiếp, nồng
độ thuốc tăng lên cho đến khi đạt trạng
thái cân bằng (steady-state)
• Các thuốc hấp thu nhanh thường có
quá trình hấp thu tuân theo hàm bậc 1
• Các thuốc hấp thu chậm (dạng phó
thích có kiểm soát) thường có quá trình
hấp thu tuân theo hàm bậc 0
Nồng độ thuốc theo thời gian khi dùng nhiều liều
• Nồng độ thuốc trung bình ở trạng thái cân bằng Css trung bình được tính như sau:
dose x F
• Css trung bình = dose interval x Clt
• Trong đó:
• Dose: liều (mg)
• F: sinh khả dụng
• Dose interval: khoảng cách liều (giờ)
• Clt: độ thanh thải tổng (L/giờ)
• Css trung bình (mg/L)
• Ví dụ: theophylline có T1/2 = 7 giờ, V = 30L, sử dụng liều theophylline bao nhiêu mỗi 12 giờ để
duy trì nồng độ ở trạng thái cân bằng là 12mg/L. Giả sử F = 90%
Sự vận chuyển thuốc qua
màng tế bào
(A) Sự khuếch tán thuốc thụ động qua chỗ tiếp nối (tiếp giáp) giữa các tế bào (intercellular
junction)
(B) Sự khuếch tán thuốc xuyên qua tế bào
(C) Sự vận chuyển bằng chất mang (carrier)
(D) Nhập bào (Thực bào và ẩm bào) và xuất bào
Thuốc từ các vùng có nồng độ thuốc thấp đến vùng nồng độ thuốc cao
Tiêu tốn năng lượng.
Liên kết giữa thuốc và protein vận chuyển tạo thành một phức hợp vận chuyển thuốc qua màng,
sau đó phức hợp này phân ly tạo thành thuốc dạng tự do ở phía bên kia của màng tế bào
Sự vận chuyển thuốc qua màng tế bào
Đối với hầu hết các loại thuốc, vị trí tối ưu để hấp thụ thuốc sau khi uống là vùng tá tràng. Cấu
trúc villi và microvilli của tá tràng tạo nên diện tích bề mặt lớn hỗ trợ quá trình khuếch tán thụ
động của thuốc. Ngoài ra, khu vực tá tràng có tưới máu cao với mạng lưới mao mạch dày đặc,
giúp duy trì gradient nồng độ giữa lòng ruột và huyết tương.
• Nhu động đường tiêu hóa
• Thời gian làm rỗng dạ dày
• Sự tưới máu ở đường tiêu hóa
• Hấp thụ thông qua hệ thống bạch huyết
• Ảnh hưởng của pH lên sự hấp thu thuốc
• Ảnh hưởng của thức ăn trên sự hấp thu thuốc trong đường tiêu hóa
• Ảnh hưởng của bệnh đến sự hấp thu thuốc
• Thuốc ảnh hưởng đến việc hấp thu các loại thuốc khác
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc trong ống tiêu hóa
• Một số thuốc là acid yếu hoặc base yếu có thể tồn tại ở dạng thân dầu hoặc thân nước tùy
theo pH của môi trường và pKa của thuốc
• Dạng thân dầu (không ion hóa) có thể thấm qua màng tế bào dễ dàng hơn so với dạng thân
nước (ion hóa)
• Phương trình Henderson – Hasselbalch được áp dụng để tính tỉ lệ dạng ion hóa/dạng không
ion hóa như sau:
• Đối với acid yếu,
[muối] [A−]
Ratio = = = 10(pH – pKa)
[acid] [HA]
Ảnh hưởng của thức ăn trên sự hấp thu thuốc trong đường tiêu hóa
• Thức ăn làm giảm sự hấp thu một số thuốc thân nước (penicillin và tetracycline), trong khi
các loại thuốc hòa tan trong lipid (griseofulvin, metaxalone, và metazalone) được hấp thu tốt
hơn khi được dùng với thức ăn có chứa hàm lượng chất béo cao
• Sự hiện diện của thực phẩm trong ruột kích thích dòng chảy của mật. Mật có chứa axit mật,
là chất hoạt động bề mặt tham gia vào quá trình tiêu hóa và hòa tan chất béo, và cũng làm
tăng độ hòa tan của các loại thuốc tan trong chất béo thông qua sự hình thành các hạt
micelle.
• Đối với một số loại thuốc có tính bazơ (ví dụ: cinnarizine) có độ tan giới hạn trong nước, sự
hiện diện của thức ăn trong dạ dày kích thích tiết acid hydrochloric, làm giảm độ pH, gây ion
hóa thuốc và hấp thụ tốt hơn. Sự hấp thụ các thuốc dạng bazơ này bị giảm khi dịch tiết acid
dạ dày giảm
• Hầu hết các loại thuốc nên được uống với một ly nước đầy (khoảng 250 mL) để chắc chắn
nước sẽ rửa sạch thực quản và chuẩn bị sẵn sàng cho việc hấp thu thuốc. Trong hầu hết các
trường hợp sinh khả dụng của thuốc được cải thiện khi dùng thuốc lúc đói
• Một số loại thuốc, chẳng hạn như erythromycin, muối sắt, aspirin và các tác nhân chống viêm
không steroid (NSAID), có khả năng kích thích niêm mạc dạ dày nên được dùng chung với
thức ăn để làm giảm sự kích ứng dạ dày
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc trong ống tiêu hóa
Ảnh hưởng của thức ăn trên sự hấp thu thuốc trong đường tiêu hóa
• Các chất béo có thể làm chậm tốc độ làm rỗng dạ dày (thời gian lưu lại dạ dày > 2 giờ), bệnh
nhân vừa ăn bữa ăn có nhiều chất béo nên uống những loại thuốc dễ bị ảnh hưởng bởi thức
ăn cách tối thiểu 3 giờ sau bữa ăn.
• Các thuốc dùng để ức chế sự bài tiết acid dạ dày nên được dùng trước bữa ăn: (famotidine,
cimetidine).
• Chất lỏng có khả năng làm tăng thể tích dạ dày và làm tăng tốc độ làm rỗng dạ dày.
• Giảm hấp thụ thuốc có thể do một số yếu tố khác gây ra. Ví dụ, sự hấp thu hydrochloride
tetracycline bị giảm bởi sữa và thức ăn có chứa canxi, do sự tạo phức chelat với tetracycline.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc trong ống tiêu hóa
• Hấp thụ thuốc có thể bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tình trạng bệnh lý nào, gây ra những thay đổi
trong (1) lưu lượng máu trong ruột, (2) nhu động tiêu hóa, (3) thay đổi thời gian làm rỗng dạ
dày, (4) pH dạ dày ảnh hưởng đến độ hòa tan của thuốc, (5) pH đường ruột ảnh hưởng đến
mức độ ion hóa của thuốc, (6) tính thấm của thành ruột, (7) sự tiết mật, (8) sự tiết enzyme
tiêu hóa, hoặc (9) thay đổi hệ vi khuẩn đường tiêu hóa.
• Bệnh nhân ở giai đoạn tiến triển của bệnh Parkinson có thể bị khó nuốt và giảm đáng kể nhu
động ruột.
• Bệnh nhân dùng thuốc chống trầm cảm ba vòng (imiprimine, amitriptyline, và nortriptyline)
và thuốc chống loạn thần (phenothiazin) có các tác động phụ của nhóm thuốc kháng
cholinergic làm giảm nhu động ruột hoặc thậm chí làm tắc ruột, từ đó làm giảm sự hấp thu
thuốc.
• Bệnh nhân bị giảm sản xuất axit trong dạ dày; axit dạ dày là cần thiết để hòa tan các bazơ tự
do không hòa tan.
• Dapsone, itraconazole và ketoconazole có thể cũng được hấp thụ ít hơn trong tình trạng giảm
tiết acid dạ dày: sử dụng các chất ức chế bơm proton, như omeprazole
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc trong ống tiêu hóa
• Bệnh nhân suy tim sung huyết (CHF) làm giảm lưu lượng máu đến các cơ quan và phát triển
phù nề trong thành ruột. Ngoài ra, nhu động ruột bị chậm lại, lưu lượng máu giảm vào ruột,
và kết quả là giảm hấp thụ thuốc. Ví dụ, furosemide, thuốc lợi tiểu quai, không hiệu quả ở
bệnh nhân suy tim sung huyết do sự giảm hấp thu ở ruột.
• Bệnh Crohn là một bệnh viêm của phần cuối ruột non và đại tràng. Bệnh kèm theo các biến
chứng sưng dày thành ruột, sự phát triển quá mức của vi khuẩn kỵ khí, và thậm chí là tắc
ruột. Hiệu quả hấp thụ thuốc là không thể đoán trước.
• Bệnh celiac là bệnh viêm ảnh hưởng chủ yếu đến phần đầu của ruột non. Bệnh Celiac gây ra
bởi sự nhạy cảm với gluten, một protein nhớt tìm thấy trong ngũ cốc. Bệnh nhân Celiac
thường tăng tốc độ làm trống dạ dày và tăng tính thấm của ruột non, kết quả là làm tăng sự
hấp thu Cephalexin.
• Các tình trạng đường ruột khác có khả năng ảnh hưởng đến hấp thụ thuốc bao gồm phẫu
thuật chỉnh hình liên quan đến loét dạ dày tá tràng, giải phẫu cắt bỏ dạ dày và giải phẫu chọn
lọc.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc trong ống tiêu hóa
Thuốc ảnh hưởng đến việc hấp thu các loại thuốc khác
• Thuốc kháng cholinergic, thuốc chống trầm cảm ba vòng làm giảm tiết acid dạ dày, làm chậm
tốc độ làm rỗng dạ dày và nhu động của ruột non.
• Metoclopramide là một loại thuốc kích thích co thắt dạ dày, làm giãn cơ vòng vị, và làm tăng
nhu động ruột, có thể giảm thời gian tối ưu cho sự hấp thụ của một số thuốc và do đó làm
giảm nồng độ thuốc đỉnh và thời gian đạt nồng độ đỉnh của thuốc.
• Ví dụ, sự hấp thụ digoxin bị giảm bởi metoclopramide nhưng tăng lên bởi một loại thuốc
kháng cholinergic, chẳng hạn như propantheline bromide.
• Không nên dùng thuốc kháng acid với cimetidin, vì thuốc kháng acid có thể làm giảm hấp thụ
thuốc. Các thuốc kháng acid có chứa nhôm, canxi hoặc magiê có thể tạp phức hợp với các
thuốc như tetracycline, ciprofloxacin và indinavir dẫn đến giảm trong hấp thụ thuốc.
• Các chất ức chế bơm proton như omeprazole, lansoprazole, pantoprazole làm giảm sản xuất
axit dạ dày, do đó làm tăng pH dạ dày. Những loại thuốc này có thể ảnh hưởng đến sinh khả
dụng của một số thuốc hấp thu phụ thuộc pH dạ dày (ví dụ, ketoconazole, muối sắt,
ampicillin, và digoxin) và các thuốc tan trong ruột (ví dụ, aspirin, diclofenac).
Sự phân bố (distribution)
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phân bố thuốc trong cơ thể
- Thể tích phân bố (V) tỉ lệ với lượng thuốc trong cơ thể (X) và nồng độ thuốc trong huyết
tương (C) và được tính bởi công thức
Vd= X / C
Thể tích phân bố
• Thể tích phân bố là một đại lượng giả định đại diện cho thể tích của ngăn chứa mà thuốc
được phân tán đồng nhất. Thể tích phân bố không nhất thiết phải là một thể tích sinh lý cụ
thể nào. Thể tích phân bố biểu diễn một thể tích giả định cần để phân bố toàn bộ lượng
thuốc trong cơ thể với nồng độ bằng nồng độ đo được trong huyết tương
• Nếu thuốc tồn tại chủ yếu trong huyết tương mà không phân bố tới các mô, thể tích phân bố
của thuốc này tương đương với thể tích huyết tương
• Ngược lại, một số thuốc không những tồn tại trong huyết tương và còn trong các mô khác
(khó đo được nồng độ thuốc tại mô), thể tích phân bố của các thuốc này có thể lớn hơn
nhiều lần so với thể tích cơ thể
• Ví dụ thuốc điều trị sốt rét chloroquine có tính thân dầu rất cao, có thể tích phân bố là 15000
L, trong khi đó thể tích cơ thể trung bình của một người phụ nữ 70 kg là 42 L.
• Khả năng gắn với protein cũng ảnh hưỏng đến thể tích phân bố
Thể tích phân bố
- Tóm lại, thể tích phân bố (Vd) là đại lượng biểu thị cho mức độ phân bố của thuốc trong ngăn
(dịch cơ thể, mô..)
- Nếu một thuốc có thể tích phân bố lớn, thuốc này có khả năng phân bố mạnh tới các mô và
dịch của cơ thể
- Ngược lại, nếu một thuốc có thể tích phân bố nhỏ, thuốc này có khả năng phân bố hạn chế
đến các mô
- Nếu thể tích phân bố của một thuốc lớn hơn nhiều lần so với thể tích của cơ thể, nồng độ
thuốc trong các mô có thể sẽ lớn hơn nhiều lần so với nồng độ thuốc trong huyết tương.
- Ví dụ các thuốc có thể tích phân bố lớn là digoxin, diltiazem, imipramine, labetalol,
metoprolol, meperidine, nortriptyline
Thể tích phân bố
Khả năng gắn với protein huyết tương ảnh hưởng đến
Thể tích phân bố
- Thông thường, các thuốc gắn với protein huyết tương thường không cho tác động dược lý vì
không có khả năng thâm nhập vào mô và gắn vào receptor đích
Khả năng gắn với protein huyết tương ảnh hưởng đến
Thể tích phân bố
- Thuốc gắn kết mạnh với protein huyết tương: > 80%
- Thuốc gắn kết yếu với protein huyết tương: < 50%
Khả năng gắn với protein huyết tương ảnh hưởng đến
Thể tích phân bố
Khả năng gắn với protein huyết tương ảnh hưởng đến
Thể tích phân bố
- Một số lưu ý khi theo dõi và đánh giá thuốc trong điều trị:
- Thuốc này có cửa sổ trị liệu hẹp hay rộng?
- Thuốc này có gắn kết mạnh với protein huyết tương không?
- Thuốc này gắn mạnh với protein nào và protein này có thay đổi lớn ở bệnh nhân hay không?
Khả năng gắn với protein huyết tương ảnh hưởng đến
Thể tích phân bố
- Thể tích phân bố được tính theo công thức sau
V = Vp + Vt(Fp/Ft)
- Trong đó:
- V là thể tích phân bố
- Vp là thể tích huyết tương
- Vt là thể tích mô
- Fp là tỉ lệ thuốc dạng không gắn kết trong huyết tương
- Ft là tỉ lệ thuốc dạng không gắn kết trong mô
- Ví dụ ở bệnh nhân nữ 70 kg sử dụng phenytoin, Vp = 5L, Vt = 80L, Fp= 0,1 (90% thuốc gắn với
albumin huyết tương), Ft=0,2. Thể tích phân bố của phenytoin ở bệnh nhân này là bao nhiêu
Bệnh nhân bị chẩn đoán giảm albumin huyết (hypoalbuminemia), Fp của bệnh nhân tăng từ
0,1 lên 0,2 (ít lượng phenytoin gắn với albumin huyết tương hơn). Thể tích phân bố mới của
bệnh nhân là bao nhiêu?
Khả năng gắn với protein huyết tương ảnh hưởng đến
Thể tích phân bố
- Phenytoin và acid valproic đều là những thuốc gắn kết mạnh với albumin huyết tương
(>90%). Khi sử dụng chung hai thuốc này, khả năng gắn kết của phenytoin với albumin giảm
(từ 90% còn 80%) và làm tăng thể tích phân bố của phenytoin.
- Digoxin không gắn mạnh với albumin huyết tương nhưng gắn mạnh với protein tại mô.
Digoxin và quinidine cạnh tranh gắn kết tại mô → tăng Ft → giảm V
- Bệnh nhân suy thận mạn: số lượng và chất lượng albumin huyết tương giảm dẫn tới tăng
lượng phenytoin tự do trong huyết tương → tăng Fp → tăng V
- Bệnh nhân suy thận mạn sử dụng digoxin: mô cơ tim giảm → tăng Ft → giảm V
Sự chuyển hóa (metabolism)
Quá trình chuyển hóa ở gan
- Sự chuyển hóa là quá trình biến đổi thuốc thành dạng không có hoạt tính hoặc có hoạt tính
(chất chuyển hóa). Chất chuyển hóa này sau đó sẽ được đào thải chậm hoặc nhanh hơn ra
môi trường bên ngoài.
- Ví dụ:
- Carbamazepine chuyển hóa thành carbamazepine-10, 11-epoxide có hoạt tính
- Prednisone chuyển hóa thành prednisolone có hoạt tính
- Tiền dược (pro-drug): sulfasalazine không có hoạt tính nhưng được chuyển hóa thành
sulfapyridine có hoạt tính kháng khuẩn và 5-aminosalicylic acid có hoạt tính kháng viêm
- Trong hầu hết các trường hợp, thuốc được chuyển hóa thành dạng mất hoạt tính và thân
nước để dễ dàng đào thải ra ngoài
- Gan là cơ quan quan trọng nhất trong quá trình chuyển hóa thuốc
- Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa ở gan:
- Khả năng của gan để loại bỏ dạng không gắn kết ra khỏi tuần hoàn hệ thống
- Tỉ lệ thuốc ở dạng không gắn kết
- Lưu lượng máu tại gan
Độ thanh thải (clearance)
- Độ thanh thải là một đại lượng biểu thị cho khả năng loại trừ thuốc ra khỏi tuần hoàn hệ
thống.
Clt = Clh + Clr + Clother
- Trong đó:
- Clt là độ thanh thải tổng
- Clh là độ thanh thải tại gan
- Clr là độ thanh thải tại thận
- Clother là độ thanh thải tại các cơ quan khác
- Trong đó:
- Clh là độ thanh thải tại gan
- Qh là lưu lượng máu tại gan
- E là tỉ lệ chuyển hóa ở gan
Quá trình chuyển hóa ở gan
Cli QhCli
E=Q => Clh = Q
h
+Cli h
+Cli
- Trong đó:
- Cli là độ thanh thải nội tại
- Qh là lưu lượng máu tại gan
- Nếu Cli <<< Qh → độ thanh thải thuốc nhỏ → tỉ lệ chuyển hóa E ở gan thấp (thường E < 0,2)
- Nếu Cli >>> Qh → E ~ 1 → độ thanh thải thuốc lớn → thuốc được chuyển hóa hoàn toàn tại
gan (thường E > 0,8)
Quá trình chuyển hóa ở gan
Hiệu ứng vượt qua lần đầu
(Hiệu ứng chuyển hóa lần đầu – First pass effect)
- Thuốc sau khi được hấp thu tại ống tiêu hóa sẽ đi vào
tĩnh mạch cửa gan và bị chuyển hóa bởi gan (một
lượng khác có thể bị chuyển hóa tại thành ruột), trước
khi đi vào tuần hoàn hệ thống. Kết quả là lượng thuốc
thực sự đi vào tuần hoàn hệ thống là nhỏ hơn rất nhiều
so với liều dùng. Hiện tượng này được gọi là hiệu ứng
vượt qua lần đầu hay hiệu ứng chuyển hóa lần đầu.
- Giả sử thuốc được hấp thu hoàn toàn tại thành ruột, tỉ
lệ thuốc thực sự đi vào tuần hoàn hệ thống (sinh khả
dụng của thuốc) F được tính như sau:
F=1–E
- Với E là tỉ lệ thuốc bị chuyển hóa ở gan
- Ví dụ: thuốc được hấp thu 100% tại thành ruột, sau đó
70% được chuyển hóa ở gan, hỏi thực sự có bao nhiêu
phần trăm thuốc đi vào tuần hoàn hệ thống:
E = 0,7
=> F = 1 – 0,7 = 0,3
Quá trình chuyển hóa ở gan
Ví dụ:
- Theophylline được chuyển hóa qua gan chủ yếu bởi CYP1A2. Theophylline được truyền tĩnh
mạch, nồng độ ở trạng thái cân bằng là 15 mg/L (khoảng trị liệu của theophylline là 5-15
mg/L). Sau đó bệnh nhân cũng được cho sử dụng ciprofloxacin (là một thuốc có khả năng ức
chế enzyme cytochrome P450). Ciprofloxacin làm giảm độ thanh thải nội tại của theophylline
30%. Giải thích ảnh hưởng của ciprofloxacin lên sự đáp ứng thuốc của bệnh nhân.
- Phenytoin tiêm truyền tĩnh mạch. Nồng độ thuốc ở trạng thái cân bằng là 15 mg/L (khoảng
trị liệu là 10 – 20mg/L). Bệnh nhân được phát hiện suy thận cấp. Được biết suy thận sẽ làm
giảm khả năng gắn kết của phenytoin và albumin huyết tương từ 90% còn 80% nhưng không
làm ảnh hưởng đến khả năng thanh thải nội tại tại gan. Giải thích ảnh hưởng của tình trạng
suy thận cấp lên sự đáp ứng thuốc của bệnh nhân.
- Lidocaine được tiêm truyền cho bệnh nhân bị loạn nhịp tim, nồng độ ở trạng thái cân bằng là
4 mg/L. Khoảng trị liệu của lidocaine là 2-6mg/L. Ngày hôm sau bệnh nhân bị nhồi máu cơ
tim. Được biết nhồi máu cơ tim có thể làm tăng alpha 1 acid glycoprotein (là protein gắn chặt
chẽ với lidocaine). Giả sử nhồi máu cơ tim không ảnh hưởng đến lưu lượng máu tại gan. Giải
thích ảnh hưởng của tình trạng nhồi máu cơ tim lên sự đáp ứng thuốc của bệnh nhân.
Các phase trong quá trình chuyển hóa
Sự thải trừ (excretion)
Quá trình thải trừ
- Thận là cơ quan quan trọng nhất trong quá trình thải trừ. Ngoài ra còn có các đường thải trừ
khác: phổi, phân, sữa, mồ hôi, nước mắt…
- Quá trình thải trừ ở thận gồm 3 giai đoạn sau:
- Lọc cầu thận
- Bài tiết chủ động ở ống lượn gần
- Tái hấp thu thụ động ở ống lượn xa
- Các yếu tố ảnh hưởng sự thải trừ thuốc ở thận
- Độ lọc cầu thận, chức năng các nephron
- Kích thước phân tử (<60000)
- Khả năng gắn với protein huyết tương (chỉ có dạng tự do mới được lọc qua cầu thận)
- Tại ống lượn gần có nhiều protein vận chuyển thực hiện quá trình bài tiết chủ động. Tuy
nhiên có thể xảy ra sự cạnh tranh thải trừ giữa các phân tử tương tự nhau. Ví dụ
probenecid được sử dụng chung với penicillin sẽ xảy ra cạnh tranh thải trừ làm kéo dài
thời gian tác động của penicillin
- Sự tái hấp thu thụ động các thuốc có tính acid yếu hoặc base yếu phụ thuộc và pKa và
pH nước tiểu
Ví dụ về vai trò của pH môi trường trong sự vận chuyển thuốc qua màng
Acid Hóa Nước Tiểu làm Tăng Bài Tiết Methamphetamine tại Nephron
Bertram G. Katzung - Basic & Clinical Pharmacology (2017)